Đề tài Những vấn đề lý luận về đầu tư phát triển, công nghiệp hóa hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn

Xuất phát từ thực trạng khó khăn và đi tìm định hướng tháo gỡ chung cho nông nghiệp, nông thôn, mối quan tâm chính ở đây là cần có đổi mới căn bản việc tổ chức huy động và đầu tư vốn phục vụ CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn. Các báo cáo cho thấy để thực hiện mục tiêu CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn cần phải có nguồn vốn lớn khoảng 2,5-3 tỷ USD/ năm. Vì vậy chiến lược huy động vốn đầu tư phát triển nông nghiệp, nông thôn có ý nghĩa quan trọng. Việc đầu tư phát triển nông nghiệp, nông thôn cần thực hiện qua nhiều chương trình, dự án, với các hình thức thích hợp với trình độ phát triển mỗi vùng như: cho vay lãi suất thấp hoặc không có lãi để phát triển các cơ sở nguyên liệu, đầu tư cơ sở hạ tầng nông thôn như đường xá, bến bãi, điện, nước. đầu tư đổi mới công nghệ, thiết bị và xây dựng mới các nhà máy chế biến, đầu tư cho công tác nghiên cứu khoa học, đào tạo cán bộ cho CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn. Cụ thể: Một là: Xây dựng chính sách huy động vốn đầu tư theo mô hình tổng hợp lực nguồn, gồm tất cả mọi nguồn vốn trong và ngoài nước, trong đó nguồn trong nước là quyết định, nguồn tại chỗ là cơ bản, nguồn bên ngoài là quan trọng. Nguồn vốn ngân sách là nhân tố “dẫn đường, nền tảng” của mọi công cuộc đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn. Tập trung đầu tư cải tạo, xây dựng, nâng cấp cơ sở hạ tầng nông nghiệp, nông thôn từ nguồn vốn ngân sách, nguồn vốn ODA và các nguồn tài trợ ưu đãi khác để tạo môi trường đầu tư thuận lợi thu hút các nguồn vốn của mọi thành phần kinh tế trong và ngoài nước.

doc39 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1415 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Những vấn đề lý luận về đầu tư phát triển, công nghiệp hóa hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
kinh tế nông nghiệp, nông thôn đang ở tình trạng yếu kém, chậm phát triển: năng suất lao động thấp (1 lao động nông nghiệp nước ta nuôi được 2 người, trong khi đó ở Mỹ là 80 người, ở Hà Lan là 60 người, ở Anh là 55 người, ở Nhật là 20 người...); hệ thống kết cấu hạ tầng chậm phát triển; trình độ khoa học-công nghệ yếu kém làm cho hiệu quả sản xuất kinh doanh nông nghiệp thấp, sức cạnh tranh của nông sản hàng hoá sản xuất từ nông thôn trên thị trường kém; cơ cấu kinh tế còn nặng thuần nông; đời sống nông dân tuy được cải thiện nhưng vẫn còn thấp (vẫn còn khoảng 1300 xã đặc biệt khó khăn, 90% dân nghèo là ở nông thôn). Bốn là, thực tiễn cho thấy có không ít nước đi lên CNH-HĐH bằng xuất khẩu nông sản như Australia, Argentina, Canada... Một số nước khác thì phát triển nông nghiệp là biện pháp chủ yếu để hình thành thị trường trong nước. Cũng có nước lấy phát triển nông nghiệp và công nghiệp nông thôn làm biện pháp cơ bản giải quyết phần tất yếu của đời sống kinh tế trong thời kỳ đầu CNH. Nước ta hiện nay nông sản đang chiếm hơn 45% giá trị hàng xuất khẩu, thông qua thương mại quốc tế để lấy ngoại tệ nhập máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu cho tái sản xuất mở rộng trong nước. Năm là, đối với một nước đi lên chủ nghĩa xã hội từ nông nghiệp lạc hậu thì vấn đề mấu chốt là phát triển nền nông nghiệp hàng hoá để cấu trúc lại nền kinh tế theo hướng sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Sáu là, nông nghiệp, nôngthôn là thị trường rộng lớn của CNH-HĐH. Thị trường này ở nước ta năm 2000 là 65 triệu nhưng sức mua hiện nay còn thấp, tiềm năng có thể khai thác là rất lớn. Vì vậy, CNH-HĐH nền kinh tế muốn phát triển bền vững phải dựa vào thị trường trong nước, trước hết là thị trường nông nghiệp, nông thôn. Bảy là, nông nghiệp, nông thôn là nguồn cung cấp nhân lực quan trọng để thực hiện CNH-HĐH. Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng phát triển công nghiệp, dịch vụ cũng là quá trình chuyển lao động từ ngành nông nghiệp sang ngành công nghiệp và dịch vụ theo xu hướng lao động công nghiệp, dịch vụ tăng tuyệt đối và tương đối còn lao động nông nghiệp giảm tuyệt đối và tương đối. Những căn cứ trên khẳng định vấn đề đầu tư phát triển cho CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn là yêu cầu, then chốt và có ý nghĩa chiến lược. CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn phải bảo đảm những yêu cầu cơ bản: theo định hướng xã hội chủ nghĩa, gắn phát triển lực lượng sản xuất với củng cố hoàn thiện quan hệ sản xuất mới ở nông thôn, xây dựng nông thôn mới đặt trong chiến lược CNH-HĐH nền kinh tế nói chung, bảo đảm lợi ích toàn diện của đất nước cả về kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng, môi trường sinh thái; đặt trong xu thế chung là quốc tế hoá và khu vực hoá nền kinh tế, nhằm khai thác triệt để lợi thế so sánh của đất nước; kết hợp hài hoà kinh nghiệm truyền thống với công nghệ, kỹ thuất hiện đại, tiên tiến theo những bước đi phù hợp. Mục tiêu CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn là tạo dựng nền nông nghiệp và kinh tế nông thôn phát triển, tăng trưởng bền vững với nhịp độ cao trên cơ sở công nghệ kỹ thuật hiện đại, cơ cấu hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp nhằm giải phóng mạnh mẽ sức sản xuất, tăng năng suất lao động, giải quyết việc làm, tăng thu nhập, cải thiện đời sống dân cư nông thôn, rút ngắn khoảng cách giữa nông thôn và thành thị, xây dựng nông thôn mới... CNH-HĐH sẽ tạo tiền đề vật chất-kỹ thuật và kinh tế-xã hội để cải biến nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu thành nền kinh tế có cơ cấu ngày càng hợp lý trên cơ sở lao động sử dụng máy móc và kỹ thuật, công nghệ ngày càng tiên tiến. CNH-HĐH tạo cơ sở nền tảng về mọi mặt cho việc xác lập, củng cố, hòan thiện quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa và tăng cường hệ thống chính tri, an ninh quốc phòng của đất nước. Chương II: Thực trạng đầu tư phát triển cho CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn. I. Đánh giá quá trình CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn 1. Những thành tựu đã đạt được 1.1. Đẩy mạnh thực hiện CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn đã góp phần thúc đẩy nông nghiệp phát triển vượt bậc. - Sản xuất nông nghiệp đã phát triển toàn diện, liên tục tăng trưởng cao (đạt tốc độ bình quân 4,3%/ năm). Năm 1997 so với năm 1987 sản lượng lương thực tăng 1,8 lần, bình quân mỗi năm tăng từ 1-1,2 triệu tấn, sản lượng cà phê tăng 20 lần, cao su tăng 3,5 lần, chè tăng 1,8 lần. Năm 1998 mặc dù bị hạn hán, lũ lụt nặng nề ở nhiều nơi, sản lượng lương thực vẫn đạt 32,8 triệu tấn, tăng 1,2 triệu tấn so với năm 1997. Trong nông nghiệp đã có sự biến đổi cơ cấu theo hướng phá