Đề tài Những vấn đề lý luận chung về cạnh tranh và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường

Đối với cán bộ chủ chốt thì cần phải trang bị, bổ sung và nâng cao trình độ lý luận về các kiến thức cơ bản như kiến thức về công nghệ, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng tổng hợp ( dự đoán, lập kế hoạch, ra quyết định ). Những cán bộ này phải được đào tạo trên các lĩnh vực như tổ chức quản lý kinh doanh, pháp luật kinh tế, tiền tệ, tín dụng, phân tích hoạt động kinh doanh, thông tin, thị trường, kinh tế đối ngoại, ngoại ngữ đạt bằng C có thể giao dịch trực tiếp khi làm việc với khách hàng nước ngoài ( khi có nhu cầu ). Công ty có thể tổ chức học tập trung theo định kỳ một năm một khoá học. Chi phí cho mỗi khoá học ước tính là 50.000.000 đồng.

doc90 trang | Chia sẻ: haianh_nguyen | Lượt xem: 1116 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Những vấn đề lý luận chung về cạnh tranh và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ời vụ nên khâu thu mua tạo nguồn phải tiến hành đồng bộ khẩn trương. Nhưng khâu thu mua của công ty lại thực hiện chưa tốt nên bỏ lỡ nhiều đơn đặt hàng. Đây là một điều đáng tiếc cần phải khắc phục ngay. Mặt khác khâu vận chuyển còn chưa kịp thời cũng là một nhân tố ảnh hưởng tới thời hạn giao hàng của công ty. điều này không những gây ra những phiền toái cho người mua mà còn sinh ra những khoản bồi thường không đáng có do sự chậm trễ. 4.2. Các nhân tố trong công ty có ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của hàng hoá Nhân tố thứ nhất: khả năng tài chính của doanh nghiệp. Khả năng tài chính của doanh nghiệp được phân tích dựa vào báo cáo thu nhập, thông số tài chính và bảng tổng kết tài sản của công ty qua các năm. tt Các thông số 1999 2000 2001 1 Khả năng thanh toán hiện thời 1,04 1,1 0,954 2 Khả năng thanh toán nhanh 0,28 0,096 0,18 3 Kỳ thu tiền bình quân 72 85 89 4 Kỳ trả tiền bình quân 87 87 88 5 Vòng quay phải trả 5 4,2 3,9 6 Vòng quay phải thu 4,13 4,13 4,13 7 Thông số nợ 1,6 2,9 3,0 Nguồn: bảng cân đối kế toán hàng năm của công ty Tài sản 1999 2000 2001 Giá trị % Giá trị % Giá trị % Tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn 68217 0.75 70000 0.758 71500  75.6 Tài sản cố định và đầu tư dài hạn 22015 0.24 22297 0.241 23020  24.4 Tổng tài sản có 90232 92297 94520 Nguồn Nợ phải trả 63282 0.701 65530.8 0.71 66164 0.7 Nguồn vốn chủ sở hữu 26950 0.298 26766.2 0.29 28356 0.3 Tổng số vốn 90232 92297 94520 Nguồn: bảng cân đối kế toán qua các năm của công ty Qua phân tích thực tế và số liệu, có thể đánh giá khả năng tài chính của công ty như sau: Khả năng thanh toán hiện thời của công ty qua các năm xấp xỉ 1,0 nhưng khả năng thanh toán nhanh rất thấp(0,28-0,0096). Đặc biệt là năm 1999 khả năng thanh toán chỉ có 0,0096. nguyên nhân là các khoản phải thu của công ty quá lớn, lượng tiền thu về rất ít. Điều này cho thấy khả năng thanh toán của công ty không cao lắm. Vòng quay phải trả thấp hơn vòng quay phải thu, kỳ trả tiền chậm hơn kỳ thu tiền. Những thông số này phản ánh công ty không bị đọng vốn trong khâu thanh toán nhưng cũng không đi chiếm dụng vốn bên ngoài. Chính điều này phản ánh tình hình thanh toán các hợp đồng nội và ngoại. Hiện nay các hợp đồng ngoại có thời gian thanh toán là 90 ngày và thời hạn thanh toán hợp đồng nội( trừ hợp đồng uỷ thác) nhanh hơn một chút. Tuy nhiên, ta thấy kỳ thu tiền bình quân có xu hướng tăng lên vào các năm 1999, 2000 và kỳ trả tiền bình quân có xu hướng giảm xuống. Đây là dấu hiệu không tốt trong phương thức thanh toán. Hiệu quả sử dụng tài sản tương đối ổn định nó phản ánh doanh thu thuần cao hơn so với tổng tài sản nhưng sự gia tăng doanh thu thuần không cao hơn so với sự gia tăng tổng tài sản. Thông số nợ của công ty tăng vọt vào các năm 1999 với hệ số 2,9 năm 2000 với hệ số 3,0. Điều này ảnh hưởng tới khả năng vay nợ của công ty, đặc biệt là vốn ngắn hạn đã chiếm tỷ lệ khá lớn. Do đó công ty phải xem xét lại những khoản nợ này. Như vậy, khả năng tài chính của công ty chưa tới mức báo động. Công ty vẫn tự chủ được trong nguồn vốn của mình. Nhưng để đầu tư đổi mới trang thiết bị, máy móc và xây dựng một nhà máy chế biến nông sản là một vấn đề hết sức khó khăn đặt ra cho công ty. Vấn đề khó khăn nữa cũng phải kể ra đó là nguồn vốn chủ sở hữu của công ty còn nhỏ so với tông nguồn vốn nên một phần công ty phải đi vay lãi ngoài dẫn đến hiệu quả sử dụng vốn của công ty giảm. Nhân tố thứ hai nguồn nhân lực Chỉ tiêu phân bổ lao động Số lượng Tỷ lệ (%) 1. Tổng số lao động 646 100 2. Phân theo cơ cấu -Tổng điều hành -Chuyên viên quản trị -Chuyên viên tác nghiệp 03 200 416 0,65 32,33 67,02 3. Phân bổ theo trình độ -Đại học và trên đại học -Trung cấp và cao đẳng -Phổ thông và trung học 434 212 0 68 32 0 Từ bảng trên ta thấy hầu hết cán bộ của công ty đều có bằng cấp và được đào tạo chuyên sâu trong hoạt động xuất nhập khẩu. Gần 70% trong tổng số cán bộ làm việc tại công ty đều có trình độ đại học. So với các doanh nghiệp trong cùng nghành thì công ty có đội ngũ cán bộ giàu kinh nghiệm, có trình độ tương đối tốt, nhưng so với lực lượng lao động ở các công ty nước ngoài thì cán bộ của ta còn bộc lộ nhiều nhược điểm như tác phong làm việc còn chậm, không nhạy bén trong các nghiệp vụ, không được bổ sung thường xuyên kiến thức mới, hiệu quả làm việc không cao... Điều này là tạo ra cho doanh nghiệp rất khó có thể chiến thắng trong cạnh tranh. Chuyên viên quản trị cấp cao là một trong những nhân tố ảnh hưởng rất lớn tới khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp cũng như sản phẩm của doanh nghiệp. Sự nhạy bén của các chuyên viên quản trị sẽ mang lại thành công hay thất bại cho doanh nghiệp. Sự nhạy bén của các chuyên viên quản trị là những dự đoán trước những sự biến động của thị trường, đi trước đối thủ cạnh tranh để đáp ứng phù hợp với những biến động đó. Về mặt này, thì các chuyên viên quản trị cấp cao của ta còn thua kém rất nhiều so với các chuyên viên quản trị của các doanh nghiệp nước ngoài. Các chuyên viên quản trị của ta thiếu sự nhạy bén trong kinh doanh, thiếu đầu óc sáng tạo, khả năng quản lý còn kém... Một phần nguyên nhân là do hầu hết những chuyên viên này trưởng thành trong cơ chế tập trung quan liêu bao cấp. Những điều này ảnh hưởng rất lớn tới khả năng cạnh tranh cũng như khẳng định vị trí của doanh nghiệp trên thương trường quốc tế. Nhìn chung lực lượng cán bộ của công ty có trình độ cao nhưng vẫn chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu