Đề tài Những giải pháp để huy động vốn đầu tư trực tíêp nước ngoài tại Việt Nam để phát triển kinh tế xả hội trong giai đoạn 2001 - 2005

Là nguồn bổ sung quan trọng để các nước đang phát triển thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đối với các nước đang phát triển sản xuất còn ở trình độ thấp, nguồn vốn tích luỹ từ trong nước còn hạn hẹp thì vốn đầu tư nước ngoài có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với quá trình phát triển nền kinh tế. ở các nước này, có nhiều tiềm năng về lao động, tài nguyên thiên nhiên nhưng chưa có điều kiện khai thác muốn thực hiện được thì phải cần có nhiều vốn đầu tư. Trong điều kiện hiện nay khi mà trên thế giới có nhiều nước đang nắm trong tay một khối lượng vốn khổng lồ và nhu cầu đầu tư ra nước ngoài thì đó là cơ hội để các nước đang phát triển có thể tranh thủ, nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào việc phát triển kinh tế.

doc40 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1246 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Những giải pháp để huy động vốn đầu tư trực tíêp nước ngoài tại Việt Nam để phát triển kinh tế xả hội trong giai đoạn 2001 - 2005, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i. Đầu tư ra nước ngoài của Mỹ năm 1993 là 70 tỉ USD và năm 1995 đạt 95 tỉ USD, chiếm tới 30% tổng vốn FDI thế giới Trong năm 1995, vốn FDI từ Anh là 38 tỉ USD, Đức là 36 tỷ USD và Pháp 18 tỉ USD. Tính chung ba nước này chiếm gần 30% tổng vốn FDI thế giới. Đầu tư các nước này chủ yếu hướng vào Mĩ và trong Cộng đồng Châu Âu.Nhật Bản khoảng 25 tỉ USD/năm e) Các tập đoàn xuyên quốc gia (TNCs) đóng vai trò rất quan trọng trong đầu tư trực tiếp ra nước ngoài và đang đẩy mạnh quá trình đầu tư ra nước ngoài. Các nước TNCs đang chi phối, kiểm soát phần lớn sản xuất, kinh doanh trên thế giới.Thời kỳ 1990 – 1995, tỷ trọng vốn đầu tư ra nước ngoài trong tổng vốn đầu tư của các TNCs Mĩ là 42%, của các TNCs Nhật là 48% và của các TNCs Châu Âu là 59%.Tính bình quân chiếm một nửa tổng vốn đầu tư. Dự báo thời kỳ 1996 – 2000, các TNCs sẽ gia tăng mạnh mẽ đầu tư nước ngoài. Tỉ trọng đầu tư ra nước ngoài trong tổng vốn đầu tư của TNCs Mĩ sẽ là 55% và các TNCs Nhật, Tây Âu sẽ là 63%, tính bình quân là 60% vốn đầu tư của các TNCs là ở nước ngoài (xem bảng 5). Bảng 5. Tỉ trọng đầu tư của các TNCs ra nước ngoài từ năm 1990 đến 2000. Nguồn đầu tư Địa chỉ đầu tư nước ngoài Châu Âu Bắc Mỹ Nhật Bản 1990- 1995 1996–2 000 1990- 1995 1996-2000 1990- 1995 1996 - 2000 Châu Âu Bắc Mỹ Châu á Mĩ La tinh và Caribe Địa bàn khác 19 26 6 4 4 18 24 10 6 5 26 9 5 2 22 16 12 5 2 12 28 4 2 3 14 38 6 2 Tổng cộng đầu tư ở nước ngoài 59 63 42 55 48 63 (Nguồn : UNTAD, trên cơ sở điều tra năm 1995 ở 100 tập đoàn lớn nhất thế giới). g) Dòng vốn FDI đổ vào các nước đang phát triển đang gia tăng mạnh mẽ, đặc biệt là các nước đang phát triển ở Châu á. Nguồn vốn FDI vào các nước đang phát triển gia tăng cả về quy mô lẫn tốc độ dẫn đến tỉ trọng thu hút vốn FDI của các nước này tăng nhanh. Bảng 2 cho thấy năm 1990, các nước đang phát triển tiếp nhận được 33,7 tỉ USD thì năm 1995 đã tiếp nhận được 99,7 tỉ USD gần gấp 3 lần năm 1990, chiếm 32% tổng vốn FDI của thế giới. Từ năm 1990 đến năm 1995 các nước đang phát triển thu hút tới một phần ba tổng số vốn FDI thế giới, riêng năm 1994 chiếm tới 37%.Tuy nhiên, vốn FDI phân bố rất không đều giữa các nước đang phát triển, mà chủ yếu tập chung vào một số nước và khu vực. CHƯƠNG II Thực trạng huy động vốn đầu trực tiếp nước ngoài tại việt nam thời kỳ 1988-1999 I. Quan điểm của Việt Nam về tác động của FDI đối với kinh tế xã hội của đất nước. Nhận thức được xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế ngày càng mở rộng-đó là quá trình mà các nền kinh tế dân tộc tác động lẫn nhau, bổ sung cho nhau và phụ thuộc lẫn nhau, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã chủ trương lợi dụng “những khả năng to lớn của nền kinh tế thế giới về di chuyển vốn, mở rộng thị trường, chuyển giao công nghệ và kinh nghiệm quản lý để bổ sung và phát huy có hiệu quả các lợi thế và nguồn lực trong nước”. Để thực hiện chủ trương trên, Đảng và Nhà nước Việt Nam chủ trương “đa dạng hoá và đa phương hoá quan hệ kinh tế đối ngoại” Trong đó FDI là hình thức quan trọng của hoạt động kinh tế đối ngoại. Tháng 12/1986 Đại hội Đảng toàn quốc lâng thứ VI đã đánh dấu một bước ngoặt trong công cuộc đổi mới xây dựng kinh tế ở Việt Nam. Từ việc nhận thức được đầy đủ đặc trưng quan trọng của thời đại hiện nay là xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế diễn ra mạnh mẽ, Nhà nước Việt Nam đã chủ trương mở cửa nền kinh tế nhằm thúc đẩy quá trình liên kết kinh tế ở trong nước và giữa trong nước với nước ngoài thông qua việc mở rộng quan hệ kinh tế với các nước trên thế giới - trong đó có hợp tác đầu tư. Đến đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII với quan điểm “Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước” đã tạo điều kiện thật sự cho phát triển kinh tế đối ngoại nói chung và đầu tư nước ngoài nói riêng. Những quan điểm, tư tưởng của Đảng đã được thể chế hoá trong Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam ban hành vào năm 1996. Đây là một bộ luật phản ánh tính khuyến khích, hấp dẫn và thu hút đầu tư nước ngoài. Dưới đây là những quan điểm cơ bản của Nhà nước Việt Nam về tác động của FDI đối với kinh tế - xã hội nước ta hiện nay. 1. Đánh giá đúng vị trí của FDI trong nền kinh tế quốc dân. FDI là một biện pháp cấu thành của toàn bộ hoạt động đầu tư của quốc gia, mà nghiệp vụ trong nước xét tổng thể có ý nghĩa quyết định FDI không thay thế được các nguồn đầu tư khác, nhưng có thế mạnh riêng của nó. Trong những năm trước mắt, khi nguồn vốn tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế còn hạn hẹp, nguồn ODA chưa đáng kể thì FDI chiếm vị trí quan trọng góp phần cải tiến dần cơ cấu kinh tế quốc dân. Trong quá trình thu hút FDI phải tránh những quan điểm sai lầm : Thứ nhất : coi nhẹ, thậm chí lên án FDI như một nhân tố có hại cho nền kinh tế độc lập, tự chủ. Thứ hai, ảo tưởng về tính “màu nhiệm” của FDI, gán cho nô một vai trò tích cực tự nhiên, bất chấp điều kiện bên trong của đất nước, tách rời những cố gắng cải thiện môi trường đầu tư. 2. Quan điểm “mở” và “che chắn” trong chính sách thu hút FDI Theo kinh nghiệm của các nước trên thế giới, các mục tiêu của FDI có đạt được hay không còn phụ thuộc nhiều vào vấn đề đảm bảo an ninh chính trị, kinh tế và xã hội. Để giải quyết mối quan hệ này, phải bắt đầu từ cách đặt vấn đề an ninh chính trị, kinh tế, xã hội trong quá trình thực hiện FDI. Trong thời đại ngày nay, khi chấp nhận nguyên tắc “bình đẳng, hai bên cùng có lợi” thì vấn đề an ninh trong quá trình FDI cần thiết cho cả hai phía.