thế độc canh trong trồng cây lương thực trước đây, phát triển nông nghiệp toàn diện cả trồng trọt, chăn nuôi, trồng cây công nghiệp và cây ăn quả. Giá trị sản xuất nông nghiệp (Theo giá so sánh năm 1994) Đơn vị: Tỷ đồng Năm Tổng số Trồng trọt Chăn nuôi Dịch vụ 1990 61817,5 49604,0 10283,2 1930,3 1995 82307,1 66183,4 13629,2 2494,5 1996 86489,3 69620,2 14347,2 2521,9 1997 92530,2 74492,5 15465,4 2572,3 1998 96102,7 77298,2 16204,2 2600,3 1999 102932,9 82945,6 17337,0 2650,3 Nguồn: Việt Nam qua những con số Cơ giới hoá một số khâu sản xuất được phát triển, trong đó khâu làm đất tăng từ 22% năm 1986 lên 34,1% năm 1996 và 38% năm 1998 (đồng bằng sông Cửu Long đạt 60-80%). Các loại máy móc nông nghiệp được nông dân đầu tư mua sắm nhiều. Cả nước có khoảng 600.000 máy bơm nước, 160.000 máy nghiền thức ăn gia súc, 108.000 máy xay xát, 100.000 máy tuốt lúa có động cơ; tàu thuyền đánh cá gắn động cơ có khoảng trên 70.000 chiếc với tổng công suất trên 1,2 triệu cv, tàu thuyền vận tải cơ giới có 98.330 chiếc. Trong 3 năm 1997-1999 cả nước đã tăng thêm 1000 tàu đánh cá có công suất trên 90 cv, đưa tổng só tàu đánh bắt cá xa bờ lên 5.000 chiếc. - Công nghệ tự động hoá đã được ứng dụng trong các dây truyền chế biến nông sản như đánh bóng, phân loại gạo, cà phê, chế biến đường, bánh kẹo, ươm tơ, chế biến thức ăn gia súc... Mức độ tự động hoá trong nông nghiệp, nông thôn chiếm 0,3%, riêng khâu chế biến nông sản đạt khoảng 5%. - Công nghệ sinh học trong hơn 10 năm gần đây đã tạo ra nhiều giống lúa, ngô, rau, đậu, cây ăn quả, cây lâm nghiệp năng suất cao phù hợp với các vùng sinh thái. Nhiều tiến bộ khoa học kỹ thuật về công nghệ sinh học được áp dụng trong trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ hải sản, công nghệ chế biến, công nghệ sản xuất phân vi sinh, sản xuất nấm, cải tạo giống theo hướng tạo ra nhiều giống mới có năng suất cao, chất lượng tốt. - Thực hiện CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn đã thúc đẩy hình thành nhiều vùng sản xuất hàng hoá tập trung chuyên canh như lúa, cao su, chè, cà phê, hạt điều, hồ tiêu, lạc, mía, bông, dâu tằm, rau quả, lợn, bò, tôm, cá... - Công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản đã có bước tăng trưởng đáng kể. Giá trị tổng sản lượng công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản liên tục tăng, tốc độ tăng bình quân hàng năm 312-14% và là ngành chiếm tỷ lệ khá lớn trong nông nghiệp 30-32%. So với năm 1990, chế biến đường tăng 3,4 lần, cà phê 4 lần, cao su mủ khô 3,2 lần, xay xát gạo 1,9 lần, điều nhân gấp 80 lần. Giá trị sản lượng công nghiệp chế biến so với giá trị tổng sản lượng nông nghiệp ngày càng tăng, từ 33,8% năm 1990 lên 42% năm 1995 và khoảng 46% hiện nay. Một số cơ sở chế biến đã tiếp cận công nghệ và thiết bị tương đối hiện đại ngang với trình độ khu vực và thế giới như xay xát gạo, tơ tằm, mía đường, bánh kẹo, nước hoa quả cô đặc, chế biến gỗ, chế biến thuỷ sản... - Cơ sở hạ tầng kinh tế có bước phát triển mạnh mẽ, nhất là về thủy lợi. Tới nay đã có 84% diện tích gieo trồng lúa cả năm được tưới. Hiện nay cả nước có 8.265 công trình thuỷ lợi các loại, trong đó có 754 hồ chứa nước loại vừa và lớn (chưa kể hàng chục nghìn hồ, đập nhỏ), có 1.017 đập dâng,4.712 cống tưới, tiêu nước loại vừa và lớn, gần 2.000 trạm bơm điện các loại. Tổng giá trị hiện tại vào khoảng 60.000 tỷ đồng...Chương trình ngọt hoá ở đồng bằng sông Cửu Long, chương trình thủy lợi hoá ở miền Trung và Tây Nguyên đã tạo điều kiện quan trọng để khai hoang, tăng vụ, mở rộng diện tích gieo trồng lúa (thêm 1,2 triệu ha), cây công nghiệp và một số loại cây trồng khác. 1.2. Đi đôi với những thành tựu đạt được trong sản xuất nông nghiệp, CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn đã đem lại cho nông thôn Việt Nam nhiều khời sắc mới. - Cơ cấu kinh tế nông thôn chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng của công nghiệp vàdu lịch (chiếm khoảng 30% GDP nông thôn), cây công nghiệp, rau quả (khoảng 18%); xuất khẩu nông, lâm sản tăng gần 20%/ năm, năm 1998 đạt 2,9 tỷ USD, chiếm 31% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước; đã có một số mặt hàng có giá trị xuất khẩu lớn như gạo, cà phê, cao su, điều... - Có sự thay đổi trong cơ cấu thành phần kinh tế theo hướng thích ứng với cơ chế kinh tế mới và những điều kiện kinh tế cụ thể. Kinh tế hộ và các doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn tăng lên một cách nhanh chóng trong khi các hợp tác xã và kinh tế nhà nước giảm đi rõ rệt. Về ngành nghề, những sản phẩm và bộ phận có sự phát triển nhanh là các ngành sản xuất phục vụ trực tiếp đời sống tại chỗ, khai thác nguồn lực tại chỗ hoặc có quan hệ liên kết chặt chẽ với các doanh nghiệp lớn, có thị trường tương đối ổn định như chế biến lương thực, thực phẩm, sản xuất vật liệu xây dựng thông thường, chế biến gỗ và lâm sản, dệt may. Một số ngành sản xuất quan trọng gắn với các hoạt động chế biến, vận chuyển, phơi sấy, bảo dưỡng máy móc thiết bị phục vụ nông nghiệp đã hình thành. ở những vùng sản xuất nông sản hàng hoá tập trung, quy mô lớn như lúa, gạo ở đồng bằng sông Cửu Long, cà phê ở Tây Nguyên, cao su ở Đông Nam Bộ, thủy sản ở các vùng ven biển...đã và đang hình thành một số trung tâm công nghiệp chế biến nông thủy sản với quy mô vừa và nhỏ, được trang bị máy móc thiết bị tương đốihiện đại, đủ sức thoả mãn các nhu cầu sơ chế, tinh chế sản phẩm phục vụ xuất khẩu được xay xát và đánh bóng tại các cơ sở sản xuất công nghiệp tư nhân công suất 2.000-3.000 tấn/ngày. Sự hình thành cụm công nghiệp nông thôn ở một số vùng đã góp phần phân công lại lao động và đổi mới cơ cấu kinh tế nông thôn. Đến nay, 70% thu nhập của nông dân là từ các ngành nghề phi nông nghiệp. - Cơ sở hạ tầng nôngthôn được cải thiện. Hệ thống đường giao thông nông thôn phát triển nhanh chóng. Từ năm 1991-1997 đã xây dựng mới 26.599 km đường, 28.313 cầu các loại. Hiện nay có 22/61 tỉnh có 100% đường ô tô tới trung tâm xã. Hệ thống điện lưới quốc gia ngày càng lan toả vào các vùng nông thôn. Tổng công ty điện lực Việt nam từ năm1995 đến năm 1999 đã đầu tư1.546.802 tỷ đồng cho phát triển mạng lưới điện nông thôn, miền núi và hải đảo, đã xây dựng 16.976 km đường dây trung thế, 9.536 trạm biến áp có tổng dung lượng 718.858 KVA, 6.979 km đường dây hạ thế, cung cấp 249.178 công tơ cấp điện cho 1.540.000 hộ. Đến cuối năm 1999, điện lưới quốc gia đã đến được tất cả các tỉnh, 95,7% số huyện, 77,2% số xã và 68,1% số hộ trong cả nước. Hệ thống chợ được hình thành ở các tụ điểm kinh tế nông thôn đã có tác dụng thúc đẩy kinh tế hàng hoá pháttriển. - Đời sống nông dân được cải thiện rõ rệt, ước tínhthu nhập bình quân đầu người tăng lên khoảng 1,5 lần; điều kiện ăn, ở , đi lại, học tập và chữa bệnh được