Đề tài Phân tích chính sách tiền tệ và các công cụ của chính sách tiền tệ Ngân hàng trung ương

Qua nội dung mà tiểu luận đã trình bày, em đã tiến hành phân tích chính sách tiền tệ và các công cụ của chính sách tiền tệ NHTƯ. Qua phân tích, chúng ta có thể thấy rõ tầm quan trọng của các công cụ này đối với việc thực hiện chính sách tiền tệ của NHTƯ và gián tiếp tác động tới nền kinh tế. Trên thực tế thì cơ chế hoạt động và các tác động tiêu cực cũng như tích cực của các công cụ này là rất phức tạp. Tất cả những kiến thức mà em đã trình bày với mong muốn được hiểu sâu hơn về đề tài hấp dẫn này .

doc58 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1560 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phân tích chính sách tiền tệ và các công cụ của chính sách tiền tệ Ngân hàng trung ương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
uả. Tỉ lệ nợ khó đòi, nợ xấu trong hệ thống ngân hàng khá lớn. Các rủi ro về sự biến động của thanh toán đối ngoại do tỉ giá gây ra. Sự suy giảm về tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế trong giai đoạn vừa qua, kể từ sau cuộc khủng hoảng tiền tệ ở Đông Nam á. Hoạt động của thị trường liên ngân hàng chưa chi phối mạnh biến động tỉ giá trên thị trường. Thị trường này chưa thực sự là nơi giao điểm của hội tụ và định hướng chuyển dịch các dòng vốn nhàn rỗi giữa các NHTM. Thị trường vốn mới mở chưa có khả năng đáp ứng được nhu cầu về vốn cho nền kinh tế, đặc biệt là vốn trung và dài hạn. Nhập siêu của chúng ta luôn luôn dương, tuy có giảm trong những năm gần đây, nhưng sự thâm hụt của cán cân vãng lai, bội chi ngân sách liên tục cũng như tình trạng nợ nước ngoài đã gây ra tình trạng mất tự chủ, đô la hoá- tâm lý tích trữ ngoại tệ đe doạ tính độc lập của chính sách tiền tệ. Những hạn chế trên trong việc điều hành chính sách tiền tệ ảnh hưởng rất lớn đến việc thực hiện các mục tiêu của chính sách tiền tệ nói chung và của chính sách vĩ mô nói riêng. Trong hời gian tới, NHTƯ đang cố gắng khắc phục những tồn tại chủ quan và khách quan này để chính sách tiền tệ thực sự hiệu quả, đồng thời nâng cao hơn nữa khả năng quản lý của NHTƯ đối với nền kinh tế quốc dân. II. Đánh giá chung việc sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ của NHTƯ : Qua phần phân tích trên, em đã điểm lại những diễn biến chính trên thị trường tiền tệ ở Việt nam trong giai đoạn từ năm 1986-2000 với những thành công nổi bật nhất. Trong phần tiếp theo, em xin được nói về thực trạng việc sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ của NHTƯ ở Việt nam hiện nay với những thành công và cả những tồn tại cần tháo gỡ. Thực hiện chủ trương chính sách kích cầu của chính phủ, trong giai đoạn hiện tại này, NHTƯ đang thi hành một chính sách tiền tệ nới lỏng nhằm kích thích đầu tư và tiêu dùng trong cả nước, đồng thời là quá trình đổi mới và hoàn thiện việc sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ NHTƯ nhằm phát huy hiệu quả của việc điều hành trong điều kiện mới. Trong điều 16 luật Ngân hàng nhà nước được Quốc hội thông qua ngày 27 tháng12 năm 2997 và có hiệu lực từ ngày 1 tháng 10 năm 1998 đã qui định: “ Để thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, ngân hàng nhà nước sử dụng các công cụ tái cấp vốn, lãi suất, tỉ giá hối đoái, dự trữ bắt buộc, nghiệp vụ thị trường mở và các công cụ khác do thống đốc quyết định”. 1. Dự trữ bắt buộc: Trong điều 20 luật Ngân hàng nhà nước Việt nam có viết “ Ngân hàng nhà nước qui định tỉ lệ dự trữ bắt buộc đối với từng loại hình tổ chức tín dụng và từng loại tiền gửi với mức từ 0% đến 20% tổng số dư tiền gửi tại mỗi tổ chức tín dụng trong từng thời kì. Việc trả lãi đối với tiền gửi dự trữ bắt buộc của từng loại hình tổ chức tín dụng, từng loại tiền gửi trong từng thời kì là do Chính phủ qui định”. Để thực hiện luật ngân hàng NN, Thống đốc ngân hàng nhà nước đã ban hành qui chế dự trữ bắt buộc ( DTBB ) kèm theo quyết định số 51/1999/QĐ-NHNN ngày 10/02/1999 và có hiệu lực thi hành từ kì duy trì dự trữ bắt buộc tháng 3 năm 1999. Về cơ bản nội dung và kĩ thuật tính toán vẫn thực hiện như qui chế DTBB ban hành năm 1998 của thống đốc NHNN và có bổ sung một số điểm như sau: - Đối tượng áp dụng: Bao gồn tất cả các đối tượng đã qui định và bổ sung thêm quĩ tín dụng nhân dân, ngân hàng hợp tác, hợp tác xã tín dụng. - Qui định tiền DTBB là số tiền phải gửi tại NHTƯ đểthực hiện chính sách tiền tệ quốc gia thay cho qui định về cơ cấu tiền DTBB gồm 70% gửi tại NHTƯ và 30% tiền mặt ngân phiếu còn thời hạn thanh toán. - Qui định tỉ lệ dự trữ bắt buộc là 0% đối với các trường hợp miễn và chưa phải DTBB trước đây. - Việc trả lãi suất DTBB do Chính phủ qui định. 1.1. Diễn biến: Trong những năm gần đây, để thực hiện mục tiêu nới lỏng tiền tệ nhằm kích cầu tạo đà phát triển cho nền kinh tế, ngoại trừ tỉ lệ DTBB đối với đồng ngoại tệ từ tháng 12/2000 NHTƯ đã nâng từ 5% lên 8% và ngày 1/12/2000 được điều chỉnh lên mức 12% trên tổng số dư bằng ngoại tệ áp dụng cho tất cả các tổ chức tín dụng, đối với đồng nội tệ, NHTƯ đã hai lần điều chỉnh giảm tỉ lệ DTBB từ mức 7% xuống còn 5% trên tổng số tiền gửi có kì hạn dưới 12 tháng đối với các NHTM quốc doanh, NHTM cổ phần đô thị, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh và các công ty tài chính, riêng đối với NHNN&PTNT là 3%, giảm từ 5% xuống còn 1% đối với các NHTM cổ phần nông thôn, ngân hàng hợp tác, QTDND... 1.2. Thành công: Việc giảm tỉ lệ bắt buộc đồng nội tệ đối với các tổ chức tín dụng là một tín hiệu khích lệ trông giai đoạn mở rộng nguồn vốn cho nền kinh tế và nhăn chặn đà giảm sút tốc độ tăng trưởng kinh tế hiện nay. Thành công của việc giảm tỉ lệ DTBB là đã góp phần mở rộng nguồn vốn cho các hoạt động tín dụng, an toàn về khả năng thanh toán cho các NHTM, có tác dụng hạ thấp chi phí hoạt động và các chi phí nghiệp vụ khác đồng thời tăng khả năng sinh lời cho các tổ chức tín dụng. Điều này đã thúc đẩy mạnh mẽ quá trình mở rộng lĩnh vực và đối tượng cho vay, đến mọi hoạt động thuộc các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân và mọi đối tượng thuộc các thành phần kinh tế. Chính sách mới này đã góp phần tích cực vào việc thực hiện thành công mục tiêu chính sách tiền tệ của NHTƯ. 1.3. Tồn tại: Bên cạnh những thành công được ghi nhận của việc thực hiện, vẫn còn những tồn tại và khó khăn trong việc thực hiện cần được giải quyết trong thời gian tới để có thể tăng cường hiệu quả của DTBB. Đó là những khó khăn về cơ cấu kinh tế và thời gian điều chỉnh còn ngắn nên