Đề tài Những giải pháp về chính sách sản phẩm nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu mây tre của công ty Barotex

MỤC LỤC I. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ MARKETING VÀ CHÍNH SÁCH SẢN PHẨM TRONG MARKETING 3 1. Bản chất và vai trò của chính sách sản phẩm trong hoạt động Marketing 3 1.1.Khái quát về Marketing 3 1.2.Vai trò và sự cần thiết của chính sách sản phẩm trong hoạt động Marketing 4 2. Tầm quan trọng của chính sách sản phẩm đối với thị hiếu người tiêu dùng 5 2.1. Khái niêm thị hiếu nguời tiêu dùng 5 2.2.Những yếu tố chủ yếu ảnh hưởng đến hành vi mua sắm người tiêu dùng 5 3. Những vấn đề cơ bản về kinh doanh xuất khẩu hàng hoá của doanh nghiệp Thương mại trong nền kinh tế thị trường. 6 3.1. Khái niệm về Xuất Khẩu 6 3.2. Hoạt động kinh doanh xuất khẩu và vai trò của nó trong nền kinh tế thị trường 8 II. TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU MÂY, TRE TRONG NHỮNG NĂM QUA CỦA CÔNG TY BAROTEX 10 1. Vài nét về quá trình hình thành và phát triển của Công ty Barotex 10 2. Thị trường xuất khẩu Mây tre của Barotex 15 3. Thực tế xuất khẩu Mây tre của Công ty Barotex trong những năm qua 17 4. Những ưu điểm và nhược điểm trong chính sách sản phẩm của Công ty Barotex trong hoạt động xuất khẩu 19 III. NHỮNG GIẢI PHÁP VỀ CHÍNH SÁCH SẢN PHẨM NHẰM ĐẨY MẠNH HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU MÂY TRE CỦA CÔNG TY BAROTEX 22 1. Phân loại thị trường để có biện pháp ứng xử cho phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng trên từng đoạn thị trường 22 2. Nâng cao chất lượng sản phẩm 24 KẾT LUẬN 27

doc29 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1596 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Những giải pháp về chính sách sản phẩm nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu mây tre của công ty Barotex, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU Trong nghị quyết lần thứ 7 của Trung ương Đảng ( tháng 7 năm 1994) có đặt vấn đề “ xây dựng một nền kinh tế mở hướng mạnh về xuất khẩu ...” Quan điểm xây dựng một nền kinh tế mở của Đảng đã phù hợp với qui luật hình thành một nền kinh tế thị trường ở nước ta, là động lực tác động tích cực đến hoạt động của các ngành, các thành phần kinh tế, đặc biệt là các tổ chức kinh doanh, xuất nhập khẩu. Hiện nay, nền kinh tế Việt Nam đang nỗ lực cố gắng hoà nhập vào nền kinh tế thế giới, thông qua chính sách kinh tế mở cửa nhằm đẩy mạnh hơn nữa tốc độ tăng trởng kinh tế, góp phần làm giảm tỉ lệ lạm phát, nâng cao đời sống nhân dân. Trong một vài năm trở lại đây, tốc độ tăng trưởng kinh tế của nước ta đã đạt được ở mức khá cao so với khu vực và thế giới. Đạt được kết quả đó, có một phần đóng góp của các tổ chức đơn vị kinh doanh thương mại quốc tế (kinh doanh xuất nhập khẩu) góp phần đa nền kinh tế Việt Nam hoà nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Công ty xuất nhập khẩu mây tre, Bộ Thương Mại (gọi tắt là Barotex) ra đời từ năm 1971. Gần 30 năm hình thành và phát triển, công ty đã đóng góp tích cực vào hoạt động xuất nhập khẩu chung của cả nước. Từ khi ra đời cho đến nay công ty không ngừng củng cố và phát triển về cả mặt chất và mặt lượng, ngày đầu thành lập công ty chỉ có hơn 20 cán bộ và bộ đội chuyển ngành có trình độ nghiệp vụ đối ngoại non yếu, tình hình sản xuất hàng xuất nhập khẩu mấy tre ở các địa phơng thì manh mún, phân tán, cơ cấu hàng hoá thì nhỏ bé, không ổn định, thị trờng xuất khẩu thì chủ yếu là Liên Xô cũ và các nước trong phe Xã hội chủ nghĩa... Đến nay, công ty đã có một đội ngũ cán bộ hầu hết có trình độ đại học (chiếm trên 90% cán bộ nhân viên khối kinh doanh dịch vụ xuất nhập khẩu) và với đội ngũ công nhân có tay nghề khá, cơ cấu hàng hoá xuất khẩu đa dạng, phong phú, thị trường xuất khẩu đã đợc mở rộng, sản phẩm song, mây, tre của công ty đã có mặt ở khắp các châu lục trên thế giới. Những đặc điểm kinh tế, chính trị trong và ngoài nước những năm gần đây, đã ảnh hưởng lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh hàng song mây tre xuất khẩu. Với hàng loạt các sự kiện diễn ra liên tiếp trong thời gian gần đây: Mỹ bỏ cấm vận với Việt Nam, và lập quan hệ ngoại giao ở cấp đại sứ, Việt Nam ra nhập khối ASEAN v.v... và nhất là với chủ trương lớn của Đảng và nhà nớc ta Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước, đã giúp cho ngành kinh doanh xuất nhập khẩu nói chung và ngành xuất khẩu mây tre nói riêng có điều kiện xâm nhập vào thị trường mới, mở ra tiềm năng mới trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh ngành song mây tre xuất khẩu ở Việt Nam. I. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ MARKETING VÀ CHÍNH SÁCH SẢN PHẨM TRONG MARKETING 1. Bản chất và vai trò của chính sách sản phẩm trong hoạt động Marketing 1.1.Khái quát về Marketing Marketing có nghĩa là hoạt động của con người diễn ra trong quan hệ vói thị trường để biến những trao đổi tiềm ẩn thành hiện thực với mục đích là thoả mãn những nhu cầu và mong muốn của con người. Người làm marketing là người tìm kiếm tàI nguyên từ một người khác và sãn sàng đưa ra một thứ gì đó có giá trị để trao đổi. Người làm marketing tìm kiếm một phản ứng từ phía bên kia để bán hoặc để mua một thứ gì đó. Nói cách khác, người làm marketing có thế là người bán hoặc người mua. Có rát nhiều định nghĩa về marketing nhưng từ những nhận định trên ta có thể đưa ra định nghĩa về marketing như sau: Marketing là một quá trình quản lý mang tính xã hội nhờ đó mà các cá nhân hay tập thể có đuợc những gì mà họ cần và mong muốn thông qua việc tạo ra, chào hàng và trao đổi những sản phẩm có giá trị với người khác. Để thực hiện được những quá trình trao đổi đòi hỏi phảI tốn rất nhiều công sức và phảI có trình độ nghiệp vụ và chuyên môn. Nó liên quan đến hàng hoá, dịch vụ và ý tưởng và dựa trên kháI niệm về trao đổi, mục đích của nó là tạo ra sự thoả mãn cho các bên hữu quan. Công việc marketing trên thị trường khách hàng chính thức là do những người quản lý tiêu thụ, nhân viên bán hàng, những người quản lý sản phẩm và nhãn hiệu, những người quản lý thị trường và nghành. Để đảm đương tốt những nhiệm vụđó các nhà quản trị marketing phảI nghiên cứu marketing, lập kế hoạch, thực hiện và kiểm tra giám sát từng bước của quá trình quản trị. 1.2.Vai trò và sự cần thiết của chính sách sản phẩm trong hoạt động Marketing Như chúng ta đã biết chính sách sản phẩm là một trong