cải thiện. Cả nước có khoảng 1,5 triệu hộ nông dân đạt tiêu chuẩn hộ nông dân sản xuất kinh doanh giỏi va trên 11 vạn hộ phát triển kinh tế trang trại. 2. Những khó khăn và thách thức Tuy đạt được một số kết quả và tiến bộ bước đầu nhưng nhìn nhận một cách nghiêm túc thì có thể nói CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn nước ta cho đến nay còn quá chậm chạp, chưa đáp ứng được yêu cầu đề ra. Điều đó thể hiện trên các mặt: Thứ nhất, mức độ tác động của công nghiệp và khoa học-kỹ thuật vào nông nghiệp và kinh tế nông thôn còn chưa mạnh và không đều. Trình độ cơ giới hoá nông nghiệp, điện khí hoá nông thôn còn ở mức thấp và có khoảng cách xa so với các nước trong khu vực. Đến năm 1998, tỷ lệ cơ giới hoá các khâu trong quá trình sản xuất nông nghiệp còn thấp (làm đất 30%, ra hạt 40%). Đến nay cả nước mới có khoảng 25% diện tích gieo trồng được làm bằng máy. Trình độ điện khí hoá, hoá học hoá còn thấp, nông cụ phục vụ sản xuất nông nghiệp về cơ bản vẫn là thủ công, lạc hậu, sử dụng sức người và súc vật là chính, máy móc còn ít và không đều, vùng sâu, vùng xa, miền núi còn rất thiếu. Trình độ điện khí hoá nông thôn tuy có khá hơn trước nhưng vẫn còn 30% số xã và 40% số hộ nông dân chưa có điện. 53,75% số hộ nông thôn có điện dùng với giá điện cao hơn ở thành thị từ 30 đến 50%. Thứ hai, kinh tế nông thôn vẫn mang nặng tính chất thuần nông. Đến năm 1994, 80% số hộ nông thôn vẫn làm nông thôn thuần tuý, trong đó vùng đồng bằng sông Hồng còn trên 90% số hộ và 80% số lao động chỉ biết trồng trọt và chăn nuôi. Các tỉnh miền núi phía Bắc tỷ lệ này còn cao hơn: Lai Châu 97%, Lao Cai 93,5%, Cao Bằng 94,5%, Hà Giang 92,3%... Từ 1994 đến 1998 các tỷ lệ trên không những không giảm mà còn tăng so với năm 1994 và tính chất thuần nông vẫn còn phổ biến. Trong nông nghiệp ngành trồng trọt vẫn chiếm tỷ trọng áp đảo (78%), ngành chăn nuôi mới chỉ chiếm trên 20%, ngành nghề công nghiệp chế biến và dịch vụ chuyển biến chậm chạp. Thứ ba, sản xuất phân tán, manh mún, trình độ công nghệ trong nhiều lĩnh vực nông, lâm nghiệp lạc hậu: công nghiệp chế biến kiám phát triển, khả năng cạnh tranh của nông sản hàng hoá thấp, tiêu thụ sản phẩm là mối lo thường xuyên của đại bộ phận nông dân. Theo kết quả điều tra gần nhất, nông thôn nước ta có khoảng 12 triệu hộ hiện đang canh tác trên gần 75 triệu thửa đất nhỏ phân tán. Công nghiệp mới chỉ chế biến được khoảng 60% sản lượng chè, 40% sản lượng mía, 1% sản lượng thịt các loại... Thứ tư, cơ sở hạ tầng nông thôn thấp kém, chậm đổi mới, không đáp ứng được yêu cầu của sản xuất hàng hoá phát triển với quy mô lớn. Thuỷ lợi được đầu tư lớn nhưng hiệu suất sử dụng thấp (khoảng 60% năng lực thiết kế). Tỷ lệ diện tích cây hằng năm được tưới tiêu bằng công trình thuỷ lợi còn thấp, nhất là ở duyên hải miền Trung, trung du miền núi phía Bắc, Đông Nam Bộ va Tây Nguyên. Hệ thống đê điều không được tu bổ kịp thời, mức độ bảo đảm an toàn thấp. Điều kiện giao thông rất chậm phát triển, vẫn còn khoảng 60 xã (7%) chưa có đường ô tô tới khu trung tâm, 50% đường cấp xã, 30% đường cấp huyện ô tô không đi lại được vào mùa mưa lũ... Thứ năm, công nghiệp nông thôn và dịch vụ phi nông nghiệp tuy có khởi sắc ở một số vùng và địa phương, ngành nghề nông thôn được khôi phục và mở rộng nhưng còn mang nặng tính tự phát, thiếu quy hoạch và định hướng, vùng nào phát triển ngành nghề gì, quy mô và thị trường, giá cả ra sao vẫn còn là ẩn số. Sự phát triển của công nghiệp nông thôn nước ta đến nay vẫn thiếu ngành mũi nhọn, vùng trọng điểm, các mặt hàng chiến lược có tính ổn định, lâu dài. Mặt khác, chất lượng và giá cả sản phẩm hàng hoá nông nghiệp còn thấp, không đủ sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và thế giới trong điều kiện kinh tế mở. Một số ngành tiểu thủ công nghiệp vừa được khôi phục đã không đủ sức tồn tại lâu dài như cơ khí nông nghiệp, hàng mây tre đan, thủ công mỹ nghệ. Các mặt hàng và sản phẩm mới của công nghiệp nông thôn chỉ dừng lại ở trên địa bàn nông thôn trong phạm vi hẹp, thị trường và giá cả hàng hoá không ổn định. Thứ sáu, quan hệ sản xuất ở nông thôn chậm đổi mới, còn nhiều biểu hiện trì trệ. Tuy đã có gần 50% trong số khoảng 10.000 HTX nông nghiệp đã tiến hành chuyển đổi theo luật HTX và Điều lệ mẫu HTX nông nghiệp nhưng nhiều HTX hoặc là chuyển đổi hình thức, hoặc là có “chuyển” nhưng chưa “đổi”, hoạt động kém hiệu quả, chưa tương xứng với các nguồn lực vốn có về đất đai, lao động, vốn và công nghệ được đầu tư. Thứ bảy, CNH nông thôn chưa làm tròn chức năng thu hút lao động dư thừa từ nông nghiệp, chưa tạo ra thế và lực mới để chuyển đổi cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động nông thôn theo yêu cầu CNH-HĐH. Thực tế cho thấy cho đến nay lao động nông nghiệp cả nước vẫn có xu hướng tăng dần về số tuyệt đối: năm 1999 là 25,25 triệu người, tăng 1,18 triệu (4,9%) so với năm 1996. Tình trạng lao động dư thừa, việc làm thiếu, thu nhập của nông thôn thấp và tăng chậm: với 8,1 triệu ha đất nông nghiệp, gần 29 triệu lao động, mỗi năm tăng thêm khoảng 1 triệu lao động, bình quân 0,27 ha/1lao động, lao động nông thôn mới chỉ sử dụng 73% quỹ thời gian trong khi vẫn còn khoảng 10 triệu ha đất hoang hoá và gần 1,4 triệu ha mặt nước có thể nuôi trồng thuỷ sản nhưng chưa được khai thác, sử dụng. Dựa trên những đánh giá trên về kết quả đã đạt được của quá trình CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn trong những năm vừa qua cũng như những khó khăn, thách thức cần vượt qua chúng ta có thể đánh giá được hiệu quả của quá trình đầu tư phát triển cho CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn. Dưới đây là một số kết quả tổng hợp đã được thống kê trong khoảng thời gian 10 năm trở lại đây. II. Thực trạng quá trình đầu tư phát triển cho CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn 1. Những thành công đã đạt được Trong những năm qua đầu tư cho nông nghiệp và nông thôn luôn giành được sự chú ý ngày càng cao của Nhà nước. Nếu năm 1996 đầu tư từ ngân sách nhà nước cho nông nghiệp, nông thôn chiếm 10% tổng đầu tư từ ngân sách, thì năm 1997 là 11,3% và năm 1998 là 15,3%. Ngoài ra, Nhà nước còn đầu tư qua hệ thống Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, ngân hàng Người nghèo và các chính sách hỗ trợ tài chính khác. Năm 1998, Ngân hàng Nông nghiệp và Phất triển nông thôn đã cho 6 triệu hộ nôn gdân vay khoảng 22.000 tỷ đồng dêt phát triển nông nghiệp và xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn. Thuỷ lợi là lĩnh vực được ưu tiên đầu tư nhiều nhất. Năm 1998, đầu tư cho thuỷ lợi hơn 1.900 tỷ đồng, chiếm hơn 60% ngân sách đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn... Vốn đầu tư toàn xã hội cho nông nghiệp 1995 1996 1997 1998 1999 Tổng số (tỷ VND) 