của công việc nhất là khi các đối tác chủ yếu là người nước ngoài. Công ty cần có những biện pháp để tăng cường hiệu quả lao động cho cán bộ trong công ty. Nhân tố thứ ba: Cơ sở vật chất trang thiết bị Cơ sở vật chất trang thiết bị của công ty được đánh giá trên yếu tố: Trình độ kỹ thuật công nghệ, cơ sở vật chất trang thiết bị, nguồn cung cấp nguyên vật liệu. Cả ba yếu tố này, công ty còn thua kém so với các đối thủ cạnh tranh. Trình độ kỹ thuật công nghệ: hệ thống máy móc của công ty đã quá cũ, phần lớn máy móc của công ty đã sử dụng cách đây 20 năm, không được đổi mới. Máy móc đã hết khấu hao từ lâu nhưng do điều kiện còn hạn chế công ty không có khả năng đổi mới. Điều này ảnh hưởng rất lớn tới khả năng cạnh tranh của hàng nông sản. Giá trị mà công ty đóng góp vào hàng nông sản ở khâu chế biến còn rất ít, hầu hết chỉ qua chế biến và bảo quản thủ công. Đối với nguồn cung cấp nguyên vật liệu: nhân tố có vai trò quan trọng trong việc tạo ra lợi thế cạnh tranh cho công ty. Các công ty thành công thường tìm kiếm cho mình một nguồn cung cấp nguyên vật liệu ổn định với chất lượng nguồn nguyên vật liệu cao. Với kinh nghiệm lâu năm của mình công ty đã tạo cho mình một nguồn nguyên vật liệu ổn định nhưng do thu gom từ nhiều nơi nên nguồn vật liêu này không đồng đều và có chất lượng không cao. Trong những năm tơi công ty cần có các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng nguồn nguyên vật liệu để từ đó có thể nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng nông sản. Đối với cơ sở vật chất của công ty: cơ sở vật chất trang thiết bị ảnh hưởng rất lớn tới khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Ngày nay, hệ thống thông tin phát triển rất mạnh mẽ. Công ty sẽ có lợi thế hơn rất nhiều khi nắm bắt được những thông tin quan trọng như: tình hình nhu cầu thị trường, sự biến động của giá cả các loại mặt hàng có liên quan, nắm bắt được những động thái, kế hoạch của đối thủ cạnh tranh cũng như thông tin về nguồn lực của đối thủ cạnh tranh. Trước sự nhận thức đó năm 2000 công ty đã đầu tư một hệ thống giàn máy vi tính cho các phòng nghiệp vụ, hệ thống máy điện thoại, máy fax và quan trọng nhất công ty kết nối internet cho các máy vi tính trong các phòng nghiệp vụ. Điều này tạo điều kiện rất thuận lợi cho các phòng nghiệp vụ có thể giao dịch với các đối tác nước ngoài, nắm bắt được những sự thay đổi của các thị trường nông sản trên thế giới,... đồng thời giảm được chi phí giao dịch rất nhiều. Nhân tố thứ tư công tác Marketing Khách hàng là nhân vật quan trọng quyết định sự thành công của một công ty trên thương trường. Nếu khách hàng ưu chuộng sản phẩm của công ty thì công ty đó đứng vững được trên thị trường ngược lại sẽ bị bại vong. Chính vì vậy mà các doanh nghiệp trên thị trường rất quan tâm tới các vấn đề Marketing như quảng cáo, dịch vụ sau bán hàng để lôi kéo khách hàng. Rất nhiều công ty thành công nhờ việc áp dụng tốt công tác Marketing. Công tác Marketing là phương tiện để khách hàng biết đến sản phẩm của doanh nghiệp đồng thời nó còn giúp doanh nghiệp có thể hiểu rõ hơn nữa về khách hàng của mình và đáp ứng nhu cầu của khách hàng ngày một tốt hơn. công tác Marketing giúp cho doanh nghiệp xây dựng hình ảnh của mình trên thương trường. Đối với công ty thì công tác Marketing còn tương đối mới mẻ. Do hoạt động này rất mới chỉ thực sự nổ ra ở nước ta trong một vài năm gần đây, số lượng cán bộ chuyên môn về lĩnh vực này trong công ty không có nhiều. Sau đây là một số hoạt động Marketing chủ yếu mà doanh nghiệp đang thực hiện. Hoạt động nghiên cứu thị trường: Từ khi xoá bỏ bao cấp các doanh nghiệp đều tự chủ trong các hoạt động sản xuất kinh doanh. Trước đây, công ty chủ yếu hoạt động theo kế hoạch Nhà Nước giao. Đến nay công ty tự lo đầu vào và đầu ra cho mình, tự khai thác nguồn hàng cho mình. Trong điều kiện nền kinh tế hiện nay đầy biến động, tình hình cạnh tranh ngày càng gay gắt, để tồn tại và phát triển thì công ty phải chú trọng tới hoạt động nghiên cứu thị trường nắm nhu cầu của khách hàng từ đó chỉ cung ứng những sản phẩm mà thị trường cần. Các hoạt động nghiên cứu thị trường chủ yếu do các phòng nghiệp vụ tự đảm nhận, ví dụ các phòng nghiệp vụ về hoạt động xuất khẩu nông nông sản sẽ tự tìm hiểu về thị trường nông sản. công ty chưa tổ chức thành một phòng chuyên làm công tác Marketing. Điều này thể hiện tính tự phát của hoạt động nghiên cứu thị trường của công ty. Chính sách giá cả của công ty được đánh giá tương đối linh hoạt. Giá các sản phẩm của công ty thường thấp hơn so với giá cả sản phẩm cùng loại trên thị trường đồng thời công ty cũng bán giảm giá cho những người mua với khối lượng lớn, khách hàng truyền thống... Có thể nói mặc dù phòng Marketing chưa hình thành nhưng chính sách giá cả của công ty khá linh hoạt. Chính sách phân phối: chính sách phân phối của công ty còn đơn giản. Các loại kênh phân phối của công ty không đa dạng, chủ yếu là loại kênh trực tiếp hoặc kênh qua một trung gian nước ngoài. Đây có thể nói là một điểm yếu của công ty trong việc đưa sản phẩm của công ty đến tay người tiêu dùng. 5. Đánh giá khả năng cạnh tranh của công ty 5.1 những thành tựu đạt được công ty đã từng bước xây dựng những nhà máy chế biến hàng nông sản và cải thiện hệ thống kho tàng, bến bãi nhằm mục đích đảm bảo và làm tăng chất lượng hàng nông sản. mặc dù chất lượng hàng nông sản còn chưa đáp ứng được nhu cầu của khách hàng. Mức tăng kim nghạch xuất khẩu của các loại hàng nông sản chính vẫn tăng đều đặn mặc dù cầu trên thị trường bị giảm sút liên tục. Hiện nay mức giá và chất lượng sản phẩm không ngừng được cải tiến và cũng mang lại cho công ty một số thuận lợi trong việc tăng cường khả năng cạnh tranh cho công ty. Trước tình hình phải đối mặt với khả năng cạnh tranh gay gắt với các đối thủ, nhận thức rằngvới trình độ công nghệ chế biến và bảo quản hiện nay thì không thể đứng vững trong cạnh tranh nên công ty đã chủ trương tăng cường đổi mới công nghệ chế biến, bảo quản, mở rộng quy sản xuất, nâng cao chất lượng để chiếm lĩnh thị trường. Sau những năm vật lộn trong cạnh tranh, sản phẩm của công ty hiện nay đã phần nào có mặt ở nhiều thị trường mới trên thế giới, được chấp nhận ở một vài thị trường khó tính. Kết quả thu được từ cạnh tranh là công ty đã tiêu thụ được nhiều sản phẩm, ít có sản phẩm tồn kho và lợi nhuận không ngừng tăng lên. 5.2 Những mặt còn tồn tại Thị phần: thị phần của công ty trong thị trường còn rất nhỏ và tăng chậm trong những năm qua. Trong khi đó thị phần của một số công ty khác và của một số đối thủ nước ngoài đang có xu hướng tăng. Đoạn thị trường: hiện nay công ty chỉ khai thác được đoạn thị trường có mức sống trung bình trong khi đó nhu cầu đối với các sản phẩm nông sản trung và cao cấp đang có xu hướng tăng lên. Hiện nay công ty vẫn còn đang tập trung vào khai thác đoạn thị trường trung bình này. khu vực tiêu thụ: sản phẩm của công ty chủ yếu tiêu thụ ở một số thị trường ở EU, ASEAN, Đài loan... Một số thị trường tiềm năng như Mỹ, Nhật thì công ty chưa đạt được thị phần cao ở những nước này. giá cả sản phẩm nông sản của công ty còn chịu sự biến động rất lớn vào giá cả thị trường nông sản trên thế giới và bán với giá thấp hơn rất nhiều so với giá cả trên thị trường và một số đối thủ chính. Những yếu kém về sản phẩm: chất lượng của sản phẩm còn thua kém so với chất lượng hàng nông sản của một số nước khác. Ngoài ra mẫu mã, bao bì sản phẩm của công ty vẫn còn đơn điệu chưa thu hút được khách hàng. Chưa có tên nhãn hiệu nên chưa tạo ra được uy tín cho khách hàng. 5.3 Những nguyên nhân dẫn đến tồn tại thứ nhất: sản phẩm của công ty không ngừng tăng lên nhưng cũng không theo kịp tốc độ phát triển của nghành bởi lượng nông sản cung cấp ra thị trường ngày càng tăng do sự xuất hiện của nhiều doanh nghiệp hoạt động trên cùng lĩnh vực xuất nhập khẩu. Bên cạnh đó còn chịu sự cạnh tranh rất mạnh từ những nước xuất khẩu những mặt hàng giống công ty. Thứ hai: Do hạn chế về công nghệ, các dây chuyền chế biến hàng nông sản mặc đã có nâng cấp nhưng vẫn chưa đồng bộ, vẫn còn quá nhiều máy móc thiết bị quá lạc hậunên ảnh hưởng đến quy mô sản xuất và chất lượng sản phẩm. Hiện nay công ty không đáp ứng nổi nhu cầu của thị trường. Về chất lượng còn thua kém so với một số sản phẩm của nhiều nước trong khu vực. Trong thời gian tới công ty phải tiếp tục đổi mới công nghệ chế biến hàng nông sản để nâng cao chất lượng đáp ứng được yêu cầu của thị trường. Thứ ba: Công ty chưa có sự kết hợp hài hoà giữa các chính sách Marketing, các hoạt động mang tính chất Marketing của công ty còn mang tính chất tự phát, chưa có bài bản. do đó hoạt động Marketing rất mờ nhạt. công ty ít chú ý tới hoạt động nghiên cứu thị trường để nắm bắt yêu cầu của người tiêu dùng nên việc thu thập các thông tin phản hồi rất kém. Công ty chưa có khả năngthực hiện tốt các hoạt động quảng cáo tiếp thị. Nhưng cũng phải nói rằng để thực hiện các hoạt động này thì đòi hỏi phải chi vào đó một phần ngân sách rất lớn. Trong khi đó chi phí này lại bị khống chế bởi quy định của Nhà Nước( không vượt quá 7% tổng chi phí thực tế) Thứ tư: Đội ngũ lao động của công ty mặc dù trải qua nhiều năm kinh nghiệm song trong quá trình phát triển của thị trường có nhiều nghiệp vụ phức tạp phát sinh mà họ lại chưa được đào tạo kỹ lưỡng để có kiến thức đầy đủ cũng như tác phong công nghệ trong lao động để có thể làm việc một cách tốt nhất. Phần III các giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của mặt hàng nông sản xuất khẩu ở công ty xuất nhập khẩu tổng hợp I 1. Mục tiêu hoạt động của Công ty năm 2001 - Chỉ tiêu tổng kim ngạch xuất nhập khẩu: 64 triệu USD. Trong đó xuất khẩu là 24 triệu USD và nhập khẩu là 40 triệu USD ( kim ngạch xuất khẩu nông sản là 8.500.000 USD ) Tổng doanh thu : 70,5 tỷ Đồng Lợi nhuận doanh nghiệp : 2,6 tỷ Đồng Tổng quỹ lương : 6,0 tỷ Đồng Để thực hiện các mục tiêu trên, Công ty đã đề ra rất nhiều các biện pháp khác nhau. Đối với lĩnh vực xuất khẩu nông sản , Công ty đã đề ra những hướng đi cụ thể và thích hợp. 2. Phương hướng hoạt động xuất khẩu nông sản của Công ty - Tiếp tục đầu tư sức lực và chi phí hợp lý để củng cố mở rộng thị trường. Đặc biệt quan tâm hơn nữa đến thị trường EU và Trung Quốc. Tranh thủ các chính sách hỗ trợ của Nhà nước , Bộ thương mại để tìm kiếm thị trường và bạn hàng. Tăng cường bám thị trường nội địa, phát huy thế mạnh về vốn, kinh nghiệm tìm cách làm thích hợp để thâm nhập thị trường . - Tiếp tục áp dụng các phương thức kinh doanh linh hoạt trong xuất khẩu nông sản để tăng thêm số hợp đồng xuất khẩu . Chú trọng hình thức xuất khẩu tự doanh nhằm nâng cao hơn nữa tính chủ động của doanh nghiệp . - Duy trì sự phát triển ổn định của nhóm hàng, mặt hàng xuất khẩu truyền thống như gạo, lạc, cà phê... đẩy mạnh những mặt hàng có tỷ xuất lợi nhuận khá như cói, mây tre đan... Chú trọng hơn nữa tới chế biến hàng nông sản . Tiếp tục củng cố bộ máy tổ chức và cán bộ các lĩnh vực mới như: Xí nghiệp Quế, xí nghiệp chế biến hạt điều...để các cơ sở này hoạt động có nề nếp, tăng hiệu quả. Tìm đối tác hợp tác sản xuất, trợ giúp về kỹ thuật công nghệ để nâng cao công suất và năng suất lao động của các xí nghiệp này. II- Giải pháp nội bộ công ty Giải pháp thứ nhất: huy động và sử dụng nguồn vốn có hiệu quả + Cơ sở lý luận Huy động vốn là một hoạt động hết sức cần thiết của doanh nghiệp. Để đảm bảo đủ vốn cho sản xuất kinh doanh thì các doanh nghiệp không chỉ dựa vào nguồn vốn tự có của mình mà còn huy động nguồn vốn từ các nguồn khác. Ngoài ra huy động vốn là một hoạt động hết sức cần thiết cho các doanh nghiệp hiện nay nếu họ muốn nâng cao hiêu quả sử dụng vốn thông qua các nguồn vốn sẵn có trên thị trường vốn để từ đó có thể nâng cao hiệu quả kinh doanh cho doanh nghiệp. + Cơ sở thực tiễn Mỗi năm Công ty đều có bổ sung đáng kể cả về vốn cố định và vốn lưu động nhằm nâng cao khả năng thanh toán, khả năng tự chủ trong kinh doanh của Công ty. Tuy vậy, Công ty cũng có lúc chưa hoàn toàn đảm bảo khả năng thanh toán trong quá trình kinh doanh. Chẳng hạn năm 1999, tỷ suất thanh toán nhanh của Công ty là 0,28. Tỷ suất này nhỏ hơn 0,5 cho thấy Công ty không đủ tài sản lưu động để thanh toán các khoản nợ ngắn hạn. Việc thiếu vốn kinh doanh bao giờ cũng gây rất nhiều khó khăn đối với Công ty. Công ty cũng có lúc phải lấy uy tín của mình để hưởng các ưu đãi về thanh toán tiền hàng; các khoản vay nóng của ngân hàng đôi khi cũng được Công ty sử dụng như những giải pháp tình thế. Tóm lại, việc huy động vốn là điều rất cần thiết đối với Công ty trong giai đoạn hiện nay. + Phương thức tiến hành Công ty cần huy động từ những nguồn sau: - Nguồn trích từ lợi nhuận: Đây là nguồn cơ bản lâu dài để mở rộng phạm vi kinh doanh của doanh nghiệp . Nguồn này phụ thuộc trực tiếp vào hiệu quả kinh doanh của Công ty qua từng năm nên nhiều khi không chắc chắn, việc chỉ trông đợi vào sự bổ sung nguồn vốn từ lợi nhuận là chưa đủ. - Nguồn vốn huy động thông qua các tổ chức tài chính tín dụng: Cùng với sự lớn mạnh của cơ chế thị trường là sự hoàn thiện của hệ thống các ngân hàng và hoạt động ngân hàng. Ngân hàng trở thành nơi tin cậy cho các doanh nghiệp có thể huy động vón thông qua các hình thức vay ngắn hạn, dài hạn, tín dụng xuất khẩu để phục vụ cho các hoạt động sản xuất kinh doanh và thương mại quốc tế. Việc tiếp cận nguồn vốn này tuy không phải dễ dàng nhưng Công ty cần phải coi đây là nguồn quan trọng để khai thác đặc biệt là các khoản vay trung hạn, dài hạn và tín dụng xuất khẩu do lãi xuất ngân hàng hiện nay khá thấp. - Vốn huy động trong cán bộ công nhân viên: Đây là hình thức tiến tới cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước . Hiện nay, số cán bộ công nhân viên trong Công ty là 646 người, nếu huy động mỗi người 500.000 đồng thì Công ty sẽ có 323 triệu đồng. Thêm nữa việc huy động vốn sẽ gắn lợi ích của người lao động với Công ty tạo thêm động lực để mọi người làm việc có trách nhiệm hơn. - Nguồn vốn liên doanh, liên kết: Công ty có thể nghiên cứu các dự án liên doanh, liên kết với nước ngoài trong những khoảng thời gian nhất định nhằm thu hút nguồn vốn từ ngoài vào Công ty . Cùng với chủ chương của Nhà nước là khuyến khích đầu tư của các nước phát triển vào Việt nam thì việc liên doanh, liên kết là hợp lý. Tuy nhiên việc liên doanh liên kết đòi hỏi phải có sự nghiên cứu kỹ và có chọn lọc. Việc sử dụng các dây chuyền công nghệ sản xuất đòi hỏi phải là những công nghệ hiện đại có hiệu quả cao. - Trong một số trường hợp, việc tận dụng vốn của bạn hàng thông qua thanh toán trả chậm khi nhập hàng hoặc yêu cầu đối tác hỗ trợ tín dụng cũng là những việc làm cần thiết để tranh thủ tập trung vốn cho hoạt động thu mua hàng xuất khẩu . + Hiệu quả thực hiện biện pháp Nhờ việc huy động vốn linh hoạt mà công ty có thể tránh khỏi tình trạng luôn thiếu vốn cho sản xuất kinh doanh, làm cho bảng cân đối kế toán của công ty trở nên khả quan hơn. Đồng thời các giải pháp huy động vốn trên không làm cho công ty rơi vào tình trạng nợ ngắn hạn quá lớn dẫn đến mất khả năng thanh toán hiện thời. Bên cạnh việc tích cực huy động vốn, doanh nghiệp cần chú trọng đến việc sử dụng vốn sao cho đạt hiệu quả cao nhất. Để sử dụng hiệu quả nguồn vốn, Công ty cần tuân thủ các nguyên tắc sau: - Đầu tư đúng trọng điểm: Việc sử dụng vốn phải có trọng tâm trọng điểm tránh tản mác, vô hiệu quả. Trong lĩnh vực hoạt động xuất khẩu nông sản cần tập trung vốn hơn nữa cho các mặt hàng xuất khẩu chủ lực như: lạc nhân, cao su, hạt tiêu... nhằm tăng chất lượng và khối lượng xuất khẩu các mặt hàng này. - Tăng nhanh vòng quay của vốn: Để tăng nhanh vòng quay của vốn cần phải tăng sức cạnh tranh của hàng nông sản xuất khẩu . Điều này chỉ được thực hiện khi việc đầu tư là thích đáng làm cho chất lượng sản phẩm tốt hơn và phù hợp với nhu cầu của thị trường. - Tăng cường công tác quản lý tài chính: Hạch toán theo dõi đầy đủ, chính xác, kịp thời tình hình thu chi của Công ty; quản lý chặt chẽ vốn, chống tham ô, lãng phí và giảm thiệt hại do vi phạm hợp đồng . - Tăng cường các biện pháp tích kiệm, sử dụng hợp lý tài sản, giảm thiệt hại. Giải pháp thứ hai: Nâng cao chất lượng sản phẩm + Cơ sở lý luận: chất lượng sản phẩm tác động trực tiếp đến người tiêu dùng nên nó quyết định đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Nó đảm bảo cho doanh nghiệp mở rộng được thị trường, tiêu thụ sản phẩm. Nhờ có sản phẩm có chất lượng mà doanh nghiệp tăng được uy tín cho nhãn mác sản phẩm của doanh nghiệp và có khả năng định giá cao hơn. Ngoài ra nâng cao chất lượng sản phẩm giúp doanh nghiệp giảm được chi phí sản phẩm hỏng và chi phí để sửa chữa sản phẩm. + Cơ sở thực tiễn Chất lượng sản phẩm là yếu tố cạnh tranh quan trọng trong kinh doanh xuất khẩu. Chất lượng nông sản phụ thuộc rất nhiều vào khả năng chế biến hay nói đúng hơn là công nghệ chế biến. Trong những năm trước, Công ty thườngphải mua hàng nông sản dạng nguyên liệu rồi thuê chế biến, việc này nảy sinh những vấn đề sau: - Chất lượng hàng hoá không đều, không ổn định. Đây là điều rất dễ xảy ra khi thuê nhiều đơn vị chế biến màmỗi đơn vị lại có công nghệ chế biến khác nhau. Điều này gây bất lợi, dễ làm mất uy tín của Công ty với các đối tác nước ngoài. - Chi phí chế biến cao làm cho giá thành sản phẩm tăng lợi nhuận giảm. Mặt khác nếu tăng giá bán sản phẩm, Công ty sẽ mát khách hàng. Chính vì vậy, việc xây dựng thêm các cơ sở chế biến là rất cần thiết. Hiện nay Công ty đã có một số xí nghiệp chế biến hoạt động rất hiệu quả như xí nghiệp quế, xí nghiệp chế biến hạt điều... càng cho thấy hướng đi trên là đúng đắn. Đồng thời với việc đẩy mạnh chế biến, công tác giám định chất lượng đối với nguồn hàng xuất khẩu cần được thực hiện một cách nghiêm ngặt bởi đó là công việc quyết định đến chất lượng hàng hoá. + Phương thức tiến hành * Đầu tư công nghệ chế biến hàng nông sản: Nhìn vào thực trạng công nghệ chế biến hàng nông sản của công ty ta nhận thấy một điều là công nghệ chế biến của công ty còn quá lạc hậu và nghèo nàn, do đó dẫn chất lượng hàng nông sản của công ty không cao. Trước hoàn cảnh đó công ty cần thực hiện các công việc sau: Xây dựng thêm một dây chuyền sấy khô hàng nông sản. hàng nông sản là loại hàng rất dễ bị hư hỏng khi gặp phải điều kiện không thuận lợi. Nếu ta có thể xây dựng được dây chuyền sấy khô sẽ giảm tỷ lệ hư hỏng của sản phẩm đi rất nhiều. Ngoài ra hàng của công ty đóng gói khi xuất sang các nước vẫn đảm được chất lượng cao. Xây dựng một dây chuyền kiểm tra độ đồng đều của hàng nông sản. Phần lớn hàng nông sản khi xuất sang các nước đều bị đánh giá là chất lượng không cao một phần do mức độ không đồng đều của hàng nông sản. Do đó hàng nông sản của công ty bị ép bán với giá thấp hơn so với hàng hoá cùng loại. Nếu công ty thực hiện được hai công việc trên chất lượng hàng nông sản của công ty sẽ được cải thiện lên rất nhiều từ đó có thể tăng được khối lượng tiêu thụ và doanh thu. * Thực hiện tốt công tác dự trữ và bảo quản hàng hoá. Để có hàng hoá tốt phục vụ cho xuất khẩu thì không thể không thực hiện tốt công tác dự trữ và bảo quản hàng hoá. Sau khi đưa hàng hoá về đến kho trạm, các tổ kho phải thực hiện tốt các công tác phân loại, bao gói, xếp hàng hoá vào kho và hàng loạt các nghiệp vụ dự trữ và bảo quản khác để giữ gìn chất lượng, số lượng hàng hoá và luôn sẵn sàng xuất hàng một cách nhanh chóng thuận tiện. Trong dự trữ bảo quản hàng hoá các yêu cầu kỹ thuật của