những công cụ hữu hiệu quan trọng trong quá trình quản trị marketing và là một trong 4 P của marketing –mix: giá cả, khuyến mãI, phân phối và sản phẩm. Đó là những công cụ mà người làm marketing sử dụng để thể hiện chiến lược, mục tiêu hay kế hoạch kinh doanh của công ty. Là tập hợp những công cụ marketing mà công ty sử dụng để theo đuổi những mục tiêu marketing của mình trên thị trường mục tiêu. Nó thể hiện sự khéo léo nghệ thuật của người làm marketing phản ánh hiệu quả của công tác marketing và quyết định đến sự thành bạI của chiến lược kinh doanh cũng như hiệu quả kinh tế của toàn công ty. Công cụ cơ bản nhất trong marketing-mix là sản phẩm với nghĩa là hàng hoá hữu hình của công ty được tung ra thị trường bao gồm chất lượng sản phẩm, bao bì, mẫu mã, tính năng, nhãn hiệu. Đó là những yếu tố cơ bản nhất dễ thu hút người tiêu dùng nhất trong hành vi mua của người tiêu dùng. Đứng trước nhà quản trị marketing trong trường hợp này là một loạt những quyết định như : + sản phẩm là gì? + làm thế nào để công ty có thể xây dựng và quản lý danh mục sản phẩm và chủng loạI sản phẩm của mình? + làm thế nào mà công ty có thể ra được quyết tốt hơn về nhãn hiệu? +làm thế nào để có thể sử dụng bao bì và nhãn hiệu như một công cụ marketing? Như vậy chúng ta thấy rằng chính sách sản phẩm có một vai trò rất lớn trong hoạt động marketing của công ty. Nó là một công cụ cơ bản hiệu quả đối với nhà quản trị marketing để tác động đến người tiêu dùng. Theo đuổi những mục tiêu của công ty trên thị trường. Nhưng nó cũng đặt ra nhiều thách thức khó khăn cho các nhà quản trị trong quá trình ra quyết định và để thành công đòi hỏi người làm marketing phảI có trình độ nhất định, kinh nghiệm sự hiểu biết rộng lớn cả về sản phẩm lẫn tâm lý người tiêu dùng. 2. Tầm quan trọng của chính sách sản phẩm đối với thị hiếu người tiêu dùng 2.1. Khái niêm thị hiếu nguời tiêu dùng Mục đích của marketing là đáp ứng thoả mãn những nhu cầu và mong muốn của những khách hàng mục tiêu. Thế nhưng việc hiểu được khách hàng không hề là một chuyện đơn giản. Khách hàng có thể nói ra những cầu và mong muốn của mình, nhưng lạI làm một cách khác. Họ có thể không nắm được động cơ sâu xa của chính mình. Họ có thể đáp ứng những tác động làm thay đổi những suy nghĩ của họ vào giây phút cuối cùng. Dù vậy, những người làm marketing vẫn phảI nghiên cứu những mong muốn, nhận thức sở thích và các hành vi chọn lựa mua sắm của những khách hàng mục tiêu. Cùng với với các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi mua sắm các tác động của môI trường sẽ giúp cho nhà quản trị nắm bắt được phần nào thị hiếu của người tiêu dùng. Việc nghiên cứu nhưn vậy sẽ cho ta những gợi ý để phát triển sản phẩm mới, tính năng của sản phẩm, xác định giá cả, các kênh nội dung thông tin và các yếu tố khác trong marketing-mix. 2.2.Những yếu tố chủ yếu ảnh hưởng đến hành vi mua sắm người tiêu dùng + Văn hoá: nền văn hoá, nhánh văn hoá, tầng lớp xã hội. + Xã hội: nhóm tham khảo, gia đình, vai trò, địa vị + Cá nhân: tuổi, giai đoạn của chu kỳ sống, nghề nghiệp, hoàn cảnh kinh tế, lối sống, nhân cách. + Tâm lý: động cơ, nhận thức, hiểu biết, niềm tin và tháI độ. Trước khi lập kế hoạch marketing, công ty cần xác định rõ những người tiêu dùng mục tiêu và các quá trình thông qua các quyết định của họ. Mặc dù nhiều quyết định mua sắm chỉ liên quan đến một người ra quyết định, có những quyết định đòi hỏi nhiều người tham gia và những người này đóng vai trò đề xướng, người ảnh hưởng, người quyết định mua và người sử dụng. Công việc của người làm marketing là phát hiện cho được những người tham gia mua sắm, tiêu chuẩn mua sắm của họ, ảnh hưởng của họ đến người mua. Cần thiết kế chương trình marketing làm sao để nó có sức hấp dẫn và tiếp cận được những người tham gia chủ chốt khác cũng như người mua. Mặt khác mức độ cân nhắc khi mua sắm và số người tham gia mua sắm tăng theo mức độ phức tạp của tình huống mua sắm. Người làm marketing phảI có những kế hoạch khác nhau cho 4 kiểu hành vi mua sắm của người tiêu dùng: + Hành vi mua sắm phức tạp. + Hành vi mua sắm đảm bảo ưng ý. + Hành vi mua sắm thông thường. + Hành vi mua sắm tìm kiếm sự đa dạng. Bốn kiểu hành vi này đều dựa trên cơ sở mức độ tham gia cao hay thấp của người tiêu dùng vào chuyện mua sắm. Trong hành vi mua sắm phức tạp, người mua trảI qua một quá trình thông qua quyết định gồm các giai đoạn : Y thức về nhu cầu- Tìm kiếm thông tin- Đánh giá các phương án- Quyết định mua – Hành vi hậu mãi. Công việc của người marketing là hiểu được hành vi của người mua trong từng giai đoạn và những ảnh hưởng nào đang tác động. Nắm được đièu nay thì người làm marketing có thể xây dựng được một chương trình có hiệu lực và hiệu quả cho thị trường mục tiêu. 3. Những vấn đề cơ bản về kinh doanh xuất khẩu hàng hoá của doanh nghiệp Thương mại trong nền kinh tế thị trường. 3.1. Khái niệm về Xuất Khẩu Hoạt động xuất nhập khẩu là việc mua bán trao đổi hàng hoá, dịch vụ của một nước đối với một nước khác và thường dùng ngoại tệ làm phương tiện trao đổi. Sự trao đổi này là một hình thức của mối quan hệ xã hội, và phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa những người sản xuất hàng hoá riêng biệt của các quốc gia. Hoạt động xuất nhập khẩu là cần thiết vì những lý do cơ bản là: Nó khai thác được lợi thế so sánh của nước xuất khẩu và mở rộng khả năng tiêu dùng của nước nhập khẩu. Thực tế cho thấy, mỗi quốc gia cũng như mỗi cá nhân không thể sống riêng rẽ, biệt lập với bên ngoài mà vẫn đầy đủ được. Thương mại quốc tế cho phép đa dạng hoá các mặt hàng tiêu dùng với số lượng nhiều hơn, chất lượng cao hơn mức có thể tiêu dùng với danh giới khả năng sản xuất trong nước (nếu thực hiện chế độ tự cung tự cấp không buôn bán với nước ngoài). Cùng với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật thì phạm vi chuyên môn hoá ngày càng tăng, số sản phẩm dịch vụ nhằm đáp ứng nhu cầu của con người ngày một dồi dào, đồng thời sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nước cũng tăng lên. Nói cách khác, chuyên môn hoá thúc đẩy nhu cầu sản xuất hàng hoá, dịch vụ và ngược lại, một quốc gia không thể chuyên môn hoá sản xuất nếu không có hoạt động trao đổi mua bán với nớc khác. Chính chuyên môn hoá quốc tế là biểu hiện sinh động của qui luật lợi thế so sánh, qui luật này nhấn mạnh sự khác nhau về chi phí sản xuất coi đó là chìa khoá của các phương thức