68.047 79.367 96.870 97.336 103.771 Nông, lâm nghiệp, thuỷ sản (tỷ VND) 5.209 5.723 7.084 7.629 7.773 So với tổng số(%) 7,7 7,2 7,3 7,8 7,5 Nguồn: Tổng cục Thống kê (không kể đầu tư cho thuỷ lợi) Vốn đầu tư là điều kiện tiên quyết để CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn: xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và các hoạt động dịch vụ như đào tạo, bồi dưỡng những kiến thức và tay nghề cho lực lượng lao động...Vì vậy trong công cuộc CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn chúng ta cần phát huy triệt để mọi nguồn vốn trong nước cũng như nước ngoài, phát huy nội lực là chính đồng thời tận dụng có hiệu quả sự trợ giúp từ bên ngoài. Trong việc huy động và sử dụng các nguồn vốn đầu tư phát triển CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn, chúng ta đã đạt được một số thành tựu đáng chú ý sau: Vốn đầu tư XDCB của Nhà nước trong nông-lâm-ngư nghiệp Đơn vị: Tỷ đồng 1990 1995 1996 1999 Tổng số 409,2 2758,2 3044,0 4661,8 1. Nông nghiệp 409,2 2216,6 2384,4 4090,9 Trồng trọt 92,2 228,5 429,3 1399,4 Khai hoang xây dựng kinh tế mới 29,5 82,7 80,7 83,5 Nông trường quốc doanh 55,6 131,0 205,1 1069,1 Cao su 20,8 7,9 11,8 47,2 Chè 0,9 4,1 3,5 19,5 Cà phê 2,6 14,3 17,9 45,5 Trạm, trại phục vụ trồng trọt 7,3 14,8 143,6 246,8 Chăn nuôi 16,9 50,5 213,4 42,4 Trạm, đội máy kéo _ _ 3,9 _ Thuỷ lợi 299,8 1937,5 1737,7 2649,1 Trong đó: Thuỷ nông 244,4 _ _ _ 2. Lâm nghiệp _ 433,7 498,0 370,9 3. Thuỷ sản _ 107,9 161,6 200,0 Nguồn: Tổng cục Thống kê Trong điều kiện nguồn vốn từ ngân sách nhà nước dành cho đầu tư xây dựng cơ bản còn hạn chế, phải tập trung cho các công trình trọng điểm nhưng Nhà nước vẫn tăng cường đầu tư cho CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn. Năm 1997, tổng vốn đầu tư cho nông nghiệp là 1.843 tỷ đồng, trong đó vốn ngân sách nhà nước là 1.200 tỷ đồng, vốn nước ngoài là 643 tỷ đồng. Nguồn vốn này dành chủ yếu cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng, đặc biệt là giao thông, thuỷ lợi, điện và cung cấp nước sạch nông thôn. Đầu tư cho thuỷ lợi so với tổng vốn đầu tư từ NSNN 1996 1997 1998 1999 2000 Tổng số (tỷ VND) 16.500 17.400 19.500 27.900 28.700 Thuỷ lợi (tỷ VND) 1.708 2.573 2.800 4.000 3.800 Tỷ trọng (%) 10,35 14,78 14,40 14,40 13,24 Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư Cùng với nguồn vốn của Nhà nước là nguồn vốn tự có của các doanh nghiệp và của hơn 10 triệu hộ nông dân đầu tư cho phát triển sản xuất nông nghiệp. Ước tính mức vốn đầu tư bình quân 1 hộ/1năm là 1 triệu đồng thì mỗi năm nguồn vốn này lên tới 10.000 tỷ đồng, nhiều gấp 3 lần nguồn vốn ngân sách. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, tỷ lệ tích luỹ trên GDP của khu vực nông thôn nước ta ngày càng tăng: năm 1990 là 5,2%, năm 1995 là 10,6%. Tốc độ trang bị, đầu tư máy móc của hộ nông dân tăng lên nhanh chóng. Theo số liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, trong vòng 10 năm (1985-1995) số lượng máy kéo nhỏ đã tăng lên gấp 3 lần, máy kéo lớn tăng 1,4 lần, động cơ điện tăng 1,6 lần, động cơ xăng chạy diezen tăng 1,4 lần, máy phát điện tăng 125 lần, máy bơm nước tăng 2,8 lần, máy tuốt lúa tăng 3,2 lần...Vốn đầu tư của dân không chỉ tăng lên về số lượng mà đã chuyển dần theo cơ cấu hợp lý hơn, tập trung vào các vùng chuyên canh, sản xuất hàng hoá lớn như lúa gạo ở ĐBSCL, ĐBSH, cà phê ở Tây Nguyên, cao su, điều ở Đông Nam Bộ, nuôi trồng thuỷ sản ở các vùng ven biển...Nguồn vốn của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đầu tư vào nông nghiệp và kinh tế nông thôn đã và đang góp phần quan trọng thúc đẩy quy mô và tốc độ tăng trưởng kinh tế ở các vùng sản xuất hàng hoá lớn tập trung. Phương thức đầu tư chủ yếu là hỗ trợ kỹ thuật, giống cây con, ứng trước vốn cho nông dân mua vật tư, phân bón để bảo đảm sản xuất nguyên liệu, bao tiêu sản phẩm, xây dựng mô hình tổ chức sản xuất và tiêu thụ nông sản hàng hoá, nâng cấp cơ sở hạ tầng cho nông thôn, nhất là vùng nguyên liệu cho công nghiệp chế biến. Trong lĩnh vực phát triển nông thôn các doanh nghiệp cũng đã đầu tư vốn và kỹ thuật hỗ trợ các địa phương xây dựng, nâng cấp xây dựng cơ sở hạ tầng, nhất là thuỷ lợi, giao thông, điện, trường học, trạm xá, nước sạch...với nhiều mô hình và mức độ khác nhau. Riêng chương trình điện khí hoá nông thôn, Tổng công ty điện lực Việt nam vừa đầu tư kéo lưới điện quốc gia về các vùng nông thôn đưa tỷ lệ xã có điện từ 60% năm 1995 lên 70% năm 1998, vừa hỗ trợ các hộ dùng điện ở nông thôn qua giá bán điện. Nguồn vốn của các tổ chức tín dụng đã góp phần không nhỏ vào việc giải quyết nhu cầu vốn cho sản xuất của nông dân trong đó Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn giữ vai trò chủ yếu hỗ trợ theo phương thức cho vay không lãi hoặc lãi suất ưu đãi để bù giá vật tư nông nghiệp, giá bán nông sản hàng hoá cho nông dân. Trong 2 năm 1997 và 1998, nguồn vốn tín dụng đầu tư gián tiếp vào nông nghiệp, nôngthôn vào khoảng 20-22 nghìn tỷ đồng/năm. Riêng năm 1998, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã cho 6 triệu hộ nông dân vay với tổng số vốn khoảng 22 nghìn tỷ đồng để phát triển sản xuất nông nghiệp và xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn. Từ nay đến hết năm 2001, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn sẽ triển khai giải ngân nhiều dự án lớn cho khu vực nông thôn: Dự án tài chính doanh nghiệp nông thôn ADB trị giá 80 triệu USD; chương trình tín dụng nông nghiệp 2 của AFD (30 triệu euro)... Sau khi có Luật Đầu tư nước ngoài (1998), vốn đầu tư của nước ngoài vào nước ta tăng nhanh: năm 1996 có 326 dự án với số vốn là 8.536 triệu USD, 5 tháng đầu năm 1998 đã có 109 dự án với số vốn đầu tư là 1.120 triệu USD. Theo Bộ nông nghiệp và Phát triển nông thôn, hiện nay toàn ngành nông lâm nghiệp có 382 dự án đầu tư nước ngoàiđăng ký hoạt động với tổng số vốn gần 2,4 tỷ USD trong đó có 291 dự án với số vốn 1,32 tỷ USD được đưa vào hoạt động. Các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đã mang vào Việt nam nhiều thiết bị, công nghệ tiên tiến, nhiều giống cây trồng, vật nuôi năng suất và chất lượng cao, tạo điều kiện cho nông sản Việt nam tham gia thị trường quốc tế, góp phần nâng cao kim ngạch xuất khẩu toàn ngành. Các dự án còn tạo việc làm cho hàng chục ngàn lao động công nghiệp và hàng chục vạn lao động sản xuất nguyên liệu cho công nghiệp chế biến và nhiều loại dịch vụ khác. Ngoài các dự án thuộc vốn FDI, trong 3 năm qua, nguồn vốn cho vay, viện trợ, hợp tác khoa học- kỹ thuật của các nước và các tổ chức quốc tế trong lĩnh vực nông nghiệp và kinh tế nông thôn tiếp tục tăng lên, góp phần hỗ trợ nông dân phát triển sản xuất nông, lâm nghiệp (các dự án của PAM, FAO, UNDP), và nâng cấp hệ thống cơ sở hạ tầng nông thôn về thuỷ lợi, giao thông, nước sạch, vệ sinh môi trường... Các dự án này đóng góp hàng trăm tỷ đồng mỗi năm góp phần quan trọng tăng nguồn vốn , nâng cấp cơ sở vật chất- kỹ thuật phục vụ CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn. Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo ngành 1988-2001 Ngành Số dự án Tổng VĐT Vốn pháp định Vốn thực hiện Công nghiệp 1.704 19.472.384.946 8.855.997.352 11.028.392.804 Nông nghiệp 383 2.292.816.129 1.060.874.817 1.150.753.016 Nông-Lâm 333 2.132.076.810 981.167.039 1.054.864.982 Thuỷ sản 50 160.739.319 79.707.778 95.888.034 Dịch vụ 649 14.830.945.317 6.560.427.546 5.624.500.482 Tổng số 2.736 36.596.146.392 16.477.299.715 17.803.646.302 Nguồn: Văn phòng QLDA-Bộ KH&ĐT 2. Những tồn tại cần khắc phục Bên cạnh những kết quả đạt được, vấn đề đầu tư phát triển CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn vẫn còn bộc lộ nhiều bất cập cần tiếp tục giải quyết: Một là, việc huy động các nguồn vốn đầu tư phát triển nông nghiệp, nông thôn còn hạn chế, tỷ trọng đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn vẫn còn thấp, những tiền đề vật chất để tăng trưởng và phát triển còn yếu kém, cơ cấu kinh tế nông thôn chuyển dịch chậm. Cụ thể là: Vốn đầu tư từ Ngân sách Nhà nước (NSNN): Hiện nay vốn đầu tư từ NSNN cho khu vực nông nghiệp và nông thôn chỉ đáp ứng được 1/3 nhu cầu trong khi nhu cầu vốn đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn giai đoạn 1998-2000 lên tới 8 tỷ USD tương đương với 104.000 tỷ đồng theo tỷ giá hiện hành. Đặc biệt, tỷ trọng đầu tư của NSNN ở một số thời kỳ không tăng mà còn có xu hướng giảm dần.Trước năm 1990, tỷ trọng vốn đầu tư từ NSNN cho nông nghiệp, nông thôn chiếm 20% tổng vốn đầu tư cho toàn bộ nền kinh tế thì nhiều năm qua giảm xuống còn 11-12%, năm 1998 tăng lên khoảng 15% song chủ yếu đầu tư cho thủy lợi và đê điều (chiếm khoảng 70%). Có tỉnh vốn đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn giảm cả về số lượng tuyệt đối và tỷ trọng như: Đồng Nai từ 48,5 tỷ đồng (năm 1995) xuống còn 44,2 tỷ đồng (năm 1996) và 38,8 tỷ đồng (năm 1997); tỷ trọng từ 10% xuống còn 6,3% và 4,8% trong 3 năm tương ứng. Vốn đầu tư nước ngoài (FDI) dựa vào các dự án nông nghiệp, nông thôn vừa ít về số lượng vừa nhỏ bé về quy mô. Đến tháng 9/1998 mới có 237 dự án với tổng mức vốn 1,691 triệu USD chiếm 10% về số dự án và 5% về số vốn FDI đầu tư vào Việt nam. Vốn trong dân, nguồn nội lực để đầu tư phát triển CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn chưa được khai thác tốt. Theo tính toán, hiện nay vốn trong dân có khoảng 100.000 tỷ đồng, nhưng ngân hàng mới chỉ huy động được khoảng 40% số vốn trên đầu tư vào sản xuất. Như vậy còn tới 60% vốn của dân nằm im dưới dạng vàng, ngoại tệ, bất động sản. Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cuối năm 1997 đã huy động được 24.305 tỷ đồng đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, đạt tốc độ tăng trưởng 2,7%. Tuy nhiên, 90% số vốn này là tiền gửi tiết kiệm ngắn hạn, vốn huy động bằng tiền gửi dài hạn còn ít. Hai là, tỷ lệ vốn đầu tư cho khoa học, kỹ thuật phục vụ nông nghiệp chưa tương xứng với vai trò của nó nên chưa khơi dậy được những tiềm năng chất xám để tăng trưởng nông nghiệp với nhịp độ cao và ổn định. Đặc biệt là vấn đề đầu tư cho nghiên cứu, lai tạo và nhập nội giống cây con có năng suất và chất lượng cao chưa được quan tâm thoả đáng. Đầu tư cho nông nghiệp đạt tỷ lệ thấp (8,2%) và mức tăng hàng năm chỉ đạt 16,7% trong khi đó các ngành kinh tế khác có mức đầu tư trung bình là 20%. Tỷ lệ đầu tư cho nông nghiệp chưa tương xứng với vị trí, vai trò của ngành nông nghiệp trong cơ cấu các ngành kinh tế . Vốn đầu tư còn hạn hẹp dẫn tới không thể đầu tư phát triển chiều sâu cũng như ứng dụng nhanh chóng những thành tựu khoa học-công nghệ mới vào sản xuất. Do đó, năng suất thấp, chất lượng sản phẩm không cao và thường bị ép giá trong cuộc cạnh tranh với sản phẩm đồng loại trên thị trường khu vực và thế giới. Ba là, cơ cấu đầu tư còn bất hợp lý, đầu tư phân tán dàn đều, không tập trung cho các vùng sản xuất trọng điểm. Cơ cấu vốn đầu tư của Nhà nước tập trung chủ yếu vào xây dựng cơ sở hạ tầng, chưa đầu tư được nhiềucho những ngành nghề then chốt có tính chất dẫn dắt kinh tế nông thôn phát triển như công nghiệp chế biến, ngành nghề truyền thống... Tuy vốn đầu tư tập trung chủ yếu vào kết cấu hạ tầng nông thôn nhưng ngay cả trong lĩnh vực này vẫn mang tính bình quân, tạo cho các địa phương tư tưởng ỷ lại, hạn chế tính tích cực huy động vốn trong dân vào phát triển kinh tế nông thôn. Vì vậy, vốn đầu tư vẫn chưa đủ mạnh để cải biến một cách cơ bản và đồng bộ cơ sở hạ tầng nông thôn, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn. Bốn là, vốn đầu tư cho mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn chưa được đặt ra đúng với yêu cầu của nó. Đầu tư cho ngành nghề và dịch vụ phi nông nghiệp chưa được quan tâm cả về chủ trương và giải pháp nên những tiền đề vật chất cho chuyển dịch cơ cấu chưa hình thành. Tốc độ chuyển dịch cơ cấu ngành nghề trong nội bộ nông nghiệp những năm qua chậm lại. Vốn đầu tư nước ngoài cho nông nghiệp, nông thôn còn quá ít cả về số lượng dự án và quy mô vốn, lại không tập trung vào các mục tiêu tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn nên sự bổ sung vốn cho CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn còn rất hạn chế. Năm là, khả năng sử dụng vốn đầu tư trong từng dự án còn hạn chế, thậm chí có nơi, có lúc vốn đầu tư bị lãng phí và thất thoát nghiêm trọng. Theo báo cao của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, hiện nay ngân hàng đã cho loại hình hợp tác xã vay 66 tỷ đồng nhưng vốn nằm khê đọng chiếm tới 22 tỷ đồng. Có rất ít dự án đạt hiệu quả kinh tế. Qua kiểm tra 16 chương trình dự án phát triển nông nghiệp, nông thôn đã phát hiện nhiều sai phạm trong khi sử dụng vốn FDI và ODA. Trong chương trình 327-chương trình đầu tư lớn nhất cho nông nghiệp, nông thôn với tổng kinh phí hai năm 1995-1996 là 1.315 tỷ đồng, chiếm 27% tổng vốn của tất cả các chương trình phát triển nông nghiệp, nông thôn-chỉ sử dụng được 60% số vốn đúng mục đích, hiệu quả kinh tế không cao. 3. Bài học kinh nghiệm của một số nước về vấn đề đầu tư phát triển CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn Gần 4 thập kỷ qua, kể từ năm 1960, thế giới đã chứng kiến sự trỗi dậy của xu hướng CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn của các nước, đặc biệt là các nước Châu á như Thái Lan, ấn Độ, Trung Quốc...Sự xuất hiện và phát triển nhanh chóng của xu hướng này bắt nguồn từ sự thất vọng về nền đại công nghiệp qui mô lớn, hiện đại ở thành phố trong việc tạo việc làm, tăng thu nhập và xoá đói giảm nghèo ở nông thôn