những tác dụng tích cực của công cụ này vẫn chưa thực sự đem lại hiệu quả mong đợi, dẫn đến những tác động cuả NHTƯ trong việc điều khiển chính sách tiền tệ còn rất hạn chế. Cũng không thể không nói tới việc điều chỉnh liên tục tỉ lệ dự trữ bằng ngoại tệ của NHTƯ tới 3 lần trong năm 2000 vừa qua đã gây ra những ảnh hưởng tiêu cực tới hoạt động cho vay vốn bằng ngoại tệ của các ngân hàng, đặc biệt là đối với các khu vực thường xuyên phải cần một lượng ngoại tệ lớn như các doanh nghiệp trong khu chế xuất, đặc khu kinh tế, khu công nghiệp và các doanh nghiệp xuất nhập khẩu. 1.4. Nguyên nhân: Nguyên nhân của những hạn chế trong qua trình sử dụng công cụ tỉ lệ DTBB thời gian qua bao gồm cả những nguyên nhân khách quan và các nguyên nhân chủ quan. Nguyên nhân chủ quan có thể đánh giá là do chúng ta chậm chuyển đổi cơ cấu nền kinh tế. Quá trình áp dụng các phương tiện thanh toán hiện đại vẫn còn chậm khiến cho tác động của các công cụ chính sách tiền tệ vẫn còn bị hạn chế. Cơ cấu kinh tế hiện nay là một khó khăn lớn đối với việc tăng khả năng mở rộng tín dụng của hệ thống các NHTM & tổ chức tín dụng. Ta biết rằng DTBB là tỉ lệ số tiền gửi tại NHTƯ trên tổng số tiền gửi có thể phát séc. Nhưng ở nước ta hiện nay, séc không được chấp nhận sử dụng nhiều trong thanh toán nên tỉ lệ tiền gửi theo yêu cầu ( tài khoản séc) trong tổng cung tiền thường không cao, chưa đến 1/2 cung tiền. Như vậy, khi NHTƯ thay đổi tỉ lệ DTBB thì cũng chỉ ảnh hưởng có mức độ đến cung tiền của nền kinh tế, do đó, cũng chỉ có một tác dụng tương đối trong việc điều khiển lượng cung tiền và chính sách tiền tệ. Nguyên nhân khách quan của tình trạng trên thời gian áp dụng những điều chỉnh của công cụ này vẫn còn ngắn nên cũng chưa thấy hết được những tác động tích cực của nó đối với việc mở rộng tín dụng cho cả nền kinh tế. Đối với DTBB bằng ngoại tệ lại phải chịu ảnh hưởng rất lớn từ diễn biến thị trường ngoại hối đầy sôi động và phức tạp trong thời gian vừa qua. Những tháng cuối năm, do tình hình lãi suất biến động theo chiều hướng tăng trên thị trường Mĩ đã làm cho lãi suất huy động vốn bằng ngoại tệ liên tục tăng, khối lượng tiền gửi bằng ngoại tệ của các khu vực dân cư đã tăng lên nhanh chóng trong toàn bộ hệ thống ngân hàng. Những tháng đầu năm 2001 này, do dự báo về tốc độ tăng trưởng suy giảm của nền kinh tế Mĩ, NHTƯ Mĩ lại hạ lãi suất khiến cho các NHTM Việt nam phải hại lãi suất đầu vào bằng ngoại tệ. Những diễn biến hết sức phức tạp này đòi hỏi một tầm nhìn rộng và khả năng dự báo chính xác, do đó, việc DTBB bằng ngoại tệ liên tục tăng là điều có thể hiểu được để có thể thích ứng với những diễn biến tiền gửi này. 2. Lãi suất tái chiết khấu: Lãi suất tái chiết khấu có liên quan chặt chẽ đến việc cung cấp vốn của NHTƯ cho các NHTM. Trong điều 17 của luật NHNN qui định “NHNN thực hiện việc tái cấp vốn cho các ngân hàng theo những hình thức sau đây: Cho vay lại theo hồ sơ tín dụng; chiết khấu & tái chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá khác ; cho vay có đảm bảo bằng cầm cố thương phiếu & các giấy tờ có giá ngắn hạn khác”. Các giấy tờ có giá ngắn hạn được chiết khấu tại NHTƯ là tín phiếu kho bạc thông qua đấu thầu tại NHTƯ, tín phiếu NHNN và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác do thống đốc NHNN qui định trong từng thời kì. 2.1. Diễn biến: Trong năm 1999, NHTƯ đã 4 lần giảm lãi suất cho vay tái cấp vốn từ mức 1,1%/ tháng đầu năm xuống còn 0,4%/ tháng và đến tháng. Lãi suất chiết khấu được công bố là 0,45%/ tháng trong năm 1999. Tháng1/2001 lãi suất tái chiết khấu đã tăng từ 0,4%/ tháng lên 0,45/ tháng. Cùng với những thay đổi về lãi suất đó, NHTƯ đã ban hành qui chế về nghiệp vụ chiết khấu, tái chiết khấu của NHTƯ đối với các ngân hàng nhằm thực hiện chính sách tiền tệ và tạo khả năng cân đối nguồn vốn hoạt động cho các ngân hàng. Tính đến 31/12/1999, tín dụng cho nền kinh tế đã tăng 19,2% (cao hơn mức tăng của năm 1998 là 16,4% ) đưa tỉ lệ tín dụng so với GDP đạt 22,9% cao hơn tỉ lệ 21,6% cảu năm 1998 và 21,1% của năm 1997. Quá trình sử dụng linh hoạt chính sách lãi suất tái chiết khấu nằm trong sự điều hành linh hoạt chính sách lãi suất của NHTƯ theo xu hướng tiến đến tự do hoá lãi suất theo lãi suất thị trường đã chứng minh rằng đây là một công cụ có tác dụng của NHTƯ trong việc điều hành và quản lý chính sách tiền tệ, đặc biệt là trong điều kiện các công cụ gián tiếp khác còn chưa phát triển ở Việt nam hiện nay. 2.2. Thành công: Lãi suất tái chiết khấu đã tạo ra một hiệu quả quan trọng trong việc cung cấp vốn cho hoạt động của các NHTM. Năm 2000 NHTƯ vẫn tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ thận trọng nhằm giữ ổn định tiền tệ, kiểm soát lạm phát ở mức 6% và góp phần đẩy mạnh kinh tế với tốc độ tăng trưởng ở mức 5-5,5%. Việc giảm lãi suất tái chiết khấu nằm trong những tác động của NHTƯ nhằm thực hiện việc mở rộng tín dụng cho nền kinh tế. Điều này đã giúp cho việc tăng khả năng cho vay của các NHTM đến mọi thành phần kinh tế và mọi lĩnh vực kinh tế. ý nghĩa của việc làm này càng được khẳng định trong chính sách kích cầu của chính phủ trong một giai đoạn chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế Châu á thời gian qua. Do đó, công cụ lãi suất tái chiết khấu là một phương thức hữu hiệu của NHTƯ nhằm điều tiết cung tiền trên thị trường và xu hướng cấp vốn qua con đường này ngày càng tăng, ví dụ như ở Hàn quốc, chỉ trong vòng 25 năm từ năm 1975 đến năm 2000 vốn cấp cho nề kinh tế qua con đường chiết khấu, tái chiết khấu đã tăng lên gấp 38,31 lần. Đó cũng là một yếu tố nhằm giúp cho NHTƯ điều khiển được lãi suất trên thị trường tín dụng trong nước bởi vì khối lượng tiền cung ứng có tác dụng trực tiép đến việc ấn định lãi suất cho vay của các NHTM. 2.3. Tồn tại: Bên cạnh những thành công của công cụ lãi suất tái chiết khấu trong việc điều tiết khối lượng tiền cung ứng cho nền kinh tế, vấn đề sử dụng hiệu quả công cụ này vẫn còn những khó khăn cần phải tháo gỡ. Trừ một số nước có hệ thống ngân hàng tương đối hoàn chỉnh, còn những nước có hệ thống ngân hàng đang trong giai đoạn hoàn thiện ( chủ yếu là các nước đang phát triển) thì công cụ này không mang lại hiệu quả rõ rệt, mà cụ thể là việc NHTƯ thay đổi lãi suất tái chiết khấu, chiết khấu không ảnh hưởng nhiều lắm đến cung tiền tệ trong nước. Do đó, NHTƯ không thể phát huy khả năng của công cụ này để thực hiện các mục tiêu của chính sách tiền tệ, từ đó góp phần gián tiếp vào việc thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô khác của nhà nước. 2.4. Nguyên nhân: Nguyên nhân của sự kém hiệu quả trong quá trình sử dụng công cụ này để điều tiết cung ứng tiền tệ cho nề kinh tế quốc dân chủ yếu là do hệ thống ngân hàng của chúng ta vẫn còn kém phát triển. Trong một nền kinh tế mở cửa hiện nay ở Việt Nam, xu thế hội nhập dã dẫn đén sự ra đời của một loạt các chi nhánh của các ngân hàng nước ngoài tại việt Nam. Các NHTM này chiếm một số lượng khá nhiều trong cơ cấu hệ thống ngân hàng, nhưng lại không chịu sự tác dộng của lượng vốn được nhà nước cấp theo hình thức tái chiết khấu và chiết khấu. Các NHTM trong nước chủ yếu được nhận được lượng vốn này của nhà nước là 4 ngân hàng thương mại quốc doanh lớn, còn lại các NHTM cổ phần nhỏ được vay với số lượng không nhiều. Mà hiện nay, khối lượng cho vay còn tương đối hạn chế do những thủ tục cho vay, thế chấp, những đảm bảo về tiền lãi cũng như những cơ chế bảo hiểm tiền gửi, ngăn ngừa nợ xấu vẫn còn những bất cập. Bên cạnh đó là tỉ lệ tăng tín dụng ở các doanh nghiệp vẫn còn thấp do các doanh nghiệp gặp những khó khăn về thị trường tiêu thụ để mở rộng đầu tư cho nên các doanh nghiệp hấp thụ vốn chưa lớn và các ngân hàng cũng thận trọng hơn trong quá trình cho vay. Do đó thực chất thì việc cung cấp vốn của NHTƯ không có tác dụng lớn đến khối lượng tiến cung ứng trong nền kinh tế. 3. Nghiệp vụ thị trường mở: Trong luật ngân hàng nhà nước Việt Nam, nghiệp vụ thị trường mở là nghiệp vụ mua bán các giấy tờ có giá ngắn hạn do ngân hàng nhà nước thực hiện trên thị trường tiền tệ nhằm thực hiện chính sách tiền tệ. Giấy tờ có giá ngắn hạn là các giấy tờ có giá có thời hạn dưới 1 năm. Điều 21 luật ngân hàng nhà nước qui định: “ Ngân hàng nhà nước thực hiện nghiệp vụ thị trường mở thông qua việc mua bán tín phiếu kho bạc, chứng chỉ tiền gửi, tín phiếu ngân hàng nhà nước Việt Nam và các giấy tờ có giá khác tên thị trường tiền tệ”. Chúng ta đã nhận thức được tầm quan trọng của công cụ gián tiếp này đối với việc thực thi chính sách tiền tệ của NHTƯ. Nó chính là yếu tố làm thay đổi nhanh chóng và chính xác khối lượng tiền cung ứng và lãi suất tín dụng. Phần cơ chế tác động đã được đề cập tới trong phần giới thiệu về công cụ thị trường mở. Bởi vì đây là một công cụ mới mẻ của chính sách tiền tệ nên những thành công của nó có lẽ chưa thể hiện rõ, tuy vậy những bất cập cản trở khả năng tác động của công cụ nàythì vẫn còn tồn tại đòi hỏi cần phải giải quyết. Sau đây, em xin được phân tích chủ yếu về thực trạng việc sử dụng cũng như những khó khăn cần được tháo gỡ để nâng cao năng lực tác động thị trường của công cụ gián tiếp mới mẻ này. 3.1. Diễn biến và những hạn chế trong việc vận hành NVTTM ởViệt nam: Ngày 12 /7/200, lần đầu tiên ngân hàng nhà nước đã chính thức đưa nghiệp vụ thị trường mở vào hoạt động ở Việt Nam. Tổng số đã có 14 NHTM đăng kí được chấp thuận làm thành viên chính thức của thị trường mở. Ban đầu, các phiên giao dịch được mở 10 ngày một lần. Đến đầu tháng 12/2000, NHTƯ đã tổ chức được 13 phiên giao dịch với tổng khối lượng tín phiếu mua bán là 1428 tỉ đồng, trong đó mua vào là 878 tỉ, bán ra 550 tỉ. Lãi suất của giao dịch từ 4,95% đến 5,58%. Nghiệp vụ thị trường mở đã đi vào hoạt động ổn định nhưng đã bắt đầu bộc lộ những hạn chế. Nghiệp vụ thị trường mở vẫn còn mới lạ đối với các ngân hàng thương mại cho nên hoạt động của nó trong giai đoạn đầu này vẫn còn trầm lắng, chủ yếu vẫn là các giao dịch của một số NHTM quốc doanh lớn. 3.2. Nguyên nhân: Nguyên nhân của việc trầm lắng các hoạt động của thị trường mở ở Việt nam trong thời gian qua có cả những nguyên nhân chủ quan và cả những nguyên nhân khách quan. Về mặt khách quan, hoạt động của thị trường mở có thực hiện hiệu quả hay không phụ thuộc rất nhiều vào các hàng hoá được giao dịch trên thị trường. Các hàng hóa hiện nay đang được giao dịch là các loại tín phiếu ngắn hạn, chỉ tập trung vào một số NHTM quốc doanh nên chưa thu hút được sự quan tâm của nhiều tổ chức tín dụng tham gia vào hoạt động của thị trường bởi tâm lý cho rằng đây là thị trường của các NHTM quốc doanh. Bên cạnh đó, chủng loại hàng hoá chưa phong phú và lãi suất chưa thật hấp dẫn các tổ chức tín dụng. Các phiên đấu thầu mua vào và bán ra các loại tín phiếu thời hạn thấp, tính cạnh tranh rất cao cả trên hị trường sơ cấp và thị trường mở nên các tổ chức tín dụng nhỏ không có khả năng cạnh tranh và không đủ điều kiện để cạnh tranh với các tổ chức tín dụng có qui mô lớn, đặc biệt là các NHTM quốc doanh. Chính điều này đã tác động rất lớn làm cho không khí trên thị trường mở rất trầm lắng, nếu không nói là buồn tẻ. Một nguyên nhân nữa phải nói đến đó là sự không ổn định trên các thị trường. Các thị trường khác như thị trường liên ngân hàng, thị trường mua bán lại các tín phiếu giữa các tổ chức tín dụng với khách hàng chưa thực sự phát triển. Thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc hoạt động chưa ổn định và chưa thu hút được đông đảo các tổ chức tín dụng tham gia cũng góp phần làm cho hoạt động thị trường mở kém hấp dẫn. Nguyên nhân chủ quan của vấn đề là do công cụ thị trường mở là một công cụ hoàn toàn mới mẻ tại Việt Nam nên phần nào cũng gây ra tâm lý e dè của nhưng người muốn tham gia thị trường này. Các tổ chức tín dụng chưa hiểu biết nhiều về thị trường mở, những thuận lợi cũng như những rủi ro có thể gặp phải, chủ yếu là do thiếu hiểu biết và thiếu thông tin về thị trường này. Cùng với đó là công tác tuyên truyền hướng dẫn đối với các tổ chức tín dụng về hoạt động mới mẻ này còn rất hạn chế. Hệ thống thông tin máy móc thiết bị giữa các thị trường giao dịch của thị trường mở còn trục trặc chưa được khắc phục, khả năng và hiểu biết thực tế của các cán bộ ngân hàng vẫn còn nhiều bỡ ngỡ trước loại hình công cụ chính sách tiền tệ mới mẻ này. Qua việc phân tích thực trạng hoạt động của thị trường mở từ ngày thành lập đến nay, chúng ta đã làm rõ các nguyên nhân khách quan và chủ quan tác động làm cho hoạt động của thị trường mở ở Việt Nam không náo nhiệt trong thời gian qua. Khắc phục những hạn chế trên là một vấn đề cấp thiết đặt ra cho NHTƯ, góp phần tăng cường khả năng tác động đến khối lượng tiền cung ứng cho nền kinh tế, gián tiếp điều hành có hiệu quả chính sách tiền tệ trong giai đoạn mới, tức là điều hành theo thông lệ của nền kinh tế thị trường. 