Đối với nước tiếp nhận FDI, cần có sự an ninh chính trị, kinh tế xã hội chẳng những cho sự phát triển, mở rộng FDI có hiệu quả mà còn giữ vững độc lập, chủ quyền quốc gia, bảo vệ bản sắc dân tộc, giữ vững định hướng chính trị - xã hội. Do đó mở cửa hàng cho bên ngoài vào nhưng không quên những biện pháp che chắn cần thiết cho an ninh chính trị, kinh tế, xã hội. Tư tưởng trên chi phối toàn bộ luật đầu tư nước ngoài và được thể hiện tại nhiều điều khoản của luật và các văn bản dưới luật.Một “hành lang” dù rộng rãi đến đâu vẫn có khuôn khổ của nó. Do vậy, bên cạnh những quy định có tính chất rộng rãi, thường có những quy định có tính chất “che chắn”. “Rộng rãi” hay “che chắn” đều phải trên cơ sở tuân theo pháp luật, tuân theo nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, phù hợp với thông lệ với tập quán quốc tế, hợp lí, có sức thuyết phục. 3. Giải quyết hợp lí các mối quan hệ về lợi ích giữa các bên trong quá trình thu hút FDI. Xét nhu cầu, khả năng và lợi thế của mỗi bên, hợp tác đầu tư giữa nước ta với nước ngoài thực chất là tìm “điểm gặp nhau” về lợi ích để cùng nhau sản xuất kinh doanh và trả giá cho nhau trên nguyên tắc thoả thuận, tự nguyện, bình đẳng và cùng có lợi. Theo nguyên tắc đó, cái giá trả cho nhau phải : - Phù hợp với tương quan về nhu cầu và khả năng của bên này và bên kia trong hợp tác. - Có lựa chọn, so sánh cái giá phải trả cho các đối tác khác nhau trong cùng trong cùng một mục tiêu và một thời điểm. - Có tính đến những điều kiện về môi trường đầu tư, bảo đảm phát huy có hiệu quả lợi ích của mỗi bên Nhìn chung cần tránh một số quan điểm mơ hồ trong quá trình thu hút FDI: - Không muốn trả giá, chỉ đứng về lợi ích bên mình, muốn ăn cả. Điều này trái với nguyên tắc hợp tác đầu tư là “cùng chung trách nhiệm kinh doanh, cùng ăn chia lợi nhuận”. - Hiểu nguyên tắc “bình đẳng, cùng có lợi” một cách máy móc, không đứng trên quan điểm tổng thể để xác định thoả đáng lợi ích của mỗi bên phù hợp với lợi thế so sánh. - Trả giá không tính toán, trả bất cứ giá nào, miễn là tranh thủ được vốn và công nghệ mà không tính toán đến hậu quả và mặt trái của vấn đề. 4. Hiệu quả kinh tế - xã hội được coi là tiêu chuẩn cao nhất trong hợp tác đầu tư. Lợi ích mà dự án có thể đưa lại hiệu quả tài chính là một yếu tố của hiệu quả kinh tế-xã hội trong một loạt các nhân tố khác. Không ít trường hợp có hiệu quả tài chính cao nhưng hiệu quả kinh tế-xã hội thấp, thậm chí gây tổn hại đến lợi ích kinh tế-xã hội, có lợi trước mắt nhưng lại có hại lâu dài. Do đó, trong khi thẩm định xem xét một dự án FDI cần phải đặt hiệu quả kinh tế - xã hội lên trên và coi trọng đó là phương hướng cơ bản của những biện pháp khuyến khích đầu tư. Trong điều kiện kinh tế của đất nước kém phát triển như hiện nay, chỉ tiêu hiệu quả kinh tế-xã hội của FDI nhìn tổng thể phải đáp ứng các yêu cầu : vốn, công nghệ, tri thức, và kinh nghiệm quản lý sản xuất, kinh doanh, giải quyết việc làm và tăng thu nhập cho người lao động, giải quyết thị trường tiêu thụ cho sản phẩm. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là các chỉ tiêu trên đều nhất thiết phải được hội tụ đủ trong một dự án cụ thể. Trong điều kiện nước ta, trước mắt có lẽ nên coi trọng mục tiêu tạo công ăn việc làm. Điều đó có nghĩa là trong mối tương quan giữa vốn thu hút và vốn công nghệ của FDI thì tạm thời chúng ta phải chấp nhận thực tế là chưa có thể có điều kiện tự do lựa chọn công nghệ tiên tiến như ý muốn. 5. Đa dạng hoá hình thức FDI Thu hút FDI dưới hình thức “hợp đồng hợp tác kinh doanh, xí nghiệp 100% vốn nước ngoài, hợp đồng B.O.T”, trong đó đặc biệt khuyến khích hình thức xí nghiệp liên doanh (vì có lợi cho bên Việt Nam trong việc tiếp thu tiến bộ kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý, kiểm soát hoạt động của xí nghiệp) và hình thức hợp đồng xây dựng-kinh doanh – chuyển giao (BOT), hợp đồng xây dựng-chuyển giao (BT) đối với các công trình hạ tầng cơ sở (do nguồn vốn lớn, chậm thu hồi vốn, tỷ suất lợi nhuận thấp nhưng nó lại là yếu tố rất quan trọng đối với cải thiện môi trường đầu tư trực tiếp nước ngoài). Vấn đề lựa chọn hình thức FDI thực chất cũng là vấn đề cơ cấu vốn, sử dụng vốn trong nước và vốn nước ngoài sao cho có lợi nhất. 6. Xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa quản lý Nhà nước và quyền tự chủ của các doanh nghiệp có FDI. Cơ chế quản lý đầu tư nước ngoài cũng dựa vào những nguyên tắc cơ chế chung. Tuy nhiên, do đặc thù của các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, nên bên cạnh sự giống nhau về cơ chế quản lý, đầu tư nước ngoài có những điểm quan trọng nhất là xác định vai trò quản lý của Nhà nước và quyền tự chủ của họ trong khuôn khổ luật định. Địa vị pháp lý của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được thể hiện dưới 2 khía cạnh : - Thứ nhất, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là một pháp nhân của Việt Nam. - Thứ hai, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là doanh nghiệp có người nước ngoài tham gia nắm quyền sở hữu. - Là một pháp nhân Việt Nam, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phải hoạt động theo luật pháp Việt Nam. Như vậy, về nguyên tắc các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đều có quyền hạn và nghĩa vụ như các pháp nhân khác của Việt Nam. Về mặt tổ chức, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được tổ chức dưới hình thức Công ty trách nhiệm hữu hạn. Điều này cho phép xác định rõ quyền hạn, trách nhiệm của nhà đầu tư trong việc thực hiện đầu tư tại Việt Nam. Quy mô quyền hạn, trách nhiệm và quyền lợi của nhà đầu tư nước ngoài trong việc điều hành, quản lý kinh doanh phụ thuộc vào tỷ lệ góp vốn của họ trong vốn pháp định. II.Thực trạng huy động vốn đầu tư trực tiếp nước tại việt nam 1 Thực trạng cấp giấy phép đầu tư trực tiếp nước ngoài tại việt nam a) Tình hình chung Từ khi “luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam” có hiệu lực cho đến hết tháng 12 năm 1999 nhà nước đã Cấp giấy phép cho 2766 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài với tổng số vốn đăng ký là 37.055,66 triệu USD. Tính bình quân mỗi năm chúng ta Cấp cho 230 dự án với mức 3.087,97USD vốn đăng ký. Bảng 6 Số dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài được Cấp giấy phép qua Các năm (chưa kể các dự án của vietsopetro) Năm Số dự án Vốn đăng ký (triệu USD) Quy mô (triệu USD/dư án Số dự án So với năm trước Vốn đăng ký