Đề tài Phân tích kết quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh nam Hà nNi giai đoạn 2006 - 2008

Phương pháp phân tổ là phương pháp được sử dụng tương đối nhiều trong việc phân tích kết quả kinh doanh của ngân hàng. Vận dụng phương pháp phân tổ thống kê vào việc phân tích kết quả kinh doanh của ngân hàng, em đã phân tổ các hoạt động xuất nhập khẩu của ngân hàng thành các hoạt động thanh toán hàng nhập khẩu, thanh toán hàng xuất khẩu, hay phân chia hoạt động kinh doanh ngoại tệ thành hoạt động mua, bán ngoại tệ theo các năm khác nhau. Tương tự, chuyên đề cũng vận dụng phương pháp phân tổ để phân loại vốn huy động thành các nguồn khác nhau Việc phân tổ thống kê là bước cơ bản để tiến hành tổng hợp thống kê, đồng thời nó cũng là cơ sở để vận dụng các phương pháp phân tích thống kê khác như phương pháp dãy số thời gian, phương pháp đồ thị, phương pháp hồi quy tương quan

doc72 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1203 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phân tích kết quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh nam Hà nNi giai đoạn 2006 - 2008, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n hàng tăng cao do đó thuế phải nộp cũng phải tăng lên, thu năm 2008 giảm xuống thì thuế phải nộp cho nhà nước lại giảm xuống. Trong những năm vừa qua, ngân hàng chủ yếu nộp thuế môn bài, thuế nhà đất và các loại thuế khác cho nhà nước... Đối với thuế VAT, được tính trên cơ sở lấy đầu ra khấu trừ đầu vào, đến cuối năm ngân hàng mới tính toán cụ thể với các cơ quan thuế để xác định mức thuế phải nộp (trừ kinh doanh ngoại tệ, vàng bạc, đá quý là các khoản không thể dồn đến cuối năm, mà phải tính ngay tại thời điểm kinh doanh). Trong những năm tiếp theo nếu như hoạt động của ngân hàng ngày càng phát triển thì khoản chi nộp thuế cho ngân sách nhà nước này sẽ càng tăng cao, do đó đối với khoản này khó có thể tác động làm giảm bớt nó đi được, khoản này là một trong những khoản bắt buộc phải chi, và nó sẽ phát triển thuận chiều với sự phát triển của ngân hàng, ngân hàng càng phát triển thì càng phải nộp thuế cao. Đây cũng chính là khoản đánh giá chất lượng hoạt động của ngân hàng. 2.2.2.5 Chi nhân viên Khoản chi này chiếm một tỷ trọng không nhỏ trong tổng chi của ngân hàng, năm 2006 chiếm 20,2%. năm 2007 chiếm 17,02% đến năm 2008 lại chiếm có 9,3%, nhìn vào đây ta cũng thấy được tỷ trọng của khoản chi trả lương nhân viên ngày càng giảm. Tuy tỷ trọng năm 2007 giảm so với năm 2006 nhưng nó vẫn có tốc độ tăng rất cao. Năm 2007 so với năm 2006 chi nhân viên tăng 13,46% tương ứng với 12753 tỷ đồng, đến năm 2008 thì cả tốc độ tăng và tỷ trọng đều giảm, nguyên nhân không phải là do ngân hàng ít quan tâm đến đời sống công nhân viên mà do trong năm 2008 tổng thu của ngân hàng giảm xuống so với năm 2007, vì thế nhìn vào mức chi lương của năm 2008 chúng ta không thể đánh giá ngân hàng kém quan tâm tới nhân viên hơn so với năm 2007 Trả lương cho công nhân viên cũng là một cách giúp ngân hàng giữ lại được cho mình những nhân viên có tài năng, có triển vọng. Trả lương có đúng với công sức, sức lực mà họ đã bỏ ra hay không đó là một vấn đề rất quan trọng trong nghệ thuật quản lý của các nhà quản lý. Nhà quản lý cần phải nghĩ xem trả lương thế nào cho phù hợp, nếu trả lường cao hơn so với sức lao động mà họ đã bỏ ra sẽ dẫn tới tình trạng trì trệ cho ngân hàng hoạt động không có hiệu quả mà chi phí bỏ ra lại rất lớn, ngược lại nếu trả lương qua thấp so với năng lực của họ lại làm cho người lao động cảm thấy chán nản, không muốn làm việc cho ngân hàng dẫn đến hiện tượng chảy máu chất xám trong ngân hàng, ngân hàng sẽ mất đi những nhân tài những con người có năng lực làm việc thực sự. Như vậy trả lương thế nào cho hợp lý luôn là một dấu chấm hỏi rất lớn cho các nhà quản lý không chỉ trong ngân hàng mà trong tất cả các doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế thị trường hiện nay. 2.2.2.6 .Chi quản lý Như em đã phân tích ở trên thì các nhà quản lý đóng vai trò rất quan trọng trong hoạt động của ngân hàng, quyết định của các nhà quản lý quyết định đến vận mệnh phát triển của ngân hàng, do vậy khoản chi quản lý là vô cùng quan trọng, năm 2006 chiếm tỷ trọng 1,64%, năm 2007 chiếm tỷ trọng 7,2%, năm 2008 chiếm tỷ trọng 0,5%. Ta nhận