4. Công cụ lãi suất: Trong phần trên, em đã trình bày trình bày về lãi suất tái chiết khấu. Lãi suất tái chiết khấu là một trong các công cụ để thực hiện tái cấp vốn. Về mặt bản chất, lãi suất tái chiết khấu chỉ là một bộ phận của chính sách lãi suất của NHTƯ, chịu tác động chính sách lãi suất của NHTƯ và không chỉ có lãi suất tái chiết khấu( lãi suất buôn bán tiền) mới tác động đến lượng tiền cung ứng. Thực tế chứng minh rằng lãi suất là một trong các công cụ quan trọng để điều hành chính sách tiền tệ của NHTƯ. Việc sử dụng công cụ này đã có những thay đổi tích cực trong thời gian vừa qua để phù hợp với xu hướng phát triển của nền kinh tế. 4.1. Diễn biến: Trong những năm 1999 trở về trước, NHTƯ vẫn áp dụng cơ chế lãi suất trần đối với các tổ chức tín dụng. Lãi suất trần do NHTƯ qui định là cơ sở để các NHTM và các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất cho vay vốn. Lãi suất này tối đa không được vượt lãi suất trần. Bản thân lãi suất trần này cũng liên tục được thay đổi phù hợp với các chính sách của NHTƯ mà chủ yếu điều chỉnh theo xu hướng giảm xuống của lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam. Trong năm 1999, bên cạnh việc điều chỉnh linh hoạt lãi suất trần, NHTƯ còn qui định việc thu phí trong hoạt động tín dụng theo hướng các tổ chức tín dụng được tự mình thoả thuận các loại phí có liên quan đến khoản vay trên cơ sở các loại phí này qui đổi ra phần trăm cộng với lãi suất cho vay ghi trong hợp đồng không vượt quá mức lãi suất trần do NHTƯ qui định. Như đã phân tích những hạn chế của lãi suất trần và khung lãi suất trong phần lý thuyết chung, mà chủ yếu là sự triệt tiêu cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng và để hoàn thiện hơn công cụ lãi suất này, bước sang một giai đoạn mới, NHTƯ đã có chính sách điều chỉnh lãi suất theo hướng bám sát vào lãi suất thị trường. Lãi suất cơ bản của NHTM là lãi suất được công bố của ngân hàng cộng với các biên độ giao động. Biên độ này thấp hay cao là phụ thuộc vào các khách hàng xấu hay tốt. Trước đây, lãi suất cơ bản của NHTM phụ thuộc vào lãi suất cho vay tái chiết khấu( lãi suất buôn bán tiền), do đó xuất hiện khái niệm lãi suất trần- lãi suất cao nhất mà các NHTM có quyền được cho vay. Trên thực tế thì ở Việt Nam, do chưa từng trải qua cơ chế thị trường nên lãi suất cơ bản là lãi suất do NHTƯ công bố, các NHTM Việt Nam chưa bao giờ công bố được lãi suất cơ bản của mình mà phải theo lãi suất NHTƯ. Đã có thời gian 4 ngân hàng thương mại quốc doanh lớn nhất ( ngoại thương, công thương, nông nghiệp & phát triển nông thôn, đầu tư phát triển) luôn cho vay ở giá kịch trần dẫn đến việc các NHTM nhỏ khác không thể cạnh tranh với “ tứ đại ngân hàng “ này được. Đó là một giai đoạn phản ánh sự kém cạnh tranh giữa các ngân hàng & các NHTM quốc doanh liên kết với nhau để thống lĩnh thị trường do thống nhất lãi suất. Điều này gây ra những khó khăn đối với các NHTM khác và đối với các doanh nghiệp cần vốn để kinh doanh. Sau này, với sự xuất hiện thị trường liên ngân hàng gắn liền với sự ra đời của lãi suất liên ngân hàng thì lãi suất trên thị trường liên ngân hàng mới là yếu tố quyết định đến lãi suất cơ bản của các NHTM. Độ nhạy cảm giữa lãi suất trên thị trường liên ngân hàng và lãi suất cơ bản của NHTM cao hơn rất nhiều so với độ nhạy cảm giữa lãi suất tái chiết khấu của NHTƯ và lãi suất cơ bản của các NHTM Chính vì lý do đó mà NHTƯ quyết định công bố lãi suất cơ bản để kiềm chế các NHTM và cũng là để duy trì canh tranh, tạo cơ hội kinh doanh có lãi cho các NHTM và cơ hôi tiếp cận nguồn vốn với giá hợp lý hơn đối với các doanh nghiệp. Sau một thời gian chuẩn bị xây dựng tiểu luận, bắt đầu từ ngày 5/8/2000, NHTƯ đã chính thức chuyển sang cơ chế điều hành theo lãi suất cơ bản. Việc làm này không những là cần thiết trong một xu thế tất yếu của quá trình hoà nhập nền kinh tế thị trường mà còn mang lại cho hoạt động tín dụng của các ngân hàng một bức tranh mới sáng sủa hơn, nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường tín dụng theo đúng chủ trương bình đẳng mọi loại hình tín dụng và tạo điều kiện để các ngân hàng thương mại làm ăn có lãi. Theo qui chế mới, các NHTM được chủ động qui định các mức cho vay cụ thể của mình theo biên độ xoay quanh lãi suất cơ bản, trên cơ sở đó chủ động qui định các mức lãi suất tiền gửi. Cũng theo cơ chế mới này, hàng tháng, NHTƯ công bố mức lãi suất cơ bản, lãi suất tái chiết khấu và lãi suất tái cấp vốn. Lãi suất cơ bản được công bố này là lãi suất trung bình của lãi suất cho vay những khách hàng tốt nhất ở 15 NHTM lớn. Trên cơ sở lãi suất trung bình này, NHTƯ qui định một biên độ dao động xung quanh và ấn định nó là lãi suất cơ bản công bố. Các NHTM căn cứ vào lãi suất cơ bản & các điều kiện cụ thể của mình về khả năng vốn, tính cạnh tranh và đối tượng khách hàng mục tiêu để ấn định lãi suất cho vay dối với riêng ngân hàng của mình. Từ tháng 8/2000 đến tháng 12/2000, lãi suất cơ bản đối với đồng nội tệ vẫn giữ nguyên ở mức 0,75%/ tháng. Các NHTM có quyền qui định mức lãi suất cho vay cụ thể xoay quanh biên độ 0,3% đối với cho vay ngắn hạn và 0,5% đối với cho vay trung và dài hạn. Lãi suất cho vay ngoại tệ ( chủ yếu là USD) được tính dựa trên cơ sở lãi suất trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng Singapore (Sibor) kì hạn 3 tháng cộng với biên độ 1,0% đối với cho vay ngắn hạn và 2,5% đối với cho vay trung & dài hạn. Lãi suất cho vay tái cấp vốn của NHTƯ được điều chỉnh từ 0,4%/ tháng lên 0,55/ tháng. Lãi suất tái chiết khấu tăng từ 0,4% lên 0,45%/ tháng. 4.2. Thành công: Bước chuyển đổi cơ chế điều hành lãi suất từ việc ấn định lãi suất trần & khung lãi suất cho đến việc chuyển sang điều hành theo lãi suất trên thị trường là một bước chuyển đổi cơ bản, tiến đến tự do hoá lãi suất theo thông lệ quốc tế. Đó cũng là một bước chuyển đổi về sử dụng các công chính sách tiền tệ, thúc đẩy quá trình cạnh tranh giữa các NHTM. Lãi suất cơ bản này cũng là một yếu tố thúc đẩy quá trình chu chuyển vốn, hình thành lãi suất bình quân hợp lý trên cơ sở quan hệ cung cầu về vốn của nền kinh tế, có lợi cho người vay vốn cũng như người gửi tiền. Cơ chế và thực tế diễn biến của lãi suất đã xác lập quan hệ bình đẳng giữa các doanh nghiệp với ngân hàng. Các doanh nghiệp chủ động chọn lựa ngân hàng có mức lãi suất thấp nhất để vay vốn, và giữa hai bên có thể thoả thuận một mức lãi suất hợp lý. Cơ chế lãi suất mới buộc các ngân hàng phải tìm mọi cách tiết kiệm chi phí đến mức cao nhất, có nghệ thuật sử dụng vốn khả dụng một cách linh hoạt, không để ứ đọng vốn. Tất cả nhằm mục đích có thể hạ tới mức lãi suất hấp dẫn nhất đối với người vay tiền. Điều này làm tăng tính cạnh tranh