Quy mô 1988 37 371,8 10,05 1989 68 582,5 8,57 183,78 156,67 85,27 1990 108 839,0 7,77 158,82 144,03 90,67 1991 151 1322,3 8,76 139,81 157,6 112,74 1992 197 2165,0 11,0 130,46 163,73 125,57 1993 269 2900,0 10,78 136,55 133,95 98,00 1994 343 3765,6 10,98 127,51 129,85 101,85 1995 370 6530,8 17,65 107,87 173,43 160,75 1996 325 8497,3 26,15 87,84 130,11 148,16 1997 345 4649,1 13,48 106,15 54,71 58,23 1998 275 3897,4 14,17 79,71 83,83 105,12 1999* 278 1534,76 5,52 101,09 39,38 38,96 Tổng 2766 37055,66 Nguồn: _ niên giám thống kê 1998, nxb . thống kê,hà nội_1999 _*bộ kế hoạch và đầu tư Bảng 1 cho ta thấy nhịp độ thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của ta có xu hướng tăng nhanh từ 1988 đến 1995 cả về số dự án cũng như vốn đăng ký. Riêng năm 1995 cả về số dự án cũng như vốn đăng ký tăng vọt là do có 2 dự án đầu tư vào lĩnh vực phát triển đô thị ở Hà nội và thành phố HCM được phê duyệt với quy mô dự án lớn (hơn 3tỷ USD/2 dự án). Như vậy, nếu xét trong suốt cả thời kỳ 1998-1999 thì năm 1995 có thể được xem là năm đỉnh cao về thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt nam (cả về số dự án, vốn đăng ký, cũng như quy mô dự án ). Từ năm 1997 đầu tư trực tiếp nước ngoài vào có biểu hiện suy giảm, nhất là đến các năm 1998, 1999 thì xu hướng giảm đó càng rõ rệt hơn: Nếu so với năm 1997 số dự án được phê duyệt của năm 1998 chỉ bằng 79,71%; năm 1999 chỉ bằng 80,83%. Số liệu tương ứng của vốn đăng ký là 83,83%và 33,01%. Nếu theo số lượng vốn đăng ký thì quy mô dự án bình quân của thời kỳ 1998-1999 là 13,4triệu USD/1 dự án . So với một số nước ở thời kỳ đầu thực hiện chính sách thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thì quy mô dự án đầu tư vào nước ta bình quân ở thời kỳ này là không thấp. Nhưng, vấn đề đáng quan tâm, xem xét là quy mô dự án theo vốn đăng ký bình quân của năm 1999 lại nhỏ đi một cách đột ngột và mức thấp nhất từ trức đến nay (5,53triệuUSD/1dự án). Quy mô dự án theo vốn đăng ký bình quân của năm 1999 chỉ bằng 41,19% quy mô bình quân của thời kỳ 1988-1999, và chỉ bằng 31,27% quy mô bình quân của năm cao nhất (năm 1995; ta không so sánh với năm 1996 vì năm này có 2 dự án đặc biệt đã nêu trên). b) Về các đối tác được cấp giấy phếp đầu tư Tính đến hết năm 1999 đã có hơn 700 công ty thuộc 66 nước và vùng lãnh thổ (dưới đây gọi tắt là các nước ) có dự án đầu tư trực tiếp tại việt nam . Trong số này , có 13 nước và vùng lãnh thổ có tổng số vốn đăng ký hơn 1 tỷ USD mỗi nước. Và, chỉ với 13 nước (19,7% số nước) đã chiếm tới 85,65% tổng số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại việt nam (xingapo: 15,9%; đài loan: 12,3%; hồng công: 9,8%; nhật bản: 9%; hàn quốc: 8,5%; pháp: 5,8%; quần đảo vigin: 4,7%; nga: 4,1%; malaixia: 3%; ôxtrâylia: 3%; mỹ: 3,5%; thái lan: 2,9%). Trong tổng số vốn đầu tư của 13 nước thì có tới 71,66% (22.742,57triệuUSD) là thuộc các nước châu á, điều này chứng tỏ môi trường đầu tư của Việt Nam đang thu hút được sự quan tâm của các nhà đầu tư châu á. c)Về địa bàn đầu tư Cho đến năm 2000 vốn nước ngoài vẫn được đầu tư tập trung chủ yếu vào một số địa bàn có điều kiện thuận lợi về kết cấu hạ tầng và môi trường kinh tế xã hội. Vốn đầu tư voà các vùng(1988_1999) được xếp theo thứ tự như sau. (xem bảng ) Bảng cơ cấu đầu tư theo vùng(%) 1- Đông Nam Bộ 53,13 5- Đồng Bằng Sông Cửa Long 2,46 2- Đồng Bằng Sông Hồng 29,6 6- Bắc Trung Bộ 2.38 3- Duyên Hải Nam Bộ 7,64 7- Tây Nguyên 0,16 4- Đông Bắc 4,4 8- Tây Bắc 0,15 Thời kỳ này TPHCM chiếm 28,3% tổng số vốn đăng ký của cả nước; số liệu tương ứng của các địa phương tiếp theo như sau: HN: 22%; Đồng nai: 9.7%; Bà rịa_vũng tàu: 7.1%; Bình dương và Bình phước (do số liệu chưa chia được): 4,8%; Hải phòng: 4,3%; Quảng Ngãi: 3,8%; Quảng nam Đà đẵng: 2,9%; Quảng ninh: 2,5%; Lâm đồng: 2,4%. d) Gíây phép đầu tư theo ngành kinh tế bảng 7 Cơ cấu dự án đầu tư nướcngoài theo ngành Ngành Số dự án Vốn đăng ký (%) 1- Nông-Lâm Nghiệp 10,6 3,59 2- Thuỷ Sản 3,6 0,96 3- Cộng Nghiệp 48,6 37,78 4- Xây Dựng 10,3 12,37 5- Khách Sản, Du Lịch 7,8 13,13 6- Giao Thông Vận Tải, Bưu Điện 5,3 9,23 7- TàI Chính, Ngân Hàng 1,1 0,54 8- Văn Hoá, Giáo Dục 3,3 1,27 9- Các Ngành Dịch Vụ Khác 9,4 21,13 Tổng 100 100 Vốn đầu tư nước ngoài vào các ngành như trên đã biểu hiển phù hợp các chỉ số của cơ cấu kinh tế hiện đại, CNH: công nghiệp-dịch vụ-nông nghiệp. Tuy vậy, trong điệu kiện ở giai đoạn đầu tiến hành CNH, HĐH và với đặc trưng của nền kinh tế trong đó nông nghiệp nhiệt đới đang là một trong những thế mạnh của Việt Nam thì tình hình thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực này như hiện nay là còn khoảng cách tương đối xa so với yêu cầu, mong muốn và mục tiêu mà chúng ta đặt ra. Sở dĩ như vậy là vì đối với Việt Nam, nông nghiệp là một trong những lịnh vực đang có nhiều tiềm năng mà chúng ta chưa khai thác. Và, từ đặc điểm phân bố dân cư, lao động, làm việc như hiện nay thì sự thành công trong phát triển nông thôn, nông nghiệp là một trong những chỉ tiêu cơ bản để đánh giá mức độ thành công của sự nghiệp CNH,HĐH. Thực hiện CNH, HĐH trong nông thôn, nông nghiệp cũng tức là tạo ra được việc làm và thu nhập cho số đông lao động cũng như tác động làm chuyển biến đáng kể dến sản xuất và đời sống của đa số nhân dân Việt Nam. e) Về hình thức đầu tư Liên doanh hiện là hình thức phổ biến nhất của đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam. Hình thức này đang chiếm tới khoảng 61% số dự án và 70% vốn đăng ký. Hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanhđến nay chỉ chiếm 7,1%số dự án và 10% só vốn đầu tư, chủ yếu trong các lĩnh vực thăm dò và khai thác dầu khí và dịch vụ viễn thông. Từ năm 1993 , việt nam bắt đầu áp dụng hình thức “ hợp đồng xây dựng -kinh doanh- chuyển giao” (BOT), và cho đến nay đã có 4 dự án đầu tư nước ngoài thực hiện theo hình thức này với số vốn đăng ký gần 900 triệuUSD 2. Tình hình thực hiện các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài. a)Tiến độ thực hiện vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam . - Có 785 dự án sau một thời gian triển khai đến nay có nhu cầu xin được tăng vốn, mở rộng sản xuất.Tổng số v ốn đã được phê duyệt tăng thêm là 5.171 triệu USD (bằng 14% tổng vốn đăng ký và bằng 28,4% số dự án được cấp giấy phép) -127 dự án hết thời hạn thực hiện hợp đồng (bằng 4,6% số dự án được cấp giấy phép), 466 dự án bị rút giấy phép (chiếm 16,8%). Như vậy, tính đến 31/12/1999 trên lãnh thổ Việt Nam còn 2.173 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài đang hoạt động, với tổng vốn đăng ký của các dự án còn hiệu lực là 36.086 triệu