Đề tài Những nhân tố đảm bảo tính định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam

Xác định phát triển nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa là một quyết định hoàn toàn sang suốt của Đảng và Nhà nước ta. Đi lên từ một nước nông nghiệp nghèo nàn lạc hậu, đến nay chúng ta đã xây dựng được một nền kinh tế phát triển hơn trước rất nhiều. Điều đó càng khẳng định hơn vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý điều hành của nhà nước. Song mục tiêu cao hơn mà chúng ta đặt ra ngay từ đầu không chỉ giản đơn là phát tiển nền kinh tế, mà là hướng tất cả các hoạt động tiến lên chủ nghĩa xã hội. Nền kinh tế nhiều thành phần chịu sự quản lý của Nhà nước có thể phát triển đi theo chủ nghĩa xã hội, cũng có thể chệch hướng đi theo con đường tư bản chủ nghĩa. Phát triển theo hướng này theo hướng kia, điều đó phụ thuộc chặt chẽ vào khả năng điều tiết nền kinh tế vĩ mô của nhà nước, và vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước. Thực tiễn đã chứng minh sự cần thiết tất yếu của hai nhân tố này trong sự nghiệp đi lên chủ nghĩa xã hội của đất nước. Tuy vẫn còn một số hạn chế, nhưng phải thừa nhận những đóng góp hết sức to lớn của hai nhân tố này, trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhờ sự hoạt động tích cực và có hiệu quả này mà kinh tế nước ta đã đạt được những thành tựu hết sức to lớn. Nhưng, hướng phát triển của chúng ta không chỉ đơn thuần là cải tạo nền kinh tế, mà quan trọng hơn, đó là đưa đất nước ta đi theo con đường chủ nghĩa xã hôi. Nhà nước và kinh tế nhà nước đã giải quết được yêu cầu đó, thể hiện trên tất cả các lĩnh vực, đặc biệt là trên lĩnh vực phúc lợi xã hội, thực hiện xoá đói giảm nghèo, phát triển y tế giáo dục, xây dựng xã hội công bằng, tiến bộ, văn minh. Việt Nam được Liên Hợp quốc đánh giá có chỉ số HDI tương đối cao. Vai trò của Nhà nước và kinh tế nhà nước ngày càng trở nên quan trọng và cần thiết, vì vậy, chúng ta cần tạo ra môi trường hoạt động tốt nhất, đồng thời, tin tưởng vào sự lãnh đạo của chúng để tiến lên chủ nghĩa xã hội an toàn và nhanh chóng nhất.

doc21 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1482 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Những nhân tố đảm bảo tính định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ế hoạch hoá tập trung sang kinh tế h àng hoá .Mô hình kinh tế nhà nước của VN được xác định là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ,vận động theo cơ chế tập trung có sự quản lí của nhà nước, định hướng xã hội chủ nghĩa. Kinh tế nhà nước (KTNN) được hiểu là toàn bộ các doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất kinh doanh; cơ sở khoa học công nghệ … mà toàn bộ tài sản thuộc sở hữu toàn dân và một bộ phận thuộc sở hữu hỗn hợp (các công ty cổ phần Nhà nước mua cổ phiếu khống chế). 2. Tính tất yếu khách quan của các nhân tố ảnh hưởng. a. Tính tất yếu sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Vai trò quản lý, điều tiết kinh tế của Nhà nước là một yếu tố không thể thiếu được, một đòi hỏi khách quan của sự phát triển nền kinh tế. Hơn nữa, như thực tế ở nhiều nước đã chỉ ra,chức năng kinh tế của nhà nước và hiệu quả hoạt động của nó trên lĩnh vực này đã trở thành thước đo và sức mạnh của bản thân nhà nước, cũng như sự phát triển kinh tế và tiến bộ xã hội. Vai trò kinh tế,chức năng kinh tế của nhà nước đối với sự phát triển của nền kinh tế hiện đại rất lớn. Nói như vậy không có nghĩa là nhà nước muốn tác động, can thiệp vào kinh tế như thế nào cũng được. Sự can thiệp của nhà nước vào kinh tế tự thân nó không phải là điều xấu, ngược lại trở nên không thể thiếu được.Tuy nhiên, ở đây đòi hỏi nhà nước phải có sự tác động đúng theo yêu cầu của các quy luật kinh tế, các quy luật của thị trường,trên cơ sở đó mà khắc phục những khuyết tật của thị trường và định hướng sự phát triển kinh tế theo một xu hướng, một khả năng khách quan nào đó. Ở nước ta, vai trò điều tiết vĩ mô càng trở nên cần thiết và quan trọng là bởi: - Nhà nước ta là đại diện của xã hội, là nhà nước của dân, do dân và vì dân. Chính vì vậy, Nhà nước phải điều tiết nền kinh tế vĩ mô, nhằm hướng các hoạt động kinh tế phục vụ cho lợi ích, đời sống của nhân dân, thực hành tiến bộ, văn minh, và công bằng xã hội. - Nhà nước ta là đại diện của sở hữu toàn dân, nên đương nhiên phải quản lý thành phần kinh tế nhà nước, đảm - Nền kinh tế thị trường vận động theo cơ chế thị trường. Bên cạnh những ưu điểm, cơ chế thị trường cũng mang không ít khuyết tật. Vì vậy, Nhà nước điều tiết nền kinh tế nhằm phát huy tích cực, đồng thời hạn chế những khuyết tật, làm cho nền kinh tế nước ta vận hành theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa. Cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước là phương thức vận hành kinh tế phù hợp với nền kinh tế của nhiều nước trên thế giới hiện nay. Nhưng điều đó không có nghĩa là xoá nhoà ranh giới giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản, giữa những nước phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa, giữa những nước phát triển theo con dường tư bản chủ nghĩa và những nước định hướng lên chủ nghĩa xã hội. Thị trường không phải là mục tiêu, mà chỉ là công cụ, biện pháp để đạt mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội trong những hình thái kinh tế-xã hội nhất định. Đã là kinh tế thi trường , đương nhiên, nền kinh tế chịu sự tác động của những quy luật vốn có của nó như quy luật giá trị, quy luật cung-cầu, quy luật lợi nhuận, sự cạnh tranh giữa các chủ thể kinh tế…Nhưng sự vận động, phát triển của nền kinh tế như thế nào, theo xu hướng nào lại tuỳ thuộc rất lớn vào bản chất xã hội-chính trị của nhà nước. Kinh tế nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước ở nước ta khác với những nước đang phát triển là ở chỗ, định hướng xã hội chủ nghĩa, tức là định hướng sự phát triển kinh tế theo khả năng khách quan mà chúng ta đã lựa chọn. Vì vậy, sẽ là không đúng nếu cho rằng, kinh tề nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường thì không tránh được con đường tư bản chủ nghĩa. Nhưng cũng là chủ quan, giản đơn nếu không thấy được sự chệch hướng phát triển kinh tế là một nguy cơ thực sự. Có vượt qua được nguy cơ này hay không? Có định hướng được nền kinh tế theo con đường xã hội chủ nghĩa hay không? Có hướng được nền kinh tế phục vụ cho mục tiêu xá hội chủ nghĩa hay không? Tất cả điều đó phụ thuộc rất lớn vào Nhà nước.Trong điều kiện đó,việc xác định hợp lý vai trò cúa nhà nước đối với sự phát triển kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa có ý nghĩa rất quan trọng. b. Tính tất yếu về vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Kinh tế nhà nước cần giữ vai trò chủ đạo vì: Thứ nhất, kinh