thấy tỷ trọng của khoản quản lý trong tổng chi cũng tăng lên trong năm 2007 và giảm vào năm 2008, đồng thời với việc tăng tỷ trọng thì tốc độ phát triển liên hoàn cũng tăng lên và giảm xuống theo đúng quy luật. Năm 2007 so với năm 2006 tốc độ tăng là 495,4% tương ứng vơi 37798 tỷ đồng, năm 2008 lại giảm so với năm 2007là 63258 tỷ đồng, tương ứng với 32,3%. Đây cũng là khoản chi khó cắt giảm, mà nếu có cắt giảm thì lượng cắt giảm được cũng phải có giới hạn, không thể cắt giảm quá nhiều sẽ làm ảnh hưởng tới chất lượng quản lý của ngân hàng. 2.2.2.7 .Chi tài sản Khoản chi này cũng là một trọng những khoản chi quan trọng, hiện nay ngân hàng đang trong thời kì phát triển, mở rộng mạng lưới chi nhánh phòng giao dịch nên việc tăng đầu tư mua sắm tài sản là một điều hoàn toàn hợp lý, quy mô ngân hàng mở rộng thì càng cần phải mua sắm thêm tài sản, như vậy đây cũng là một khoản chi không thể cắt giảm của ngân hàng. Có tài sản và máy móc thiết bị hiện đại thì mới thu hút được nhiều khách hàng về phía mình. Việc chi tài sản tăng lên cũng cho thấy chi nhánh đã từng bước hoàn thiện, hiện đại hoá cơ sở vật chất, nhằm phục vụ tốt mọi nhu cầu của khách hàng, đồng thời đem lại nguồn thu cho ngân hàng. Tuy nhiên trên thực tế việc đầu tư này vẫn chưa đem lại hiệu quả cao cho ngân hàng, vì thế trong thời gian tới ngân hàng cần có những biện pháp nhằm tăng hiệu quả của đồng tiền khi đầu tư vào tài sản, cơ sở hạ tầng cho có hiệu quả tốt hơn. Do vậy nhìn vào bảng thực trạng chi phí ta thấy được khoản chi tài sản không hề tuân theo quy luật tăng trong 2007 và giảm trong 2008 mà khoản chi này liên tục tăng trong ba năm, năm 2006 là 15658 tỷ đồng, năm 2007 : 23404 tỷ đồng, năm 2008: 34488 tỷ đồng. Điều này chứng tỏ ngân hàng đã đầu tư để lắp đặt trang thiết bị tài sản một cách có hiệu quả. 2.2.2.8 Chi dự phòng Chi dự phòng là khoản chi quan trọng đối với ngân hàng, chiếm tỷ trọng nhỏ và giảm dần 1,13% ; 1,47% ; 0,25% trong các năm 2004, 2005, 2006. Điều này là hoàn toàn hợp lý vì khoản chi này là khoản chi cho các trường hợp rủi ro xảy ra, khoản chi này càng giảm tức hoạt động của ngân hàng càng tốt ít xảy ra rủi ro hơn. Nếu xét về giá trị thì năm 2007 không tăng hơn so với năm 2006 nhiều lắm. Đến năm 2008 thì khoản thu này lại có tốc độ giảm hơn so với hai năm trước, sự giảm này là do tính ổn định của ngân hàng đã được tăng lên, và trong tương lai khoản mục này có thể giảm được do ngân hàng thực sự có kinh nghiệm trong hoạt động kinh doanh của mình. Đây là một điều đáng mừng trong hoạt động ngân hàng. Như vậy nhìn một cách tổng quát ta thấy chi phí và thu nhập trong ba năm tăng giảm không theo một chiều hướng ổn định, chúng ta không thể nhìn vào tổng thu nhập của năm 2008 nhỏ hơn năm 2007 mà kết luận trong năm 2008 ngân hàng hoạt động không có hiệu quả được để kết luận được điều này ta phải xem xét mức độ chênh lệch giữa thu nhập và chi phí trong từng năm nhìn vào con số đó mới có thể kết luận được năm nào kinh doanh có hiệu quả. Tuy nhiên để giải quyết được mâu thuẫn giữa quy mô và tiết kiệm chi phí là một bài toán vô cùng kho khăn với ngân hàng hay nói rõ hơn đây lại là một trách nhiệm lớn của các nhà quản lý. Các nhà quản lý phải đưa ra được những biện pháp tối thiểu hoá chi phí mà kết quả vẫn phải được như mong muốn. Đến đây trách nhiệm của các nhà quản lý càng được khẳng định vị thế của mình hơn, họ là những con người chủ chốt quan trọng của ngân hàng. 2.2.3 Kết quả kinh doanh Kết quả kinh doanh là mục tiêu cao nhất của các doanh nghiệp kinh doanh và tất nhiên cũng không ngoại trừ ngân hàng. Nó không những phản ánh hiệu quả hoạt động kinh doanh mà nó còn là cơ sở để xác định mức thu nhập của các cán bộ nhân viện trong ngân hàng. Bảng 2.10: Kết quả kinh doanh của NHNo & PTNT chi nhánh Nam Hà Nội chỉ tiêu 2006 2007 2008 số tiền ( tỷ đồng) số tiền ( tỷ đồng) Lượng tăng tuyệt đối liên hoàn (tỷ đồng) Tốc độ phát triển liên hoàn (%) Tốc độ tăng tuyệt đối liên hoàn (%) số tiền (tỷ đồng) Lượng tăng tuyệt đối liên hoàn (tỷ đồng) Tốc độ phát triển liên hoàn (%) Tốc độ tăng tuyệt đối liên hoàn (%) Tổng thu 547443 714608 167165 130,5 30,5 592083 -122525 -17,2 -17,1 Tổng chi 466452 631010 164558 135,3 35,3 475619 -155391 -24,6 -24,6 lợi nhuận 80991 83598 2607 103,2 3,2 116464 32866 139,3 39,3 ( Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh các năm 2006-2008) Ta có thể nhận thấy tốc độ tăng của chi phí luôn nhỏ hơn tốc độ tăng của thu nhập nên lợi nhuận của ngân hàng qua các năm luôn cao hơn so với năm trước. Năm 2006 lợi nhuận của chi nhánh ngân hàng là 80991 tỷ đồng, đến năm 2007 lợi nhuận của ngân hàng tăng lên 83598 tỷ đồng. Sở dĩ trong năm 2007 tổng chi của ngân hàng tăng lên là do lãi suất tăng làm cho công tác huy động vốn tốn nhiều chi phí hơn, đi đôi với chi phí tăng do lãi suất thì cũng do lãi suất mà thu nhập của ngân hàng trong năm 2007 cũng tăng và tốc độ tăng lớn hơn tốc độ tăng của chi phí do vậy mà lợi nhuận của ngân hàng vẫn tăng cao hơn so với năm 2006... Năm 2008 các dịch vụ mới lần lượt đi vào hoạt động đến cuối kỳ hạch toán lợi nhuận tăng lên rõ rệt, tăng lên đến 116464 tỷ đồng tương ứng với tốc độ tăng 39,3%, chúng ta cũng nhận thấy được tốc độ tăng rất cao. Điều này cho thấy chi nhánh đã tận dụng khai thác triệt để các nguồn thu nguồn thu, và đã có những nỗ lực để khẳng định uy tín, vị thế kinh doanh, tạo nguồn lực tài chính đảm bảo mức thu nhập của cán bộ công nhân viên. Mặc dù năm 2008 cả thu nhập và chi phí của ngân hàng đều giảm nhưng 2008 lại là năm hoạt động có hiệu quả nhất trong ba năm mà em đã phân tích, đến đây ta nhận thấy được không phải lúc nào thu nhập giảm cũng làm cho lợi nhuận giảm, mà nó còn phụ thuộc vào tốc độ tăng giảm của chi phí. Lợi nhuận luôn là mục đích cuối cùng của các doanh nghiệp, và các tổ chức tín dụng, vì vậy ngân hàng cần phải có những biện pháp giúp ngân hàng tăng lợi nhuận của minh lên ngày càng nhiều, để làm được điều đó thì ngân hàng phải giải quyết được bài toán giữa quy mô và tiết kiệm chi phí, lại là một câu hỏi lớn cho nhân viên ngân hàng. Như vậy vấn đề quyết định vẫn là vấn đề con người, con người có được phương pháp tốt dẫn dắt ngân hàng đi theo một con đường tốt thì ngân hàng sẽ phát triển, quy mô cũng ngày càng được mở rộng. 2.2.4. Đánh giá chung về thực trạng thu - chi, kết quả kinh doanh của NHNo & PTNT Trong những năm qua từ khi thành lập đến nay với sự nỗ lực của bản thân và sự giúp đỡ của các ngân hàng Việt Nam, chi nhánh đã từng bước khẳng định được vị thế của mình và đạt được những thành tựu đáng kể, lợi nhuận năm sau cao hơn năm trước. Đạt được kết quả khả quan như vậy là bởi rất nhiều nguyên nhân khác nhau, điển hình như một số nguyên nhân sau: + Ngân hàng hiện nay đã triển khai được hầu hết các hoạt động cơ bản của ngân hàng, và đặc biệt có những bước phát triển nhanh chóng ở hai nghiệp vụ chính đó là hoạt động huy động vốn và hoạt động cho vay + Hoạt động huy động vốn: là hoạt động phát triển mạnh mẽ nhất thể hiện ở tỷ trọng trong tổng chi phí luôn chiếm cao nhất trong tổng chi phí. Các hình thức huy động vốn của ngân hàng không ngừng phát triển, không chỉ giao dịch của ngân hàng tại chi nhánh hay sở giao dịch mà còn phục vụ khách hàng theo yêu cầu, giao dịch tại nhà hoặc bất cứ địa điểm nào khách hàng nào yêu cầu. Vì vậy mà nguồn vốn huy động của ngân hàng không ngừng tăng lên, đảm bảo cho hoạt động phát triển đặc biệt là hoạt động huy động tín dụng. + Hoạt động tín dụng: Nhờ sự phát triển ngày càng mạnh của nền kinh tế, và sự đổi mới của chính sách nhà nước ngày càng tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động tín dụng trong ngân hàng phát triển, chi nhánh đã có điều kiện mở rộng đối tượng cho vay, hướng đến tất cả các đối tượng làm ăn có hiệu quả, không phân biệt thành phần kinh tế. Doanh số cho doanh nghiệp ngoài quốc doanh và hộ gia đình vay ngày càng tăng. Bên cạnh việc mở rộng tín dụng ngân hàng còn chú trọng việc nâng cao chất lượng tín dụng, thành lập tổ thu nợ, ban thẩm định. Các thao tác nghiệp vụ được tiến hành theo đúng quy tắc, quy trình thẩm định hồ sơ, giám sát trước, trong và sau giải ngân được thực hiện nghiêm túc. + Các hoạt động khác của ngân hàng cũng đã đạt được kết quả khả quan như: Hoạt động kinh doanh ngoại hối, hoạt động thanh toán, ngân quỹ... Đều có tốc độ phát triển cao. Đồng thời chi nhánh còn thường xuyên tổ chức các lớp đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ tại chỗ cho tất cả các phòng ban nghiệp vụ. Điều này cho thấy tiềm năng của ngân hàng là rất lớn, và ngân hàng có thể phát huy nó trong những năm tiếp