USD. - Đến hết năm 1998 đã có 838 dự án đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh (bằng 33,68% tổng số dự án được duyệt) và 624 dự án đang trong giai đoạn xây dựng cơ bản (bằng 25,087% số dự án). - Đến năm 2000 số vốn đã thực hiện của các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài bằng 42,4% của tổng số vốn đăng ký.Xuất phát từ đặc điểm, các dự án sau khi được phê duyệt thường chưa đủ các đIũu kiện để triển khai ngay, do đó, số vốn thực hiện trong năm chủ yếu là các dự án đã được phê duyệt từ các năm trước đó. Nếu so sánh số vốn thực hiện của từng năm với số vốn đăng ký còn lại (tổng vốn đăng ký từ trước trừ đi số vốn đã thực hiện) thì tỷ lệ vốn thực hiện diễn biến theo xu hướng thiếu ổn định. Tỷ lệ này tăng nhanh từ đầu đến năm 1995 (vốn thực hiện 1992/vốn đăngký 1988-1991 còn lại = 13,6%; số tương ứng 1993 = 23,5%; 1994 = 30,1%; 1995 = 32,2%) và sau đó giảm dần từ 1996 đến nay (số liệu tương ứng 1996 = 21,8%; 1997 = 18,1%; 1998 = 10,1% và 1999 = 7,1%). b) Về vấn đề góp vốn của hai bên đối tác: Thực tế lâu nay, Việt Nam góp vốn liên doanh chủ yếu bằng giá trị quyền sử dụng đất và giá trị thiết bị, nhà xưởng hiện có. Tất cả những thứ này thường được chuyển một lần ngay vào thời điểm bắt đầu triển khai thực hiện dự án đầu tư, do đó nếu theo giấy phép đăng ký thì bên Việt Nam góp 21,9% bên nước ngoài góp 78,1% nhưng trên thực tế việc góp vốn thực hiện trong liên doanh thời kỳ 1988-1997 bên Việt Nam đã góp tới 31,3%, bên nước ngoài góp 68,7%. Số vốn góp của Việt Nam ở thời điểm này gồm 74% bằng giá trị quyền sử dụng đất; 15% bằng giá trị nhà xưởng, thiết bị và 11% là bằng tiền mặt, nguyên vật liệu và các dịch vụ. Số tiền của bên nước ngoài góp vốn gồm: 76,6% bằng tiền mặt, 15,4% bằng giá trị thiết bị, máy móc, phần còn lại là bằng các dịch vụ tư vấn, công nghệ… Nếu xét trên tổng thể hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài trên lãnh thổ Việt Nam (không phân chia theo hình thức đầu tư) thì tỷ trọng vốn nước ngoài đang chiếm phần lớn (85%) trong tổng số vốn hoạt động. Không những thế, tỷ trọng vốn của nước ngoài đang có xu hướng tăng lên, còn tỷ trọng vốn của Việt Nam đã thấp lại có xu hướng giảm xuống đáng kể, hơn nữa số vốn của nước ngoài cũng bao gồm của các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Qua thực tế hoạt động, cho đến nay, đã có 76 dự án liên doanh đã thực hiện chuyển quyền sở hữu vốn giữa các bên tham gia liên doanh, hay giữa bên đang tham gia liên doanh cho chủ mới. Trong số đó cả 59 dự án đã chuyển từ liên doanh thành doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài (riêng năm 1999 đã có 25 dự án) và 13 dự án chuyển từ liên doanh thành doanh nghiệp 100% vốn Việt Nam. Điều này phần nào chứng tỏ vị thế của các doanh nghiệp tham gia vào liên doanh đang giảm đi một cách đáng kể. Đây cũng là tín hiệu “báo động” cho chúng ta về khả năng phát triển bền vững của hoạt động và mục đích sử dụng đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài. c) Đầu tư trực tiếp nước ngoài một số lĩnh vực kinh tế tiêu biểu: -Lĩnh vực dầu khí: Đến năm 2000 ngoài xí nghiệp liên doanh dầu khí VietsoPetro chúng ta đã cấp 33 giấy phép hoạt động cho các nhà đầu tư tương đối có tiềm lực về mọi mặt thuộc Bắc Mỹ, châu Âu, châu úc, châu á.. -Lĩnh vực công nghiệp điện tử: Đến năm 2000 đã có 22 dự án đầu tư với tổng số vốn đăng ký 615 triệu USD, trong đó có hơn 60% vốn đã thực hiện (379 triệu USD). Số vốn thực hiện trên được tập trung chủ yếu vào thời kỳ 1991-1995 (chiếm 92,4% tổng vốn thực hiện từ trước đến nay). -Lĩnh vực công nghiệp ô tô và xe máy: đến năm 2000, chúng ta đã cấp giấy phép hoạt động cho 14 dự án đầu tư sản xuất ô tô và 4 dự án đầu tư sản xuất xe máy. số vốn thực hiện của các dự án đầu tư sản xuất ô tô đến nay là 376 triệu USD (bằng 43,12% vốn đăng ký), với số sản phẩm bình quân 140.000 xe ô tô/năm. trong số 14 dự án đầu tư sản xuất ô tô có 3 dự án không triển khai (Chryler, Nissan và Vietsin), 1 dự án tuy đã triển khai (đã đầu tư 16 triệu đô la) nhưng tạm thời không đầu tư tiếp (dự án Mercedes-Bens) và liên doanh Mê Kông cũng đã ngừng sản xuất. -Lĩnh vực viễn thông: đến năm 2000, đã có 14 dự án đầu tư nước ngoàI được cấp giấy phép với tổng số vốn đăng ký là 1.545 triệu USD, trong đó số đã thực hiện là 388 triệu USD (bằng 25% vốn đăng ký). Trong số các dự án đầu tư ở lĩnh vực này, có đến 94% số dự án đầu tư theo hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh về dịch vụ viễn thông, 6% số dự án đầu tư theo hình thức liên doanh để sản xuất các thiết bị vật tư bưu đIửn. đặc biệt, đây là lĩnh vực không có dự án nào đầu tư theo hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. -Lĩnh vực công nghiệp hoá chất: đến năm 2000, lĩnh vực này đã thu hút 89 dự án với tổng số vốn đăng ký 1.117 triệu USD, (36 dự án 100% vốn nước ngoàI, 48 dự án liên doanh, 5 dự án hợp đồng hợp tác kinh doanh) trong đó số vốn đã thực hiện là 397,6 triệu USD (bằng 35,6% tổng số vốn đăng ký). -Hoạt động kinh doanh khách sạn và du lịch: mặc dù số dự án cũng như vốn đăng ký vào ngành này có tỷ trọng chưa cao trong tổng số dự án cũng như vốn đầu tư trực tiếp nước ngoàI vào Việt Nam, nhưng đến năm 2000 cũng đã có tới 237 dự án với 7.585 triệu USD vốn đăng ký đầu tư xây dung khách sạn, văn phòng, căn hộ cho thuê, phát triển đô thị, trong số đó đã có 33,66% (2.553 triệu USD) vốn đã thực hiện. - Lĩnh vực dệt may, dày dép: Đến năm 2000 đã phê duyện 250 dự án với tổng số 2396 triệu USD vón đăng ký đầu tư vào lĩnh vực này( dẹt: 87 dự án với 1649 triệu USD vốn đăng ký ; maycó 118 dự án với 281 triệu USD vốn đăng ký ; dày dép : 45 dự án với 466 triệu USD).trong số đó số vốn đã thực hiện là 1079 triệu USD( 45% tang số vốn đăng ký) . đây là một trong nhưng lĩnh vực có tỷ lệ vốn thực hiện đạt vào loại cao. 3. Một số nhận xét về thực trạng hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại việt nam thời gian qua. Tình hình dầu tư nước ngoài tại việt nam đã có những đóng góp tích trong phát triển kinh tế xã hội và dựa vào kết quả sản xuất kinh doanh đã khẳng định rỏ nét vai trò vị trí của FDI trong nền kinh tế việt nam. Thật vậy, FDI với những thế mạnh về vốn , công nghệ đã góp phần dịch chuyển cơ cấu kinh tế nước ta, phát triển nhiều ngành nghề mới như lắp ráp ô tô xe máy, ti vi, máy gặt, điều hoà nhiệt độ… FDI cũng nâng cao trình độ công nghệ, đưa ra những mô hình qoản lý tiên tiến, phương thức kinh doanh hiện đại và là đọng lực quan trọng buộc các nhà đàu tư trong nước phải đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng, cải tiến mẩu mả bao bì của