tế nhà nước dựa trên chế độ công hữu (sở hữu nhà nước) về tư liệu sản xuất, là chế độ sở hữu phù hợp với xu hướng xã hội hoá của lực lượng sản xuất. Ở đây, Nhà nước đại diện cho toàn dân là chủ sở hữu các tư liệu sản xuất. Thứ hai, kinh tế nhà nước nắm giữ những vị trí then chốt, yết hầu của nền kinh tế, do đó nó có khả năng, điều kiện chi phối các thành phần kinh tế khác, bảo đảm nền kinh tế phát triển theo hướng đã định. Ngay cả những nước tư bản phát triển nhất các ngành như kết cấu hạ tầng, hang không vũ trụ, điện hạt nhân vẫn phải do nhà nước đảm nhận xây dựng và điều hành. Bài học do tư nhân hoá ồ ạt các doanh nghiệp nhà nước theo “đơn thuốc” của quỹ tiền tệ quốc tế(IMF) và ngân hang thế giới đã dẫn đến những hậu quả thảm hại như ở Mexico cho chúng ta nhận thức rõ hơn về vai trò quan trọng của kinh tế nhà nước. Thứ ba, kinh tế nhà nước là lực lượng bảo đảm cho sự phát triển ổn định của nền kinh tế, là lực lượng có khả năng can thiệp, điều tiết, hướng dẫn, giúp đỡ và lien kết, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế khác cùng phát triển. Điều này đặc biệt quan trọng đối với nước ta-một nước kém phát triển, mới bước vào thời kì đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân, nếu không có một khu vực kinh tế đủ mạnh thì nhà nước không thể hỗ trợ cho các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác vươn lên trong cuộc hợp tác và cạnh tranh với các đối tác nước ngoài. Ngay cả những nước đi theo con đường TBCN như ở Nhật Bản, Singgapo, kinh tế nhà nước vẫn đóng vai trò “bà đỡ” cho các doanh nghiệp vào những giai đoạn khó khăn nhất là trong chuyển giao công nghệ, liên doanh góp vốn với nước ngoài. Thư tư, kinh tế nhà nước có thể tác động tới các thành phần kinh tế khác không chỉ bằng các công cụ và đòn bẩy, mà còn bằng con đường gián tiếp, thông qua các thiết chế và hoạt động của kiến trúc thượng tầng XHCN. Vì vây, kinh tế nhà nước phải đủ sức làm chỗ dựa cho nhà nước “của dân, do dân và vì dân” bảo đảm thống nhất giữa phát triển kinh tế và thực hiện công bằng xã hội- một trong những tiêu chí then chốt của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Thứ năm, kinh tế nhà nước là lực lượng nòng cốt hình thành các trung tâm kinh tế, đô thị mới, là lực lượng có khả năng đầu tư vào những vấn đề sống còn, nhưng ít ai dám đầu tư. Thực tế ở Việt Nam, không có tư nhân nào có thể nâng cấp và làm mới các tuyến đường giao thông, các nhà máy điện, không tư nhân hoặc lien doanh nào đến những vùng sâu, vùng xa để làm đường ô tô, xây dựng trạm biến thế, hoăc khi thiên tai xảy ra không tư nhân nào có thể cứu hộ, giúp đỡ được cả một địa phương, một khu vực. 3. Vai trò của các nhân tố ảnh hưởng đối với nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. a. Vai trò của Nhà nước đối với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa a1. Nhà nước điều chỉnh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Từ một nước nông nghiệp phấn đấu để trở thành một nước công nghiệp, điều đó có nghĩa là chúng ta phải tạo ra được một cơ cấu kinh tế hợp lý trong quá trình phát triển.Nằm trong khu vực phát triển năng động, nhiều nước đã thực hiện thành công quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, và đứng trước yêu cầu phải rút ngắn khoảng cách bị tụt hậu về kinh tế so với các nước trong khu vực, một số người cho rằng, Việt Nam cần phải “nhảy thẳng” vào quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá với việc tập trung toàn bộ sức lực và tài nguyên vào các vùng đô thị có triển vọng nhất, tranh thủ vốn, khoa học và công nghệ tiên tiến của nước ngoài, hình thành các trung tâm công nghiệp lớn, tạo ra những sản phẩm có chất lượng cao có thể cạnh tranh được với thị trường khu vực và thế giới… Đó là con đường một số nước đã trải qua, nhưng thực tế lịch sử cho thấy, không phải mọi con đường thẳng đều là những con đường nhanh nhất. Bởi phần lớn các nước đi theo con đường này đã và đang gặp những khó khăn với những mất cân đối nghiêm trọng. Tình trạng nghèo đói ở nông thôn vẫn gia tăng, phần lớn những người lao động là nông dân do không được tham gia vào quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nên đã tìm cách kéo về thành thị để tìm kiếm việc làm, tạo ra sức ép mạnh về dân cư đối với đô thị. Sự chênh lệch giàu-nghèo giữa nông thôn và thành phố ngày càng kéo dài khoảng cách đã làm cho tốc độ tăng trưởng kinh tế ngày một chậm chạp…Rõ ràng là, nếu không phát triển mạnh kinh tế nông nghiệp và nông thôn làm cơ sở cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, và không tạo được công ăn việc làm cho người lao động mà phần lớn là lao động nông nghiệp, thì sẽ không có cơ sở vững chắc cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Tiếp thu có chọn lọc những kinh nghiệm của các nước đã thực hiện thành công quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Xuất phát từ tình hình cụ thể của Việt Nam, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII đã khẳng định rằng, trong những năm trước mắt cần tập trung nỗ lực đẩy mạnh công nghiệp hoá nông nghiệp và nông thôn, ra sức phát triển các ngành công nghiệp chế biến nông-lâm-thuỷ sản, công nghiệp hàng tiêu dung và hang xuất khẩu, các ngành du lịch, dịch vụ ở cả thành thị và nông thôn, đồng thời phát triển mạnh công nghiệp chế biến và chế tạo, đặc biệt quan tâm phục hồi và phát triển ngành cơ khí, ngành điện tử và tin học. Như vậy trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nông nghiệp giữ vị trí hàng đầu và là hoạt động kinh tế cơ bản của dân cư. Bởi phát triển nông nghiệp sẽ giải quyết được vấn đề lương thực cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá; giải quyết được thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, tạo ra nguyên liệu cho công nghiệp chế biến, góp phần tích luỹ vốn cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đồng thời, phát triển nông nghiệp tạo ra việc làm cho người lao động mà đa phần là nông dân, góp phần xoá đói, giảm nghèo ở nông thôn. Vì vậy, phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn luôn là phương hướng được Nhà nước quan tâm. Song, kinh nghiệm lịch sử cũng cho thấy, nếu phát triển nông nghiệp thuần tuý sẽ không thể có khả năng tăng trưởng nhanh để có thể tạo được việc làm ngày một gia tăng của người của người lao động. Bản thân nông nghiệp không thể tự đổi mới cơ sở vật chất-kĩ thuật và công nghệ, mà phải cần có sự tác động mạnh của công nghiệp và dịch vụ đối với nông nghiệp và nông thôn. Như vậy, trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch từ cơ cấu nông-công nghiệp-dịch vụ sang có cấu công-nông nghiệp-dịch vụ. Trong đó, tuy nông nghiệp vẫn tiếp tục phát triển mạnh, song công nghiệp và dịch vụ sẽ chiếm tỉ trọng rất lớn