và khả năng giải phóng lao động nông nghiệp khỏi quan hệ truyền thống của nó ở các nước đang phát triển mà nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp truyền thống, kỹ thuật lạc hậu. Mặt khác, ở các nước đang phát triển, nông nghiệp giữ vai trò đặc biệt quan trọng và chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu GDP. Vì vậy, vấn đề đầu tư cho CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn và ảnh hưởng của nó đối với nền kinh tế quốc dân nói chung, tăng trưởng kinh tế ở khu vực nông thôn nói riêng được các nước hết sức quan tâm. Trong những năm vừa qua, nhiều nước, nhất là các nước trong khu vực đã thu được nhiều thành tưụ trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn do thực hiện thành công CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn. Nguyên nhân thành công phần lớn do có chính sách đầu tư hợp lý và hiệu quả. Có thể kể ra dưới đây một số kinh nghiệm rút ra từ thực tế quá trình đầu tư phát triển CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn ở các nước đó. Đầu tư trực tiếp từ ngân sách Nhà nước để khuyến khích phát triển những sản phẩm có ý nghĩa sống còn đối với quốc gia như cây lương thực, cây xuất khẩu, cây đặc sản có giá trị cao...Vốn đầu tư được sử dụng để chuyển giao công nghệ mới, áp dụng kỹ thuật tiên tiến hoặc giống mới có năng suất và chất lượng cao phục vụ sản xuất nông nghiệp. Tăng mạnh đầu tư cho khoa học-kỹ thuật, đào tạo nâng cao năng lực cán bộ khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư và đưa về cơ sở để phát huy tác dụng. ở Inđônêxia, năm 1998 có28000 cán bộ khuyến nông. Chi phí cho công tác khuyến nông chiếm 21% chi ngân sách hàng năm của Bộ Nông nghiệp. Ngày nay, khoa học-kỹ thuật đã là một bộ phận của lực lượng sản xuất. Vì vậy, tăng trưởng kinh tế, đổi mới cơ cấu kinh tế nông thôn và sản xuất nông nghiệp cũng phải bắt đầu từ khoa học-kỹ thuật. Đó là phương thức đầu tư sớm đem lại hiệu quả nhất. Giai đoạn 1966-1985, đầu tư cho khoa học-kỹ thuật nông nghiệp của Mỹ tăng 5,4 lần, từ 560 triệu USD lên 2.248 triệu USD, đó chính là điều kiện đưa năng suất lao động nông nghiệp Mỹ lên đứng hàng đầu Thế giới trong nhiều năm. Một lao động nông nghiệp Mỹ sản xuất đủ lương thực, thực phẩm cho 60 người trong một năm. Coi trọng đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn, tạo điều kiện trao đổi hàng hoá, lưu thông giữa các khu vực trong nền kinh tế. Khai hoang và xây dựng các khu kinh tế mới nhằm tổ chức di dân. Cơ cấu lại sản xuất làm tăng năng lực sản xuất nông nghiệp nói riêng và cho nền kinh tế nói chung. Thực hiện chính sách bù giá, trợ giá, giảm thuế... cho vật tư, hàng hóa phục vụ sản xuất và đầu ra của sản xuất nông nghiệp. Chính sách đó tạo điều kiện tăng thu nhập, tăng khả năng đầu tư của hộ nông dân. Nhà nước bù lỗ phần chênh lệch giá, chênh lệch lãi suất từ hệ thống ngân hàng Nhà nước. Một số Nhà nước còn có biện pháp để các ngân hàng thương tín cho nông dân vay vốn với mức quy định 5% tổng số vốn huy động hàng năm (sau 1986 là 14% ở Thái Lan). Tại quốc gia này còn có chương trình đặc biệt cho vay tín dụng bằng hiện vật, đặc biệt chú trọng hỗ trợ đầu tư cho hộ nông dân nghèo . Trong đầu tư vốn cho sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn, lý luận và kinh nghiệm thực tiễn các nước đều chỉ ra rằng không thể phát triển nông nghiệp tách rời công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn. Bởi vậy, quốc gia nào cũng đầu tư mạnh cho công nghiệp chế biến nông sản, các dịch vụ phục vụ cho sản xuất nông nghiệp. Trong khu vực nông thôn, công nghiệp được kết hợp với nông nghiệp tạo nên cơ cấu hoàn chỉnh và thống nhất. Đồng thời đẩy mạnh đầu tư mở rộng thị trường tiêu thụ nông sản và hàng hoá sản xuất tại địa bàn nông thôn bao gồm: xây dựng hệ thống chợ nông thôn, tổ chức mạng lưới thu mua nông sản từ các hộ sản xuất, xây dựng hệ thống kho tàng bến bãi để dự trữ, bảo quản và sơ chế nông sản... Những kinh nghiệm trên có tính chất tham khảo cho quá trình đầu tư phát triển CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn ở Việt Nam. Tuy nhiên, mỗi quốc gia có một hướng đi khác nhau, có những chính sách đầu tư phát triển khác nhau. Việc thực hiện những chính sách đầu tư phải phù hợp với điều kiện cụ thể của từng nước, phát huy nội lực và lợi thế so sánh để đạt được hiệu quả cao nhất. Đầu tư cho nông nghiệp ở Trung Quốc giai đoạn 1988-1991 Năm Vốn đầu tư (NDT) Tốc độ phát triển định gốc 1988 15,84 100,0 1989 17,40 109,8 1990 19,16 126,2 1991 24,25 159,7 Nguồn: Đầu tư trong Nông nghiệp-thực trạng và triển vọng, NXB Chính trị quốc gia-1995 Chương III: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư phát triển cho sự nghiệp CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn Việt Nam I. Nhóm giải pháp về huy động các nguồn vốn đầu tư phát triển CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn Xuất phát từ thực trạng khó khăn và đi tìm định hướng tháo gỡ chung cho nông nghiệp, nông thôn, mối quan tâm chính ở đây là cần có đổi mới căn bản việc tổ chức huy động và đầu tư vốn phục vụ CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn. Các báo cáo cho thấy để thực hiện mục tiêu CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn cần phải có nguồn vốn lớn khoảng 2,5-3 tỷ USD/ năm. Vì vậy chiến lược huy động vốn đầu tư phát triển nông nghiệp, nông thôn có ý nghĩa quan trọng. Việc đầu tư phát triển nông nghiệp, nông thôn cần thực hiện qua nhiều chương trình, dự án, với các hình thức thích hợp với trình độ phát triển mỗi vùng như: cho vay lãi suất thấp hoặc không có lãi để phát triển các cơ sở nguyên liệu, đầu tư cơ sở hạ tầng nông thôn như đường xá, bến bãi, điện, nước... đầu tư đổi mới công nghệ, thiết bị và xây dựng mới các nhà máy chế biến, đầu tư cho công tác nghiên cứu khoa học, đào tạo cán bộ cho CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn. Cụ thể: Một là: Xây dựng chính sách huy động vốn đầu tư theo mô hình tổng hợp lực nguồn, gồm tất cả mọi nguồn vốn trong và ngoài nước, trong đó nguồn trong nước là quyết định, nguồn tại chỗ là cơ bản, nguồn bên ngoài là quan trọng. Nguồn vốn ngân sách là nhân tố “dẫn đường, nền tảng” của mọi công cuộc đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn. Tập trung đầu tư cải tạo, xây dựng, nâng cấp cơ sở hạ tầng nông nghiệp, nông thôn từ nguồn vốn ngân sách, nguồn vốn ODA và các nguồn tài trợ ưu đãi khác để tạo môi trường đầu tư thuận lợi thu hút các nguồn vốn của mọi thành phần kinh tế trong và ngoài nước. Hai là: Đa dạng hoá việc huy động vốn đầu tư cho nông nghiệp trên cơ sở khai thác, sử dụng có quy hoạch, có kế hoạch và có hiệu quả mọi nguồn tiềm năng, thế mạnh như lao động, đất đai, tài nguyên rừng, biển...