và thúc đẩy sự phát triển trong hệ thống NHTM. Lãi suất cơ bản mới được công bố dựa trên lãi suất trung bình cho vay đối với các khách hàng tốt nhất của 15 NHTM cộng với một biên độ dao động đã làm cho lãi suất cơ bản sát với lãi suất thực tế hơn và lãi suất cơ bản được công bố này thực chất phụ thuộc vào hoạt động làm ăn của các NHTM. 4.3. Hạn chế: Những tác động tích cực của chính sách lãi suất đối với nền kinh tế là rất đáng ghi nhận trong thời gian qua. Tuy thế, trong việc áp dụng chính sách này vẫn còn đang tồn tại những bất cập cần phải giải quyết để tăng cường tính hiệu quả của công cụ này trong việc điều hành chính sách tiền tệ của NHTƯ. Hạn chế lớn nhất trong việc thực thi công cụ lãi suất ở Việt Nam chính là sự kém nhạy cảm với lãi suất của đầu tư. Khi lãi suất giảm thì đầu tư ít chịu tác động lớn, trong khi đó các nhu cầu về hàng hoá-dịch vụ sẽ tăng lên nhanh chóng vượt qua khả năng cung các hàng hoá- dịch vụ này. Việc tăng cung không kịp với tăng cầu hàng hoá dịch vụ sẽ làm cho chỉ số giá tăng lên dẫn đến lạm phát nhiều hơn là tăng sản lượng. Do đó, trong việc áp dụng công cụ lãi suất gây ra những tác động không mong muốn đối với nền kinh tế các nước đang phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng. 4.4. Nguyên nhân: Nguyên nhân chính của những tác động không mong muốn đối với nền kinh tế khi sử dụng công cụ lãi suất chính là do sự kém nhạy cảm giữa lãi suất ngân hàng và đầu tư. Lý do của việc đầu tư ít chịu tác động của lãi suất do hai yếu tố. Yếu tố thứ nhất là ở Việt Nam trong giai đoạn này, loại hình doanh nghiệp phổ biến và chiếm một tỉ trọng khá lớn trong cơ cấu các nhà đầu tư là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Các doanh nghiệp, đặc biệt là doang nghiệp nhỏ, luôn cần một khối lượng vốn rất lớn để phục vụ cho hoạt động sản suất kinh doanh, nhưng do những khó khăn trong việc vay vốn ở hệ thống ngân hàng thương mại, mà chủ yếu là những thủ tục xin vay và các yêu cầu về thế chấp, nên trên thực tế, phần lớn số tiền đầu tư của các doang nghiệp nhỏ và công chúng (chiếm một tỉ lệ khá cao trong các nhà đầu tư) đều không phải là được huy động từ hệ thống ngân hàng thương mại mà là vay ở các thị trường tiền tệ không chính thức và không có tổ chức. Do đó, việc lãi suất ngân hàng giảm tác động rất hạn chế đến cầu về đầu tư, đặc biệt là đầu tư đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Yếu tố thứ hai của việc lãi suất kém nhạy cảm với đầu tư là do hạn chế về cung. Cung không đáp ứng được với sự gia tăng của cầu khi NHTƯ giảm lãi suất đã dẫn đến hiện tượng tăng chỉ số giá và gây ra lạm phát đối với nền kinh tế. Cung tăng chậm bởi nhiều lý do: thiếu các đầu vào cần thiết để sản xuất ; tình trạng độc quyền kìm hãm sản xuất & thủ tiêu cạnh tranh làm cho các doanh nghiệp không có động lực để tăng năng lực sản suất ; trình độ quản lý sản xuất còn non kém, không tương xứng với trình độ của máy móc thiết bị và yêu cầu đối với quản lý sản xuất trong môi trường mới... Tất cả những điều này làm cho sự gia tăng của cung rất chậm chạp, không thể đáp ứng được với cầu trong những điều kiện biến động lớn về lãi suất gây ra. 5. Công cụ tỉ giá & chính sách ngoại hối của NHTƯ: Trong luật ngân hàng nhà nước Việt Nam, mục 5 điều 37 có qui định rõ về chức năng quản lý ngoại hối của ngân hàng nhà nước: “ Ngân hàng nhà nước quản lý dự trữ ngoại hối của nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo qui định của chính phủ nhằm thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, đảm bảo khả năng thanh toán quốc tế, đảm bảo an toàn dự trữ ngoại hối nhà nước”. 5.1. Diễn biến: Về chính sách ngoại hối, năm 1999 và năm 2000, trọng tâm của công tác quản lý ngoại hối của NHTƯ là tiếp tục thực hiện chủ trương cải cách các thủ tục hành chính với nội dung nâng vai vai trò quản lý của nhà nước những vẫn đảm bảo tính linh hoạt của các doanh nghiệp. Để tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức và cá nhân trong việc thực hiện các qui định của nhà nước về chính sách ngoại hối, NHTƯ đã ban hành các văn bản mới mang tính chất hướng dẫn. Ngày 16/4/1999, NHTƯ ban hành thông tư số 01/1999/TT-NHNN7 hướng dẫn thi hành nghị định só 63/1998/NĐ-CP về quản lý ngoại hối. Nội dung của thông tư qui định khá chi tiết về các vấn đề thuộc về chính sách ngoại hối của NHTƯ, các điều kiện vay & trả nợ nước ngoài của các doanh nghiệp và một số các văn bản khác. Cùng với việc hướng dẫn các qui định, NHTƯ cũng đã thực hiện điều chỉnh tỉ lệ kết hối ngoại tệ từ 80% các nguồn thu vãng lai của doanh nghiệp xuóng còn 50% để tăng tính chủ động của các doanh nghiệp trong việc sử dụng ngoại tệ, từng bước tiến tới tự do hoá các giao dịch về ngoại tệ.Bên cạnh đó, NHTƯ còn qui định lại nguyên tắc giao dịch tỉ giá, sắp xếp lại các bàn thu đổi ngoại tệ và mở rộng dối tượng cho vay-bán ngoại tệ cho các nhà đầu tư nước ngoài. Về công cụ tỉ giá, trong năm 1999 và tiếp năm 2000, NHTƯ đã thực hiện một bước đổi mới cơ bản về điều hành tỉ giá từ quản lý có tính chất hành chính sang điều hành theo hướng thị trường có sự quản lý của nhà nước.Theo quyết định số 64/1999/QĐ-NHNN7 và quyết định số 65/1999/QĐ-NHNN7 ngày 25/12/1999, kể từ ngày 26/12/1999 thay bằng việc công bố tỉ giá chính thức, NHTƯ sẽ công bố tỉ giá giao dịch bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng. Tỉ giá này được áp dụng làm cơ sở để các tổ chức tín dụng được phép kinh doanh ngoại tệ xác định tỉ giá mua bán ngoại tệ và áp dụng để tính thuế xuất nhập khẩu. Trên cơ sở tỉ giá giao dịch thực tế bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng của ngày giao dịch gần nhất trước đó do NHTƯ công bố, các tổ chức tín dụng được qui định tỉ giá giao dịch của mình không vượt quá 0,1% so với tỉ giá được công bố đó. Nhìn chung, tỉ giá trong năm 1999 và năm 2000 không có những đột biến lớn, có thể coi là tương đối ổn định. Tỉ giá giữa VND và USD trên thị trường liên ngân hàng năm 1999 tăng 1%, tăng 1,1% trên thị trường tự do so với năm 1998. Diễn biến trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng năm 1999 động hơn rất nhiều những năm trước. Ngay từ đầu năm1999, doanh số giao dịch đã tăng lên khá cao, lượng ngoại tệ trên thị trường khá dồi dào, nhiều khi cung ngoại tệ lớn hơn cầu khiến các ngân hàng thương mại phải bán ngoại tệ để đáp ứng nhu cầu về đồng Việt Nam. Sau khi có quyết định mới về cơ chế điều hành tỉ giá năm 1999, các giao dịch trên thị trường liên ngân hàng có giảm xuống đôi chút trong vòng vài ngày. Tuy thế, nhịp