thương mại. Qui luật cũng khẳng định rằng nếu mỗi nước chuyên môn hoá vào sản xuất sản phẩm mà nước đó có lợi thế so sánh, thì thương mại quốc tế có lợi cho cả hai bên. Sự khác nhau về điều kiện sản xuất cũng được giải thích phần nào về việc buôn bán giữa các nước, vì điều kiện sản xuất có thể khác nhau giữa các nước, nên sẽ có lợi hơn nhiều khi mỗi nước chuyên môn hoá sản xuất những mặt hàng mà mình có lơị thế để xuất khẩu và nhập khẩu những hàng hoá cần thiết từ nước khác. Mặt khác, chuyên môn hoá qui mô lớn sẽ làm cho chi phí sản xuất giảm, tăng cường hiệu quả tuyệt đối, ngay cả khi hai nước giống hệt nhau, buôn bán vẫn có thể diễn ra do sự khác nhau về nhu cầu và sở thích. Hoạt động xuất nhập khẩu đối với nước ta là vấn đề được quan tâm hàng đầu do tầm quan trọng của nó. Do vậy Đảng và Nhà nước chủ trơng mở rộng quan hệ đối ngoại và kinh tế đối ngoại, trong đó có một lĩnh vực quan trọng là vật tư thương mại hàng hoá, dịch vụ với nước ngoài. Đó là chủ trương hoàn toàn đúng đắn và phù hợp với thời đại, phù hợp với xu thế phát triển của nhiều nước trên thế giới trong những năm gần đây. Một đất nwớc không thể xây dựng một nền kinh tế hoàn chỉnh trong điều kiện tự cung, tự cấp, ngay cả với một quốc gia hùng mạnh, vì nó đòi hỏi rất tốn kém cả về vật chất và thời gian. 3.2. Hoạt động kinh doanh xuất khẩu và vai trò của nó trong nền kinh tế thị trường Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu phục vụ công nghiệp hoá đất nước. Công nghiệp hoá đất nước theo những bước đi thích hợp là con đường tất yếu để khắc phục đói nghèo, chậm phát triển ở nước ta. Để công nghiệp hoá đất nớc trong một thời gian ngắn đòi hỏi số vốn rất lớn để nhập khẩu máy móc thiết bị kỹ thuật công nghệ tiên tiến. Nguồn vốn nhập khẩu có thể đợc hình thành từ các nguồn sau: Đầu tư của nước ngoài Vay nợ, viện trợ Xuất khẩu lao động ... Các nguồn như đầu tư nước ngoài, vay nợ, viện trợ,... tuy quan trọng nhng rồi cũng phải trả bằng cách này hay cách khác ở những thời kỳ sau. Nguồn vốn quan trọng nhất để nhập khẩu, thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước và xuất khẩu. Xuất khẩu quyết định quy mô và tốc độ tăng của nhập khẩu. Ở nước ta, thời kỳ 1986 - 1990 nguồn thu từ xuất khẩu bằng 3/4 tổng nguồn thu ngoại tệ và bảo đảm đợc 56% vốn nhập khẩu. Trong tương lai, nguồn vốn bên ngoài sẽ tăng lên nhưng mọi cơ hội đầu tư và vay nợ của nước ngoài, cũng như của các tổ chức quốc tế chỉ thuận lợi khi các chủ đầu tư và ngời cho vay thấy được khả năng xuất khẩu trở thành hiện thực. Xuất khẩu góp phần vào việc dịch chuyển cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Cơ cấu sản xuất và tiêu dùng trên thế giới đã và đang thay đổi vô cùng mạnh mẽ, đó là thành quả của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện đại. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình công nghiệp hoá phù hợp với xu thế phát triển của thế giới là tất yếu đối với nước ta, có hai cách nhìn nhận về tác động của xuất khẩu đối với sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế; Xuất khẩu chỉ là việc tiêu thụ sản phẩm thừa do sản xuất quá nhu cầu ở trong nước, trong trường hợp nền kinh tế còn lạc hậu và chậm phát triển như ở nớc ta, sản xuất về cơ bản còn chưa đủ tiêu dùng, do đó nếu chỉ thụ động chờ sự thừa ra của sản xuất thì xuất khẩu sẽ rất nhỏ bé và chậm chạp. Coi trọng thoả mãn mọi nhu cầu của thị trờng (đặc biệt là thị trường thế giới) là hướng quan trọng để tổ chức sản xuất hàng xuất khẩu. Điều đó tác động tích cực đến việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Sự tác động này đến sản xuất thể hiện ở những điểm sau: Xuất khẩu tạo điều kiện cho những ngành khác phát triển thuận lợi chẳng hạn phát triển ngành dệt, xuất khẩu sẽ tạo điều kiện cho việc phát triển ngành sản xuất nguyên liệu như bông hay thuốc nhuộm, sự phát triển của ngành công nghiệp chế biến thực phẩm xuất khẩu (gạo, dầu thực vật, chè, ...) có thể kéo theo sự phát triển của ngành công nghiệp chế tạo thiết bị phục vụ cho nó. Xuất khẩu tạo ra khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ, góp phần cho sản xuất được ổn định và phát triển. Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản xuất, nâng cao năng lực cho sản xuất trong nước. Xuất khẩu tạo ra những tiền đề kinh tế kỹ thuật, nhằm cải tạo năng lực sản xuất trong nớc. Tức là xuất khẩu trở thành một phương tiện quan trọng để tạo ra vốn và kỹ thuật, công nghệ từ các nước khác vào Việt Nam, nhằm hiện đại hoá nền kinh tế đất nước, tạo ra một năng lực sản xuất mới. Thông qua xuất khẩu, hàng hoá của Việt Nam sẽ tham gia vào cuộc cạnh tranh trên thế giới cả về giá cả và chất lượng. Cuộc cạnh tranh này đòi hỏi chúng ta phải tổ chức sản xuất, hình thành cơ cấu sản xuất luôn thích nghi với thị trường. Xuất khẩu còn đòi hỏi các doanh nghiệp phải luôn luôn đổi mới và hoàn thiện công việc quản trị sản xuất kinh doanh. II. TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU MÂY, TRE TRONG NHỮNG NĂM QUA CỦA CÔNG TY BAROTEX 1. Vài nét về quá trình hình thành và phát triển của Công ty Barotex Từ xa xa ngành mây tre đã có ở Việt Nam. Ban đầu mây tre chỉ được dùng để đan lát thành các vật dùng hàng ngày như rổ, rá, đũa v.v... sau này ngành mây tre đã phát triển, ngoài làm rổ, rá người ta còn biết làm thành những chiếc mành tre được dệt thủ công ở những gia đình có truyền thống làm nghề này, tập trung ở các vùng nh- Hà Tây, Bắc Ninh và một số vùng ở ngoại thành Hà Nội. Vì là nghề “cha truyền con nối” nên chỉ những người con trai trong gia đình mới được dậy bí quyết nghề nghiệp. Năm tháng trôi qua những bí quyết này được truyền ra ngoài và ngành mây tre theo đó cũng ngày càng lan rộng. Ban đầu chỉ là những tỉnh kế cận như Hưng Yên, Thái Bình, Nam Định, Hà Nam v.v... rồi sau đó lan dần ra tất cả các tỉnh miền Bắc. Sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, sản xuất và chế biến hàng song mây tre không còn là độc quyền của miền Bắc nữa. Dưới sự hướng dẫn của các nghệ nhân miền Bắc, đội ngũ nghệ nhân của các tỉnh miền Nam và miền Trung đã phát triển nhanh chóng ngành nghề mây tre ở các tỉnh Quảng Nam, Đà Nẵng, Bình Định, Sông Bé, Thành phố Hồ Chí Minh v.v... Trước năm 1954 hàng mây tre chủ yếu được sản xuất để sử dụng ở trong nước, từ năm 1956 hàng mây tre của Việt Nam đã được thị trường nước ngoài biết đến. Lúc đầu hoạt động xuất khẩu còn do một bộ phận nhỏ của công ty xuất