sản phẩm để cạnh tranh và tồn tại trong cơ chế thị trương. Đầu tư trực tiếp cũng đã góp phần mở rộng, da dạng hoá và đa phương hoá các hoạt động kinh tế đối ngoại tạo ra nhưng thuận lợi cho nên kinh tế nướoc ta sớm hội nhập kinh tế thé giới và khu vực. Quá số liệu thực tế về hoạt động FPI cho tấy dòng vón đầu tư vào việt nam trong những năm qua chủ yéu tập trung vào những ngành dể thua lợi nhuận, thời gian thu hồi vốn nhanh, có thị trường tiêu thụ trong nước lớn và những ngành trong nước có tiềm năng như ngành sản xuất tẩy rửa, dệt da, may mặc, lắp ráp ô tô, sắt thép, thíêt bị viển thông, xi măng, khách sản, văn phòng cho thuê. Bên cạch đó cũng có những nhà đầu tư có công nghệ cao, những nhà đầu tư lớn với mục tiêu vừa chiếm lĩnh thị trường trong nước vừa thâm nhập thị trưòng trong khu vực nên giai đoạn đầu họ chỉ kinh doanh thăm dò để chờ nắm cơ hội trong tương lai. Nhìn chung, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài có nhiều tiềm năng trong cấc ngành khai thác và sản xuất hàng tiêu dùng chất lượng cao và hàng xuất khẩu. Vốn FDI là một trong những nguồn lực quan trọng đóng góp đáng kể vào tăng trưởng kinh tế của nước ta. Tỷ lệ đóng góp của khu vực có vốn FDI vào GDP tăng nhanh qua các năm từ 2% năm 1992 lên 6,3% năm 1995 và 12,7% năm 2000. Giá trị sản xuất của khu vực FDI trong giá trị sản xuất công nghiệp chiếm trên 96% năm 1990 lên 25,1% năm 1995 và 35,3% năm 2000. Về kết quả xuất khẩu đạt được trong 10 năm phải kể đến sự đóng góp có hiểu quả của các doanh nghiệp có vồn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Khu vực này không những đã góp phần thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước phát triển về công nghệ, chất lượng, quản lý sản xuất, cạnh tranh trong kinh doanh, mà còn đóng góp tích cực vào tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu chiếm 2,5% năm 1991 lên 6,1% năm 1995 và 23,2% năm 2000. Khu vực đầu tư nước ngoài cũng đang tạo việc làm cho 349000 lao động gấp 37 lần so với năm 1990 trong đó gồm khoảng 6000 cán bộ quản lý trên 25000 cán bộ kỷ thuật và só lượng khá đáng kể là công nhân lành nghề, góp phần thúc đẩy sự nghiệp đào tạo nâng cao năng lực quản lý, trình độ khoa học công nghệ cho người lao động, đồng thời tăng sức mua cho thị trường tiêu dùng trong nước. Tuy vậy, không thể bất cứ ở đâu, thời gian nào hoạt động đầu tư cũng đưa lại những kết quả như mong muốn và nếu so với mục tiêu mà chúng ta đề ra cho đầu tư trực tiếp nước ngoài thì đâu phải dự án nào cũng đạt được. Điều này cũng khó tránh khỏi với chúng ta ở giai đoại đầu. Tuy niên, đây là lĩnh vực hoàn toàn mới mẻ, vừa làm vừa học. Tiếp đến là thời kỳ mà nhu cầu thu hút vốn đầu tưu nứơc ngoài còn lớn kinh nghiệm của chúng ta trong việc thu hút và sử dụng loại hình này còn ít, các cơ sở cho hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài còn thiếu thốn nên chúng ta chưa có điều kiện để lựa chọn, do đó có những dự án mặc dù chỉ đạt một hoặc một số mục tiêu nhưng hoàn cảnh buộc chúnh ta vẩn phải chấp nhận. Đến nay đòi hỏi chúng ta phải cố gắng khắc phục những hạn chế được rút ra từ thực tế thu hút và sử dụng đầu tư trực tiếp nước ngoài ở việt nam vừa qua. Những vấn đề cơ bản hiện nay đang bộc lộ yêu cầu càn quan tâm giải quyết như sau: + Vấn đề một số quan hệ trong liên doanh - Quan hệ giữa phương thức góp vốn và lợi ít giữa các bên đối tác đầu tư : Về phương thức thực trạng thực hiện góp vốn là việc góp vốn của bên Việt Nam thường được thực hiện một lần gay khi dựu án bắt đầu triển khai xây dựng cơ bản, trong khi đó việc góp vốn của bên nước ngoài thường thực hiện rải ra trong một thời gian dài. Như vậy, có những thời kỳ tỷ lệ góp vốn thực tế của bên Việt Nam cao hẳn bên nước ngoài nhưng theo quy định lợi ích mà hai bên được hưởng cũng như thế trong điều hành hoạt động của liên doanh lại theo tỷ lệ thuận với phần vốn pháp dịnh đã được ghi trong giấy phép đầu tư. Điều này một mặt gây thua thiệt cho bên Việt Nam cả về kinh tế lẩn quyền điều hành hoạt động của liên doanh. Mặc khác, làm mất đi yếu tố kinh tế để ràng buộc và thúc đẩy bên nước ngoài thực hiện việc góp vốn dầy đủ và đúng tiến độ. Việc góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất, trong hoàn cảch thiếu thốn và các ngồn lực khác, là cách tạo thêm điều kiện kinh tế để chúng ta tham gia liên doanh, nhưng có nhược điểm là khi cần khuyến khính đầu tư chúng ta tiến hành giảm giá tiền thuê đất, điều này đồng nghĩa với việc chúng ta chấp nhận sự giảm xuống về quy mô góp vốn của mình trong một liên doanh nhất định nào đó. Thu hút máy móc thiết bị, kỹ thuật công nghệ… hiện đại từ các nhà đầu tư nước ngoài là mong muốn và là những điều đáng phấn khởi của Việt Nam trong thời gian qua. Tuy vậy do thiếu chặt chẻ trong quản lý, yếu trong khả năng kiểm tra kiểm soát .. của bên Việt Nam nên vẩn tồn tại tình trạng bên nước ngoài đưa vào thực hiện dự án đầu tư những thiết bị kém chất lượng hơn dự kiến, không những thế một số trường hợp còn khai tăng giá so với giá trị thực của thiết bị; hoặc như trong chuyển giao cộng nghệ ở một số trường hợp, mặc dù công nghệ đã thuộc loại phổ biến nhưng bên Việt Nam bị ép buộc chịu chấp nhận và chịu lệ phí chuyển giao công nghệ. - Vấn đề con người trong mối quan hệ giữa thực lực với vị trí và một số tranh chấp của các bên đối tác trong liên doanh: hầu hết các dự án được triển khai hoạt động vào thời kỳ đầu thì khong chỉ riêng số cán bộ thuộc các cơ quan doanh nghiệp tham gia liên doanh đơn thuần bằng quyền sự dụng đất mà nhìn chung số cán bộ của bên Việt Nam trong các liên doanh đều là những người xuất thân hoặc tựu các doanh nghiệp vừa và nhỏ hoặc từ các doanh nghiệp nhà nước ít năng động và nhiều yếu kếm hay nói cách khác đó là những cơ sở ít vốn, kỷ thuật lạc hậu chưa thích nghi với cơ chế thị trường - Trong liên doanh, do phía việt nam chưa có khả năng để tạo những mẫu mã hàng hoá phù hợp với thị hiếu của khách hàng quốc tế và thiếu điều kiện để tiếp cận với một sô thị trường nước ngoài nên việc tiêu thụ sản phẩm gần như “khoán trắng” cho bên nước ngoài. + Cơ cấu đầu tư nước ngoài theo ngành kinh tế và vung lãnh thổ chưa đạt được như điều mà chúng ta mong muốn, nhất là còn tương đối bất cập với yêu cầu của công cuộc CNH-HĐH cũng như sự phát triển bền vững của đất nước. Chúng ta đã có các chính sách ưu đãi để hướng dẫn, thu hút đầu tư nước ngoài theo chiến lược phát triển kinh tế và vùng lãnh thổ. Thế nhưng, các cấp độ ưu đãi chưa tương ứng với mức độ chênh lệch về điều kiện giữa các ngành, các vùng nên đầu tư trực tiếp nước ngoài vẫn tập trung chủ yếu vào những ngành