hoạt động của thị trường được khôi phục nhanh chóng, đặc biệt là vào năm 2000, tác động mạnh mẽ đến hoạt động xuất nhập khẩu, do đó tác động tới cán cân thanh toán quốc tế. Cuối năm 2000, tỉ giá trên 3 thị trường đã tăng so với đầu năm.: thị trường liên ngân hàng tăng 3,1% (14.450/14.016); thị trường mua bán của các ngân hàng thương mại tăng 2,9% (14460/14042) ; thị trường tự do tăng 3,96% ( 14.700/14.139). Mặc dù tăng như vậy, nhưng mức mất giá của đồng việt Nam so với đồng đola là thấp hơn so với các nước trong khu vực. Tỉ giá VND/USD liên tục tăng chậm. Lãi suất tiền gửi ngoại tệ tăng cao và tương đương với lãi suất đồng nội tệ nên người vay thì thích vay bằngVND, còn người gửi thì thích gửi bằng USD. Do đó, khối lượng USD trong các NHTM tăng lên nhanh chóng, trong 11 tháng của năm 2000 đã chiếm 40% tổng số dư tiền gửi. Ngược lại, dư nợ cho vay bằng ngoại tệ rất chậm. 5.2. Thành công: Có thể nói, sự chuyển đổi cơ chế điều hành tỉ giá từ quản lý hành chính sang quản lý theo hướng thị trường có sự quản lý của nhà nước đã đem lại cho thị trường tín dụng một sức sống mới. Với cơ chế điều hành này, tỉ giá đồng Việt Nam được hình thành trên cơ sở giao dịch trên thị trường và phản ánh khá khách quan sức mua của đồng việt Nam so với đồng ngoại tệ, tạo điều kiện chủ động hơn cho các doanh nghiệp trong việc kinh doanh, đặc biệt là các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu, đồng thời vẫn đảm bảo được sự điều hành quản lý của nhà nước. Kết quả rõ ràng nhất là tỉ giá tương đối ổn định trên thị trường tự do và thị trường chính thức trong hai năm 1999 và 2000. Sự chênh lệch tỉ giá giữa hai thị trường này là tương đối hẹp. Doanh số giao dịch trên thị trường liên ngân hàng đạt mức khá cao, đáp ứng nhu cầu về ngoại tệ cho nền kinh tế, góp phần khuyến khích xuất khẩu, cải thiện cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam. 5.3. Hạn chế : Một trong những hạn chế chủ yếu trong việc phát huy tác dụng của công cụ tỉ giá và chính sách quản lý ngoại hối hiện nay nằm ở việc hoàn thiện thị trường liên ngân hàng. ở Việt Nam chúng ta chưa có một hệ thống giám sát chặt chẽ hoạt động và tình hình tài chính của các ngân hàng, đưa đến sự hoài nghi ảnh hưởng đến niềm tin lẫn nhau. Điều này dẫn đến thái đọ đi vay và cho vay trên thị trường liên ngân hàng là hết sức dè dặt. Mặt khác, đồng tiền của Việt Nam là đồng tiền kém chuyển đổi cho nên khó tạo ra cung ngoại tệ bằng kĩ thuật chuyển đổi, trong khi áp lực cầu vẫn luôn đè nặng do nợ nước ngoài và thiếu hụt cán cán vãng lai. Điều này dẫn đến tình trạng nhiều người mua, ít người bán trên thị trường liên ngân hàng. 5.4. Nguyên nhân: Hiện nay, khi đem so sánh lợi ích của việc đem ngoại tệ cho khách hàng của mình vay với việc đem cho vay hay bán trên thị trường liên ngân hàng thì lợi nhuận của việc giao dịch trên thị trường này quả thực là không cao bằng. Mặt khác,vai trò cầu nối của NHTƯ với thị trường liên ngân hàng này còn rất hạn chế khiến cho thị trường kém tính định hướng. Các phương thức giao dịch trên thị trường còn đơn điệu và kém hấp dẫn kể cả đối với người bán cũng như người mua trên thị trường liên ngân hàng. Như vậy, phần nói về thực trạng của chính sách tiền tệ & các công cụ của chính sách tiền tệ kết thúc ở đây. Trong phần sau, em xin được mạnh dạn đề xuất một số giải pháp nhằm giải quyết những tồn tại mà phần II đã nêu ra nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các công cụ chính sách tiền tệ ở Việt Nam hiện nay. Phần III: Hướng tới việc nâng cao hiệu lực các công cụ chính sách tiền tệ ở Việt Nam. I- Những yêu cầu chung : Trong xu thế mới ngày càng phức tạp và hiện đại của nền tài chính tín dụng quốc tế, vai trò của các công cụ gián tiếp trong việc điều hành chính sách tiền tệ là hết sức quan trọng. Nó góp phần tăng cường khả năng điều tiết cũng như tăng hiệu quả của những sự tác động của NHTƯ trong việc thực thi chính sách tiền tệ. Chính vì thế, tạo điều kiện để chuyển đổi các công cụ từ trực tiếp sang gián tiếp ở Việt Nam hiện nay đang là một trong những mục tiêu lớn của NHTƯ. Nhằm thúc đẩy nhanh quá trình hình thành này, em xin được đề cập tới một số biện pháp cụ thể như sau: 1. Phát triển thị trường tài chính: Thực hiện chủ trương chuyển từ các công cụ của chính sách tiền tệ từ trực tiếp sang gián tiếp, NHTƯ phải tiến hành việc phát triển thị trường tài chính nhằm tạo môi trường thuận lợi cho các công cụ này phát huy tác dụng, đặc biệt là đối với việc phát triển nghiệp vụ thị trường mở. NHTƯ tiếp tục thực hiện cơ chế tỉ giá và lãi suất linh hoạt, chịu sự điều tiết của thị trường nhằm phát huy những ưu điểm của công cụ này. NHTƯ thực hiện chức năng quản lý hoạt động phát hành trái phiếu, tín phiếu kho bạc, nghiên cứu cơ chế phát hành tín phiếu NHTƯ. Bên cạnh đó, NHTƯ cần phải nghiên cứu việc để cho một số NHTM được phép phát hành các loại chứng chỉ tiền gửi nhằm đa dạng hóa các loại hàng hoá trên thị trường tiền tệ, tạo điều kiện để thị trường tiền tệ phát huy ưu thế vốn có của nó. NHTƯ cũng cần phải xây dựng những hành lang an toàn ví dụ như các quĩ dự phòng, các yêu cầu về bảo lãnh, cầm cố, thế chấp và các cơ chế khác nhằm khuyến khích các hành vi thận trọng trong hoạt động kinh doanh tiền tệ. Mặt khác, phải thực hiện kiểm toán và công khai hoá các báo cáo tài chính để thị trường và những nhà quản lý có thể thực hiện hữu hiệu vai trò của họ trong đảm bảo những nguyên tắc tài chính. Để có thể giúp cho thị trường thực hiện điều tiết theo đúng bản chất của hiện tượng kinh tế, NHTƯ còn cần phải xây dựng một mạng lưới thông tin hoàn chỉnh, nhằm cung cấp đến cho thị trường những thông tin chính xác nhất về những diễn biến trên thị trường tài chính và các chủ trương, chính sách mới của NHTƯ trong vận hành chính sách tiền tệ, tránh những thông tin thất thiệt của những nhà đầu cơ trục lợi có thể gây bất ổn định trên thị trường. Mặt khác, đây cũng chính là phương pháp hữu hiệu nhất của NHTƯ nhằm đánh giá được những phản hồi của thị trường và dự đoán được xu hướng biến động chung của thị trường trong thời gian tới để có những biện pháp thích ứng. 2. Hoàn thiện hệ thống ngân hàng: 2.1. Tăng khả năng cạnh tranh trong hệ thống NHTM: Việc cải cách hệ thống ngân hàng cũng phải tạo điều kiện thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh trong hệ thống ngân hàng thương mại. Đối với NHTMQD, việc cải tổ hệ thống phải thực hiện theo hướng giảm mức độ độc quyền. Trước năm 1997, hệ thống ngân hàng Việt Nam bị chi phối bởi 4 ngân