nhập khẩu tạp phẩm đảm nhận với kim ngạch ít ỏi chỉ vào khoảng 200.000 Rúp và Đôla mỗi năm. Từ năm 1960 bộ phận này được tách riêng thành phòng mây tre trực thuộc Tổng công ty xuất nhập khẩu thủ công mỹ nghệ, với kim ngạch tăng dần lên 400.000 Rúp và Đôla. Đến năm 1970 đạt 700.000 Rúp và Đô la. Trước tình hình đó tháng 4/1971, Tổng công ty xuất nhập khẩu mây tre (tên giao dịch là Barotex) được thành lập với giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu số 1.16.1.032/GP. Đến năm 1995, căn cứ quyết định số 108 TM /TCCB Tổng công ty xuất nhập khẩu mây tre đổi tên là công ty xuất nhập khẩu mây tre (gọi tắt là Barotex). Trải qua 27 năm với những biến đổi lớn lao của đất nước, Tổng công ty xuất nhập khẩu mây tre đã không ngừng củng cố và phát triển. Được tách ra từ Tổng công ty xuất nhập khẩu thủ công mỹ nghệ, tổ chức bộ máy lúc đầu của công ty xuất nhập khẩu mây tre còn hết sức nhỏ bé. Văn phòng của công ty chỉ có 4 phòng ban và một chi nhánh giao nhận tại Hải Phòng. Cơ sở vật chất nghèo nàn, thiếu thốn, đội ngũ cán bộ nhân viên vừa yếu lại vừa thiếu. Với 26 cán bộ từ bộ đội chuyển ngành hoặc từ các ngành khác chuyển sang, số cán bộ có trình độ Đại học, trình độ ngoại ngữ hiểu biết nghiệp vụ kinh doanh đối ngoại rất ít. Trong khi đó tình hình sản xuất hàng xuất khẩu, thời kỳ đó rất manh mún và phân tán, cơ cấu hàng hoá, số lượng, chất lượng1triệu Rúp - Đôla. Nhưng ngay năm đầu tiên mới thành lập thì trị giá kim ngạch này đã vượt qua và tăng gấp mấy lần so với những năm tr-ớc đó. Trong thời kỳ 5 năm đầu tiên, Tổng công ty chủ yếu tập trung vào xây dựng cơ sở vật chất, tổ chức sản xuất, củng cố bộ máy tổ chức sản xuất. Đến năm 1975 kim ngạch xuất khẩu đã tăng 2,22 lần so với năm đầu thành lập. Sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước đã thống nhất thì phạm vi hoạt động của công ty đã được mở rộng hơn, tuy có nhiều thuận lợi nhưng khó khăn cũng không ít. Đất nước bắt tay vào khôi phục nền kinh tế sau chiến tranh, các cơ sở sản xuất hàng mây tre xuất khẩu ở phía Nam hầu như chưa có gì. Để nhanh chóng mở rộng ngành hàng phát triển trong toàn quốc, công ty đã lần lượt thành lập các chi nhánh đại diện của mình ở các thành phố Hồ Chí Minh và Đà Nẵng, để khôi phục và phát triển ngành hàng mây tre xuất khẩu ở đây. Nhờ đó, sau một thời gian ngắn đã khai thác thêm được nguồn hàng, mặt hàng cho xuất khẩu, kim ngạch xuất khẩu hàng mây tre so với năm 1971 đã tăng gấp 8 lần. So với 5 năm thời kỳ đầu mới thành lập, thì tổng kim ngạch xuất khẩu hàng mây tre 5 năm 1976 -1980 đã tăng gấp 3,8 lần. Sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 5, cả nước bước vào thời kỳ thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ 3 (1981 -1985) thời kỳ này nhà nước có những cải cách về cơ chế, chính sách quản lý kinh tế, như việc phân cấp quản lý, giảm bớt các khâu trung gian, cho phép một số địa phương được quyền tham gia công tác xuất nhập khẩu trên thị trường trong và ngoài nước, cải tiến chế độ thu bù chênh lệch ngoại thương, chế độ quyền sử dụng ngoại tệ v.v... Ngay từ đầu năm 1991 cơ cấu mặt hàng và khả năng phát triển của công ty đã được định hình rõ nét hơn. Nhưng trong thời kỳ này nền kinh tế của đất nước đang phải trải qua nhiều khó khăn, lạm phát trầm trọng, giá cả tăng nhanh, đồng tiền mất giá, sản xuất sút kém v.v... Trước tình hình đó công ty đã chủ động phối hợp với các địa phương, các cơ sở sản xuất để khắc phục khó khăn, để bằng mọi cách phải duy trì sản xuất hàng song mây tre xuất khẩu. Phương châm của công ty lúc này là phải quan tâm đến cơ sở sản xuất, người lao động, tạo mọi điều kiện và lợi ích cho người lao động sản xuất, tuy nhiên do khó khăn quá lớn nên trong 2 năm (1984 - 1985) tuy vẫn hoàn thành kế hoạch được giao nhưng kim ngạch có phần giảm sút so với những năm trước đó. Năm 1985, khi kết thúc kế hoạch năm, kim ngạch xuất khẩu tăng 16 lần so với năm 1971 và tăng gấp 2 lần so với năm1980. Trong 5 năm (1981 - 1985) kim ngạch xuất khẩu tăng 2,3 lần so với thời kỳ (1976 - 1980). Dưói ánh sáng của nghị quyết đại hội Đảng lần thứ 6 tư duy kinh tế đã được đổi mới rõ rệt, chế độ quan liêu bao cấp đã dần dần được xoá bỏ, cả nước từng bước chuyển sang nền kinh tế thị trường. Quyền xuất nhập khẩu trực tiếp đã được mở rộng hơn. Đặc biệt quyết định 217 của Hội đồng Bộ trưởng đã giải phóng năng lực sản xuất và qui định quyền tự chủ kinh doanh của các tổ chức kinh tế. Do vậy hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của công ty cũng sôi nổi, năng động hơn, thích ứng với cao trào đổi mới của cả nước. Công ty đã bước đầu đổi mới phong cách quản lý tổ chức kinh doanh của mình. Từ các chi nhánh nhỏ bé, hạch toán báo sổ dần chuyển lên thành các công ty kinh doanh tổng hợp hạch toán độc lập trực thuộc Tổng công ty. Ở các phòng ban, các công ty, xí nghiệp cũng đã bắt đầu thực hiện chế độ khoán (khoán lương, khoán kim ngạch, khoán sản phẩm ...) Với nhiều hình thức kinh doanh mới, đặc biệt là kết hợp giữa chuyên doanh với kinh doanh tổng hợp đang được áp dụng và ngày càng chứng tỏ có hiệu quả. Kết thúc năm 1990 Tổng công ty đã thực hiện đạt 106% kế hoạch được giao, kim ngạch xuất khẩu bằng 28 lần so với năm 1971 và tăng gấp 1,7 lần sản phẩm với năm 1985. Trong 5 năm (1986 -1990) kim ngạch xuất khẩu đã tăng 1,5 lần so với thời kỳ 1981 -1985. Thời kỳ 1991 - 1995. Vào đầu những năm 90 khi các nước Đông Âu và Liên Xô cũ trong tình trạng khủng hoảng về chính trị, kinh tế, xã hội thì thị trường khu vực 1 (là thị trường chủ yếu của Tổng công ty gồm các nước Đông Âu và Liên Xô) giảm sút một cách đột biến thì hoạt động của Tổng công ty vẫn được giữ vững. Một mặt Tổng công ty đã năng động, linh hoạt vận dụng các phương thức để nâng cao uy tín và duy trì các thị trường truyền thống, mặt khác tìm cách nghiên cứu để thâm nhập thị trường mới, cho nên thị trường nước ngoài của Tổng công ty đã được mở rộng. Trong quan hệ quốc tế, trước đây chủ yếu là khu vực 1, đến cuối năm 1995 Tổng công ty đã có quan hệ với hơn 200 hãng kinh doanh và tổ chức thương gia quốc tế thuộc 45 nước khác nhau trên thế giới. Chính vì vậy, đến cuối năm 1995 kim ngạch xuất nhập khẩu của Tổng công ty đã đạt 24, 2 triệu Rúp - Đôla. Trong đó xuất khẩu đạt 11,91 triệu, nhập khẩu đạt 11,29 triệu, tăng 10% so với kế hoạch mà Bộ thương mại giao cho. Từ năm 1996 đến nay, để mở rộng phạm vi hoạt động kinh doanh, tăng kim ngạch