kho chứa hàng rất quan trọng, nhất là đối với hàng nông sản rất dễ bị ẩm mốc mục... Hiện nay ở Công ty có một số kho không đủ yêu cầu cho việc dự trữ hàng nông sản: mái dột, nền ẩm, hệ thống thoát khí không đạt yêu cầu do đó Công ty cần có kế hoạch nâng cấp những kho hàng này bằng cách sửa lại mái, thay đổi, lắp đặt mới hệ thống máy điều hoà nhiệt độ, máy hút ẩm. Bên cạnh đó, Công ty nên yêu cầu các nhân viên của kho phải thường xuyên kiểm tra hàng hoá, kiểm tra các điều kiện về nhiệt độ, độ ẩm phù hợp với đặc tính bảo quản của từng loại hàng hoá. + Hiệu quả biện pháp Công ty sẽ thu được lợi rất lớn từ giải pháp nâng cao chất lượng sản phẩm. Năm 2000 và 2001 công ty đã không thể ký kết hợp đồng với đối tác Nhật bản vì chất lượng hàng nông sản của công ty không đảm bảo. Nếu công ty nâng cao được chất lượng sản phẩm thì giá cả hàng nông sản của công ty có thể tăng lên từ 5-10% so với giá cũ đồng thời công ty có thể tăng được lượng hàng tiêu thụ trên một số thị trường như Mỹ, Singapore, Đài loan, Nhật bản... từ đó có thể tăng doanh thu và lợi nhuận của công ty. Muốn thực hiện được giải pháp này công ty phải đầu tư hai dây chuyền sấy và dây chuyền kiểm tra mức độ đồng đều. Giá cả toàn bộ của hai dây chuyền này là: dây chuyền sấy 800 triệu, dây truyền kiểm tra độ đồng đều 1,2 tỷ. Ngoài ra công ty còn phải xây dựng một số cơ sở phụ trợ khác. Hai dây chuyền này dự kiến sẽ sử dụng trong vòng 10 năm. Hàng năm lợi nhuận của công ty có thể tăng thêm được từ 200 đến 300 triệu. Giải pháp thứ ba: Thực hiện đồng bộ các chính sách Marketing. + Cơ sở lý luận. Kinh tế thị trường càng phát triển thì hoạt động Marketing càng giữ vai trò quan trọng quyết định sự thành công hay thất bại trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trên thị trường .Nếu hoạt động Marketing được đẩy mạnh thì cũng có nghĩa là khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp cũng được tăng cường.Tốc độ phát triển của lĩnh vực xuất nhập khẩu ở nước ta hiện nay tất yếu sẽ dẫn đến sự cạnh tranh ngày cành khốc liệt do vậy việc đẩy mạnh hoạt động marketing là vấn đề cấp thiết. + Cơ sở thực tiễn . Trong thời gian qua các hoạt động mang tính chất marketing của công ty chủ yếu nằm rải rác ở các phòng nghiệp vụ. Do đó hoạt động Marketing rất mờ nhạt, ảnh hưởng tới thị phần của công ty, sản phẩm chỉ tiêu thụ ở một số thị trường truyền thống chưa vào được một số thị trường tiềm năng như Mỹ, nhật bản... Đã vậy một số thị trường truyền thống lại có xu hướng giảm đi. Theo kế hoạch năm 2002 công ty sẽ nâng tổng lợi nhuận dự kiến do vậy công ty cần thực hiện đồng bộ chính sách Marketing. + Phương thức tiến hành Tăng cường công tác nghiên cứu thị trường - Xác định thị trường hiện tại và thị trường tương lai tiềm năng của công ty, xác định thị trường nào là thị trường có triển vọng nhất, khả năng tiêu thụ sản phẩm của công ty trên thị trường đó là bao nhiêu, đặc điểm của mỗi loại thị trường. - Nghiên cứu và dự báo nhu cầu đối với từng loại sản phẩm. Khảo sát thị hiếu người tiêu dùng về các mặt như chất lượng, giá cả, bao bì, mẫu mã, phương thức giao nhận, phương thức thanh toán... xem đã phù hợp chưa, có cần điều chỉnh không? Ngoài ra cần phải phân tích khả năng của thị trường để phát hiện ra những thị trường mới, Công ty không thể cứ mãi trông cậy vào những sản phẩm và thị trường hiện tại được, mà cần phải thường xuyên nghiên cứu thị trường thấy được xu thế biến động của thị trường, dự báo được nhu cầu để từ đó kịp thời đưa ra những sản phẩm mới thay thế những sản phẩm đang ở thời kỳ suy thoái, tuy nhiên, trước khi đưa ra thị trường một sản phẩm mới thì Công ty còn phải tính đến sự phù hợp với mục tiêu và tiềm năng của mình, nghiên cứu từng khả năng từ khía cạnh quy mô và tính chất của thị trường. - Phải thường xuyên phân tích đánh giá các đối thủ cạnh tranh để thấy được khả năng cạnh tranh của công ty so với các đối thủ, xác định số lượng đối thủ cạnh tranh và ai là đối thủ cạnh tranh chính của công ty, họ mạnh yếu ở điểm nào? xác định thị phần, xem xét chất lượng, giá cả, phương pháp quảng cáo, dịch vụ khách hàng... của họ có gì khác biệt so với công ty. Đồng thời, công ty phải biết ai là người chiếm giữ vị trí thủ lĩnh của nghành và họ thành công là do đâu. - Để hoạt động nghiên cứu có hiệu quả thì công ty phải thường xuyên tổ chức các cuộc điều tra nghiên cứu thị trường như cử các nhân viên đi phỏng vấn trực tiếp khách hàng để thu thập các thông tin của khách hàng về sản phẩm của công ty, hoặc công ty tham gia các cuộc hội chợ triển lãm, trưng bày sản phẩm... những nhân viên làm nhiệm vụ nghiên cứu thị trường phải là những người có kiến thức chuyên nghành. Hoàn thiện chính sách sản phẩm Về chủng loại và cơ cấu mặt hàng: Hiện tại công ty có 6 loại sản phẩm chính được tiêu thụ nhiều nhất, đó là mặt hàng lạc nhân, cao su, quế, điều, gạo, cà phê. Trong 6 loại này thì mặt hàng quế và điều rất được ưa thích về chất lượng và giá cả nên tiêu thụ rất nhanh thậm chí không đáp ứng đủ nhu cầu. Mặt hàng quế, điều đem lại lợi nhuận cho Công ty rất lớn do đó Công ty nên tập trung mạnh vào hai loại mặt hàng này. Mặc dù lạc nhân tiêu thụ cũng rất tốt nhưng do sản xuất đem lại lợi nhuận không đáng kể nên công ty chỉ nên duy trì ở một mức sản lượng vừa phải. Còn cà phê của công ty nói chung tiêu thụ kém, không thể cạnh tranh được với cà phê của các nước khác. Công ty cần phải đặc biệt lưa ý tới sản phẩm này, nên đầu tư để nâng cao chất lượng cũng như hình thức mẫu mã để hơn hẳn của đối thủ. Có như vậy thì mặt hàng này mới có thể tồn tại được. Về bao bì nhãn mác của sản phẩm: Nếu so sánh với các đối thủ khác thì bao bì nhãn mác của công ty còn đơn điệu, không hấp dẫn người tiêu dùng. Nhược điểm này gây ảnh hưởng rất nhiều đến khả năng cạnh tranh. Để khắc phục nhược điểm này Công ty cần quan tâm đổi mới cải tiến mẫu mã bao bì sao cho ngày một đẹp, hấp dẫn hơn, khắc phục được những điểm yếu của mình. Xây dựng chính sách giá cả linh hoạt : Giá cả có ảnh hưởng rất đến khối lường bán của công ty. Giá cả là một trong những công cụ cạnh tranh chính của công ty. Do vậy, công ty cần xây dựng được một chính sách giá linh hoạt hợp lý để góp phần đẩy mạnh khả năng canh tranh. Mục tiêu của việc xây dựng chính sách giá cả linh hoạt là phải tăng được khối lượng bán ra và tăng lợi nhuận. Ngoài việc định giá dựa vào chi phí sản xuất thì công ty còn phải tính đến giá của các sản phẩm cùng loại khác trên thị trường. Thông thường tâm lý người tiêu dùng