trong GDP và trong lao động xã hội. Muốn đạt được mục tiêu đó, vai trò của Nhà nước không chỉ ở định hướng đúng mà quan trọng hơn là ở những chính sách và biện pháp cụ thể. Đó là những chính sách khuyến khích đầu tư và chuyển giao công nghệ để phát triển công nghiệp nông thôn theo theo hướng đa dạng háo các ngành nghề với quy mô vừa và nhỏ, đáp ứng yêu cầu đa dạng của thị trường, xây dựng một số ngành trọng yếu mà nhu cầu đòi hỏi bức bách và có điều kiện phát huy tác dụng nhanh và hiệu quả; đồng thời, phải chú trọng phát triển giáo dục và đào tạo hướng tới hình thành nguồn nhân lực để đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. a2 Nhà nước định hướng sự phát triển các thành phần kinh tế. Trong những năm qua, thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần đã đưa lại những chuyển biến tích cực trong toàn bộ nền kinh tế xã hội. Nền kinh tế nhiều thành phần dựa trên các hình thức sở hữu khác nhau tất nhiên có những khuynh hướng phát triển khác nhau. Việc thừa nhận các khuynh hướng phát triển khác nhau trong nền kinh tế cũng có nghĩa là thừa nhận mâu thuẫn của sự phát triển. Đó là mâu thuẫn giữa xu hướng phát triển tư bản chủ nghĩa với xu hướng phát triển xã hội chủ nghĩa. Phát triển tư bản chủ nghĩa và phát triển xã hội chủ nghĩa đều là những xu hướng khách quan bắt nguồn từ cơ sở kinh tế. Sẽ là không khách quan, khoa học nếu chúng ta đề cao quá mức xu hướng phát triển xã hội chủ nghĩa đi đến loại trừ, thủ tiêu xu hướng tư bản chủ nghĩa, hoặc ngược lại. Vì vậy, thừa nhận sự tồn tại khách quan của các mặt đối lập, phân tích và giải quyết mâu thuẫn một cách khoa học sẽ góp phần thúc đẩy sựu vận động theo đúng quy luật phát triển của lịch sử. Đối với nước ta, phát triển kinh tế tư bản không phải chỉ là giải pháp tạm thời, cần thiết cho bước khởi động của một nền kinh tế trì trệ do cơ chế tập trung quan liêu bao cấp để lại, mà là sự phát triển lâu dài trong suốt thời kì quá độ. Ở đây không chỉ đơn thuần là chấp nhận những nhân tố tư bản do chế độ trước để lại, mà còn là sự phát triển của chủ nghĩa tư bản một cách tự giác và chủ động. Chúng ta không sợ sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, cả chủ nghĩa tư bản trong nước và chủ nghĩa tư bản nước ngoài, chúng ta đang khuyến khích cho nó phát triển vì sự cần thiết của chúng ta, vì nó đang có tiềm năng phát triển. Điều đáng sợ là chúng ta để cho chủ nghĩa tư bản tự do phát triển không hướng nó vào chủ nghĩa tư bản nhà nước. Những hình thức cụ thể của chủ nghĩa tư bản nhà nước ở nước ta rất đa dạng, nhưng phổ biến hơn cả là hình thức liên doanh giữa các bên chủ thể sở hữu nhà nước với sở hữu tư nhân tư bản trong nước và ngoài nước. Bằng cách đó, chúng ta nhanh chóng tranh thủ tiếp nhận công nghệ, kĩ năng, kinh nghiệm quản lý tiên tiến, tìm cách tiếp cận với thị trường khu vực và thế giới, tăng năng lực cạnh tranh, khai thác có hiệu quả lợi thế so sánh trong mỗi thời kì phát triển, giải quyết công ăn việc làm cho người lao động. Đến nay đã có nhiều công ty nhà nước góp vốn với công ty tư nhân trong nước tạo ra thế và lực cho các doanh nghiệp Việt Nam hợp tác và cạnh tranh với bên ngoài, nhiều dự án đầu tư của nước ngoài vào Việt Nam với tổng số vốn đăng kí tương đối lớn. Điều đó chứng tỏ kinh tế tư bản nhà nước không những cần thiết cho công cuộc xây dựng và phát triển đất nước mà còn cần thiết cho các nhà tư bản. Điều quan trọng ở đây là phải có Nhà nước đủ mạnh có khả năng kiểm tra, giám sát hoạt động của loại hình kinh tế tư nhân này tuân theo đúng pháp luật, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ tài sản và các lợi ích quốc gia, bảo đảm lợi ích của người lao động. Bằng những chính sách cụ thể, Nhà nước phát huy mặt tích cực của kinh tế nhiều thành phần để phát triển kinh tế nhằm phục vụ mục tiêu xã hội chủ nghĩa. Nói khác đi, Nhà nước đề ra những chính sách cụ thể để “ lợi dụng” chủ nghĩa tư bản nhà nước nhằm khắc phục nền sản xuất nhỏ và tăng cường lực lượng sản xuất cho chủ nghĩa xã hội.Thông qua chủ nghĩa tư bản nhà nước, chúng ta mới có khả năng khắc phục triệt để những hạn chế của sản xuất nhỏ. Sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước, một mặt sẽ tăng cường công nhân cả về số lượng và chất lượng, mặt khác là công cụ để những người cộng sản chống lại tình trạng ly tán của sản xuất nhỏ để nhập vốn,kĩ thuật, công nghệ, kinh nghiệm quản lý…nhằm thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nhưng chủ nghĩa tư bản nhà nước không phải là mục đích mà là công cụ, phương tiện, là sách lược của giai cấp vô sản để nhanh chóng phát triển lực lượng sản xuất, tạo cơ sở kinh tế, kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, Nhà nước bằng các chính sách cụ thể, chủ động phát triển chủ nghĩa tư bản nhà nước có chừng mực, có giới hạn và thực hiện chức năng kiểm tra, kiểm soát, điều tiết đối với nó, hướng sự phát triển của nó có lợi cho quốc kế dân sinh. Bằng hệ thống pháp luật, kế hoạch và các công cụ đòn bẩy kinh tế, Nhà nước hạn chế sự bóc lột, hạn chế tối đa những tác động tiêu cực của chủ nghĩa tư bản nhà nước nhằm hướng sự phát triển của nó vào mục tiêu xã hội chủ nghĩa. Trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có định hướng xã hội chủ nghĩa, kinh tế nhà nước mà tiêu biểu hiện nay là các doanh nghiệp nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Nhà nước phải nắm những lĩnh vực kinh tế then chốt, trọng yếu chi phối các hoạt động huyết mạch của nền kinh tế quốc dân. Có như vậy, Nhà nước mới có khả năng điều tiết, chi phối các thành phần kinh tế khác, các doanh nghiệp khác, tạo điều kiện cho sự ổn định và phát triển nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên, vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, kinh tế quốc doanh trong điều kiện nước ta hiện nay không chỉ dừng lại ở nghĩa đó. Vai trò chủ đạo đó phải được biểu hiện trên hai hình thức : tính chiến lược và tính hiệu quả sản xuất-kinh doanh. Bằng các chính sách cụ thể, Nhà nước xây dựng một hệ thống kinh tế nhà nước đủ mạnh để bảo đảm ổn định kinh tế, khẳng định trên thực tế định hướng xã hội chủ nghĩa cho sự phát triển kinh tế nhiều thành phần. Vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước là ở chỗ nó mở đường và hỗ trợ cho các thành phần kinh tế khác phát triển, thúc đẩy sự tăng trưởng nhanh và bền vững của nền kinh tế, là công cụ có sức mạnh vật chất để nhà nước điều tiết và hướng dẫn nền kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa, cùng với kinh tế tập thể là nền tảng của kinh tế xã hội chủ nghĩa và là cơ sở của chế độ mới. Vì vậy, để kinh tế nhà nước đóng được vai trò chủ đạo, trước mắt đòi hỏi Nhà nước phải đổi mới cơ chế quản lý của mình đối với thành phần kinh tế này và phải chủ động sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước. Vấn đề quan trọng nhất để các doanh nghiệp nhà nước phát triển là người lao động phải được bảo đảm lợi ích, khắc phục cho được tình trạng doanh nghiệp nhà nước, tài sản nhà nước không có người làm chủ cụ thể, làm chủ trực tiếp, làm chủ một cách có trách nhiệm. Cần phải tạo điều kiện cho công nhân gắn bó với doanh nghiệp, bảo đảm quyền tự chủ trong sản xuất-kinh doanh, ngăn ngừa tệ tham nhũng, bảo đảm sự kiểm soát của Nhà nước đối với các doanh nghiệp nhà nước. Muốn vậy, Nhà nước phải kiên quyết xếp lại các doanh nghiệp quốc doanh, xử lý đúng đắn những xí nghiệp làm ăn thua lỗ kéo dài, xây dựng một số doanh nghiệp nhà nước mới hoạt động năng động và có hiệu quả, khắc phục tình trạng chồng chéo, nhiều khâu trung gian, bảo đảm quyền tự chủ trong sản xuất-kinh doanh, đủ sức cạnh tranh có hiệu quả trên thị trường trong nước và thế giới. Cùng với những doanh nghiệp nhà nước thu lợi nhuận, Nhà nước với vai trò quản lý của mình còn thành lập các doanh nghiệp công ích không vì mục tiêu lợi nhuận. Mục tiêu của các doanh nghiệp nhà nước này là phục vụ công cộng, làm tốt các dịch vụ công cộng, thực hiện các chính sách xã hội; phục vụ cho công tác an ninh-quốc phòng…Nếu thiếu các doanh nghiệp nhà nước loại này thì xã hội khó mà tồn tại, ổn định và phát triển được. Đây cũng chính là lực lượng vật chất để Nhà nước thực hiện chính sách xã hội, giải quyết các vấn đề xã hội, phục vụ cho công tác an ninh-quốc phòng và hưóng các thành phần kinh tế khác cùng tham gia giải quyết các vấn đề xã hội. Dựa vào hệ thống kinh tế nhà nước, bằng các chính sách cụ thể, Nhà nước hướng các thành phần kinh tế khác cùng tham gia đầu tư vào khu vực nông thôn để xây dựng, phát triển kết cấu hạ tầng ở nông thôn, đặc biệt là thuỷ lợi và giao thông. Đồng thời, Nhà nước có vai trò giúp đỡ các doanh nghiệp ở nông thôn đào tạo, bồi dưỡng tay nghề, khả năng quản lý, công nghệ, vốn cho người lao động. Có như vậy mới bảo đảm được định hướng xã hội chủ nghĩa ở nông thôn. Vai trò của Nhà nước trong việc định hướng xã hội chủ nghĩa, sự phát triển nền kinh tế nhiều thành phần còn được thể hiện ở chức năng điều tiết, kiểm tra, kiểm soát các thành phần kinh tế, bảo đảm thông nhất giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội, giữa chính sách kinh tế với chính sách xã hội. Trên cơ sở pháp luật, bằng hệ thống các chính sách thuế, tài chính, lao động, tiền lương, môi trường…Nhà nước tiến hành kiểm tra, kiểm kê theo định kì và đột xuất các thành phần kinh tế ( bảo đảm về môi trường, luật lao động, chế độ tiền lương, chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế…). Thông qua đó, Nhà nước có thể phát hiện những hành vi gian lận, vi phạm các quy định, chính sách của Nhà nước, buộc các đơn vị kinh tế phải thực hiện nghiêm túc trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Như vậy, cũng có nghĩa là hướng tất cả các thành phần kinh tế theo quỹ đạo xã hội chủ nghĩa. Thông qua các cơ quan chức năng, Nhà nước kiểm soát vội tăng trưởng kinh tế và thực hiện công bằng xã hội, tức là giải quyết hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội,. Tính chất định hướng xã hội chủ nghĩa của sự phát triển kinh tế nhiều thành phần đòi hỏi tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với những chuyển biến về mặt xã hội. Nếu không thực hiện được điều đó thì không thể nói tới định hướng xã hội chủ nghĩa trên thực tế. Bởi lẽ, tiến bộ xã hội thực sự không thể không dựa trên cơ sở tăng trưởng kinh tế, nhưng tiến bộ xã hội, đến lượt nó lại là động lực quan trọng của tăng trưỏng kinh tế. Tất nhiên, tiến bộ xã hội mà chúng ta đề cập ở đây là tiến bộ xã hội mang tính nhân bản sâu sắc, bao gồm sự tiến bộ của mọi cá nhân, mọi gia đình và của toàn bộ công cộng. Sự công bằng trong kinh tế, chính trị, xã hội được thể hiện trong phân phối thu nhập các nguồn lợi kinh tế. Vì vậy, Nhà nước thực hiện chức năng giám sát vói việc phân phối này, trên cơ sở đó điều chỉnh, phân phối lại nhằm thực hiện công bằng xã hội, khắc phục mọi tình trạng phân hoá giàu-nghèo, bất công, thực hiện tốt bảo hiểm xã hội… Vai trò của Nhà nước còn thể hiện thông qua các chính sách xã hội. Nhà nước dần dần góp phần xây dựng một chuẩn mực giá trị đạo đức xã hội chủ nghĩa cũng như một trật tự xã hội mang tính nhân văn sâu sắc. thiếu điều đó, kinh tế cuối cùng sẽ không phát triển được và không thể bảo đảm được định hướng xã hội chủ nghĩa của sự phát triển kinh tế. a3. Nhà nước tạo môi trường kinh tế và khuôn khổ pháp lý cho hoạt động sản xuất-kinh doanh của các thành phần kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động kinh tế diễn ra hết sức phức tạp và đa dạng. Sự tồn tại nhiều chủ thể kinh tế với những quan hệ kinh tế, quan hệ lợi ích khác nhau, hơn nữa các thành phần kinh tế hoạt động trong môi trường cạnh tranh do quy luật kinh tế khách quan chi phối, đòi hỏi nền kinh tế phải có tính tổ chức cao và có định hương rõ rệt. Trong điều kiện đó, sự can thiệp của Nhà nước vào hoạt động sản xuất-kinh doanh của các doanh nghiệp là rất khó khăn. Vì vậy, Nhà nước cần tạo ra môi trường kinh tế pháp lý cho hoạt động sản xuất-kinh doanh phát triển. Trong những năm gần đây, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật khẳng định tư cách pháp lý độc lập của hang lạot các loại hình doanh nghiệp, một số nguyên tắc, cơ chế trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp đã được thể chế hoá, quyền và nghĩa vụ của các doanh nghiệp trong việc quyết định cac svấn đề về tài sản kinh doanh cũng như hoạt động tổ chức kinh doanh khẳng định. Điều đó đã tạo điều kiện thuận lợi choc ac doanh nghiệp kể cả doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài yên tâm sản xuất-kinh doanh. b. Vai trò của kinh tế nhà nước. Định hướng xã hội chủ nghĩa nền kinh tế thị trường là sự vận dụng sang tạo chủ nghĩa Mac-Lênin. Theo quan điểm chủa Đảng và Nhà nước, một trong những nhân tố có tính chất quyết định cho định hướng ấy là thành phần kinh tế nhà nước phải làm tốt vai trò chủ đạo của mình. Trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần của nền kinh tế vận hành theo cơ chế kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, kinh tế nhà nước được xác định là giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Vậy hiểu vai trò chủ đạo của KTNN như thế nào? Tôi cho rằng, vai trò chủ đạo của KTNN cần được hiểu và thực hiện trên những phương diện cơ bản như sau: Thứ nhất, vai trò chủ đạo không phải biểu hiện ở số lượng các cơ sở kinh tế của Nhà nước nhiều hay ít và cũng không phải ở tỷ trọng giá trị sản lượng do kinh tế Nhà nước tạo ra chiếm bao nhiêu trong GDP. Mà vai trò chủ đạo trước hết phải được thể hiện ở