xuất nhập khẩu và đặc biệt là tạo ra công ăn việc làm cho người lao động. Từ cuối năm 1995 công ty đã đưa vào hoạt động xí nghiệp giầy thể thao ở Gia Lâm, tạo ra công ăn việc làm cho hơn 1.000 lao động, chủ yếu là người địa phương. Trong khi đó cơ cấu mặt hàng xuất khẩu vẫn đảm bảo, tỷ trọng hàng chuyên doanh, thủ công mỹ nghệ là chủ lực, ngoài ra còn mở rộng và phát triển thêm mặt hàng nông sản xuất khẩu và một số ít hàng tiêu dùng. Đồng thời cũng trong thời gian này công ty đã thí điểm mở rộng tổ chức mô hình các phòng kinh doanh xuất nhập khẩu, củng cố các phòng chuyên doanh và trung tâm dịch vụ xuất nhập khẩu, giảm bớt bộ máy và các cán bộ làm công việc gián tiếp. Tiếp tục thử nghiệm quy chế khoán trong kinh doanh nên đã phát huy được một số mặt tích cực, tăng được kim ngạch xuất nhập khẩu, phát huy được tính năng động của cán bộ công nhân viên trong toàn công ty. Cho đến hết năm 1997 kim ngạch xuất nhập khẩu của công ty trong hai năm (1996 - 1997) đã đạt 63 triệu Rúp - USD. Đã mở rộng phát triển xuất khẩu sang 35 thị trường và nhập khẩu từ 22 thị trường thuộc hơn 50 quốc gia trên thế giới. Như vậy so với năm 1971, năm đầu thành lập công ty, với năm 1997 (sau 26 năm thành lập) thì kim ngạch xuất nhập khẩu đã tăng khoảng 30 lần, và với số cán bộ công nhân viên lúc đầu (năm 1971) là 26 người thì đến hết năm 1997 toàn công ty đã có 1.534 cán bộ công nhân viên với 4 xí nghiệp sản xuất, 3 chi nhánh và 15 phòng ban thuộc văn phòng công ty có trụ sở chính tại 37 Lý Thường Kiệt - Hà Nội với vốn điều lệ là 24.533.000.000 đồng trong đó: Vốn cố định: 8.653.000.0000 đồng Vốn lưu động: 15.880.000.000 đồng Có tài khoản tiền Việt và Ngoại tệ tại ngân hàng ngoại thương Việt Nam. . 2. Thị trường xuất khẩu Mây tre của Barotex Công ty nhập khẩu mây tre là đơn vị chuyên doanh ngành hàng song, mây, tre xuất khẩu, có hệ thống tổ chức gồm: 3 chi nhánh, 2 xí nghiệp và các phòng ban khối văn phòng công ty trực thuộc công ty, các đơn vị trên được bố trí ở khắp cả 3 miền của đất nước . Do nhiệm vụ chuyên ngành được Bộ thương mại và nhà nước giao cho, nên sau 27 năm kể từ năm 1971 đến nay, hoạt động kinh doanh của công ty không ngừng lớn mạnh về mọi mặt (như về tổ chức bộ máy, khối lượng huy động hàng xuất khẩu, kim ngạch hàng xuất khẩu tăng bình quân 8%/ năm). Tính đến thời điểm 1990, công ty đã có quan hệ giao dịch với trên 45 nước trên thế giới, trong đó có hàng trăm thương nhân và các tổ chức kinh tế có các hợp đồng xuất khẩu lớn cụ thể và thường xuyên. Trong các quan hệ buôn bán của mình, Barotex luôn xác định thị trường truyền thống là Liên Xô cũ và các nước Đông Âu (Ba Lan, Tiệp Khắc, Bungari ...) mà ta thường gọi là các nước thuộc khu vực 1. Khu vực thị trường này chiếm hầu hết tổng số kim ngạch xuất khẩu của Barotex. Giai đoạn này, hàng hoá song mây chủ yếu là các sản phẩm đan lát hàng thủ công mỹ nghệ mây tre đan, các loại nguyên liệu song mây thô hoặc sơ chế (như trúc, mặt mây, song đoạn). Tuy nhiên phải nói rằng việc xuất khẩu thời kỳ này rất thuận lợi vì lúc khối SEV chưa tan vỡ, và Barotex vẫn là đầu mối thay mặt cho gần 40 tỉnh thành, đặc khu trong cả nước về xuất khẩu hàng song, mây, tre. Bảng 4 Kim ngạch xuất khẩu của Barotex* (Đơn vị: triệu Rúp) N-ớc 1986 1987 1988 1989 1990 Liên Xô cũ 16,4 22 24,9 33,6 27,5 Ba Lan 3,8 2,9 3,8 8,0 5,0 Bulgaria 0,3 0,4 0,1 0,3 0,2 Cu ba 4,1 3,0 3,8 2,6 2,7 CHDC Đức 1,5 1,0 0,4 1,1 1,0 Hung ga ri 1,1 0,7 0,6 0,3 0,3 Rumania 0,4 0,2 0,8 0,7 Tiệp Khắc 0,8 0,6 1,2 2,5 1,3 Tổng cộng 28,4 30,6 36,0 49,2 38,7 Từ năm 1991 đến 1995 do những biến động về kinh tế chính trị ở các nước Liên Xô cũ và Đông Âu nên khối SEV cũng không còn tồn tại. Bảng 5. Cơ cấu kim ngạch xuất khẩu hàng mây tre từ năm 1991 đến 1995 (Đơn vị: triệu USD) Năm Kim ngạch xuất khẩu hàng song, mây, tre Số thị tr-ờng xuất khẩu 1991 1,9 21 n-ớc 1992 2,2 25 - 1993 2,4 25 - 1994 2,8 26 - 1995 7,1 38 - 1996 9,5 52 1997 6,67 54 Kim ngạch xuất khẩu của công ty vào châu Á ngày càng tăng, kim ngạch năm 1992 tăng 19%, năm 1993 so với năm 1992 tăng 4%, năm 1994 so với năm 1993 tăng 38%, năm 1995 so với năm 1994 tăng 32%. Một số thị trường chủ yếu của công ty ở châu Á là Nhật bản, Singapo, Malaisia, Đài Loan, Hàn Quốc, Hồng Công. Kim ngạch nhập khẩu hàng mây tre của công ty Barotex ở những nước trên trong năm 1995 được biểu diễn bằng sơ đồ hình 1. Trong đó nổi bật nhất là thị trường Nhật Bản, Nhật Bản là nước có mức độ tiêu thụ hàng mây tre lớn nhất châu Á và cũng là lớn nhất trên thế giới của Barotex. Tuy nền công nghiệp chế biến phát triển mạnh nhưng với nhu cầu khổng lồ của nó, thị trường này phải nhập rất nhiều nguyên liệu. Đối với công ty Barotex đây là một thị trường hấp dẫn và quan trọng. 3. Thực tế xuất khẩu Mây tre của Công ty Barotex trong những năm qua Để thấy được tình hình xuất khẩu hàng song mây tre trong những năm qua và triển vọng xuất khẩu trong những năm tới, chúng ta phải đi sâu tìm hiểu những thuận lợi và khó khăn trong sản xuất và chế biến hàng song mây tre. Để tạo ra hàng hoá xuất khẩu phải trải qua quá trình chế biến và sản xuất hàng hoá. Đây là quá trình quan trọng trong hoạt động xuất khẩu vì giá cả và chất lượng hàng hoá do sản xuất và chế biến quyết định. Sản xuất và chế biến hàng song mây tre ở nớc ta từ trước đến nay vẫn mang tính chất thủ công, làm bằng tay là chính. Do vậy, nói đến sản xuất và chế biến hàng song mây tre ở Việt Nam, chúng ta phải quan tâm đến các yếu tố chính tác động đến chất lượng và giá cả sản phẩm song mây tre là lao động, nguyên liệu, công cụ, khí hậu. Thuận lợi: Ngoài những chính sách lớn của Đảng và nhà nước ưu tiên khuyến khích sản xuất hàng xuất khẩu (nhất là những ngành hàng sản xuất từ nguyên liệu trong nước như song mây tre, nứa lá ... ) như chính sách thuế, cho vay ưu đãi, ... thì trong sản xuất và chế biến hàng song mây tre có một số thuận lợi sau: Về lao động Nước ta là nước nông nghiệp, mới bắt đầu phát triển công nghiệp nhẹ, công nghiệp chế biến nên người lao động còn dư thừa nhiều ở các vùng nông thôn. Ngời lao động Việt Nam vốn cần cù khéo léo và sáng tạo, đấy là những đặc điểm rất phù hợp với nghề thủ công. Ngoài ra nước ta còn có nhiều làng nghề, vùng nghề sản xuất chế biến hàng song mây tre có truyền thống lâu đời, có nhiều nghệ nhân, thợ lành nghề có nhiệt huyết với nghề. Về nguyên liệu Nguyên liệu để sản xuất chế biến hàng song mây tre có hầu hết ở các địa