có khả năng đạt hiêu quả cao, những địa bàn cố điều kiện thuận lợi về kết cấu hạ tầngg và môi trường kinh tế – xã hội. Chẳng hạn, đến cuối năm 1999, trong lĩnh vực nông lâm nghiệp có tới 74 dự án đầu tư nước ngoài bị giải thể trước thời hạn với số vốn là 287 triệu USD, trong đó 35 dự án thuộc lnĩh vực trồng trọt và chế biến lâm sản, 39 dự án chế biến gỗ và lâm sản. Các dự án trong lĩnh vực nông lâm nghiệp đầu tư nước ngoài tập trung chủ yếu vào Đồng bằng Nam bộ, đông bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu long. Đối với các lĩnh vực khác ta thấy số dự án đầu tư nước ngoài vẫn tập trung chủ yếu vào các địa phương có điều kiện thuận lợi, chỉ riêng 10/61 tỉnh thành phố có điều kiện thuận lợi đã thu hút 87,8% so với tổng số vốn đầu tư nước ngoài vào cả nước. Về phía các ngành các địa phương vẫn tồn tại hiện tượng cạnh tranh nhau giữa các ngành trong thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. tình trạng thiếu đồng nhất về quy hoạch cũng như cách kêu gọi vốn đầu tư giữa các ngành các địa phương đã trở thành yếu tố tác động tiêu cực, cản trở chiến lược kêu gọi, hướng dẫn đầu tư nước ngoài theo ngành và vùng lãnh thổ của cả nước. + vấn đề thực hiện chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu ở các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Hoạt động sản xuất của các doanh nghiệp hiện nay đang có những biểu hiện theo xu hướng sản xuất hàng thay thế nhập khẩu là hướng về xuất khẩu một xu hướng không những có lợi mà có khi còn gây nên những tác hại trong thực hiện CNH-HĐH của ta. Qua phân tích tình hình thực tế của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, ta có thể đánh giá được một số vấn đề, những ý định mong muốn của một số nhà đầu tư nước ngoài đối với những sản phẩm do doanh nghịêp mình sản xuất ra. Có lẽ, nhiều nhà đầu tư nước ngoài khi ngiên cứu tìm hiểu các điều kiện của nước ta để tính toán cho dự án đầu tư họ đều nhìn nhận ở Việt Nam như một thị trường nhiều tiềm năng: với dân số đông, sức mua hiện nay tuy còn ở mức thấp nhưng rất có triển vọng nâng cao trong tương lai…Họ cho rằng, thay vì việc sản xuất ở nước khác và muốn nhập khẩu hàng hoá vào Việt Nam thì phải thông qua nhiều điều kiện khó khăn, thuế nhập khẩu cao, bị động trong nắm bắt thị trường tiêu thụ hàng hoá,…bằng đầu tư trực tiếp để sản xuất hàng hoá tại Việt Nam. Điều này giúp họ vừa chiếm lĩnh thị trường khi hàng hoá cùng loại chưa có doanh nghiệp nào sản xuất, hoặc có doanh nghiệp Việt Nam ở trình độ thấp sản xuất với giá thành cao hiện nay, vừa giành dược ưu thế cạnh tranh trong tương lai, khi sản phẩm của họ trở nên quen thuộc với người tiêu dùng Việt Nam. Xuất phát từ những tính toán như vậy nên khi theo yêu cầu của ta, nhiều nhà đầu tư nước ngoài sẵn sàng cam kết và đồng ý ghi trong giấy phép là sản xuất hàng hoá chủ yếu cho xuất khẩu, nhưng khi thực tế doanh nghiệp đi vào sản xuất kinh doanh họ đã lấy lý do gặp khó khăn trong việc tìm kiếm thị trường, tác động của cuộc khủng hoảng như một số điều kiện bất khả kháng từ bên ngoài…để hướng sản xuất của họ vào thị trường Việt Nam. Cứ từng bước như vậy, họ cố gắng làm giảm dần tính hiệu lực của một số điều khoản được ghi trong giáy phép đầu tư để rồi chuyển hướng từ sản xuất hướng về xuất khẩu sang sản xuất thay thế cho nhập khẩu. Các công ty nước ngoài sau khi được cấp giấy phép vào Việt Nam xem đó là điều kiện hợp pháp để quảng cáo, tuyên truyền cho hàng hoá là nhiều, khuyếch đại năng lực của công ty mẹ cũng như hàng hoá của công ty mẹ do các công ty con sản xuất tại nước khác vào bán ở thị trường Việt Nam. Chương III Những giải pháp để huy động vốn đầu tư trực tiếp nước tại Việt Nam trong thời kỳ 2001-2005 I.Mục tiêu tổng quát phát triển kinh tế-xã hội . a) Mục tiêu tổng quát của chiến lược 10 năm 2001-2010. Đưa đất nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rỏ rệt đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nguồn lực con người, nguồn lực khoa hoc và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng an ninh được tăng cường, thể chế kinh tế thị trường định hướng chủ nghĩa xã hội được hình thành về cơ bản,vị thế của nưoc ta trên chính trường quốc tế được nâng cao. b) Mục tiêu tổng quát của kế hoạch 5 năm 2001-2005: Tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững, ổn địnhvà cải thiện đời sống nhân dân . Chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hoá, hiện đaih hoá. Nâng cao rỏ rệt hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế, mở rộng kinh tế đối ngoại.Tạo chuyển biến mạnh về giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, phát huy nhân tố con người. Tạo nhiều việc làm, cơ bản xoá đói giảm số hộ nghèo,đẩy lùi các tệ nạn xả hội, hình thành một bước quan trọng thể chế kinh tế thị trường định hướng xả hội chủ nghĩa. Giữ vửng ổn định chính trị và trật tự xã hội, bảo vệ vửng chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lảnh thổ và an ninh quốc gia. 2. Mục tiêu về nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong 5 năm tới(2001-2005) Đảm bảo tốc độ tăng trưởng kinh tế 7,5%/năm. Dự kiến vốn cho đầu tư trong 5 năm tới vào khoảng 830-850 nghìn tỷ(gia theo năm 200)tương đương với 56-61 tỷ USD.Dự kiến vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được thực hiện trong 5 năm tới khoảng 9- 10 tỷ USD bao gồm vốn các dự án đã dược cấp phép chưa thực hiện của các năm trước, vốn thực hiện các dự án cấp phép mới và vốn bổ xung của các dự án được thực hiện. II Những giải pháp 1. Cần phải xây dựng môi trường đầu tư hấp dẫn thông thoáng, rõ ràng, ổn định và mang tính cạnh tranh vào hơn hiện nay . -Trên cơ sở luật sửa đổi, bổ sung một số điều của luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam ngày 9/6/2000 . Nghị định 24/2000/NĐ=CP, cần chỉ đạo UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, ban hành quy định về quản lý nhà nước trên địa bàn đối với các hoạt động đầu tư nước ngoài và các biện pháp khuyến khích đầu tư nước ngoài ở địa phương, các bộ ngành ban hành quy định hướng dẫn về đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực thuộc chức năng và thẩm quyền quản lý của mình. Cần đề phòng các bộ, UBND trong khi ban hành thông tư hướng dẫn đưa những nội dung mà họ không nhát trí với luật sữa đổi với các văn bản đó. -Những trở ngại về thủ tục hành chính đang là một nhân tố cản trở quá trình thu hút FDI . Môi trường đầu tư có được cải thiện hay không theo ý kiến của đại bộ phận các nhà đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp trong nước chính là có cải cách. Được bộ máy nhà nước giảm thiệu được thủ tục