trình độ công nghệ, trình độ quản lý, năng suất, hiệu quả kinh tế – xã hội và năng lực cạnh tranh cao. Thứ hai, kinh tế NN phải đóng vai trò hàng đầu trong việc khắc phục, hạn chế những khuyết tật của cơ chế thị trường. Thứ ba, KTNN độc quyền trong những lĩnh vực có quan hệ trực tiếp đến an ninh quốc gia và hoạt động bên cạnh các thành phần kinh tế khác trong những ngành kinh tế quan trọng của nền kinh tế quốc dân như ngân hàng, vận tải đường không… Tuy vậy ở đây cần lưu ý rằng, phạm vi độc quyên của KTNN càng rộng bao nhiêu thì tác động tích cực của cạnh tranh càng bị thu hẹp bấy nhiêu - Nghĩa là một trong những động lực mạnh nhất của kinh tế thị trường bị triệt tiêu. Bên cạnh đó, cần xác định rõ vai trò kinh tế của Nhà nước trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với KTNN độc quyền được biểu hiện cụ thể ở doanh nghiệp nhà nước nhất định, để không chuyển độc quyền của KTNN thành độc quyền của doanh nghiệp nhà nước. Vì trong cơ chế kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, KTNN độc quyền là để có điều kiện định hướng sự vận động của nền kinh tế theo mục tiêu nhất định và đạt hiệu quả kinh tế – xa hội. Do vậy, nếu một doanh nghiệp Nhà nước nào đó được độc quyền thì hoạt động của nó phải hướng tới với tính chất là công cụ điều tiết kinh tế vĩ mô của Nhà nước với mục tiêu kinh tế-xã hội, vì quốc kế dân sinh, chứ không phải vì bản thân doanh nghiệp. Trong trường hợp hoạt động của doanh nghiệp không đạt được yêu cầu nói trên thì không nên trao cho doanh nghiệp đặc lợi độc quyền. Nói cách khác, doanh nghiệp Nhà nước độc quyền nhưng không làm triệt tiêu “luật chơi “ của kinh tế thị trường và không vì lợi ích cục bộ của bản thân doanh nghiệp Nhà nước mà hướng tới vì lợi ích kinh tế-xã hội thì hoạt động của doanh nghiệp mới đúng nghĩa là thực hiện vai trò chủ đạo theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Thứ tư, KTNN định hướng, hướng dẫn hoạt động của các thành phần kinh tế khác, để mọi thành phần kinh tế hoạt động theo mục tiêu định sẳn của Nhà nứơc thông qua hai cách thức được thực hiện đồng thời là: -Quy hoạch, chiến lược phát triển ngành, vùng, sản phẩm của bản thân kinh tế Nhà nước cũng như của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Trên cơ sở đó,các thành phần kinh tế khác có thêm luận cứ để xây dựng chiến lược kinh doanh của mình. -Cung cấp cơ sở hạ tầng và những dịch vụ công cộng với chất lượng cao, giá cả rẻ cho các thành phần kinh tế khác ở những lĩnh vực mà Nhà nước muốn khuyến khích họ đầu tư. Thứ năm, KTNN hỗ trợ, kích thích các thành phần kinh tế khác phát triển. Có thể hiểu sự hỗ trợ, kích thích của KTNN đối với các thành phần kinh tế khác bao gồm: -Ưu đãi về vay vốn sản xuất, thuế, tiền thuê đất cho hoạt động của các thành phần kinh tế. - Tìm kiếm và mở rộng thị trường, bao gồm cả thị trường đầu vào lẫn thị trường đầu ra cho các thành phần kinh tế. -Trợ giá hàng xuất khẩu cho các thành phần kinh tế khác khi cần thiết. -Hỗ trợ, khuyến khích các thành phần kinh tế đổi mới công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực, nâng cao năng lực cạnh tranh. - Duy trì và kích thích cạnh tranh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Kinh tế nhà nước, nhất là loại hình doanh nghiệp nhà nước nắm giữ cơ sở vật chất chủ yếu, huyết mạch chính của nền kinh tế quốc dân, nơi cung cấp nguồn thu lớn cho ngân sách nhà nước, nơi tập trung phần lớn đội ngũ công nhân, cán bộ quản lý, cán bộ kinh tế, kỹ thuật của đất nước. Hiện tại, kinh tế nhà nước chiếm tới 85% tài sản cố đinh trong công nghiệp của cả nước, trong đó: 100% mỏ khoáng sản lớn; 83% diện tích cây công nghiệp dài ngày. Mặc dù kinh tế nhà nước chiếm 44% tỷ trọng GDP nhưng lại đóng góp từ 30-35% cho ngân sách nhà nước. trong khi khu vực ngoài quốc doanh chiếm 56% GPP nhưng chỉ đóng góp 15% cho ngân sách nhà nước. Cho nên, kinh tế nhà nước chính là cơ sở kinh tế, sức mạnh kinh tế để Nhà nước trên cơ sở đó có thể điều tiết, định hướng, hướng dẫn, hỗ trợ các thành phần kinh tế khác vào quỹ đạo xã hội chủ nghĩa. Vai trò chủ đạo của KTNN trong nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa được thực hiện thông qua bao gồm cả ở hệ thống cơ chế, chính sách vĩ mô như: chính sách tài chính – tiền tệ, đất đai… và cả ở hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước để giải phóng mọi năng lực của nền kinh tế; thúc đẩy sự phát triển các thể chế thị trường và đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội bền vững. Kinh tế nhà nước chính là lực lượng vật chất để Nhà nước thực hiện chức năng điều tiết và quản lý vĩ mô, tạo nền tảng cho chế độ xã hội mới ra đời. Có thể nói rằng:” Điều quan trọng là bên cạnh “chiếc cầu nhỏ” của chủ nghĩa xã hội, cần củng cố, tăng cường vai trò chủ đạo then chốt của kinh tế quốc doanh, vai trò nền tảng của kinh tế quốc doanh và kinh tế hợp tác, lấy đó làm chỗ dựa cơ bản, làm quả đấm thép để phát triển kinh tế-xã hội. Đó mới là điều mấu chốt và quyết định bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa. II- Thực trạng điều tiết kinh tế của Nhà nước và vai trò của kinh tế nhà nước A.Thực trạng quản lý kinh tế của Nhà nước. 1. Những thành tựu Bằng các chính sách, và biện pháp phù hợp, Nhà nước ta đã đưa nền kinh tế nghèo nàn tiến thêm một bước dài và đạt đựoc những thành tựu hết sức to lớn: Một là đưa đất nước thoát khỏi tình trạng khủng hoảng, kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng nhanh, liên tục, năm sau cao hơn năm trước 1986-1990: GDP tăng 4,4%/năm;1991-1995: Nền kinh tế khắc phục được tình trạng trình trệ, suy thoái, đạt được tốc độ tăng trưởng tương đối cao liên tục và toàn diện.GDP bình quân năm tăng 8,2%. Đất nước ra khỏi thời kỳ khủng hoảng kinh tế, bắt đầu đẩy mạnh CNH - HĐH đất nước.Từ năm 1996-2000, là bước phát triển quan trọng của thời kỳ mới, đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước,Việt Nam duy trì tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước 7%/năm.Năm 2000-2005, nền kinh tế đạt được tốc độ tăng trưởng cao, liên tục, GDP bình quân mỗi năm đạt 7,5%. Năm 2005, tốc độ tăng trưởng đạt 8,4%, GDP theo giá hiện hành, đạt 838 nghìn tỷ đồng, bình quân đầu người đạt trên 10 triệu đồng, tương đương với 640 USD. Hai là cơ cấu kinh tế ngành chuyển biến tích cực theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, gắn sản xuất với thị trường Từ năm 1988 đến nay, tỷ trọng công nghiệp và xây dựng trong GDP tăng nhanh và liên tục (năm 1988 là 21,6% GDP, năm 1995 là 28,8%, năm 2003 là 40%, năm 2005 chiếm 41% GDP). Từ chỗ chưa khai thác dầu, đến nay đã có sản lượng (quy ra dầu) gần 20 triệu tấn/năm; ngành công nghiệp chế tác chiếm 80% giá trị sản lượng công nghiệp; công nghiệp xây dựng phát triển khá