theo + Ngoài ra công tác kiểm tra, kiểm soát được NHNo & PTNT chi nhánh Nam Hà Nội quan tâm đúng mức, nên được duy trì thường xuyên, toàn diện trên tất cả các nghiệp vụ, thúc đẩy hoạt động kinh doanh có nề nếp, kỷ luật. Việc kiểm tra kiểm soát được chú trọng cả số lượng lẫn chất lượng, kết hợp cả hai hình thức kiểm soát tại chỗ và kiểm soát từ xa. Từ đó giúp ngân hàng nâng cao chất lượng tín dụng, thể hiện rõ qua việc ngân hàng có tỷ lệ nợ quá hạn thấp thấp hơn nhiều so với ngân hàng trung ương cho phép. + Ngân hàng đã đa dạng hóa hoạt động kinh doanh, từ đó có thể phân tán rủi ro cũng như đa dạng hóa nguồn thu. Điều này giúp cho thu nhập của ngân hàng tăng cao năm sau cao hơn năm trước, và có tốc độ tăng cao hơn tốc độ tăng của chi phí, đảm bảo cho lợi nhuận của ngân hàng luôn tăng. Như vậy em đã đi sâu phân tích các khoản thu nhập và chi phí của ngân hàng trong ba năm 2006-2008, qua phần phân tích đó em có thể rút ra được những giải pháp tăng thu, giảm chi, và chính là nội dung mà chương 3 em để cập tới trong phần sau CHƯƠNG 3: MỘT SỐ ĐỀ XUẤT KIẾN NGHỊ VỚI NGÂN HÀNG THỰC HIỆN TỐT HOẠT ĐỘNG TÀI CHÍNH 3.1 Định hướng phát triển của NHNo & PTNT chi nhánh Nam Hà Nội Năm 2005 một năm diễn ra rất nhiều hoạt động giao lưu kinh tế, thành công lớn nhất trong năm là Việt Nam ra nhập WTO tổ chức thương mại quốc tế, đánh dấu một bước ngoặt vô cùng to lớn trong quá trình đổi mới nền kinh tế Việt Nam. Hội nhập kinh tế là gắn liền nền kinh tế thị trường từng nước với nền kinh tế khu vực và thế giới thông qua các nỗ lực cải cách chính sách và hành động theo hướng tự do hóa và mở cửa trên các cấp độ đơn phương, song phương và đa phương. Đặc biệt là trên địa bàn Hà Nội là thủ đô, trung tâm văn hóa kinh tế, nơi có hàng loạt sự kiện chính trị, xã hội diễn ra và thay đổi từng ngày. Cùng với sự phát triển của đất nước, ngân hàng một tổ chức tín dụng quyết định đến hệ thống tài chính của một quốc gia, luôn đi đầu về tốc độ tăng trưởng, đã có những định hướng nhất định để xứng đáng là sức mạnh tài chính của một quốc gia. Trong xu thế hội nhập, đặc biệt là về lĩnh vực tài chính ngân hàng càng phải có nhiều đổi mới hơn nữa, vì trên thế giới hiện nay, các dịch vụ ngân hàng đã phát triển và hoàn thiện cả về công nghệ lẫn chuyên môn, đối với Việt Nam trong năm 2006 hệ thống ngân hàng đã có những bước phát triển vượt bậc về mọi mặt. Cùng với xu thế đó NHNo & PTNT cũng đã có những đổi mới và định hướng nhất định đối với toàn hệ thống, đặc biệt là những ngân hàng mới thành lập sẽ có những định hướng riêng để phát triển theo kịp toàn hệ thống. Tiếp nhận định hướng của NHNo & PTNT Việt Nam, NHNo & PTNT chi nhánh Nam Hà Nội có mục tiêu phấn đấu là một trong những chi nhánh có hiệu quả kinh doanh cao nhất trong toàn hệ thống NHNo & PTNT Việt Nam trong những năm gần đây, và đã có những định hướng riêng cho mình cụ thể là + Phát triển các sản phẩm mới trên nền tảng công nghệ với trọng tâm ưu tiên các sản phẩm gắn liền với tài khoản và độ tự động hóa cao trong quản trị nhằm đến đối tượng khách hàng là cá nhân. Đặc biệt ưu tiên các sản phẩm huy động vốn của dân cư, tín dụng tiêu dùng, kinh doanh cá thể. + Đẩy mạnh chiến dịch mở rộng phát triển mạng lưới rộng khắp trên toàn quốc nhằm tiếp tục mở rộng nền tảng cho khách hàng dân cư và doanh nghiệp vừa và nhỏ, chuẩn bị cho các bước phát triển lớn đã được đề ra trọng năm 2008. + Phát triển mạnh mẽ các dịch vụ NH doanh nghiệp, gắn kết các sản phẩm dịch vụ giao dịch tiền tệ ngoại hối trên thị trường liên ngân hàng + Tập trung phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao nhằm chuẩn bị cho quá trình cổ phần hóa và nguồn lực phục vụ sau khi cổ phần hóa 3.2 Hạn chế và nguyên nhân Bên cạnh những kết quả đã đạt được, ngân hàng cũng còn những tồn tại chưa khắc phục được. Lợi nhuận năm sau cao hơn năm trước, nhưng nhìn chung tốc độ tăng có xu hướng giảm đi, nguyên nhân là do tốc độ tăng của thu nhập thì giảm đi qua các năm, trong khi tốc độ tăng của chi phí năm sau lại cao hơn năm trước. Thêm vào đó chi nhánh có hiệu suất sử dụng vốn còn rất thấp Bảng 3.5 : Hiệu suất sử dụng vốn của NHNo & PTNT chi nhánh Nam Hà Nội Chỉ tiêu 2006 2007 2008 Tổng dư nợ 3746 2481 2481 Tổng vốn huy động 7952 8323 8323 Hiệu suất sử dụng vốn 47,1% 29,8 % 29,8 % ( Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh các năm 2006-2008) Hiệu suất sử dụng vốn của chi nhánh vẫn còn thấp, năm 2006, 2007, 2008 dưới 50%. Hiệu suất thấp là do tốc độ tăng của vốn huy động cao hơn nhiều so với tốc độ tăng của dư nợ. Ngân hàng trong những năm qua đã thực hiện tốt công tác huy động vốn. Điều này chứng tỏ ngân hàng chưa tận dụng khai thác triệt để thế mạnh của mình, làm giảm khả năng sinh lời của đồng vốn dẫn đến việc ngân hàng không thể tối đa hóa lợi nhuận. Nhìn vào bảng ta cũng thấy được hiệu suất sử dụng vốn của ngân hàng giảm dần theo thời gian, chính vì thế ngân hàng cần phải có những biện pháp tích cực để khắc phục hiện tượng này. Hiệu suất sử dụng vốn thấp, chi phí huy động vốn cao. Điều này chắc chắn sẽ dẫn đến kết quả hoạt động của ngân hàng không thể tối đa hóa. Ngân hàng cần có biện pháp tích cực để giải quyết vẫn đề này, nhằm tối đa hóa lợi nhuận nâng cao hiệu quả kinh doanh của mình. Hoạt động tín dụng: Tồn tại sự mất cân xứng về kỳ hạn của nguồn vốn huy động và hoạt động tín dụng, trong khi nguồn vốn huy động trong và dài hạn chiếm tỷ trọng lớn nhất nhì hoạt động tín dụng, cho vay ngắn hạn lại là chủ yếu. Điều này sẽ là một gánh nặng chi phí lên vai ngân hàng, chi phí bỏ ra huy động lớn trong khi lãi thu được lại nhỏ Thêm nữa mặc dù ngân hàng đang cố gắng tăng thị phần cho vay doanh nghiệp nhà nước, nhưng kết quả đạt được chưa cao, nguyên nhân là do sức cạnh tranh của ngân hàng còn thấp. Ngoài ra các khoản cho vay chưa thực sự đa dạng, chủ yếu là các món nhỏ, còn các món lớn chủ yếu chỉ có thể đáp ứng ở hội sở chính, trong những năm trước đây thì chi nhánh cấp hai và sở giao dịch thì không đủ vốn để đáp ứng nhu cầu này, nhưng trong những năm gần đây thì hai cơ sở này hoàn toàn có thể đáp ứng được nhu cầu này. Đồng thời vốn lớn được sử dụng trong hoạt động điều chuyển, điều này tuy giúp cho ngân hàng giảm rủi ro, tạo thu nhập ổn định nhưng lại thể hiện phần nào sự bị động, phụ thuộc trong sử dụng vốn của chi nhánh. Tốc độ tăng trưởng dư nợ chưa tương xứng với tốc độ tăng trưởng nguồn vốn, với tầm vóc của một chi nhánh trên địa bàn Hà Nội, dư nợ bình quân một cán bộ còn thấp, cơ cấu dư nợ chưa hợp lý và hiệu quả Dịch vụ của ngân hàng còn nhiều hạn chế, chưa đồng bộ Chất lượng công tác tự đào tạo chưa đáp ứng được yêu cầu, năng lực cán bộ còn hạn chế Kết quả kinh doanh tuy luôn tăng qua các năm, xong nguồn thu của chi nhánh chủ yếu là thu thừa nguồn, nguồn thu này ảnh hưởng lớn từ huy động vốn, vì vậy nếu huy động vốn khó khăn thì sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến thu nhập của ngân hàng. Có thể nói trong quá trình hoạt động, mặc dù còn nhiều hạn chế xong kết quả chi nhánh đạt được cũng đáng khích lệ. Trong tương lai, để củng cố duy trì vị trí hiện nay và nâng cao hiệu quả kinh doanh , ngân hàng cần có những biện pháp chiến lược cụ thể, phát huy những lợi thế khắc phục những khó khăn 3.2. Các giải pháp tăng thu, giảm chi, nâng cao hiệu quả kinh doanh 3.2.1. Nhóm giải pháp chung + Triển khai mạnh mẽ hiện đại hóa công nghệ ngân hàng Phải có giải pháp thích hợp để tiếp cận với công nghệ mới đi đôi với việc mở rộng dịch vụ và tiện ích ngân hàng. Các dịch vụ gắn liền với công nghệ như dịch vụ thanh toán, chuyển tiền tự động, online-banking, internet-banking, home-bankingcần được chuẩn bị tốt và có sự phối hợp giữa các ngân hàng tham gia. + Nâng cao năng lực tài chính Nhìn chung năng lực tài chính của NHTM nước ta hiện nay còn hạn hẹp, thể hiện ở vốn tự có còn thấp, làm ảnh hưởng không nhỏ đến năng lực cạnh tranh. Để giải quyết vấn đề này và nâng cao năng lực cạnh tranh theo em ngân hàng nên : Tiếp tục sát nhập hoặc giải thể các ngân hàng có vốn nhỏ, không đủ sức cạnh tranh. Yêu cầu các ngân hàng phải bổ sung vốn để đảm bảo được hệ số phát triển và đạt mức ngang bằng so với khu vực + Vấn đề đội ngũ cán bộ lao động Yếu tố lao động là một trong những yếu tố quyết định đến hiệu quả của công việc. Đội ngũ cán bộ đông đảo nhưng cần phải có trình độ chuyên môn nghiệp vụ làm việc có hiệu quả. Vì vậy cần phải luôn chú trọng đào tạo nghiệp vụ thường xuyên, nâng cao trình độ chuyên môn, cần phải có những cuộc trao đổi kinh nghiệp cho nhau để rút ra kinh nghiệm trong cách làm việc của từng cán bộ, tránh được những rủi ro xảy ra cho ngân