cho rằng giá cả gắn với chất lượng nghĩa là giá cao thì chất lượng sản phẩm tốt và ngược lại. Hiểu được tâm lý này, nếu công ty định giá thấp thì sẽ ảnh hưởng tới uy tín về chất lượng sản phẩm của công ty, ảnh hưởng đến lợi nhuận. Tuy nhiên, nếu định giá cao mà không tương xứng với chẩt lượng thì cũng không thể bán được. Công ty nên sử dụng chính sách giá để khuyến khích, hỗ trỡ khách hàng, nơi mà khả năng cạnh tranh của công ty đang bị giảm xuống. Ngoài ra để mở rộng thị trường công ty phải ưu tiên các mức giá cho các khách hàng ở các khu vực thị trường mới này. có thể như vậy thì sản phẩm của công ty mới có thể tiêu thụ được và có khả năng canh tranh với các đối thủ. Công ty cũng nên khuyến khích tiêu thụ bằng cách thay đổi một chút trong chính sách giá phân biệt. Với những khách hàng lâu năm của công ty và luôn mua với khối lượng lớn thì công ty nên có chính sách chiết khấu hoặc giảm giá thích hợp. Điều này có tác dụng làm cho khách hàng ngày càng gắn bó với công ty, khối lượng tiêu thụ sẽ tăng mạnh, vòng quay của vốn cũng sẽ tăng nhanh, khả năng cạnh tranh cũng tăng lên. Hoàn thiện chính sách phân phối sản phẩm: Kênh phân phối được tổ chức hợp lý sẽ giảm bớt các khâu trung gian không cần thiết, giảm chi phí tiêu thụ, tăng lợi nhuận của công ty và đảm bảo sản phẩm đến tay khách hàng một cách nhanh chóng, do đó sẽ đẩy mạnh khả năng cạnh tranh. Hiện tại công ty thực hiện chính sách phân phối qua một khâu trung gian, đối tác bao tiêu sản phẩm cho công ty. Điều này chứng tỏ kênh phân phối của công ty rất ngắn. Sản phẩm của công ty chưa phân phối đến tận tay người tiêu dùng cuối cùng. Do vậy công ty nên tích cực đặt những chi nhánh đại diện cho công ty ở các thị trường chính để từ đó có thể đưa sản phẩm của công ty đến tận tay người tiêu dùng. Nếu công ty thực hiện được phương thức này thì về lâu dài sản lượng tiêu thụ của công ty sẽ tăng lên sẽ làm cho tổng lợi nhuận của công ty cũng tăng lên. Cải tiến phương thức thanh toán: để giúp khách hàng mua theo hợp đồng khắc phục những khó khăn về vấn đề huy động vốn để lấy hàng công ty có thể áp dụng phương thức bán hàng trả chậm. Nếu khách hàng chưa có tiền trả ngay thì họ có thể trả chậm sau một thời gian nhất định. điều này khuyến khích khách hàng đến với công ty và xây dựng được mối quan hệ giữa công ty và khách hàng. + Hiệu quả của biện pháp. Thực hiện đồng bộ các chính sách Merketing như trên sẽ tạo sức mạnh cạnh tranh lớn cho công ty, trước hết là sẽ giữ được thị trường tiêu thụ hiện tại của công ty, sau đó sẽ tạo điều kiện thâm nhập vào thị trường Mỹ, Nhật bản, Trung quốc mà trước đây Công ty chưa thể vào được. Mạng lưới tiêu thụ sẽ được mở rộng, khối lượng sản phẩm tiêu thụ sẽ tăng lên dẫn đến doạnh thu tăng, lợi nhuận tăng. + Điều kiện thực hiện biện pháp. + Thứ nhất: Công ty cần có một bộ phận riêng quản lý một cách thống nhất các hoạt động Marketing của Công ty. Do đó điều đầu tiên mà Công ty cần thực hiện là thành lập phòng Marketing với những chức năng nhiệm vụ cụ thể để có thể đề ra và thực hiện một cách có hiệu quả các chính sách Marketing cần thiết cho Công ty. + Thứ hai: Cần xây dựng một “cơ chế” hợp lý nhằm phối hợp các hoạt động của phòng Marketing với các phòng chức năng khác trong Công ty. Chỉ có như vậy phòng Marketing mới có thể đề ra được các chính sách sát thực và có tính khả thi. + Thứ ba: Phòng Marketing cần có một đội ngũ cán bộ trẻ, năng động, có trình độ nghiệp vụ cao để thực hiện tốt nhiệm vụ của mình. Bởi do đặc điểm có một thị trường tiêu thụ rộng lớn, trong khi mạng lưới tiêu thụ còn mỏng nên sự nhiệt tình, năng động cũng như trình độ chuyên môn của các cán bộ trong phòng là vô cùng quan trọng trong việc thiết lập một hệ thống tiêu thụ một cách quy củ cho Công ty. + Thứ tư: Do tính chất đặc thù của một doanh nghiệp Nhà nước là bị ràng buộc bởi quá nhiều đạo luật, các quy định này đã ràng buộc Công ty trong việc xử lý chi phí cho việc quảng cáo. Sẽ là tốt hơn nếu các chi phí quảng cáo được nới lỏng hơn, và khi đó Công ty sẽ có đầy đủ kinh phí hơn để thực hiện công việc này. Giải pháp 4: Nâng cao chất lượng đội ngũ lao động. + Cơ sở lý luận Con người là nguồn lực quan trọng đối với bất kỳ một doanh nghiệp nào để nó hoạt động có hiệu quả. Sự thành công hay thất bại của bất kỳ một doanh nghiệp lớn hay nhỏ phụ thuộc chủ yếu vào nguồn nhân lực và hiệu suất của người lao động vì chính con người tác động đến việc nâng cao chất lượng sản phẩm. Nếu doanh nghiệp có một đội ngũ lao động có đủ kiến thức, trình độ kỹ thuật, công nghệ thì sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển của doanh nghiệp, tạo ra thế mạnh vượt trội quyết định sự thắng lợi trong cạnh tranh. + Cơ sở thực tiễn Công ty với bề dày kinh nghiệm lâu năm đã góp phần hình thành một đội ngũ lao động có nhiều kinh nghiệm trong sản xuất nhưng với chủ trương dần dần đổi mới thiết bị cũ bằng thiết bị công nghệ hiện đại chỉ có kinh nghiệm thôi chưa đủ mà còn cần phải có trình độ kỹ thuật và chuyên môn để làm chủ được công nghệ, vận hành các trang thiết bị công nghệ mới đảm bảo một cách tốt nhất trong việc nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm. Do vậy, để đảm bảo cho công tác đầu tư đổi mới công nghệ có hiệu quả trong những năm tới thì Công ty cần phải có kế hoạch đào tạo để nâng cao trình độ quản lý của các cán bộ quản lý, trình độ chuyên môn của các kỹ sư công nghệ và kỹ sư cơ khí, trình độ tay nghề và tác phong làm việc cho công nhân. + Phương thức tiến hành * Đối với đào tạo + Các cán bộ trong bộ máy quản lý. + Đội ngũ công nhân. * Hình thức đào tạo: Công ty có thể sử dụng hai hình thức đào tạo là đào tạo tại chỗ và gửi đi đào tạo. Đào tạo tại chỗ : + Đào tạo lại công nhân: Đối với công nhân kỹ thuật bậc cao và công nhân lành nghề thông qua các kỳ thi nâng bậc để đánh giá phân loại công nhân có tay nghề khá, trung bình và yếu từ đó có phương thức đào tạo thích hợp với từng loại. Công ty nên tổ chức các lớp học tại Công ty cho những công nhân có trình độ tay nghề trung bình và yếu mỗi năm thực hiện 2 khoá, mỗi khoá 6 ngày, chi phí cho mỗi ngày là 5.000.000 đồng. Như vậy trong một năm chi phí cho đào tạo lại công nhân sẽ là: Chi phí cho đào tạo lại công nhân = 2´6 ´5.000.000 = 60.000.000 đồng. + Đối với đội ngũ công, trưởng ca, tổ trưởng sản xuất thì sau mỗi quý Công ty cũng nên tổ chức các cuộc hội thảo trao đổi rút kinh nghiệm trong lĩnh vực như: quản lý, kỹ thuật, nghiệp vụ, để từ đó học hỏi những kiến thức bổ ích