mạnh; sản phẩm công nghiệp xuất khẩu ngày càng tăng. Tỷ trọng nông nghiệp trong GDP năm 1988 là 46,3%, năm 2003 còn 21,8%; năm 2005 là 20,5%. Trong nội bộ ngành nông nghiệp, cơ cấu cây trồng và vật nuôi đã chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng các sản phẩm có năng suất và hiệu quả kinh tế cao, các sản phẩm có giá trị xuất khẩu. Giá trị tạo ra trên một đơn vị diện tích tăng lên. Tỷ trọng khu vực dịch vụ trong GDP đã tăng từ 33,1% năm 1988 lên 38,2% năm 2003, 38,5% năm 2005. Các ngành dịch vụ đã phát triển đa dạng hơn, đáp ứng tốt hơn nhu cầu của sản xuất và đời sống. Ngành bưu chính - viễn thông và du lịch phát triển nhanh.Các dịch vụ tài chính, ngân hàng, tư vấn pháp lý... có bước phát triển khá . Ba là, thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dần được hình thành Nền kinh tế nhiều thành phần theo chủ trương của Đảng và được quy định trong Hiến pháp 1992 đã được cụ thể hoá bằng các luật, pháp lệnh. Với Luật Doanh nghiệp, quyền tự do kinh doanh được Hiến pháp 1992 quy định đã thực sự đi vào cuộc sống. Pháp lệnh về hợp đồng kinh tế, Bộ Luật Dân sự, Luật Thương mại, Luật Đầu tư nước ngoài, Luật Khuyến khích đầu tư trong nước đã tạo khung pháp lý ban đầu cho các yếu tố thị trường hình thành và vận hành từng bước. Đồng thời, Nhà nước đã thể chế hoá thành cơ chế, chính sách về đất đai, tín dụng, ưu đãi thuế,... Nhờ đó, đã góp phần tích cực cho quá trình phát triển kinh tế thị trường. Nhà nước đã từng bước tách chức năng quản lý nhà nước về kinh tế của các cơ quan nhà nước, chức năng chủ sở hữu doanh nghiệp nhà nước của Nhà nước và chức năng kinh doanh của doanh nghiệp chuyển từ quản lý cụ thể các hoạt động của nền kinh tế sang quản lý tổng thể nền kinh tế quốc dân; chuyển từ can thiệp trực tiếp vào nền kinh tế sang can thiệp gián tiếp thông qua hệ thống pháp luật, kế hoạch, cơ chế, chính sách và các công cụ điều tiết vĩ mô khác. Bốn là, thực hiện có kết quả chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần. Để nâng cao vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, Đảng đã quan tâm lãnh đạo đổi mới cơ chế, chính sách đối với doanh nghiệp nhà nước. Luật Doanh nghiệp nhà nước năm 2003 tạo khung pháp lý, có tác dụng giải phóng lực lượng sản xuất, phục vụ cho việc sắp xếp, đổi mới và phát triển doanh nghiệp nhà nước. Cơ chế quản lý doanh nghiệp nhà nước được đổi mới một bước quan trọng theo hướng xoá bao cấp, thực hiện chế độ công ty, phát huy quyền tự chủ và trách nhiệm của doanh nghiệp trong kinh doanh, giảm thiểu sự can thiệp trực tiếp của Nhà nước vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp; đã tập trung chỉ đạo sắp xếp, đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước. Kinh tế tập thể, mà nòng cốt là hợp tác xã, đã được đổi mới từng bước theo Luật Hợp tác xã và các chính sách của Đảng và Nhà nước. Các hợp tác xã đã chứng tỏ được rõ hơn vai trò, vị trí đối với kinh tế hộ trong sản xuất hàng hóa, đặc biệt trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, đóng góp vào tổng sản phẩm trong nước của khu vực hợp tác xã giảm nhanh, nhưng bắt đầu có chiều hướng phục hồi. Kinh tế tư nhân phát huy ngày càng tốt hơn các nguồn lực và tiềm năng trong nhân dân, nhất là từ sau khi có Luật Doanh nghiệp năm 2000. Đóng góp lớn nhất và quan trọng nhất của kinh tế tư nhân là tạo việc làm và góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động xã hội. Năm 2004, số lao động làm việc trực tiếp trong các doanh nghiệp tư nhân đã gần bằng tổng số lao động trong các doanh nghiệp nhà nước, giải quyết khoảng 1,6 đến 2 triệu việc làm.. Năm 2005, khu vực kinh tế tư nhân đóng góp 37,7% GDP của cả nước. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài cũng có bước phát triển quan trọng. Tính đến tháng 6 -2004, có 4.575 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài được cấp giấy phép và còn hiệu lực, với tổng vốn đăng ký đạt trên 43 tỷ USD. Năm 2005, khu vực này đóng góp 15,5% GDP, trên 7,5% tổng thu ngân sách, trên 17,1% tổng vốn đầu tư xã hội, trên 23% kim ngạch xuất khẩu (không kể dầu khí), đạt trên 35% giá trị sản xuất công nghiệp; thu hút hơn nửa triệu lao động. Năm là, đạt được những kết quả tích cực trong hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Vượt ra khỏi chính sách bao vây cấm vận của Mỹ và các lực lượng thù địch nước ngoài, Việt Nam đã tham gia hợp tác, liên kết kinh tế quốc tế trên các cấp độ và trong các lĩnh vực kinh tế then chốt (như thương mại dịch vụ, lao động, đầu tư, khoa học và công nghệ ...). Đến năm 2005, nước ta đã có quan hệ thương mại với 221 nước và vùng lãnh thổ, ký 90 hiệp định thương mại song phương, trong đó, nổi bật là Hiệp định Thương mại với Mỹ, tạo điều kiện mở rộng giao lưu hàng hoá với nước ngoài và sẵn sàng ra nhập tổ chức thương mại quốc tế. 2. Những hạn chế Mặc dù đạt được những thành tựu hết sức to lớn, nhưng trong quá trình quản lý và điều hành, Nhà nước vẫn mắc phải những sai lầm hạn chế: - Bộ máy Nhà nước cồng kềnh, sự yếu kém về hiệu lực và hiệu quả của công tác quản lý nhà nước, tình trạng tham những, lạm quyền vì mục đích cá nhân ngày càng tăng. Điều đó làm cho nhân dân chưa thực sự tin vào năng lực điều hành của Nhà nước, đồng thời, chưa thể hiện đóng được bản chất của Nhà nước ta là nhà nước của dân, do dân và vì dân. - Quy trình hoạch định chiến lược, chính sách đang còn chậm và không đồng bộ, có sự chồng chéo hay thay đổi nhưng chưa phù hợp với cơ chế mới. Quy hoạch phát triển vẫn duy trì phương pháp cũ nên chất lượng thấp, không đáp ứng được yêu cầu của thị trường. - Phát triển các thể chế thị trường không đồng bộ, không theo logic hệ thống, vẫn cân đo nhiều trên lợi ích cục bộ của các doanh nghiệp nhà nước chứ chưa thực sự hướng tới việc tạo môi trường kinh doanh bình đẳng cho các thành phanà kinh tế khác. - Các yếu tố của cơ chế cũ mà điển hình là trục tam giác: xin cho-độc quyền doanh nghiệp nhà nước-bảo hộ nhà nước vẫn chi phối quá phân phối nguồn lực trong khu vực kinh tế chủ đạo-kinh tế nhà nước làm cho việc phân phối và sử dụng nguồn lực kém hiệu quả. 3. Các biện pháp khắc phục. Để tiếp tục phát huy được những thành tựu to lớn, đồng thời hạn chế tố đa những yếu kém, Nhà nước ta đã đưa ra một số giải pháp lớn: - Giải pháp đầu tiên là đồng thời với việc phát triển mạnh các thành phần kinh tế, tạo môi trường phát triển cân bằng, cũng cần tạo ra sức mạnh rõ nét cho kinh tế nhà nước phát triển có hiệu quả hơn, để thành phần kinh tế này luôn giữu vững vai trò chủ đạo, và có đủ khả năng điều tiết được sự phát triển của các thành phần kinh tế khác. Cái có ý nghĩa quyết định đến vai trò ấy là thành phần kinh tế này phải luôn phát triển tỏ rõ được bản chất ưu việt của chủ nghĩa xã hội . Để thực hiện