hành chính không cần thiết, giảm thiệu chi phí, tiết kiệm thời gian hoàn thành và triển khai dự án, … Do vậy Chính Phủ cần dành nhiều thời gian để chỉ đạo có hiệu lực hơn công việc cải cách hành chính, cần có các hình thức khen thưởng và kỷ luật nghiêm minh đối với những cá nhân và tổ chức trong việc thực hiện chủ trương quan trọng và có ý nghĩa thời sự trọng đại này . -Chính Phủ cần phải mở rộng thêm một số lĩnh vực cho phép đầu tư 100% vốn nước ngoài, khuyến cần mở rộng thêm một số lĩnh vực cho phép đầu tư 100%vốn nước ngoài, khuyến khích doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài đối với dự án công nghệ cao, công nghệ mới, cho phép linh hoạt chuyển đổi hình thức đầu tư liên doanh thành doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài. -Nhanh chóng ban hành văn bản về sử dụng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (sổ đất) cho các doanh nghiệp hoạt động trong khu công nghiệp, khu chế xuất. Cần nhanh chóng sửa đổi luật đất đai cho phù hợp với những cam kết trong hiệp định thương mại theo hướng cho phép các nhà đầu tư nước ngoài và việt kiều về đầu tư lâu dài ở Việt Nam có thể mua nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở. -Tiếp tục sửa đổi chế độ hai giá (còn ở mức khá cao) đối với nước ngoài và chi phí hạ tầng để tạo sự cạnh tranh. Nhanh chóng điều chỉnh giá, chi phí hàng hoá, và dịch vụ, khu chế xuất, khu công nghiệp cần thu hút vốn FDI. -Tiếp tục nghiên cứu mức khởi điểm chịu thuế thu nhập cá nhân đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nhằm tạo điều kiện cho doanh nghiệp thực hiện quan sát thay thế dần nhân viên người nước ngoài bằng người Việt Nam. Rà soát ,loại bỏ các giấy phép, qui định không cần thiết liên quan đến đầu tư nước ngoài. 2. Đẩy mạnh hoạt động xúc tiến đầu tư: Đối với thị trường đầu tư cần có sự nghiên cứu phân tích một cách nghiêm túc các đối tác đầu tư trên thế giới như Mỹ, Nhật, EU. Hiện nay khi thực hiện chủ trương đa phương hoá các đối tác ĐTNN để tạo thế chủ động trong mọi tình huống nhằm tranh thủ tiềm lực, vốn, công nghệ kỉ thuật hiện đại để nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế .Vì vậy công tác vận động xúc tiến đầu tư phải được nghiên cứu đổi mới về cả nội dung và phương thức thực hiện, coi trọng công tác xây dựng kế hoạch và chương trình hành động một cách cụ thể, coi việc xúc tiến đầu tư là là nhiệm vụ trung tâm của các cơ quan TW và địa phương. Vì vậy: - Các nghành, các địa phương chủ động tiến hành vận động ,xúc tiến ĐTNN với từng dự án, tập đoàn, nhà đầu tư có tiềm năng trên cơ sở qui hoạch và doanh mục đã được phê duyệt. Nhanh chóng triễn khai thực hiện luật sửa đổi bổ sung một số điều của luật ĐTNN. - Bộ kế hoạch và đầu tư ,bộ ngoại giao và bộ thương mại tổ chức phối hợp nghiên cứu tình hình kinh tế ,thị trường đầu tư qs của các nước ,tập đoàn đa quốc gia ,nghiên cứu pháp luật, chính sách thu hút vốn ĐTNN của các nước trong khu vực để kịp thời có đối sách thích hợp . - Cần tập trung chỉ đạo, hổ trợ kịp thời các nhà đầu tư hiện đang có dự án hoạt động, giúp họ hoạt động, giúp họ giải quyết các vấn đề phát sinh, đó là biện pháp có ý nghĩa quan trọng để vận động có hiệu quả và có sức thuyết phục nhất đối với các nhà đầu tư mới . Việt Nam cũng cần phải đẩy mạnh tuyên truyền hình ảnh của mình ra bên ngoài. Phải tăng cường xây dựng mạnh mạng lưới xúc tiến đầu tư trong và ngoài nước. Ví dụ :Hội thảo “ Hướng tới thành công” do bộ KH&ĐT tổ chức tại Singapo tháng 3 vừa qua (có thể xem là hoạt động xúc tiến đầu tư lớn nhất của nước ta từ trước đến nay của Việt Nam ở nước ngoài ). Qua những lần thảo luận như thế, Việt Nam đã đưa ra các danh mục gồm nhiều dự án đầu tư nước ngoài, từ đó giúp các nhà đầu tư nước ngoài tìm hiều cơ hội đầu tư vào Việt Nam. Ngoài ra, xúc tiến đầu tư ra nước ngoài cũng cần phải đưa vào những tổ chức độc lập nước ngoài chuyên làm công tác xúc tiến đầu tư thì kết quả thu được sẽ cao hơn. 3.Xây dựng các dự án đầu tư tiền khả thi trong trong thời kỳ mới theo hướng khuyến khích mạnh mẽ việc thu hút vốn FDI vào các ngành mà nước ta có thế mạnh về tài nguyên, nguyên liệu, lao động và phát triển kết cấu hạ tầng cụ thể là theo thứ tự sau : - Công nghiệp chế biến hàng xuất khẩu . - Công nghiệp chế biến hàng tiêu dùng thay thế hàng nhập khẩu . - Công nghệ cao, công nghệ thông tin , viễn thông. - Công nghiệp dầu khí, điện lực . - Công nghiệp cơ khí . - Công nghiệp hàng điện tử . - Xây dựng, dịch vụ xuất nhập khẩu, dịch vụ phân phối giải trí ... Các dự án khi được lựa chọn đưa vào danh mục kêu gọi đầu tư nước ngoài phải thống nhất về chủ trương và qui hoạch. Các cơ quan và hữu quan cần phải được cụ thể hoá thêm mục tiêu, nội dung của dự án, địa điểm và hình thức đầu tư . Danh mục này phải định kỳ được cập nhật và mở rộng cho các lĩnh vực mà thời gian qua các chủ trương không cấp phép hoặc hạn chế cấp phép . 4.Phát triển đầu tư cơ sở hạ tầng nhằm thu hút vốn đầu tư TTNN. Cơ sở hạ tầng của một quốc gia là một trong những vấn đề hàng đầu mà nhà đầu tư quan tâm khi quyết định đầu tư. Thực tế cho thấy địa phương mà cơ sở hạ tầng yếu kém rất khó thu hút các nhà đầu tư nước ngoài và khi đó không thu hút được đầu tư, thì khả năng cải tạo cải tạo cơ sở hạ cũng hạn chế. Chính cái vòng luẫn quẫn này tạo nên thực trạng: vùng kinh tế phát triển càng phát triển và các vùng kinh tế có cơ sở hạ tầng kém phát triển ngày càng tụt hậu. Do đó để cải thiện và phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng cần thiết phải thực hiện một số giải pháp sau : - Tiến hành nâng cấp hệ thống đường bộ cả nước trên quan điểm “ phá vở thế độc quyền như hiện nay ”. - Cải cách câu sắc hoạt động của ngành hàng không Việt Nam trên cơ sở hoạch toán kinh tế . - Cải thiện hệ thống giao thông đô thị và chú ý phát triển mạng lưới giao thông ở các vùng nông thôn, vùng xa . - Hợp tác với các nước láng giềng để mở rộng hệ thống giao thông quốc tế . - Cải tạo hệ thống cảng biển : cần tiếp tục cải tạo và nâng cao hiệu quả hoạt động của cảng Sài Gòn, cảng Vũng Tàu và cảng Hải Phòng. - Phát triển và hoàn thiện hệ thống thông tin liên lạc . 