phương trong cả nước. Từ Bắc đến Nam, từ Đông sang Tây, từ miền xuôi đến miền ngợc. Đây là một điều kiện rất thuận lợi để phát triển hàng song mây tre ở khắp mọi miền đất nước. Về công cụ sản xuất Công cụ dùng trong sản xuất chế biến hàng song mây tre hiện nay ở nước ta hầu hết là dụng cụ cầm tay, đơn giản dễ chế tạo, rẻ tiền. Ở đâu cũng có thể tự sản xuất, chế tạo lấy được. Về khí hậu Nước ta ở vào vùng khí hậu nhiệt đới nóng ẩm, mùa hè có nắng nhiều, mùa rét khí hậu khô hanh nên cũng là một thuận lợi trong khai thác và chế biến hàng song, mây, tre. Ngoài những thuận lợi chính đã nêu ở trên, trong sản xuất và chế biến hàng song, mây, tre không cần vốn đầu tư lớn, diện tích dùng để sản xuất chế biến không cần rộng, không cần nhà xưởng lớn. Có thể sản xuất chế biến song mây tre ngay trong từng gia đình và có thể tận dụng cả thời gian nhàn rỗi, nghỉ ngơi giải trí để sản xuất ra sản phẩm. Khó khăn: Ngoài những thuận lợi vừa kể trên, trong sản xuất chế biến hàng song mây tre còn gặp nhiều khó khăn nữa nh: Đội ngũ lao động của nớc ta ở các vùng nghề nhiều nhưng chưa tinh thông, năng lực sáng tạo còn hạn chế, chưa được đào tạo cơ bản, chưa được đầu tư thích đáng về khoa học kỹ thuật, về công nghệ tiên tiến cho sản xuất chế biến hàng song mây tre. Trong khai thác chế biến còn dùng công cụ thô sơ, vì vậy dẫn đến năng suất rất thấp, chất lượng không cao. Ngoài ra khí hậu nhiệt đới ở nước ta, một mặt cũng gây không ít khó khăn cho việc sản xuất chế biến hàng song mây tre nhất là vào mùa xuân, độ ẩm không khí rất cao làm cho công tác bảo quản rất khó khăn, sản phẩm dễ bị mốc, biến mầu nếu như không có phương pháp và hình thức bảo quản thích hợp. Ngoài ra chúng ta còn chưa có chiến lược lâu dài cho việc phát triển ngành hàng song mây tre xuất khẩu, cha thấy hết được ý nghĩa xã hội trong việc phát triển ngành hàng sẽ tạo ra công ăn việc làm cho hàng triệu lao động, ngoài ra còn thu về cho nhà nớc một lượng ngoại tệ đáng kể. Vì vậy những khó khăn này chúng ta phải có thời gian dài mới có thể khắc phục được. 4. Những ưu điểm và nhược điểm trong chính sách sản phẩm của Công ty Barotex trong hoạt động xuất khẩu Để thấy được ưu nhược điẻm trong chính sách sản phẩm của công ty Barotex trong hoạt động xuất khẩu thì trước tiên ta phảI xem xét thị trường mục tiêu cũng như tình hình mức cầu hàng mây tre trên thế giới. Và nghiên cứu sự phù hợp của chính sách sản phẩm mà công ty sử dụng đối với hành vi người tiêu dùng cũng như thị hiếu tiêu dùng của thị trường mà công ty đã xâm nhập. Tình hình cầu hàng mây tre trên thế giới Có thể nói, các sản phẩm bằng song, mây, tre đang dần trở thành “mốt” trên thế giới. Người tiêu dùng đã quá nhàm chán với những bộ bàn ghế bằng kim loại, gỗ... có kích thước lớn và thô, trong khi đó họ lại tìm thấy sự mảnh mai, thanh thoát và cũng rất sang trọng ở những bộ bàn ghế tạo ra từ song mây, rồi còn rất nhiều sản phẩm khác lấy nguyên liệu từ song, mây, tre đang chiếm một vị trí nhất định trong nhu cầu của người tiêu dùng. Mặt khác, ngành sản xuất này ở các nước trên từ lâu đã thoát khỏi trình độ sản xuất thủ công, chuyển sang sản xuất với công nghệ kỹ thuật cao, góp phần tạo nên nhiều sản phẩm tiêu dùng bằng mây tre bền đẹp, tinh xảo, mẫu mã phong phú ngày càng hấp dẫn người tiêu dùng. Chính vì thế, nhu cầu về hàng song, mây, tre đang tăng lên nhanh chóng, không chỉ ở các nớc có tập quán tiêu dùng hàng song, mây, tre truyền thống mà cả ở những nớc mới biết đến mặt hàng này. Điểm qua kim ngạch trao đổi trên thị trờng mây tre thế giới những năm gần đây (Bảng 1) ta sẽ thấy rõ điều đó. Ngoài mức tăng về số lượng, nhu cầu về hàng song, mây, tre cũng rất đa dạng, các sản phẩm có kiểu cách đơn điệu vẫn ở dạng thô như hiện nay không được người tiêu dùng ưa chuộng. Sở thích của họ là gọn nhẹ, bền, đẹp và tiện lợi trong sử dụng. Dự báo trong thời gian tới, những sản phẩm có độ tiện lợi cao sẽ có nhu cầu cao nhất. Đó là những sản phẩm: Đồ đạc nội thất trong nhà như giường, tủ, bàn ghế, v.v ... Đợc sản xuất theo từng bộ với các bộ phận tách rời mà người tiêu dùng có thể tự lắp ráp lấy. Trên thế giới buôn bán đồ dùng gia đình đã chiếm 75 - 80 % tổng lượng buôn bán hàng mây tre. Năm 1995, lợng này tăng lên 15,2 tỷ USD, tức là tăng 12% so với con số 13,58 tỷ USD của năm 1994. Ngoài ra, những chuyển biến về tiêu dùng hàng mây tre còn phụ thuộc vào các yếu tố khác nhau như dân số, giá cả thế giới và thu nhập quốc dân ở từng quốc gia. Do đó cơ cấu tiêu dùng mặt hàng này còn chưa đồng đều nếu như không nói rằng vẫn còn khoảng chênh lệch đáng kể giữa các nước, các châu lục với nhau. Tuy nhiên những khoảng cách này đang ngày càng được thu hẹp, kéo theo sự tăng lớn về nhu cầu. Trong khi đó, cung (như đã trình bày ở trên) lại tăng rất chậm. Theo các chuyên gia trong ngành dự báo cung cầu trong 10 năm tới có thể sẽ mất cân đối gay gắt hơn. Mức giá của phần lớn sản phẩm song, mây, tre sẽ cao hơn hiện nay. Điều đó sẽ kích thích các nước xuất khẩu gia tăng sản lượng nhằm đáp ứng nhu cầu của các nưưc nhập khẩu mặt hàng này. Mặt khác để thực hiện được chiến lược sản phẩm một cách có hiệu quả thì đièu cần thiết nhất ở nhà quản trị là phảI tìm hiểu kỹ những yếu tố ảnh hưởng đến quá trình ra quyết định của người tiêu dùng như các yếu tố văn hoá, phong tục,tập quán, lối sống của người tiêu dùng trên thị trường mục tiêu. Hiểu rõ và chính xác những đặc điẻm về cá nhân cũng như các giai đoạn của quá trình thông qua quyết định mua sắm của đoạn thị trường mục tiêu nhằm dự đoán được tâm lý cũng như thị hiếu khách hàng là đIều kiện để sản phẩm của công ty được khách hàng chấp nhận. Đứng trước tình hình đó buộc công ty xuất nhập khẩu mây tre phải có một chiến lược thị trường mới và những biện pháp, bước đi thích hợp nhằm từng bước khôi phục thị trường truyền thống và xâm nhập các thị trường mới. Qua công tác nghiên cứu khảo sát, công ty đã chủ động sử dụng tất cả các hình thức để thực hiện mục tiêu tìm kiếm thị trờng như: Tăng cường cử các đoàn ra nước ngoài (kể cả những người trực tiếp sản xuất ở các địa phương cũng được đi cùng với các đoàn công ty) để trực tiếp quảng cáo, giới thiệu hướng dẫn và tìm hiểu thị hiếu khách hàng nước ngoài. Chủ động mời, tiếp xúc và lôi kéo khách hàng nước ngoài vào Việt Nam, tạo điều kiện cho khách hàng tiếp xúc với các cơ sở sản xuất để khách hàng có điều kiện cơ sở để quyết định nhanh việc ký kết hợp