giải pháp lớn có tinh quyết định này cần pahỉ thực hiện một cách đồng bộ các giải pháp bổ sung như: + Đảm bảo cho các thành phần kinh tế nhà nước có ưu thế hơn so với các thành phần kinh tế khác trên cơ sở, thành phần kinh tế nhà nwocs phải kinh doanh có lãi và liên tục phát triển. + Thị trường hiện nay là một trong những yếu tố quyết định sự phát triển kinh tế. Vì vậy, phải đảm bảo thị trường và mở rộng thị trường, cả ở trong nước và ngoài nước để cho các thành phần kinh tế có điều kiện phát triển sản xuất-kinh doanh. + Nhà nước phải thực hiện độc quyền hoá ngoại thương, để tạo điều kiện phát triển cho các doanh nghiệp nhà nước, từ đó mới có thể hướng được nền kinh tế theo chủ nghĩa xã hội. + Cải tiến các chính sách về huy động nguồn vốn, tín dụng, ngân hàng, tài chính, thuế…sao cho vừa góp phần tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế khác phát triển vừa thể hiện tính ưu tiên về vốn cho các doanh nghiệp nhà nước. Đảm bảo thu nhập của các cán bộ công nhân viên trong khu vực kinh tế nhà nước phải cao hơn ở ngoài khu vực kinh tế nhà nước. Nếu không thực hiện được điều đó sẽ dẫn tới tình trạng chảy máu tài năng. + Tổ chức Đảng trong các doanh nghiệp nhà nước phải thực sự trở thành hạt nhân lãnh đạo trong quá trình sản xuất-kinh doanh và các hoạt động khác của doanh nghiệp. - Giải pháp lớn thứ hai là phải thưưòng xuyên cải tiến và đổi mới cơ chế quản lý. Điều đáng nói ở đây là phải tăng cường công tác kiểm kê và kiểm soát của Nhà nước đối vưói tất cả các thành phần kinh tế. Đối với các doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ, thì phải giải thể. Cố gắng phục hồi các doanh nghiệp cồn có thể tồn tại và phát triển được. Nhà nước cần cho phép thành lập các công ty cổ phần, mở thị trường chứng khoán, tái tạo công ăn việc làm cho người lao động, đảm bảo công bằng và văn minh cho xã hội…Giải pháp “chèo lái” là hướng các thành phần kinh tế tư nhân đi theo con đường của chủ nghĩa tư bản nhà nước. - Giải pháp thứ ba là đảm bảo được niềm tin của quần chúng nhân dân lao động vào chủ nghĩa xã hội, vào sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước. Để đạt được điều này cần có hai điều kiện cơ bản: một là, lợi ích mang lại từ phía xã hội chủ nghĩa cho dân phải ngày càng lớn hơn so với các phiá khác mang lại. Đây là mục tiêu phấn đấu lâu dài thể hiện tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội; hai là, cán bộ đảng viên, nhất là các cán bộ đảng viên có chức có quyền trong các cơ quan của Đảng và Nhà nước phải là những người gương mẫu về đạo đức và có năng lực thực sự để cho dân tin tưởng noi theo. Muốn đạt được điều này, trước mắt phải khắc phục được tệ tham nhũng đã trở thành quốc nạn trong xã hội ta. Chính tệ tham nhũng hiện nay là nguy cơ lớn, bên trong, làm giảm niềm tin của dân vào chủ nghĩa xã hội. - Giải pháp thứ tư là hoàn thiện bộ máy Nhà nước, hệ thống pháp luật và xử phạt nghiêm minh. + Hoàn thiện bộ máy Nhà nước, phát huy năng lực làm việc của các cấp chính quyền. + Hoàn thiện tổ chức của các cơ quan pháp luật sao cho không còn hiện tượng chồng chéo, cản trở lẫn nhau và dựa dẫm vào nhau. Chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp phải rõ rang. + Hoàn thiện hệ thống pháp luật sao cho không còn kẽ hở và sự mâu thuẫn giữa các điều luật. Trong đó, cần lưu ý là đảm bảo tính chất công bằng và hợp lý của các điều luật. + Phổ cập giáo dục pháp luật trong toàn dân, nâng cao ý thức tự giác chấp hành pháp luật cho tất cả mọi người. - Giải pháp thư năm là giáo dục, đào tạo con người xã hội chủ nghĩa. Để giải quyết được vấn đề này cần có một số biện pháp sau: + Nhanh chóng hoàn thiện hệ thống giáo dục, nhất là về khâu tổ chức và phân cấp. + Hoàn thiện các chương trình giáo dục cho từng cấp, từng nghề theo một hệ thống hoàn chỉnh, thống nhất trong cả nước. + Thực hiện giáo dục không mất tiền ở cấp phổ thông. + Có chế độ ưu tiên đặc biệt cho đội ngũ giáo viên + Chú trọng cả mặt đạo đức, tài năng và sức khoẻ thể chất-thẩm mỹ cho con người trong giáo dục và đào tạo. B. Thực trạng kinh tế nhà nước. 1 Thành tựu của kinh tế nhà nước Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, hơn 10 năm qua, Chính phủ đã đẩy mạnh công cuộc phát triển khu vực kinh tế nhà nước, trong đó cốt lõi là hệ thống doanh nghiệp nhà nước. Trong 10 năm đó, kinh tế nhà nước nói chung và doanh nghiệp nhà nước nói riêng đã đạt được rất nhiều thành tựu: Thứ nhất: giảm đáng kể số doanh nghiệp nhà nước hoạt động kém hiệu quả và không cần thiết, nhưng khu vực kinh tế nhà nước vẫn có tốc độ tăng trưởng cao, có đóng góp quan trọng vào nguồn thu ngân sách và tổng sản phamả quốc nội. Tính đến tháng 5-2005 đã thu hẹp hơn 50% doanh nghiepẹ nhà nước, từ 12.300 doanh nghiệp xuống con 5655 doanh nghiệp. Tuy số doanh nghiệp giảm xuống hơn 50% nhưung hệ thống doanh nghiệp nhà nước ngày càng được củng cố góp phần phát huy được vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước. Số doanh nghiệp có vốn dưới 1 tỉ đồng giảm. số doanh nghiệp có vốn trên 10 tỉ đồng tăng. Sản xuất kinh doanh phát triển và hiệu quả được nâng lên rõ rệt. Tỷ trọng sản phẩm do doanh nghiệp nhà nước đóng góp vào tổng sản phẩm trong nước, tổng thu ngân sách, kim ngạch xuất khẩu và hợp tác nước ngoài liên tục tăng: năm 1992 là 36,5% GDP, năm 2007 là 40,4% GDP, 39,2% tổng thu ngân sách và trên 50% kim ngạch xuất nhập khẩu. Thứ hai: đặt mới doanh nghiệp nhà nước làm giảm bớt những trợ cấp trực tiếp từ ngân sách nhà nước dưới tất cả các dạng tính trên GDP giảm từ 8,5% xuống 0,5% trong khi tỉ lệ đóng góp của các doanh nghiệp nhà nước vào GDP lại tăng, từ 32,5% lên 40,4%. Thứ ba: hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước được nâng cao hơn so với trước đây. số doanh nghiệp có lãi tăng, số doanh nghiệp thua lỗ giảm. Hiệu quả sử dụng đồng vốn tăng them: năm 1992 một đông vốn nhà nước tạo ra 2,41 đồng doanh thu, 0,07 đồng lợi nhuận, 0,18 đồng nộp ngân sách, đến năm 2005 một đồng vốn nhà nước đã tạo ra 3,9 đồng doanh thu, 0,4 đồng lợi nhuận và 0,35 đồng nộp ngân sách. Thứ tư: quan hệ giữa các cơ quan quản lý nhà nước với doanh nghiệp nhà nước đã thay đổi theo hướng phân định rõ quyền quản lý nhà nước với quyền quản lý kinh doanh của doanh nghiệp. Tăng quyền tự chủ và quyền sản xuất kinh doanh và về tài chính của doanh nghiệp nhà nước, đã giúp doanh nghiệp nhà nước chuyển từ đơn vị mang tính cấp phát- sản xuất, hoặc từ đơn vị hành chính sự nghiệp sang kinh doanh có tư cách pháp nhân. Thứ năm: một số doanh nghiệp nhà nước cổ phần đã cho thấy xu hướng hoạt động có hiệu quả hơn. 2. Hạn chế của kinh tế nhà nước - Vốn đầu tư của khu vực kinh tế nhà nước luôn chiếm tỉ lệ cao trong tổng đầu tư xã hội (theo thứ tự từ năm 2000 đến 2006 là: 51,9; 