đặc biệt chú trọng thu hút sử dụng các phát minh, tiến bộ khoa học, kỹ thuật và kinh nghiệm quản lý, xúc tiến thương mại... Bên cạnh đó, bảo toàn, tái tạo và tăng trưởng giá trị vốn bằng tiền, các dạng vốn tài chính, vốn tín dụng, vốn sử dụng đất, vốn góp liên doanh, vốn cổ phần...đồng thời tranh thủ thu hút các nguồn vốn nước ngoài viện trợ không hoàn lại, nguồn tài trợ ưu đãi cho các chương trình, dự án phát triển nông nghiệp, nông thôn. Ba là: Xây dựng chính sách phát triển nông nghiệp, nông thôn thống nhất, đồng bộ trong đó chính sách đầu tư là bộ phận cấu thành quan trọng nhất. Để triển khai chính sách đầu tư cho nông nghiệp cần kiện toàn chính sách tài chính tiền tệ với khâu then chốt là ưu đãi cho khu vực nông nghiệp, nông thôn về thuế, lãi suất tín dụng và phân bổ vốn ngân sách. Chính sách bảo trợ xuất khẩu, chính sách tiêu thụ hàng nông sản, chính sách đất đai, chính sách mặt hàng, giá cả và thị trường... là những cấu thành hết sức quan trọng góp phần tháo gỡ ách tắc “đầu vào- đầu ra” trong lưu thông hàng nông sản, thiết lập môi trường tốt thu hút vốn đầu tư cho CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn. Bốn là: Xây dựng chính sách đầu tư tín dụng cho nông nghiệp vừa thích ứng với cơ chế thị trường, vừa tuân thủ sự điều tiết quản lý vĩ mô của Nhà nước. Tuân thủ nguyên tắc tín dụng trong sự kết hợp hài hoà với đầu tư phát triển theo quy hoạch, kế hoạch có trọng tâm, trọng điểm, coi trọng hiệu quả kinh tế-xã hội về lâu dài. Từng bước tiến tới xoá bỏ mọi bao cấp qua con đường tín dụng, lấy tín dụng là phương thức đầu tư chủ yếu mọi nguồn vốn, phân biệt rạch ròi tài trợ chính sách xã hội với đầu tư tín dụng kinh doanh Năm là: Phát huy vai trò đòn bẩy lãi suất tín dụng một cách hợp lý và linh hoạt, giảm nhẹ gánh nặng lãi suất cho nông nghiệp, nông dân. Cần thiết nâng lãi suất tiền gửi VND cao chút ít để thu hút nguồn nội lực trong nước hơn việc chú trọng vay nợ nước ngoài đưa đến gánh nặng nợ ngoại tệ chồng chất. Kiện toàn cơ chế tín dụng và từng bước áp sát lãi suất thị trường, sử dụng đồng tiền tín dụng định hướng sản xuất-kinh doanh, đáp ứng kịp thời và đầy đủ nhu cầu vốn của nông dân, hạn chế dần những đồng tín dụng “phát chẩn” ít ỏi, rải mành, thủ tục tiếp nhận vốn nhiêu khê, lãi suất thực bị tăng cao do phụ phí lớn. Sáu là: Nhà nước cần có chính sách ưu đãi tích cực hoạt động tín dụng dài hạn trong nông nghiệp, chuyển dần từ bù lỗ do “bao cấp” lãi suất sang trợ giá lâu dài một số hàng nông sản chiến lược, miễn giảm hoặc dãn thuế cho hệ thống các tổ chức tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn; thậm chí có chính sách ưu đãi rõ ràng đối với bất kỳ chương trình đầu tư nào của nọi tổ chức kinh tế, doanh nghiệp, tư nhân trong và ngoài nước vào nông nghiệp, phục vụ xuất khẩu, tự cân đối ngoại tệ, tạo nguồn thu ngoại tệ lớn. Bảy là: Kết hợp nguyên tắc tín dụng với các công cụ tài chính khác (như nới lỏng thuế, phí, bù lỗ lãi suất, trợ giá hàng nông sản, cấp đủ vốn lưu động, linh hoạt tỷ giá hối đoái...) để giảm rủi ro, bảo toàn vốn tín dụng ngân hàng. Tăng cường thanh tra, giám sát việc đầu tư vốn trong nông nghiệp, đảm bảo chất lượng nọi quy trình thẩm định, xét duyệt, phân bổ, sử dụng vốn đầu tư. Cải tiến, đa dạng hoá các phương thức cho vay và thanh toán nhằm vừa rút ngắn quãng đường vận động của đồng vốn đến đúng các địa chỉ đầu tư, vừa tiết kiệm đồng vốn, giảm chi phí tín dụng; phòng ngừa tốt rủi ro bằng cách phát huy tín dụng đồng tài trợ theo dự án; tín dụng khép kín, hoàn chỉnh theo quy trình sinh trưởng cây trồng, vất nuôi, quy trình cung ứng vật tư-sản xuất-thu mua-chế biến-tiêu thụ-xuất khẩu nông sản hàng hoá; tín dụng tập thể, hỗ tương đến từng hợp tác xã, tổ đội, đoàn thể... Tám là: Tiếp tục hoàn chỉnh hệ thống tổ chức đầu tư vốn trong nông nghiệp, nông thôn, thu hút sự tham gia của mọi thành phần kinh tế, mọi nhà đầu tư trong và ngoài nước, trong đó kênh đầu tư vốn ngân sách, vốn tín dụng tập trung (Nhà nước thống nhất quản lý) đóng vai trò chủ đạo. Thống nhất các loại hình thức tổ chức tín dụng nông thôn theo một số định chế thích hợp với hoàn cảnh, địa bàn cụ thể: Ngân hàng phát triển nông nghiệp, nông thôn, Ngân hàng cấp tín dụng dài hạn (chủ yếu phát hành trái phiếu dài hạn), Ngân hàng người nghèo, Ngân hàng phát triển nhà, Ngân hàng (hoặc quỹ) tài trợ xuất khẩu nông sản, Quỹ tín dụng nhân dân và một số Quỹ đầu tư tín thác, Quỹ đầu tư hỗ tương, Quỹ trợ giúp áp dụng tiến bộ kỹ thuật... Đối với Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, giữ vai trò chủ yếu trong việc giải quyết nhu cầu vốn đầu tư cho phát triển nông nghiệp, nông thôn, cũng cần thực hiện một số giải pháp trong thời gian tới để đạt được những mục tiêu về huy động vốn như sau: Đa dạng hoá các hình thức thu hút vốn nhàn rỗi trong dân cư thông qua các hình thức tiền gửi tiết kiệm, kỳ phiếu ngân hàng ghi thu bằng tiền Việt Nam, bằng ngoại tệ, bằng vàng với nhiều loại thời hạn khác nhau để có thể phù hợp với các nguồn vốn tạm thời nhàn rôĩ trong dân cư. Ưu tiên phát triển các hình thức thu hút vốn trung và dài hạn để phù hợp với nhu cầu vay đầu tư phát triển trong nông nghiệp và nông thôn, tạo tiền đề cho việc tăng mức dư nợ trung và dài hạn. Chủ động tham gia thị trường liên ngân hàng để huy động và sử dụng vốn linh hoạt, hiệu quả. Nghiên cứu xây dựng cơ chế huy động vốn thông qua các đại lý là hệ thống các quỹ tín dụng nhân dân. Tích cực đàm phán vay ưu đãi của các tổ chức quốc tế và chính phủ các nước, đồng thời dự báo kịp thời những biến động về tỷ giá đẻ có chính sách vay bằng ngoại tệ và cho vay lại phù hợp, bảo đảm hiệu quả hoạt động. II. Nhóm giải pháp nhằm sử dụng và quản lý có hiệu quả nguồn vốn đầu tư cho CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn. 1. Tăng cường hiệu quả sử dụng và quản lý nguồn vốn đầu tư cho CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn. Trong thời gian qua, việc đầu tư vốn phát triển nông nghiệp, nông thôn còn nhiều bất cập, chưa đúng mức và chưa hợp lý. Đặc biệt các nguồn vốn đầu tư bị thất thoát, cắt xén bằng nhiều hình thức làm cho hiệu quả đầu tư bị giảm sút nghiêm trọng. Để nâng cao hiệu quả đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn, các cơ chế, chính sách tài chính trong những năm tới cần chú trọng những vấn đề sau: Thứ nhất: Ưu tiên, tập trung đầu tư và thực hiện các cơ chế tài chính, thuế, tín dụng nhằm thúc đẩy phân công lao động mới trong nông nghiệp, nông thôn theo hướng CNH-HĐH. Sắp xếp lại cơ cấu chi ngân sách Nhà nước theo hướng giảm chi thường xuyên, tăng chi cho đầu tư phát triển, trong đó ưu tiên hàng đầu cho nông nghiệp, nông thôn. Nhà nước cần tăng cường đầu tư và có chính sách khuyến khích đầu tư trong nước và ngoài nước theo quan điểm “khơi trong hút ngoài” vào phát triển