đồng. Tích cực tham gia hội chợ triển lãm trong nước và nước ngoài. Tăng cường cải tiến sáng tác đa dạng hoá đề tài, mẫu mã mới và sử dụng nhiều hình thức tuyên truyền quảng cáo bằng catalogue, lịch, tờ bớm... Gửi đơn chào hàng tới tất cả các khách hàng mới thông qua các đại diện ở các cơ quan thương vụ của ta ở nước ngoài, đồng thời tổ chức các hội nghị khách hàng thông qua các thương vụ, các văn phòng đại diện của các nước khác tại Việt Nam vào các dịp Noel, tết dương lịch v.v... Do đó, sau một thời gian kể từ khi thị trờng Đông Âu và Liên Xô cũ gặp khó khăn, hàng mây tre của công ty đã dần dần thâm nhập vào các thị trường mới và đã bắt đầu thâm nhập trở lại thị trường cũ. Hiện nay, với chủ trương phát huy thế mạnh của mình, mỗi đơn vị phòng ban, mỗi chi nhánh, xí nghiệp thuộc công ty đang cùng nhau khắc phục dần những khó khăn nặng nề mà công ty phải gánh chịu để đẩy mạnh sản xuất, kinh doanh giữ vững sự tồn tại của công ty, lấy lại vị thế và tín nhiệm của công ty trên thị trường trong nước và thế giới. Dới đây là các biện pháp chủ yếu để đẩy mạnh xuất khẩu hàng song, mây, tre ở công ty trong năm nay và những năm tiếp theo. III. NHỮNG GIẢI PHÁP VỀ CHÍNH SÁCH SẢN PHẨM NHẰM ĐẨY MẠNH HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU MÂY TRE CỦA CÔNG TY BAROTEX 1. Phân loại thị trường để có biện pháp ứng xử cho phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng trên từng đoạn thị trường Hiện nay trong chiến lược thị trường, công ty xuất nhập khẩu mây tre Bộ thơng mại phân thị trường tiêu thụ hàng song, mây, tre thành các nhóm: Nhóm 1 : Khu vực Đông Âu - Liên Xô cũ bao gồm các nớc SNG, Ba lan, Tiệp khắc, Rumani, Bungari. Barotex đánh giá đây là khu vực tiềm năng nhất vì nhiều lý do nhưng cơ bản nhất đây là khu vực có nhiều nhu cầu hàng hoá lớn, yêu cầu về chất lượng không cao, nên rất phù hợp với công nghệ sản xuất chế biến hàng song, mây, tre của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Barotex tin rằng khi tình hình kinh tế, chính trị ổn định nó sẽ lại trở thành thị trường quan trọng nhất của Việt Nam. Nhóm 2: Khu vực châu Á - Thái Bình Dương bao gồm các nước Nhật, Hồng Công, Singapo, Hàn quốc, Đài Loan... Ưu điểm của thị trường này là các nước trên đều ở gần Việt Nam (rất thuận lợi về mặt địa lý) nhưng lại là những nước có nền sản xuất các mặt hàng song, mây, tre phát triển (có thiết bị tơng đối hiện đại, có công nghệ sản xuất tiên tiến) do đó chúng ta có thể tiến hành các hoạt động liên doanh, đầu tư bao tiêu sản phẩm, đồng thời thông qua đó để hàng mây tre của Việt Nam có điều kiện thâm nhập mạnh vào các thị trường tiêu thụ chính của thế giới. Qua đó có dịp nâng cao tay nghề của người thợ thủ công Việt Nam và đặc biệt là nâng cao chất lợng hàng song, mây, tre của Việt Nam trên thị trường thế giới. Nhóm 3: là khu vực Tây - Bắc Âu bao gồm các nớc Anh, Pháp, Đức, Ý, Tây Ban Nha, Hà Lan, ... đây là thị trường rất “ khó tính” vì thế hàng hoá phải có chất lượng cao mới có thể thâm nhập vào được. Đồng thời do điều kiện địa lý nên cước phí vận tải đến các nước này rất cao trong khi đó trị giá sản phẩm hàng mây tre lại rất thấp, nên gây khó khăn không nhỏ cho Barotex trong khi thâm nhập thị trường này. Ngược lại do khu vực này có mức sống rất cao nên khả năng tiêu thụ cũng rất lớn vì xu hướng hiện nay ở các nước phát triển, họ đang có xu hướng thích dùng những sản phẩm ở dạng nguyên liệu tự nhiên nên mặc dù giá thành có thể cao song họ vẫn chấp nhận, điều quan trọng là hàng hoá phải có chất lượng cao. Vì vậy chúng ta phải tranh thủ vốn, kỹ thuật, thiết bị, công nghệ của họ để nâng cao chất lượng hàng hoá của mình, có như vậy hàng hoá của ta mới có thể xâm nhập vào thị trường này được, nếu không chúng ta chỉ có thể xuất khẩu cho họ những sản phẩm song, mây sơ chế mà thôi. Nhóm 4: Khu vực châu Mỹ bao gồm Canađa, Hoa kỳ, Cuba, Mêhico, Achentina... Barotex đánh giá cao thị trường này, đặc biệt là thị trường Bắc Mỹ vì ở đây hàng năm có nhu cầu nhập khẩu hàng song, mây, tre rất lớn. Mặc dù hiện nay chúng ta mới chỉ xuất khẩu chủ yếu hàng song, mây, tre cho Cuba và Achentina với tỷ lệ kim ngạch rất nhỏ, còn hàng song, mây, tre xuất sang Canađa và Hoa kỳ không đáng kể. Vì vậy, về lâu về dài, Barotex đã có kế hoạch, biện pháp cụ thể để đa hàng mây tre của Việt Nam thâm nhập mạnh thị trờng Bắc Mỹ này. Vì ở đó hiện có trên 2,5 triệu ngời Việt Nam đang định cư sinh sống ở đây. Với những người này hàng song, mây, tre rất gần gũi với họ luôn gợi nhớ tới quê hơng Việt Nam. Nhóm 5: khu vực Trung cận đông và Châu Phi Theo báo cáo của đoàn cán bộ tham dự hội chợ Teheran của Bộ thương mại cho thấy thị trường này cũng có khả năng tiêu thụ sản phẩm song, mây, tre cao cấp rất lớn. Vì chủ yếu các nước có dầu lửa nên họ có mức sống rất cao. Do đó Barotex đang có kế hoạch lựa chọn sản phẩm, triển khai một số mẫu mã hàng đầu (chủ yếu là bàn ghế song mây cao cấp) để giới thiệu và chào bán cho khách hàng ở khu vực này. Năm 1992 Barotex đã cử 1 đoàn cán bộ, công nhân kỹ thuật viên lành nghề sang Angiêri tuy mới là bước đầu nhưng kết quả đáng khích lệ trong việc tìm kiếm thị trường tiêu thụ ở khu vực này. Phát huy tính chủ động và thế mạnh của văn phòng công ty và các đơn vị trực thuộc trong việc tiếp cận thị trường, tìm kiếm khách hàng bằng các hình thức linh hoạt về giá cả, chất lượng, phương thức giao nhận, thanh toán, cạnh tranh có hiệu quả để giành được hợp đồng xuất khẩu, nhưng vẫn đảm bảo hiệu quả kinh doanh. Văn phòng công ty làm tốt công tác tổ chức hoặc tạo điều kiện cho các đơn vị tham gia hội chợ quảng cáo xúc tiến thương mại, cử các đoàn đi nước ngoài mời khách hàng vào trong nước, nắm bắt các chủ trương, chính sách của Bộ thơng mại và nhà nước, nắm bắt giá cả các mặt hàng, tình hình thị trường ... để hướng dẫn, chỉ đạo chung toàn công ty được kịp thời. Có chính sách chỉ đạo trực tiếp đối với thương nhân, khách hàng mua với số lượng và kim ngạch lớn (trên 100.000.USD) về hàng mây tre của công ty, chi nhánh, xí nghiệp. Tập trung khai thác để mở rộng thị trường thương nhân mới và cơ cấu hàng xuất khẩu ở các thị trờng trọng điểm là châu Á Thái Bình Dương và Tây - Bắc Âu. Thống nhất một số qui định chung về công tác thị trường trong nội bộ công ty và nội bộ từng đơn vị trực thuộc nhằm khắc phục tình trạng nội bộ hạ giá, cạnh tranh, giành giật khách hàng của nhau. Khuyến khích Barotex Sài Gòn thí điểm đồng loạt mời các khách hàng nước ngoài vào thăm phòng trưng bày mẫu để rút kinh nghiệm. 