5. Các giải pháp khác. *) Thực hiện chiến lược khuyến khích đầu tư của các công ty đa quốc gia, xuyên quốc gia, toàn cầu để tiếp nhận chuyển giao công nghệ hiện đại . Thông qua nguồn vốn đầu tư trực tiếp ngoài FDI, các công ty đa quốc gia, xuyên quốc gia, toàn cầu với các ưu thế của mình đã tạo nên sự ảnh hưởng lớn đến các nước tiếp nhận đầu tư . Nguồn vốn của các công ty này tham gia đóng góp bổ sung nguồn vốn thiếu hụt trong nước, cân bằng cán cân thanh toán tại nước tiếp nhận . Ngoài ra các nước tiếp nhận đầu tư có cơ hội tiếp nhận sự chuyển giao kỷ thuật, công nghệ tiên tiến, kinh nghiệm tổ chức quản lý kinh doanh, đào tạo đội ngủ lao động tăng khả năng cạnh tranh và có nhiều cơ hội tiếp cận hội nhập với nền kinh tế thế giới . Vì vậy mặc dù Nhật đứng thứ 3 , Mỹ đứng thứ 13 trong số 15 nước đầu tư lớn vào Việt Nam nhưng phải thừa nhận Mỹ và Nhật là những nước có tiềm lực kinh tế mạnh đầu tư khắp thế giới ( chiếm 25 % dòng vốn FDI của toàn thế giới ) . Thông qua FDI của các nước phát triển có điều kiện xuất khẩu công nghệ và chuyển giao công nghệ,còn đối với các nước đang phát triển như nước ta thì FDI coi như là một phương tiện hữu hiệu để nhập khẩu công nghệ có trình độ cao hơn ở bên ngoài . Do đó đòi hỏi phải có những biện pháp và chính sách cởi mở khuyến khích các công ty đa quốc gia ,công ty toàn cầu của Mỹ và Nhật đầu tư mạnh vào Việt Nam. *)Sửa đổi một số chính sách về tài chính ngân hàng để tạo thuận lợi cho việc thu hút vốn ĐTNN Tiếp tục giảm dần tỷ lệ kết nối ngoại tệ để tiến tới xoá bỏ việc kết nối bắt buộc khi có điều kiện,từng bước thực hiện mục tiêu tự do hoá chuyển đổi ngoại tệ đối với các giao dịch vãng lai . Tạo điệu kiện cho các doanh nghiệp được tiếp cận thị trường vốn, được vay tín dụng hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam tuỳ thuộc vào hiệu quả kinh tế ,khả năng trả nợ của dự án và có thể đảm bảo bằng tài sản của các công ty mẹ ở nước ngoài ,được phép thí điểm phát hành cổ phiếu ,trái phiếu ở thị trường trong nước và ngoài nước để thu hút thêm vốn đầu tư. Phát triển mạnh thị trường vốn để các doanh nghiệp Việt Nam có thể góp vốn đầu tư bằng các nguồn huy động dài hạn (trái phiếu, cổ phiếu).Tiến tới cổ phần hoá doanh nghiệp ĐTNN. Xây dựng qui chế quản lý hoạt động tài chính của doanh nghiệp ĐTNN ban hành các chuẩn mực kế toán, kế toán phù hợp với thông lệ quốc tế nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của các doanh nghiệp, đồng thời đảm bảo sự quản lý của nhà nước đối với hoạt động tài chính của doanh nghiệp . *)Sự cần thiết phải nối mạng thông tin trong quản lý hoạt động đầu tư nước ngoài . Để tránh tình trạng nhiều vấn đề khi các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đặc biệt là các dự án thuộc diện chưa phân cấp, kiến nghị cơ quan chức năng nhiều khi không được trả lời, hoặc các địa phương sau khi nhận được phân cấp lại chậm ban hành các văn bản hướng dẫn, hoặc đã có hướng dẫn nhưng còn thiếu qui định và qui trình triển khai, khiến các đầu tư nản lòng. Vì vậy cần phải xây dựng một hệ thống nối mạng diện rộng kết nối giữa các bộ đầu tư với các sở kế hoạch đầu tư,các ban quản lý KCN-KCX và xây dựng một hệ thống dữ liệu quản lý dự án đầu tư nước ngoài trao đổi thông tin hai chiều giưã bộ KH-ĐT với sở kế hoạch đầu tư ,các ban quản lí KCN-KCX và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. *Cần nghiên cứu để hình thành một tổ chức hợp lý đối với hoạt động đầu tư nước ngoài . Nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động FDI cần tránh tình trạng sát nhập ,tổ chức mới giải thể khá tuỷ tiện mà không tính đến hậu quả của sự thay đổi với tâm lý của nhà đầu tư cũng như khả năng của việc quản lý nhà nước đối với FDI . Kinh nghiệm của Nhật Bản cho thấy để tiến hành hoạt động kinh tế ra bên ngoài có sự phối hợp chặt chẻ giữa các tổ chức, Bộ ngoại giao, Bộ công thương, Bộ tài chính. Bộ ngoại giao đóng vai trò như là người mở đường thiết lập các mối quan hệ với nước ngoài, đặt cơ sở nền tảng cho quan hệ kinh tế. Bộ công thương (bao gồm CN và thương mại) nghiên cứu chiến lược sau đó triễn khai và thực hiện . Bộ tài chính: thẫm định và chuyển tiền. Tuy về hoạt động của FDI ra bên ngoài là công việc của các công ty tư nhân nhưng vai trò của ba bộ ngành là rất lớn, đóng vai trò như người chỉ đạo, hổ trợ tổ chức và kiểm soát. ở Việt Nam để tăng cường và thu hút và nâng hiệu quả của FDI cần có phối hợp chặt chẻ và thống nhất giữa các bộ ngành: Bộ ngoại giao, bộ kế hoạch và đầu tư, các bộ ngành kinh tế và các bộ khác. Đặc biệt là bộ KH và ĐT, bộ thương mại, công nghiệp, và tài chính. Kết luận Quốc tế hoá đời sống kinh tế là một xu hướng khách quan, là sự tất yếu của nền sản xuất xã hội, trên cơ sở sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất. Xu hướng này đã lôi kéo tất cả các nước trên thế giới, dù muốn hay không cũng phải từng bước hội nhập vào quỹ đạo của nền kinh tế thế giới. Trong quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế quốc tế, hoạt động đầu tư nước ngoài có vị trí và vai trò ngày càng quan trọng nó đã và đang là nhân tố cơ bản cấu thành và quy định xu hướng phát triển các quan hệ kinh tế quốc tế. Một mặt, đầu tư nước ngoài hiện là hoạt động cơ bản của quan hệ kinh tế quốc tế, mặt khác nó là nhân tố thúc đẩy nhanh quá trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới của các nước đang phát triển. Kể từ khi xuất hiện cách đây hàng thế kỷ, trải qua quá trình phát triển đầy biến động, mặc dù có nhiều thay đổi, nhưng hoạt động đầu tư nước ngoài vẫn không ngừng phát triển. Số lượng vốn đầu tư nước ngoài ngày càng lên tăng mạnh mẽ, hình thức đầu tư ngày càng phong phú, đa dạng và ngày càng còn quốc gia tham gia vào hoạt động này, cả với tư cách là người đầu tư và người nhận đầu tư. Do hoản cảnh đặc thù mà Việt Nam tham gia vào hoạt động sôi động này của thế giới có hơi muộn một chút nhưng hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài đã góp phần quan trọng vào sự tăng trưởng kinh tế và giúp cho nền kinh tế Việt Nam từng bước hội nhập vào nền kinh tế thế giới tránh nguy cơ tụt hậu phát triển so với các nước khác. Khi thực hiện hợp tác đầu tư với nước ngoài, chúng ta cũng không tránh khỏi những mất mát, thiệt hại. Cái giá phải trả cho việc "mượn sức người" có thể rất lớn nếu chúng ta non kém về trình độ hay mắc phải những sai lầm nghiêm trọng trong quản lý và điều hành vĩ mô. Ngược lại, chúng ta có thể hạn chế được những tác hại của đầu tư trực tiếp nước ngoài, nếu chúng ta biết khôn khéo xử lý tốt các tình huống và phải có khả năng để thực hiện quan hệ hợp tác đầu tư với nước ngoài. Để duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế liên tục cao và để biến nước ta thành một nước công nghiệp hoá vào năm 2020, việc thu hút và sử dụng vốn đầu tư nước ngoài có ý nghĩa và vai trò đặc biệt quan trọng. Chúng ta coi nhiệm vụ thu hút và sử dụng đầu tư trực tiếp nước ngoài là công việc vừa có tính cấp bách vừa có tính chiến lược lâu dài. Do vậy đưa ra những giải pháp thực hiện

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docKT23.DOC