hàng và khách hàng. Ngoài ra ngân hàng cần chú trọng tới bộ phận giao dịch với khách hàng. Giao dịch viên cần phải kết hợp hài hòa yếu tố ngoại giao và chất lượng công việc. Tránh trường hợp cáu gắt với khách hàng để lại ấn tượng xấu đối với khách hàng, có thể nói rằng đây là bộ phận tiếp xúc trực tiếp với khách hàng, thể hiện bộ mặt của ngân hàng, vì vậy cần phải lựa chọn những nhân viên có khả năng giao tiếp tốt, dễ nhìn, nhanh nhẹn 3.2.2. Nhóm giải pháp cụ thể cho NHNo & PTNT chi nhánh Nam Hà Nội Kết quả kinh doanh của NHTM được xác định dựa vào sự chênh lệch giữa thu nhập và chi phí, vì thế muốn nâng cao hiệu quả kinh doanh của ngân hàng phải làm tăng các nguồn thu và tiết kiệm các khoản chi phí. Với những kết quả đã đạt được và những tồn tại của mình NHNo & PTNT chi nhánh Nam Hà Nội cần có những biện pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh trong thời gian tới. 3.2.2.1. Giải pháp tăng thu Mở rộng quy mô tín dụng đi đôi với công việc nâng cao chất lượng tín dụng Hoạt động tín dụng hiện nay vẫn là hoạt động mang lại lợi nhuận chủ yếu cho ngân hàng. Qua việc phân tích tình hình thu chi tài chính và đặc biệt là bảng thu ta cũng có thể thấy rõ điều đó. Vì vậy muốn khẳng định vị thế của mình thì cần định hướng tới là phải mở rộng quy mô tín dụng, đa dạng hóa hình thức tín dụng và thu hút khách hàng thuộc mọi thành phần kinh tế, đồng thời vẫn đảm bảo được an toàn tín dụng cho ngân hàng, bởi hoạt động tín dụng bản thân nó đã chứa đựng rất nhiều rủi ro và phải đối mặt với nhiều rủi ro tiềm tàng bất ngờ. Đa dạng hóa các hình thức cho vay: Hiện nay ngân hàng mới chủ yếu quan tâm đến cho vay theo hạn mức tín dụng đối với khách hàng có mối quan hệ làm ăn lâu dài với ngân hàng qua các hình thức cho vay từng lần và cho vay theo dự ánNgân hàng nên mở rộng nhiều hình thức cho vay cho nhiều loại khách hàng khác nhau hơn nữa. Thị trường tài chính đang ổn định và sẽ phát triển trong tương lai vì thế ngân hàng cần chú ý mở rộng hình thức cho vay chiết khấu đối với giấy tờ có giá, đây là hình thức cho vay hạn chế được rất nhiều rủi ro cho ngân hàng. Đa dạng hóa đối tượng cho vay: Ngân hàng hiện nay chỉ mới tiếp cận với khách hàng nhỏ lẻ, tỷ trọng vay vốn của doanh nghiệp quốc doanh còn thấp trong khi việc tiếp cận doanh nghiệp quốc doanh là rất khó khăn, vì phải cạnh tranh với các ngân hàng khác đã tồn tại lâu và có nhiều kinh nghiệm trên thị trường. Bởi vậy đa dạng hóa đối tượng cho vay vẫn là biện pháp hữu hiệu trong thời gian tới. Để đa dạng hóa được đối tượng cho vay ta phải nắm vững được đặc điểm của các đối tượng: + Với doanh nghiệp quốc doanh: Đây là khách hàng vay vốn chiếm tỷ trọng cao đối với các NHTM hiện nay. Song với thế lực còn hạn chế chi nhánh không nên quá đầu tư tìm kiếm khách hàng mới, ngân hàng cần chú trọng vào việc nâng cao chế độ ưu đãi, hạn mức tín dụng, hạn mức cho vay, cung ứng thêm các dịch vụ đối với khách hàng đã giao dịch với ngân hàng, tạo lòng tin cho khách hàng, họ sẽ tự giới thiệu cho các doanh nghiệp khác cùng vay vốn của ngân hàng. + Với doanh nghiệp ngoài quốc doanh: Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh hầu hết là doanh nghiệp nhỏ, vì vậy gặp nhiều khó khăn trong việc vay vốn. Tuy nhiên hiện nay với sự ra đời của rất nhiều doanh nghiệp trên địa bàn Hà Nội ngân hàng nên có những chính sách thông thoáng hơn để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có cơ hội phát triển đồng thời bên cạnh đó ngân hàng cũng phải quan tâm đến công tác thẩm định, tránh rủi ro cho ngân hàng đặc biệt đối với các doanh nghiệp còn mới. Làm tốt được công tác thẩm định này ngân hàng hoàn toàn có thể tăng cả doanh số cho vay lẫn số lượng khách hàng và đảm bảo chất lượng an toàn tín dụng. + Với cá nhân, hộ gia đình hiện nay: Hiện nay việc cho vay những đối tượng này còn chưa phổ biến, ngân hàng trong thời gian tới cần nâng cao chính sách ưu đãi để tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng đồng thời vai trò của những đối tượng khách này rất quan trọng vừa giúp ngân hàng tăng thị phần, vừa tạo cơ hội mở rộng việc cung ứng sản phẩm dịch vụ mới. + Đẩy mạnh cho vay trung và dài hạn: Lượng vốn của ngân hàng huy động được chủ yếu là vốn trung và dài hạn trong khi việc cho trung và dài hạn trong những năm qua lại chiếm tỷ trọng rất nhỏ. Vì vậy ngân hàng phải tích cực tìm kiếm khách hàng, mở rộng cho vay trung và dài hạn. Khi tiến hành cho vay trung và dài hạn ngân hàng sẽ được hưởng mức lãi suất hấp dẫn nhưng cũng phải đi đôi với việc nâng cao trình độ các cán bộ tín dụng trong khâu thẩm định mới đảm bảo an toàn, đạt mức thu lãi như mong muốn. + Nâng cao chất lượng các khoản vay: Rủi ro tín dụng phát sinh do rất nhiều nguyên nhân khác nhau, chủ quan hoặc khách quan. Nhưng dù với bất cứ nguyên nhân nào cũng làm ảnh hưởng đến khả năng thu lãi của ngân hàng. Bởi vậy cán bộ tín dụng luôn phải tuân theo nguyên tắc, chế độ xét duyệt cấp vốn, khách hàng phải luôn đa chiều, từ đó có thể nắm vững và chính xác năng lực tài chính của khách hàng. Phát triển hoạt động dịch vụ và sản phẩm mới Hiện nay dịch vụ ngân hàng còn chưa phát triển đa dạng. Hầu hết các dịch vụ do tổ chức tín dụng cung cấp là dịch vụ truyền thông (huy động vốn, tín dụng thanh toán). Các dịch vụ ngân hàng nhất là dịch vụ gắn kết các trung tâm tiền tệ và trung tâm vốn chưa đáp ứng được đầy đủ nhu cầu đa dạng của doanh nghiệp và dân cư. Các dịch vụ ngân hàng hiện đai cũng mới đang ở giai đoạn thử nghiệm, chưa được triển khai rộng rãi. Phát triển dịch vụ ngân hàng mới và dịch vụ ngân hàng hiên đại. Trên cơ sở hiện đại hóa công nghệ và hệ thống công nghệ thông tin, trong thời gian gần đây NHNo & PTNT đã đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ của khách hàng. Các dịch vụ ngân hàng hiện đai như E-banking, home-bankingvà đang từng bước mở rộng và đem lại nhiều tiện ích và gia tăng giá trị cho người sử dụng. Dịch vụ thanh toán là dịch vụ bổ trợ cho các dịch vụ ngân hàng khác. Để hoàn thiện dịch vụ thanh toán thì chất lượng công nghệ thông tin của ngân hàng phải không ngừng đổi mới, mạng thanh toán phải được hiện đại hóa đảm bảo thanh toán nhanh chính xác hiệu quả, gần đây em thấy có hiện tượng ở các cây rút tiền xảy ra hiện tượng khách hàng rút tiền hóa đơn ra, tiền cũng đã được trừ trong tài khoản nhưng khách hàng lại không nhận được tiền. Đây là hiện tượng gặp rất nhiều trong thực tế mà ngân hàng chưa có biện pháp khắc phục. Hình thức chuyển tiền điện tử đang ngày càng được áp dụng rộng rãi, ngân hàng cần phải tăng cường quảng cáo để hình thức thanh toán thẻ ngày càng được mở rộng. Thanh toán quốc tế cũng là mảng dịch vụ quan trọng đem lại nguồn thu cho ngân hàng. Chi nhánh cần có biện pháp, chiến lược thu hút khách hàng xuất nhập khẩu thì phòng thanh toán cần phối hợp với phòng marketing để quảng bá một số dịch vụ ưu đãi, tìm kiếm khách hàng. Dịch vụ ngân quỹ thu đổi tiền mặt ngoại tệ cần có sự nhanh chóng, chính xác. Thị trường tiền tệ càng sôi động thì mức độ cạnh tranh giữa các ngân hàng càng trở nên gay gắt. Ngày nay các ngân hàng không chỉ cạnh tranh với nhau mà còn cạnh tranh với các tổ chức phi ngân hàng, để cung ứng các sản phẩm dịch vụ tài chính thỏa mãn nhu cầu của khách hàng. Hiện nay các khoản thu từ dịch vụ còn thấp, vì vậy cần có biện pháp hoàn thiện dịch vụ bằng cách đa dạng hóa các hình thức dịch vụ, thực hiện một số hoạt đông như: cho thuê két sắt, cầm đồHoàn thiện các dịch vụ truyền thống cho phù hợp với yêu cầu của thị trường đảm bảo lợi thế cạnh tranh của mình. Phát triển thêm những sản phẩm mới, ngoài thẻ ATM mà ngân hàng đang phát triển ngân hàng cần nghiên cứu phát triển các sản phẩm dịch vụ mới trên nền tảng khoa học hiện đại, phù hợp với xu thế thương mại điện tử và nền kinh tế thị trường trong điều kiện nước ta đang trên con đường hội nhập kinh tế quốc tế. Hoạt động kinh doanh ngoại hối Hoạt động kinh doanh ngoại hối với các NHTM là một hoạt động hấp dẫn, có khả năng mạng lại thu nhập lớn cho ngân hàng, cơ hội kinh doanh từ hoạt động này phong phú và đa dạng nhưng luôn đi kèm với rủi ro. Đối với chi nhánh đây là hoạt động chưa phát triển, chi nhánh ngân hàng cần phải quan tâm đến hoạt động này để làm sao quản lý tốt rủi ro từ hoạt động này, đồng thời vẫn đảm bảo định hướng kinh doanh của mình. Ngân hàng cần có phòng ban để phân tích sự biến động của tỷ giá trên thị trường, để từ đó có thể đưa ra những quyết định kinh doanh đúng đắn, nếu làm được sẽ giúp ngân hàng tăng thêm thu nhập, đồng thời phần vốn tập trung này sẽ giúp ngân hàng thỏa mãn nhu cầu ngoại tệ của khách hàng. Điều chỉnh lại