nhằm giúp họ điều hành tốt một tổ, một ca sản xuất. Như vậy, trong một năm Công ty sẽ tổ chức 2 lần hội thảo, chi phí cho một lần hội thảo là 5.000.000 đồng. Vậy tổng chi phí hội thảo là 4´5.000.000 = 20.000.000 đồng. Ta có tổng chi phí dành cho đào tạo tại chỗ là: 60.000.000 + 20.000.000 + 50.000.000 = 130.000.000 đồng. Gửi đi đào tạo: + Đối với cán bộ chủ chốt thì cần phải trang bị, bổ sung và nâng cao trình độ lý luận về các kiến thức cơ bản như kiến thức về công nghệ, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng tổng hợp ( dự đoán, lập kế hoạch, ra quyết định ). Những cán bộ này phải được đào tạo trên các lĩnh vực như tổ chức quản lý kinh doanh, pháp luật kinh tế, tiền tệ, tín dụng, phân tích hoạt động kinh doanh, thông tin, thị trường, kinh tế đối ngoại, ngoại ngữ đạt bằng C có thể giao dịch trực tiếp khi làm việc với khách hàng nước ngoài ( khi có nhu cầu ). Công ty có thể tổ chức học tập trung theo định kỳ một năm một khoá học. Chi phí cho mỗi khoá học ước tính là 50.000.000 đồng. Ngoài ra, Công ty có thể cho các cán bộ này đi tham quan khảo sát tại các doanh nghiệp tiên tiến khác để học hỏi kinh nghiệm. + Đào tạo cán bộ, kỹ thuật, để nâng cao hiệu quả của công tác quản lý, với những cán bộ quản lý được phát triển từ đội ngũ cán bộ kỹ thuật thì nên đào tạo thêm kiến thức về quản lý. Với những cán bộ quản lý kinh doanh mà không phải xuất thân từ cán bộ kỹ thuật thì nên trang bị thêm các kiến thức về kỹ thuật công nghệ, trọng tâm đào tạo cán bộ kinh tế kỹ thuật hiện nay là ngoại ngữ, vi tính, các tiến bộ về khoa học kỹ thuật và công nghệ trong và ngoài nước. Các mô hình quản lý tiên tiến về mô hình đào tạo có thể đưa vào các lớp đào tạo do Bộ Công nghệ tổ chức hoặc các trường đại học trong và ngoài nước chiêu sinh để cử đi học. Cử 5 cán bộ vừa kỹ thuật vừa quản lý vừa kinh doanh đi học trang bị thêm kiến thức tại các trường đại học. Mỗi khoá học 2 năm, chi phí cho một người mỗi khoá học là 10.000.000 đồng. Tổng chi phí sẽ là: 5 ´ 10.000.000 = 50.000.000 đồng. Cử 1 cán bộ kỹ thuật và 1 cán bộ quản lý kinh doanh có năng lực, triển vọng ra nước ngoài học để nắm bắt được những tiến bộ của các nước trên thế giới về vận dụng vào sản xuất kinh doanh của Công ty. Chi phí cho mỗi người ước tính là 100.000.000 đồng mỗi năm, khoá học kéo dài 2 năm. Như vậy, tổng chi phí sẽ là 2 ´ 100.000.000 ´ 2 = 400.000.000 đồng. Tổng chi phí gửi đi đào tạo là 50.000.000 + 50.000.000 + 400.000.000 = 500.000.000 đồng. Những ngành nghề cần đào tạo do Công ty yêu cầu, phòng tổ chức hành chính đi liên hệ các cơ sở đào tạo có uy tín để cử cán bộ đi học. + Hiệu quả của biện pháp. Thực hiện triệt để biện pháp trên sẽ góp phần xây dựng một đội ngũ lao động có trình độ tốt, đủ khả năng tiếp cận vận hành các trang thiết bị công nghệ mới góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, thực hiện thành công các nhiệm vụ Công ty đề ra và hơn nữa là góp phần vào tăng sức cạnh tranh cho Công ty, giúp Công ty tồn tại và phát triển lâu dài. Điều kiện thực hiện biện pháp. + Thứ nhất: Công ty cần đào tạo ra một bầu không khí thi đua trong khi làm việc đối với các cán bộ công nhân viên của mình để họ có thể tích cực tìm tòi sáng tạo các biện pháp kỹ thuật mới từ thực tế cũng như ham học hỏi nghiên cứu để tự nâng cao trình độ cho bản thân. + Thứ hai: Công ty cần có một số công nhân có trình độ tay nghề vững tại chỗ đồng thời có các mối quan hệ với các cán bộ kỹ thuật khác ở các cơ sở đào tạo để những người này có đủ khả năng tổ chức các cuộc thi và đánh giá chính xác kết quả thi của các công nhân. + Thứ ba: Công ty cần có các biện pháp để đánh giá, nhận biết một cách đúng đắn đối tượng cần đào tạo. Đồng thời Công ty cũng cần có các mối quan hệ với các trung tâm đào tạo có tiếng để có thể gửi đúng đối tượng đến được nới cần đến để đào tạo. IV. Một số kiến nghị với Nhà nước . Thực tế những năm qua cho thấy hoạt động xuất khẩu nông sản có những đóng góp to lớn cho xuất khâủ Việt Nam nói riêng và kinh tế Việt Nam nói chung. Vì vậy việc tiếp tục nâng cao khả năng xuất khẩu nông sản ở Việt nam sẽ là hướng đi đúng đắn trong những năm tới. Để đẩy mạnh xuất khẩu nông sản thì vai trò của Nhà nước là rất quan trọng. Với mong muốn góp phần thúc đẩy hoạt động xuất khẩu nông sản ở Công ty xuất nhập khẩu Tổng hợp I nói riêng và Việt nam nói chung, em xin được mạnh dạn đưa ra một số kiến nghị đối với Nhà nước. 1. Qui hoạch các vùng sản xuất và chế biến nông sản xuất khẩu. Để nâng cao hơn nữa chất lượng hàng nông sản, việc qui hoạch các vùng sản xuất và chế biến nông sản là rất cần thiết. Qui hoạch vùng sản xuất cho phép ta có thể áp dụng các kỹ thuật đối với cây trồng một cách hợp lý, đồng bộ. Hơn nữa, nhờ có qui hoạch, đầu tư cơ sở hạ tầng cho các cơ sở sản xuất nông sản sẽ đạt hiệu quả cao hơn. Cũng căn cứ vào qui hoạch, Nhà nước có thể kế hoạch hoá được các hoạt động sản xuất và xuất khẩu nông sản. Nhà nước cũng cần xây dựng các nhà máy chế biến ở trong hay gần vùng sản xuất nông sản. Các nhà máy chế biến này có nhiệm vụ ký kết hợp đồng thu mua nông sản đối với các hộ nông dân, với cam kết về số lượng, chất lượng, thời gian nhằm định hướng cho người nông dân sản xuất. Với việc qui hoạch vùng sản xuất, chế biến nông sản, các hoạt động sản xuất, thu mua, vận chuyển, bảo quản, chế biến...được diễn ra một cách tập trung, đồng bộ từ đó làm giảm chi phí, giảm giá thành hàng nông sản xuất khẩu làm tăng lợi nhuận, tăng sức cạnh tranh của hàng nông sản Việt nam trên thị trường quốc tế. 2. Trợ giúp cho các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản. 2.1.Hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc tìm kiếm thị trường . Hầu hết các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản ở Việt nam đều gặp khó khăn trong việc tìm kiếm thị trường. Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng này là không đủ chi phí cho hoạt động nghiên cứu thị trường một cách thoả đáng. Hơn nữa thị trường nông sản thế giới biến động rất thất thường và mang tính thời vụ nên đòi hỏi về thông tin thị trường phải rất nhanh và chính xác, trong khi việc tiếp nhận các thông tin này ở các doanh nghiệp Việt nam vẫn còn rất chậm. Do vậy, trong thời gian tới Nhà nước cũng như các Bộ có liên quan phải đặc biệt chú ý đến công tác nghiên cứu, khảo sát thị trường để nắm bắt kịp thời nhu cầu hàng nông sản trên thị trường quốc tế, thông tin về giá cả kịp thời cho các doanh nghiệp để tránh tình trạng bị ép giá, đồng thời tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có cơ hội thăm dò, tìm kiếm thị trường. Phân đoạn thị trường theo khu vực cho một số đầu mối xuất khẩu nông sản lớn. Biện pháp này tạo điều kiện chuyên sâu về thị trường cho các doanh nghiệp, đồng thời tránh sự cạnh tranh của chính các doanh nghiệp trong nước, làm thiệt hại đến lợi ích quốc gia. Nhà nước cũng nên thành lập các trung tâm xúc tiến thương mại ở các vùng để cung cấp các thông tin kinh tế phục vụ cho hoạt động nghiên cứu thị trường cho các công ty. 2.2. Hỗ trợ về vốn cho các doanh nghiệp. Chúng ta đều biết rằng hoạt động kinh doanh nông sản có tính chất thời vụ. Do vậy vốn cho thu mua hàng tại các vụ là rất lớn vì đòi hỏi phải diễn ra tập trung, nhanh chóng. Bên cạnh đó chi phí thu mua, vận chuyển dự trữ, bảo quản để có hàng đúng theo yêu cầu cung cấp cho thị trường thế giới cũng rất tốn kém. Trong thời điểm hiện nay, hầu hết các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản đều gặp khó khăn về vốn vì thế việc Nhà nước hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp này là rất cần thiết. Nhà nước có thể sử dụng một số biện pháp: - Khuyến khích Ngân hàng cho các doanh nghiệp vay vốn thu mua nông sản. - Bỏ qua quy định hạn chế mức tín dụng đối với các Ngân hàng thương mại khi cho các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản vay. - Thông qua các tổ chức Ngân hàng thực hiện cơ chế: bảo lãnh tiền vay, tiền mua và bán hàng trả chậm, bảo lãnh nộp thuế, bảo đảm hợp đồng với các đơn vị xuất khẩu nông sản. - Hình thành quỹ hỗ trợ xuất khẩu để cấp tín dụng ưu đãi và bảo lãnh tín dụng cho hoạt động xuất khẩu. 3. Cải tiến các cơ chế trong hoạt động xuất khẩu nông sản 3.1.Cải tiến phương thức quản lý đầu mối và hạn ngạch xuất khẩu. Đây là vấn đề then chốt trong xuất khẩu nông sản, nó ảnh hưởng tới cơ cấu và qui mô của bộ máy xuất khẩu nông sản. Hiện nay, việc quản lý bằng hạn ngạch xuất khẩu đối với một số mặt hàng nông sản còn có nhiều bất cập. Chẳng hạn đối với mặt hàng gạo, Nhà nước áp dụng hạn ngạch với khoảng 41 đơn vị đầu mối xuất khẩu gạo trực tiếp trong cả nước và các doanh nghiệp ngoài đầu mối khi tìm kiếm thị trường mới phải thông qua Bộ Thương mại xem xét và trình Chính phủ quyết định. Chính điều này làm các doanh nghiệp hay bị động trong việc giao dịch xuất khẩu. Vì vậy đòi hỏi phải nâng cao năng lực điều hành phân bổ hạn ngạch sát thực tế hơn. Bên cạnh đó, Nhà nước cần duy trì ổn định các đầu mối xuất khẩu trực tiếp để các doanh nghiệp có điều kiện đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật và xây dựng mở rộng thị trường xuất khẩu nông sản. 3.2. Nâng cao hiệu quả điều hành xuất khẩu nông sản. - Công bố giá sàn thu mua nông sản ngay từ đầu vụ để người dân yên tâm sản xuất đồng thời làm tín hiệu cho các ngành, các doanh nghiệp tham gia điều hành thị trường nhằm giữ cho giá nông sản ở mức hợp lý. Chính phủ cũng nên thành lập quỹ bảo hiểm xuất khẩu hàng nông sản nhằm hạn chế rủi ro cho người xuất khẩu hàng nông sản, lập lại trật tự mua bán thị trường trong và ngoài nước, nâng cao sức cạnh tranh và hiệu quả xuất khẩu nông sản. - Việc chỉ định doanh nghiệp đại diện giao dịch ký hợp đồng theo hiệp định Chính phủ và tham gia đấu thầu là cần thiết vì các hợp đồng theo hiệp định Chính phủ thường được giá cao, khối lượng lớn giúp cho các doanh nghiệp tiêu thụ được hàng hoá và có cơ sở để đấu tranh giá cả đối với các khách hàng khác. Trong thời gian đấu thầu, các doanh nghiệp không được chào bán hàng hoá trực tiếp hoặc gián tiếp vào các thị trường đó. 4. Mở rộng các mối quan hệ thương mại quốc tế. Đa phương hoá quan hệ thương mại quốc tế là một tất yếu trong xu hướng toàn cầu hoá kinh tế hiện nay. Để mở đường cho hoạt động thương mại quốc tế, Nhà nước cần phải thiết lập được các mối quan hệ hữu hảo về chính trị đối ngoại với tất cả các quốc gia, khu vực trên thế giới. Trong tình hình hiện nay, Việt nam nên sớm nghiên cứu tìm ra các giải pháp để tham gia vào khu vực tự do mậu dịch châu á (AFTA), phấn đấu để trở thành thành viên của tổ chức thương mại thế giới (WTO) và cố gắng đàm phán thành công hiệp định thương mại Việt – Mỹ. Bên cạnh đó việc mở rộng quan hệ thương mại với các nước châu Âu và châu Phi cũng là phương hướng chiến lược cho xuất khẩu Việt nam. Tài liệu tham khảo Giáo trình Quản Trị Kinh doanh thương mại quốc tế Trường Đại học Kinh Tế Quốc Dân-PGS, TS Trần Chí Thành(1997). Giáo trình Thanh toán quốc tế Trường Đại học Kinh Tế Quốc Dân - PGS,TS Nguyễn Duy Bột.(1999). Kỹ thuật nghiệp vụ ngoại thương - PGS, TS Vũ Hữu Tửu, nhà xuất bản giáo dục.(1996). Kinh tế ngoại thương - PTS Bùi xuân Lưu , nhà xuất bản giáo dục 1996. Giáo trình Quản trị Doanh Nghiệp- PGS, PTS Hoàng Minh Đường, Nguyễn thừa Lộc, Trường Đại học Kinh Tế Quốc Dân. Kết luận Cùng với xu thế hội nhập chung của thế giới,Việt Nam đang nỗ lực trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Một trong những nhân tố quan trọng của quá trình này là hoạt động xuất khẩu, một nguồn cung cấp ngoại tệ chính để trang trải cho các nhu cầu nhập khẩu của nền kinh tế, góp phần cân đối, duy trì và tái mở rộng sản xuất trong nước, tranh thủ những tiến bộ khoa học và công nghệ thế giới, đáp ứng nhu cầu không ngừng nâng cao trình độ phát triển kinh tế xã hội nước nhà. Công ty XNK Tổng hợp I là một doanh nghiệp nhà nước thamgia vào lĩnh vực xuất nhập khẩu ngay từ những ngày đầu chuyển đổi cơ cấu kinh tế của nước ta. Hiện nay, Công ty đã tạo lập được một vị trí tương đối vững vàng trên thị trường trong nước cũng như thế giới. Đặc biệt là hoạt động xuất khẩu nông sản của Việt Nam. Trên cơ sở định hướng của Đảng và Nhà nước, Công ty cũng coi nông sản là mặt hàng xuất khẩu chiến lược trong những năm tới và tích cực tìm kiếm những giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu mặt hàng này. Nhận thức được điều đó, cộng với sự quan tâm,lòng mong muốn được đóng góp ý kiến vào sự nghiệp chung của Công ty, của đất nước, em quyết định dành sự nghiên cứu của mình vào đề tài “ nâng cao khả năng cạnh tranh của mặt hàng nông sản xuất khẩu ở công ty xuất nhập khẩu tổng hợp I ”. Bài viết sẽ không tránh khỏi những sai sót, tôi rất mong sẽ nhận được những góp ý, bổ sung từ phía thầy cô giáo và cán bộ trong Công ty. Một lần nữa xin chân thành cảm ơn cô giáo Đinh Ngọc Quyên và các cô chú trong công ty xuất nhập khẩu tổng hợp I đã tận tình giúp đỡ để em có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docJ0003.doc
Tài liệu liên quan