59,8; 57,3; 52,9; 48,1; 47,1 và 46,2%) nhưng tỉ lệ đóng góp vào GDP không cân xứng chỉ ở mức 37-39% và tạo công ăn việc làm cho khoảng 9% lao động. - Suốt hàng chục năm khu vực kinh tế nội địa, mà có lẽ chủ yếu là khu vực kinh tế nhà nước, luôn nhập siêu ở mức cao (năm 2007: 20,3 tỉ USD) còn khu vực đầu tư nước ngoài lại xuất siêu, nói cách khác các doanh nghiệp nhà nước đã tiêu dùng và đầu tư hơn mức nó tạo ra rất nhiều trong thời gian dài. Đấy là những con số thống kê biết nói về thành tích của khu vực kinh tế giữ vai trò "chủ đạo". Chính vì muốn khu vực kinh tế nhà nước nắm vai trò "chủ đạo" nên khu vực này đã được hưởng những ưu đãi mà khu vực tư nhân (trong và ngoài nước) phải ghen tỵ (hay may thay không được "ưu ái" như vậy, vì nếu được ưu ái như thế thì chúng cũng sinh hư). Chúng được độc quyền kinh doanh trong nhiều lĩnh vực, được sử dụng những nguồn lực to lớn của đất nước như tài nguyên, đất đai và vốn đầu tư, được ưu đãi tín dụng, v.v... nhưng rõ ràng là thành phần kinh tế này chưa phát triển đúng với tiềm năng tương xứng, mà dựa dẫm khá nhiều vào sự “bao bọc” của nhà nước. 3 Các biện pháp khắc phục Làm thế nào để kinh tế nhà nước giữ được vai trò chủ đạo? Có nhiều nhóm biện pháp được đề ra: - Trước hết, đó là hoàn thiện cơ chế, chính sách để các doanh nghiệp nhà nước thực sự hoạt động trong môi trường cạnh tranh, công khai, minh bạch, nâng cao hiệu quả, các doanh nghiệp nhà nước có quyền tài sản, thực sự tự chủ, tự chịu trách nhiệm trên thị trường và trước pháp luật; gắn trách nhiệm quyền hạn và lợi ích của người quản lý doanh nghiệp với kết quả hoạt động của doanh nghiệp; chăm lo đào tạo đội ngũ quản trị giỏi… - Đồng thời, đó là đẩy mạnh việc sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước, trọng tâm là cổ phần hoá. Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, theo chủ trương chung, không phải là để tư nhân hoá doanh nghiệp nhà nước mà là để tạo ra một loại hình doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu nhằm vừa sử dụng có hiệu quả vốn, tài sản của nhà nước vừa huy động thêm vốn cho xã hội vào phát triển sản xuât kinh doanh, vừa tạo động lực mạnh mẽ và cơ chế quản lý năng động, có hiệu quả cho doanh nghiệp nhà nước vừa phát huy vai trò làm chủ thật sự của người lao động, của cổ đông và tăng cường sự giám sát của xã hội đối với doanh nghiệp, bảo đảm hài hoà lợi ích của nhà nước, doanh nghiệp và người lao động. - Đảng đã lãnh đạo đổi mới cơ chế, chính sách đối với doanh nghiệp nhà nước. Luật Doanh nghiệp nhà nước năm 2003 tạo khung pháp lý, có tác dụng giải phóng lực lượng sản xuất, phục vụ cho việc sắp xếp, đổi mới và phát triển doanh nghiệp nhà nước. Cơ chế quản lý doanh nghiệp nhà nước được đổi mới một bước quan trọng theo hướng xoá bao cấp, thực hiện chế độ công ty, phát huy quyền tự chủ và trách nhiệm của doanh nghiệp trong kinh doanh, giảm thiểu sự can thiệp trực tiếp của Nhà nước vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp; đã tập trung chỉ đạo sắp xếp, đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước. Qua sắp xếp, đổi mới và cổ phần hoá, số doanh nghiệp nhà nước giảm đi (năm 1990 là 12.084, đến tháng 6 năm 2005 còn 2.980 doanh nghiệp 100% vốn nhà nước), ngoài ra còn có 670 công ty cổ phần do Nhà nước chi phối trên 51% vốn điều lệ. Nhờ đổi mới như vậy mà các doanh nghiệp nhà nước hoạt động có hiệu quả hơn. Năm 2005 các doanh nghiệp đã đóng góp 39% GDP, 50% tổng ngân sách nhà nước. - Nhà nước đã từng bước tách chức năng quản lý nhà nước về kinh tế của các cơ quan nhà nước, chức năng chủ sở hữu doanh nghiệp nhà nước của Nhà nước và chức năng kinh doanh của doanh nghiệp chuyển từ quản lý cụ thể các hoạt động của nền kinh tế sang quản lý tổng thể nền kinh tế quốc dân; chuyển từ can thiệp trực tiếp vào nền kinh tế sang can thiệp gián tiếp thông qua hệ thống pháp luật, kế hoạch, cơ chế, chính sách và các công cụ điều tiết vĩ mô khác. Kết luận Xác định phát triển nền kinh tế thị trưòng xã hội chủ nghĩa là một quyết định hoàn toàn sang suốt của Đảng và Nhà nước ta. Đi lên từ một nước nông nghiệp nghèo nàn lạc hậu, đến nay chúng ta đã xây dựng được một nền kinh tế phát triển hơn trước rất nhiều. Điều đó càng khẳng định hơn vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý điều hành của nhà nước. Song mục tiêu cao hơn mà chúng ta đặt ra ngay từ đầu không chỉ giản đơn là phát tiển nền kinh tế, mà là hướng tất cả các hoạt động tiến lên chủ nghĩa xã hội. Nền kinh tế nhiều thành phần chịu sự quản lý của Nhà nước có thể phát triển đi theo chủ nghĩa xã hội, cũng có thể chệch hướng đi theo con đường tư bản chủ nghĩa. Phát triển theo hướng này theo hướng kia, điều đó phụ thuộc chặt chẽ vào khả năng điều tiết nền kinh tế vĩ mô của nhà nước, và vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước. Thực tiễn đã chứng minh sự cần thiết tất yếu của hai nhân tố này trong sự nghiệp đi lên chủ nghĩa xã hội của đất nước. Tuy vẫn còn một số hạn chế, nhưng phải thừa nhận những đóng góp hết sức to lớn của hai nhân tố này, trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhờ sự hoạt động tích cực và có hiệu quả này mà kinh tế nước ta đã đạt được những thành tựu hết sức to lớn. Nhưng, hướng phát triển của chúng ta không chỉ đơn thuần là cải tạo nền kinh tế, mà quan trọng hơn, đó là đưa đất nước ta đi theo con đường chủ nghĩa xã hôi. Nhà nước và kinh tế nhà nước đã giải quết được yêu cầu đó, thể hiện trên tất cả các lĩnh vực, đặc biệt là trên lĩnh vực phúc lợi xã hội, thực hiện xoá đói giảm nghèo, phát triển y tế giáo dục, xây dựng xã hội công bằng, tiến bộ, văn minh. Việt Nam được Liên Hợp quốc đánh giá có chỉ số HDI tương đối cao. Vai trò của Nhà nước và kinh tế nhà nước ngày càng trở nên quan trọng và cần thiết, vì vậy, chúng ta cần tạo ra môi trường hoạt động tốt nhất, đồng thời, tin tưởng vào sự lãnh đạo của chúng để tiến lên chủ nghĩa xã hội an toàn và nhanh chóng nhất. Mục lục I- Lời mở đầu 1 II- Những vấn đề chung, cơ sở lý thuyết và thực tiễn 2 - Các khái niệm cơ bản về kinh tế thị trưòng đinh hướng xã hội chủ nghĩa và kinh tế nhà nước 2 - Tính tất yếu sự điều tốt vĩ mô của nhà nước 2 - Tính tất yếu của kinh tế nhà nước 3 - Vai trò của nhà nước 4 - Vai trò của kinh tế nhà nước 9 III- Thực trạng vai trò của nhà nước và kinh tế nhà nước 11 A. Thực trạng vai trò quản lý kinh tế của nhà nước 11 1. Những thành tựu 12 2. Hạn chế 14 3. Biện pháp khắc phục 14 B. Thực trạng của kinh tế nhà nước 16 1. Những thành tựu 17 2. Biện pháp khắc phục 18 IV- Kết luận 19 Danh mục tài liệu tham khảo Thời báo kinh tế Việt Nam Tạp chí Đảng Cộng sản Việt Nam Trang web Bộ ngoại giao Việt Nam Báo Tiền phong, Thanh niên

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc10612.doc