hàng lớn: Ngoại thương, công thương, nông nghiệp và đầu tư. Thị phần tiền gửi và tín dụng của riêng 4 ngân hàng này đã chiếm tới 70% thị trường tín dụng. Những năm gần đây, thị phần của 4 ngân hàng này đã giảm xuống nhiều, cùng với đó là cấu trúc thị trường được cải thiện rõ rệt. Vì thế, NHTƯ cần tiếp tục việc giảm mức độ độc quyền đối với các NHTM quốc doanh nhằm tăng hiệu quả hoạt động của thị trường. Đối với các NHTM cổ phần, tiếp tục thực hiện việc củng cố, có thể bằng các biện pháp mạnh như là cơ cấu lại toàn bộ các ngân hàng có mức độ rủi ro không trả nợ được cao, sát nhập hoặc giải thể các NHTMCP làm ăn không hiệu quả, giới hạn phạm vi hoạt động của những ngân hàng có yếu kém trong hoạt động hay không đủ vốn pháp định. Chỉ có như vậy mới củng cố lòng tin của công chúng và giúp cho các NHTMCP phát triển vững mạnh và an toàn và tăng tính cạnh tranh của các NHTMCP trên thị trường tín dụng. Đối với các NHTM có vốn nước ngoài, cần tạo điều kiện thuận lợi để các ngân hàng này tham gia vào quá trình cạnh tranh trên cơ sở tiêu chí sinh lời. NHTƯ nên cho phép các NHTM có vốn nước ngoài cung cấp các dịch vụ chuyên ngành từ nước ngoài để tăng mức độ cạnh tranh giữa các ngân hàng, đồng thời cũng giúp cho hoạt động tín dụng đối với các DN có vốn nước ngoài hoặc các doanh nghiệp XNK thuận lợi hơn trong làm ăn. Thành lập các NH chính sách, tách bạch cụ thể giữa chức năng cho vay chính sách và cho vay thương mại của các ngân hàng. 2.2. Nâng cao năng lực của NHTƯ: Trong điều kiện mới, để quản lý và điều hành chính sách tiền tệ, chúng ta đang cố gắng chuyển từ các công cụ trực tiếp sang các công cụ gián tiếp. Việc chuyển đổi này khong những cần có mong muốn mà chúng ta phải có đủ những điều kiện nhất định. Đó chính là năng lực kĩ thuật của NHTƯ. Để sử dụng các công cụ gián tiếp đòi hỏi NHTƯ phải dự tính tương đối chính xác được cung-cầu về tiền tệ, dự trữ của các NHTM cũng như tình trạng thanh khoản và tình trạng hối đoái của các NHTM. Không những chỉ có như vậy, NHTƯ còn phải đánh giá được những ảnh hưởng đến khối lượng tiền của những quyết định do mình đưa ra. Bởi vậy, NHTƯ cần phải tham gia tích cực vào thị trường một cách liên tục, nhận biết kịp thời những thay đổi và dự đoán được xu hướng biến động của thị trường, từ đó có những quyết định chính xác về mức độ, khối lượng,thời gian& thời điểm can thiệp. Để thực hiện được những điều trên, NHTƯ cần phải đổi mới theo hướng như sau: -Giảm dần sự can thiệp của Chính phủ vào các quyết định của NHTƯ. Điều này không có nghĩa là xoá bỏ mà nên chăng trao cho NHTƯ một số quyền tự chủ nhất định trong việc đưa ra các quyết định của mình, ví dụ như các quyết định về lãi suất, cho vay, quản lý tài sản,nhân sự... -Xây dựng một bộ máy gồm các chuyên gia nghiên cứu thị trường, các chuyên gia tài chính-tiền tệ ngân hàng để theo dõi, đưa ra các phân tích về diễn biến tình hình tiền tệ, lạm phát, từ đó có thể thực hiện sự can thiệp kịp thời và đúng mức đối với thị trường tiền tệ. Bên cạnh đó là việc đầu tư cho công nghệ ngân hàng ngày càng hiện đại nhằm hỗ trợ cho các nghiệp vụ mới, đòi hỏi kĩ thuật cao. -Luôn cập nhập thông tin về các hoạt động của các tổ chức tín dụng, đặc biệt là tình trạng thanh khoản và khả năng thanh toán của các ngân hàng. Quản lý chặt chẽ các biến động trong khoản mục tại bảng cân đối của NHTƯ. -Xây dựng chính sách quản lý nợ công cộng và thông qua việc phát hành trái khoán của chính phủ để bù đắp ngân sách, tiến tới cắt giảm tài trợ thâm hụt ngân sách. -Tiếp tục ban hành các cơ chế, thể lệ hợp thức mang đầy đủ tính pháp lý để hoàn thiện chính sách tiền tệ như: cơ chế phát hành tín phiếu của các công ty tài chính, cơ chế phát hành trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi của các NHTM, cơ chế góp vốn cổ phần của cổ đông nước ngoài vào các tổ chức kinh doanh tín dụng, cơ chế hoạt động của các công ty cho thuê tài chính, xúc tiến hình thành các công ty mua bán nợ để xử lý các khoản nợ xấu của các NHTM. -Nghiêm khắc xử lý các trường hợp làm trái pháp luật trong hoạt động của hệ thống ngân hàng. Mở rộng phân cấp, phân quyền đối với các tổ chức thanh tra, giám sát tài chính- ngân hàng, đảm bảo sự minh bạch trong chế độ thông tin, báo cáo tài chính kế toán. II- Các giải pháp cụ thể áp dụng đối với một số các công cụ của chính sách tiền tệ : Do những hạn chế về thời gian và hiểu biết thực tế, trong khuôn khổ của tiểu luận, em chỉ xin phép đề cập đến một số các giải pháp cụ thể áp dụng cho 2 công cụ chủ yếu trong số các công cụ của chính sách tiền tệ đã được trình bày. 1. Dự trữ bắt buộc: Chúng ta đã đề cập đến những tác dụng tích cực của công cụ dự trữ bắt buộc đối với việc thu hẹp hay mở rộng tín dụng NH trong nền kinh tế và đảm bảo an toàn các hoạt động tín dụng của các ngân hàng. Phần II của tiểu luận đã đề cập đến những tồn tại trong việc phát huy khả năng tác động của công cụ dự trữ bắt buộc. Những hạn chế này do cả những nguyên nhân khách quan và chủ quan tạo nên. Theo lý thuyết, các NHTM phải gửi tại NHTƯ một số lượng vốn nhất định theo tỉ lệ trên tổng số dư tiền gửi có thể phát séc của các NHTM. Tất nhiên là thực hiện điều này, NHTƯ có thể kiểm soát được lượng tiền cung ứng trên thị trường, nhưng chỉ là khi séc được chấp nhận trong thanh toán giao dịch thông thường. Đối với một nước đang phát triển như Việt Nam, nền kinh tế của chúng ta là một nền kinh tế tiền mặt, sự phát triển của các công cụ thanh toán còn rất hạn chế. Trong giao dịch thông thường, việc sử dụng séc không thông dụng cho nên séc được chấp nhận trong thanh toán rất ít. Chính vì thế nên tiền gửi theo yêu cầu ( tài khoản séc) trong tổng cung tiền thường không cao. Nếu tỉ lệ này ở các nước phát triển là 3/4 thì ở việt Nam mới chỉ là một con số rất thấp, chưa đến 1/3 cung tiền. Như vậy, khi NHTƯ thay đổi tỉ lệ dự trữ bắt buộc thì cũng chỉ có ảnh hưởng có mức độ đối với nền kinh tế. Muốn tăng cường tác động của công cụ này trong điều hành chính sách tiền tệ, NHTƯ cần phải đẩy nhanh quá trình hiện đại hoá các phương tiện thanh toán, cụ thể là: - Đầu tư hoàn thiện cơ sở kĩ thuật hiện đại cho hệ thống thanh toán ngân hàng, nhằm đảm bảo cho các công cụ thanh toán mới được thực hiện nhanh chóng và chính xác, gây được lòng tin của khách hàng trước những tiện ích của công cụ mới. Đây là điều kiện kiên quyết và cơ bản nhất đối với việc phát triển các công cụ mới. - Xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc áp dụng các phương tiện thanh toán này, đặc biệt là trên phương diện