nông nghiệp, nông thôn mạnh hơn nữa với tốc độ phát triển vốn đầu tư cao và nhanh để giải quyết những bất hợp lý. Bố trí tăng vốn ngân sách Nhà nước bao gồm cả vốn ODA đầu tư xây dựng các công trình thuỷ lợi, trước hết tăng vốn đầu tư để nâng cấp, đồng thời tăng cường công tác quản lý để nâng cao hiệu quả khai thác các công trình hiện có. Tập trung vốn hoàn thành các công trình xây dựng dở dang để sớm đi vào sử dụng, bố trí vốn đầu tư dứt điểm đối với công trình mới thất sự cấp bách và có hiệu quả cao. Việc bố trí vốn đủ liều lượng phải gắn liền với việc tăng cường các biện pháp quản lý vốn, thực hiện đồng bộ và có hiệu quả các chương trình quốc gia phát triển nông nghiệp, nông thôn trên cùng một địa bàn. Thực hiện huy động hợp lý sự đóng góp của nhân dân vào việc phát triển nông nghiệp, nông thôn đồng thời có quy chế quản lý và sử dụng cụ thể vốn góp của dân một cách rõ ràng, công khai, minh bạch, có hiệu quả. Bổ sung vốn pháp định cho các ngân hàng người nghèo để giúp nông dân nghèo có thêm vốn phát triển sản xuất đồng thời có các chính sách ưu đãi (về thuế, giá thuê đất, lãi suất...), khuyến khích phát triển sản xuất ở các vùng sâu vùng xa và phát triển các lĩnh vực như công nghiệp chế biến, sản xuất hàng nông sản xuất khẩu... Thứ hai: Thực hiện các chính sách tài chính khuyến khích mọi thành phần kinh tế trong nông nghiệp, nông thôn có vốn, có kinh nghiệm quản lý tự đầu tư hoặc liên kết, liên doanh, tạo các hình thức kinh tế hỗn hợp, có hiệu quả trong sản xuất nông nghiệp, chế biến nông, lâm, thuỷ sản và phát triển dịch vụ ở nông thôn. Có chính sách ưu tiên cho các doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp như: hỗ trợ vốn, cấp bổ sung vốn lưu động và khuyến khích doanh nghiệp thực hiện tái đầu tư từ lợi nhuận để lại sau thuế đối với các doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả. Xây dựng quy chế hoạt động và hỗ trợ tài chính đối với các hiệp hội ngành nghề trong nông thôn. Thứ ba: Thực hiện chính sách bảo hộ đối với người sản xuất: có chính sách trợ giá đối với đầu vào như giá phân bón, thuỷ lợi phí, giá điện hợp lý...Quy định giá sàn đối với các mặt hàng có lợi thế xuất khẩu, các sản phẩm của các vùng chuyên canh. Thực hiện thí điểm cơ chế bù trực tiếp hoặc đầu tư trở lại cho người sản xuất các sản phẩm xuất khẩu từ nguồn quỹ bình ổn giá. Thứ tư: Về mặt tổ chức và quản lý các nguồn vốn đầu tư cho phát triển nông nghiệp, nông thôn, Nhà nước cần đổi mới về tổ chức và bảo đảm quản lý thống nhất, nghiêm minh các nguồn vốn đầu tư phát triển kinh tế - xã hội trong nông nghiệp, nông thôn vì hiện nay có đến hàng chục tổ chức chồng chéo và quản lý vốn rất lộn xộn, dễ phát sinh nhiều tiêu cực. Cụ thể là: Triển khai thanh tra, kiểm tra toàn diện các dự án đầu tư, đồng thời tăng cường công tác kiểm tra nội bộ ngành ngân hàng, đấu tranh tích cực chống tham nhũng, xử lý các hành vi tiêu cực, thực hành chi đúng mục đích, tiết kiệm. Cải cách thủ tục hành chính đảm bảo thuận tiện cho việc huy động và cho vay vốn. Hình thành quỹ bảo hiểm tiền gửi và tiền vay đầu tư phát triển sản xuất. Hình thức này nhằm đối phó với những biến động của nền kinh tế, rủi ro trong thiên tai, địch hoạ (do đặc điểm của sản xuất nông nghiệp quy định). Tăng cường công tác đào tạo và đào tạo lại cán bộ, đảm bảo cho cán bộ có đủ năng lực và phẩm chất hoạt động trong lĩnh vực đầu tư và quản lý đầu tư nhằm thúc đẩy nông nghiệp, nông thôn phát triển nhanh, bền vững. Thứ năm: Sắp xếp, đánh giá chính xác hiệu quả đầu tư của từng dự án. Đây là công việc đóng vai trò đặc biệt quan trọng vì nó cho phép định hướng chiến lược đầu tư trong từng giai đoạn cụ thể, đầu tư có trọng điểm, khắc phục tình trạng dàn trải trong đầu tư, nâng cao hiệu quả kinh tế, thúc đẩy kinh tế nông nghiệp, nông thôn phát triển đưa đến thành công của quá trình CNH-HĐH. 2. Phương hướng đầu tư phát triển CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn Cùng với những giải pháp được các chuyên gia nghiên cứu kinh tế và những nhà hoạch định chính sách đề ra ở trên, phương hướng đầu tư phát triển CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn sẽ định hướng cho công cuộc CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn Việt Nam thu được những kết quả đáng kể trong những năm tới đưa nông nghiệp, nông thôn Việt Nam dần thoát ra khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, từng bước phát triển đi lên xếp ngang hàng với các nước nông nghiệp trong khu vực và trên thế giới. Một là, đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn bao gồm: đường giao thông, cầu, cống, công trình thuỷ lợi, điện, nước, thông tin liên lạc. Xây dựng và phát triển các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội khác bảo đảm cho nông dân được thụ hưởng đầy đủ các dịch vụ, phúc lợi xã hội như y tế, văn hoá, giáo dục...Xây dựng các khu dân cư tập trung, thị trấn, bảo đảm được những điều kiện cho cuộc sống, sinh hoạt và làm việc, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn một cách có hiệu quả. Hai là, cùng với việc đầu tư vào xây dựng và phát triển các công trình kết cấu hạ tầng kỹ thuật nông thôn, đầu tư cho công tác nghiên cứu khoa học phục vụ nông nghiệp và khuyến nông, áp dụng khoa học - kỹ thuật, công nghệ sinh học tiên tiến vào việc lai tạo giống mới, tạo ra giống lúa cao sản và các loại cây có giá trị hàng hoá cao. Đầu tư hoàn thiện khâu bảo quản và chế biến sau thu hoạch nhằm giảm tỷ lệ hao hụt và nâng cao chất lượng sản phẩm. Đầu tư vào công tác khuyến nông giúp nông dân giải quyết về cây trồng và vật nuôi. Thông qua công tác khuyến nông sẽ phát huy lợi thế so sánh của từng vùng, nâng cao đời sống của nông dân và đẩy mạnh phát triển quan hệ kinh tế thị trường trong nông nghiệp và nông thôn hiện nay. Ba là: Đầu tư vào những ngành, lĩnh vực then chốt như: công nghiệp chếbiến tạo ra nhiêu sản phẩm cho xã hội. Phát triển công nghiệp chế biến ngay trên vùng nguyên liệu, trên cơ sở quy hoạch hợp lý giữa các ngành,địa phương, bảo đảm mở rộng thị trường tiêu thụ, chú trọng chế biến sâu va tinh chế nhằm nâng cao giá trị nông sản hàng hoá. Bốn là: Đầu tư xây dựng các vùng kinh tế trọng điểm, các tuyến kinh tế chủ lực với những sản phẩm mũi nhọn đồng thời khôi phục lại các làng nghề truyền thống... Một số dự báo về cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn Chỉ tiêu Thực trạng Dự báo 1990 1995 1998 2000 2005 2010 Giá trị SX (GO) 100 100 100 100 100 100 Nông nghiệp 83,7 80,2 81,1 80,5 78 74 Trồng trọt 77,1 81,6 81,4 79 75 70 Chăn nuôi 22,9 18,4 18,6 21 25 30 Lâm nghiệp 7,8 5,4 4,6 4,2 4,0 3,5 Thuỷ sản 8,5 14,4 14,3 15,3 18 22,5 Nguồn: Tổng cục Thống kê Mục lục Trang

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docB0179.doc
Tài liệu liên quan