2. Nâng cao chất lượng sản phẩm Do sản phẩm của công ty Barotex chủ yếu là các sản phẩm đan lát hàng thủ công mỹ nghệ mây tre đan, các loại nguyên liệu song mây thô hoặc sơ chế (như trúc, mặt mây, song đoạn) do vậy công ty cần phảI nắm rõ những lợi thế về mặt địa lý, khí hậu tự nhiên. Một điều dễ nhận thấy là không phải nước nào, vùng nào trên thế giới cũng có được cây song, mây, tre và cũng không phải bất cứ nước nào, quốc gia nào có loại cây này đều có ngành song mây tre phát triển. Để thấy được tình hình xuất khẩu hàng song mây tre trong những năm qua và triển vọng xuất khẩu trong những năm tới, chúng ta phải đi sâu tìm hiểu những thuận lợi và khó khăn trong sản xuất và chế biến hàng song mây tre. Để tạo ra hàng hoá xuất khẩu phải trải qua quá trình chế biến và sản xuất hàng hoá. Đây là quá trình quan trọng trong hoạt động xuất khẩu vì giá cả và chất lượng hàng hoá do sản xuất và chế biến quyết định. Sản xuất và chế biến hàng song mây tre ở nớc ta từ trước đến nay vẫn mang tính chất thủ công, làm bằng tay là chính. Do vậy, nói đến sản xuất và chế biến hàng song mây tre ở Việt Nam, chúng ta phải quan tâm đến các yếu tố chính tác động đến chất lượng và giá cả sản phẩm song mây tre là lao động, nguyên liệu, công cụ, khí hậu. Song mây là loại cây leo chủ yếu thuộc loại nhóm lepidocaryvid (là loại cây có áo tơi, mo mang, bẹ, tầu) của dòng họ cọ palmac có đặc tính chỉ phát triển tự nhiên ở những nớc có khí hậu nhiệt đới gió mùa, khí hậu nóng ẩm, mưa nhiều đặc biệt là các nước ở vùng Đông nam Á. Theo tài liệu của trung tâm thông tin về song mây có trụ sở đặt tại Malaysia (viết tắt là RIC) cho thấy: Hàng năm kim ngạch trao đổi hàng song, mây, trên trên thế giới ước tính hơn chục tỷ USD. Điều đó chứng tỏ thị trường hàng song, mây, tre trên thế giới ngày càng trở nên nhộn nhịp. Các nước cung cấp mặt hàng này hầu hết ở khu vực Đông nam Á . Còn các nước nhập khẩu trước kia phần lớn tập trung ở châu Âu, thì hiện nay đã mở rộng ra các nước châu Á , Mỹ, Phi và Úc. Có thể nói ngày nay hàng song, mây, tre đã trở nên quen thuộc và thông dụng trên thế giới. Nước ta là nước nông nghiệp, mới bắt đầu phát triển công nghiệp nhẹ, công nghiệp chế biến nên người lao động còn dư thừa nhiều ở các vùng nông thôn. Người lao động Việt Nam vốn cần cù khéo léo và sáng tạo, đấy là những đặc điểm rất phù hợp với nghề thủ công. Ngoài ra nước ta còn có nhiều làng nghề, vùng nghề sản xuất chế biến hàng song mây tre có truyền thống lâu đời, có nhiều nghệ nhân, thợ là Nguyên liệu để sản xuất chế biến hàng song mây tre có hầu hết ở các địa phương trong cả nước. Từ Bắc đến Nam, từ Đông sang Tây, từ miền xuôi đến miền ngược. Đây là một điều kiện rất thuận lợi để phát triển hàng song mây tre ở khắp mọi miền đất nước. Ngoài những thuận lợi chính đã nêu ở trên, trong sản xuất và chế biến hàng song, mây, tre không cần vốn đầu tư lớn, diện tích dùng để sản xuất chế biến không cần rộng, không cần nhà xưởng lớn. Có thể sản xuất chế biến song mây tre ngay trong từng gia đình và có thể tận dụng cả thời gian nhàn rỗi, nghỉ ngơi giải trí để sản xuất ra sản phẩm. KẾT LUẬN Kể từ ngày thành lập đến nay, sau gần 30 năm, cùng với các địa phương, các cơ sở sản xuất, công ty xuất nhập khẩu mây tre Bộ Thương Mại đã tạo ra một cơ cấu hàng hoá phong phú đa dạng và đợc phát triển rộng khắp ở cả 3 miền của đất nước, thu về cho nhà nước với một số lượng ngoại tệ đáng kể, kinh doanh có hiệu quả, thực hiện tốt nghĩa vụ nộp ngân sách. Đặc biệt với hơn 500 cơ sở sản xuất hàng song, mây, tre xuất khẩu nằm rải rác từ Bắc vào Nam ngành hàng mây tre đã giải quyết được việc làm cho hàng triệu lao động, tạo công ăn việc làm cho số lượng lớn lao động truyền thống tại các vùng nghề và một số lao động đang dôi thưà trong xã hội, ghi nhận những đóng góp to lớn đó, nhà nớc và bộ chủ quản trong nhiều năm đã có những tặng thưởng cao quí cho công ty. Đạt được kết quả trên đây trước hết là công lao đóng góp to lớn của những ngời thợ thủ công trong cả nước, những người khai thác nguyên liệu của các cơ sở sản xuất và địa phương đã vượt mọi khó khăn, chung sức chung lòng với công ty để tạo ra ngày càng nhiều những sản phẩm có giá trị xuất khẩu cho đất nước. Đó cũng là kết quả của sự năng động, sáng tạo và quá trình làm việc đầy trách nhiệm của cán bộ công nhân viên công ty và các tổ chức kinh doanh ngành hàng mây tre xuất khẩu và sự giúp đỡ nhiệt tình của các cơ quan hữu quan từ trung ương tới địa phương. Thành tích trên đây tuy thật sự đáng khích lệ nhưng so với tiềm năng và thế mạnh về lao động, nguyên liệu của đất nước thì kim ngạch hàng mây tre xuất khẩu đạt được trong những năm qua còn thấp và chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Để đạt được mục tiêu về kim ngạch xuất khẩu hàng mây tre từ nay đến năm 2000, đảm bảo kim ngạch năm sau cao hơn năm trước 15 - 25% ngoài sự nỗ lực của những ngời thợ thủ công, những cơ sở sản xuất ở các địa phương và cán bộ công nhân viên trong toàn công ty, thì nhà nước cần có những chính sách và cơ chế phù hợp hơn đối với các cơ sở sản xuất hàng xuất khẩu, đồng thời cũng cần có sự hỗ trợ tích cực của các ngành hữu quan từ trung ương tới các địa phương. Nhìn lại chặng đường đã đi, có lúc khó khăn trắc trở, có những bước thăng trầm nhưng nói chung trong giai đoạn nào công ty cũng thực hiện tốt các nhiệm vụ mà nhà nước giao cho. Trớc mắt khó khăn còn nhiều, những với kinh nghiệm quí báu đã đợc đúc rút, với sự hợp tác chặt chẽ giữa những người thợ thủ công trong cả nước với công ty, chắc chắn những chặng đường khó khăn trước mắt của công ty sẽ vợt qua. Về phần mình công ty cần cùng với các cơ sở sản xuất các địa phương năng động, nhậy bén để điều chỉnh hoạt động và các mối quan hệ trong và ngoài nước sao cho thích ứng với tình hình mới. Như vậy ngành hàng song, mây, tre xuất khẩu sẽ có những bước đi vững chắc hơn, nhanh chóng hơn trong tương lai. Với những kinh nghiệm về nghiệp vụ mây tre còn ít ỏi, khả năng sưu tầm tài liệu còn nhiều hạn chế song tôi hy vọng rằng với đề án này của tôi sẽ góp phần nhỏ bé cho những độc giả có ý định nghiên cứu, tìm hiểu về tình hình sản xuất kinh doanh nghành hàng song, mây, tre xuất khẩu ở công ty Barotex nói riêng và Việt Nam nói chung. MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTMK00 (27).doc
Tài liệu liên quan