pháp lý bằng các văn bản cụ thể áp dụng cho từng laọi hình thanh toán trong những điều kiện mới của nền kinh tế. - Có sự khuyến khích thanh toán giao dịch bằnghình thức tài chính các phương tiện thanh toán phi tiền mặt đối với các giao dịch, đặc biệt là các giao dịch trên thị trường tín dụng ngân hàng. -áp dụng sử dụng các công cụ thanh toán phi tiền mặt đối với một số lĩnh vực, ban đầu có thể bắt buộc chấp nhận việc thanh toán bằng séc trong các giao dịch. -Tuyên truyền rộng rãi cho công chúng những lợi tích của việc thanh toán bằng séc nói chung và các phương tiện thanh toán khác nói riêng, làm cho công chúng thấy rõ những lợi ích và sự thuận tiện trong giao dịch bằng séc. Bằng các biện pháp trên, NHTƯ có thể nâng cao số lượng giao dịch bằng các phương tiện thanh toán phi tiền mặt qua hệ thống ngân hàng, mà cụ thể ở đây là tiền gửi có thể phát séc. Qua việc tăng tỉ lệ tiền gửi có thể phát séc này, NHTƯ có thể nâng cao được hiệu quả của việc áp dụng công cụ dự trữ bắt buộc trong việc điều hành chính sách tiền tệ. 2. Nghiệp vụ thị trường mở: Nghiệp vụ thị trường mở ra đời vào năm 2000 ở Việt Nam đã nâng cao một bước hơn nữa trình độ tác động công cụ chính sách tiền tệ của NHTƯ đối với nền kinh tế. tuy nhiên, trong thời gian đầu đi vào hoạt động, không khí trầm lắng của các giao dịch trên thị trường này làm hoài nghi nhiều người kì vọng vào tác động của nó tới cung ứng tiền tệ nói riêng và chính sách tiền tệ nói chung. Để nâng cao hiệu quả của công cụ này, theo em, NHTƯ cần phải thực hiện một số biện pháp, cụ thể là: -Đa dạng hoá các loại hàng hoá giao dịch trên thị trường. Trước đây, hàng hoá trên thị trường này chủ yếu là các loại tín phiếu ngắn hạn, chỉ tập trung vào một số NHTM lớn nên gây tâm lý đây chỉ là thị trường của các NHTM quốc doanh. Tiến tới việc phát triển của thị trường mở, chúng ta cân đa dạng hoá hơn nữa các công cụ giao dịch, tiến đến giao dịch bằng các giấy tờ có giá trung và dài hạn. Mặt khác, nếu chỉ giao dịch bằng các loại tín phiếu có thời hạn ngắn, tính cạnh tranh cao sẽ ngăn cản các NHTM, và các tổ chức tín dụng nhỏ tham gia vào thị trường do không đủ điều kiện cạnh tranh với các NHTM quốc doanh lớn. -Thúc đẩy hơn nữa sự phát triển của thị trường chứng khoán. Chính vì ở Việt Nam thị trường chứng khoán mới ở giai đoạn đầu của quá trình hình thành và phát triển nên chưa thể thu hút đại bộ phận tiền mặt ngoài lưu thông, cũng như chưa thể tác động đến lượng tiền cung ứng một cách gián tiếp. Chính vì thế, nghiệp vụ thị trường mở hầu như chưa được sử dụng. Muốn khắc phục hạn chế này, ta cần phải đẩy mạnh hơn nữa tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp, tạo những điều kiện thuận lợi cũng như cung cấp các lợi ích rõ nét và giải quyết các khó khăn nhằm thúc đẩy các công ty có đủ điều kiện tham gia niêm yết trên thị trường chứng khoán. -Cùng với việc hình thành và phát triển thị trường chứng khoán, NHTƯ nên tạo những điều kiện để phát triển thị trường liên ngân hàng, thị trường mua bán lại các tín phiếu giữa các tổ chức dụng & khách hàng, thị trường đấu thầu trái phiếu kho bạc..Lý do của việc này là bởi nếu không có thị trường liên ngân hàng thì NHTƯ sẽ mất các thông tin về tình hình vốn khả dụng thực tế, do đó việc lập kế hoạch về qui mô và thời điểm của các nghiệp vụ sẽ khó khăn hơn. Kết quả là những diễn biến trên thị trường mở có thể phụ thuộc nhiều hơn vào thị trường sơ cấp hơn là vào ý đồ của NHTƯ. Muốn thực hiện được mục tiêu này, NHTƯ nên có chính sách khuyến khích bằng lợi ích đối với các tổ chức tham gia vào thị trường, chẳng hạn như đối với thị trường liên ngân hàng hiện nay, lợi tức so sánh giữa việc bán và cho vay trên thị trường liên ngân hàng thấp hơn so với trên thị trường tự do. Do đó không khuyến khích được hoạt động của các tổ chức tín dụng trên thị trường này. NHTƯ có thể khắc phục điều này bằng cách tách phần doanh số từ việc cho vay & bán trên thị trường liên ngân hàng ra khỏi phần doanh thu phải chịu thuế của các NHTM. Điều này sẽ khuyến khích các NHTM hướng các hoạt động tham gia tích cực hơn vào thị trường. -Để thị trường mở hoạt động có hiệu quả thì một trong những biện pháp chính là hạn chế ở một mức độ nào đó khả năng tiếp cận của các ngân hàng đối với việc vay mượn của NHTƯ theo phương thức chiết khấu & tái chiết khấu. Nếu các khoản tín dụng của NHTƯ lại hấp dẫn hơn thì các ngân hàng sẽ quan tâm hơn tới các khoản vay chiết khấu, tái chiết khấu hơn là thực hiện việc mua bán trên thị trường mở. Như vậy, một trong các biện pháp có thể áp dụng đó là tăng cường sự chặt ché cảu cửa sổ chiết khấu, hay áp dụng mức lãi suất phạt để lãi suất chiết khấu cao hơn lãi suất thị trường. Tất nhiên ở đây không tính đến việc NHTƯ sử dụng lãi suất tái chiết khấu nhằm mục đích người cho vay cuối cùng. -Phân biệt một cách rạch ròi giữa các nghiệp vụ quản lý nợ và nghiệp vụ của chính sách tiền tệ. Điều này sẽ làm cho công chúng tin tưởng hơn vào chính sách của NHTƯ và hoạt động của thị trường mở tăng cường hiệu quả. Bằng các biện pháp cụ thể trên, em cho rằng có thể nâng cao hiệu quả của hoạt động thị trường mở tại Việt Nam trong giai đoạn tới. Như vậy, phần trình bày về những giải pháp nhằm thúc đẩy hiệu quả và khắc phục những tồn tại của các công công cụ chính sách tiền tệ kết thúc tại đây và cũng kết thúc phần nội dung chính của tiểu luận. Đây chỉ là một số những ý kiến cá nhân trên cơ sở tham khảo các tài liệu trình bày về vấn đề này với hi vọng có thể khắc phục được những tồn tại thực tế của các công cụ chính sách tiền tệ tại Việt Nam trong giai đoạnh này, nhằm tăng cường hơn nữa vai trò quản lý của nhà nước, mà cụ thể là NHTƯ trong viêc thục thi chính sách tiền tệ, hoàn thnàh các mục tiêu của bản thân chính sách tiền tệ nói riêng và các mục tiêu vĩ mô khác của nhà nước trong giai đoạn đầu chuyển sang nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay. Kết Luận Qua nội dung mà tiểu luận đã trình bày, em đã tiến hành phân tích chính sách tiền tệ và các công cụ của chính sách tiền tệ NHTƯ. Qua phân tích, chúng ta có thể thấy rõ tầm quan trọng của các công cụ này đối với việc thực hiện chính sách tiền tệ của NHTƯ và gián tiếp tác động tới nền kinh tế. Trên thực tế thì cơ chế hoạt động và các tác động tiêu cực cũng như tích cực của các công cụ này là rất phức tạp. Tất cả những kiến thức mà em đã trình bày với mong muốn được hiểu sâu hơn về đề tài hấp dẫn này . Mục lục Trang

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35176.doc
Tài liệu liên quan