khoản thu lãi thừa vốn điều trung ương cho hợp lý Ta có thể nhận thấy rất rõ khoản thu lãi thừa vốn điều trung ương là nguồn chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng nguồn thu của ngân hàng trong những năm vừa qua. Tuy nhiên, khoản thu này cao vừa phản ánh mặt tích cực lẫn mặt tiêu cực. Tuy nó thể hiện công tác tín dụng của ngân hàng chưa tốt. Vì thế trong năm tới khoản thu này cần điều chỉnh lại và cần chuyển sang thu từ hoạt động tín dụng, bởi hoạt động tín dụng phát triển sẽ khắc phục mặt hạn chế của khoản thu này. Để làm được điều này đòi hỏi ngân hàng phải làm tốt cả hai việc: Công tác huy động vốn và công tác tín dụng. 3.2.2.2 Giải pháp giảm chi Tìm được giải pháp cho việc tăng thu nhập, nhưng chỉ tăng thu mà chi vẫn không giảm vẫn tăng với tốc độ tăng lớn hơn tốc độ tăng của thu nhập thì hoạt động của ngân hàng cũng không hề có hiệu quả. Ngân hàng hoạt động có hiệu quả hay không còn phụ thuộc rất nhiều vào chi phí bỏ ra của ngân hàng. Vì thế cùng với việc tìm ra các giải pháp tăng thu cho ngân hàng, thì cũng phải tìm ra giải pháp tiết kiệm chi phí cho ngân hàng. Sau đây là một số giải pháp tiết kiệm chi phí cho ngân hàng. Giải pháp đối với chi trả lãi huy động vốn Có thể nói nghiệp vụ huy động vốn là nghiệp vụ quan trọng của ngân hàng bởi nó quyết định quyết định đến đầu vào cho quá trình hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Trong những năm qua ngân hàng đã không ngừng tìm ra giải pháp để nâng cao khả năng huy động vốn cho ngân hàng. Tuy nhiên do việc cạnh tranh trở nên gay gắt ngân hàng phải luôn đối đầu với việc tăng lãi suất huy động của các ngân hàng trên cùng địa bàn. Sự tác động đó đã làm chi phí về trả lãi huy động không ngừng tăng trong những năm qua. Tuy nhiên nếu tình trạng này cứ kéo dài trong tương lai thì hiệu quả làm ăn của ngân hàng không thể tăng lên được. Căn cứ vào tình hình thực tế của ngân hàng trong những năm tới theo em ngân hàng nên có những biện pháp như sau: + Tăng cường huy động nguồn vốn nhàn rỗi có lãi suất thấp: Đó là những khoản tiền gửi không kỳ hạn, hoặc kỳ hạn ngắn. Đây là những khoản tiền gửi rất phổ biến trong dân cư, họ tham gia gửi tiền và chú trọng đến mức lãi suất và tiện ích mà ngân hàng đưa ra cho họ. Còn đối với các doanh nghiệp sản xuất thì họ chủ yếu quan tâm đến công tác thanh toán có diễn ra thuận tiện, nhanh chóng không, có đảm bảo cho họ mua hàng và bán hàng hay không, và cuối cùng họ mới quan tâm tới quyền lợi có thêm từ việc giao dịch với ngân hàng. Còn với cá nhân, đặc biệt là những người có thu nhập ổn định thì họ quan tâm tới tính an toàn khi gửi tiền vào ngân hàng, họ rất sợ rủi ro xảy ra với khoản tiền mà họ gửi. Trong tương lai khi các điểm bán hàng trên thị trường trên thị trường Hà Nội không còn thanh toán bằng tiền mặt nữa thì nhu cầu thanh toán của họ qua ngân hàng sẽ tăng lên một cách đáng kể. Chính vì thế trong ngân hàng nên chú trọng hơn nữa tới việc khai thác nguồn khách hàng này, đó sẽ là nguồn huy động lâu dài đối với ngân hàng. Tuy nhiên việc nâng cao khả năng huy động cho nguồn vốn này lại có ảnh hưởng rất lớn tới việc cho vay trung và dài hạn của ngân hàng, bởi tính ổn định về thời hạn không cao. Vì thế bên cạnh việc tăng huy động các loại tiền gửi có kỳ hạn ngắn thì ngân hàng cũng nên duy trì mức huy động trung và dài hạn hợp lý, tránh tình trạng chạy đua với các ngân hàng khác, làm gia tăng chi phí và giảm sút hiệu quả kinh doanh Hiện nay tình trạng khách hàng đến rút trước hạn rất nhiều, do nhu cầu của họ phát sinh khá đột biến vì vậy mà ngân hàng cần có biện pháp xử phạt hợp lý trên cơ sở lãi suất để có thể vừa đảm bảo uy tín cho mình, vừa đảm bảo quyền lợi cho khách hàng. Có như thế ngân hàng mới có thể xử lý lãi suất huy động vốn một cách linh hoạt. Giải pháp đối với chi quản lý, công cụ Đây là khoản chi không thể thiếu trong hoạt động của ngân hàng. Các máy móc thiết bị quản lý của chi nhánh được đầu tư khá đầy đủ, tuy nhiên hiện nay vẫn chưa phầm mềm nào quản lý khoản chi phí này. Các chi nhánh cấp dưới hàng năm vẫn chưa được NHNo & PTNT Nam Hà Nội phân bổ khoản chi phí này, vì vậy vẫn có hiện tượng lãng phí. Ngân hàng cần căn cứ tình hình nhu cầu cụ thể của từng chi nhánh để có mức phân bổ hợp lý, hoặc có thể khoán khoản chi phí này đến từng chi nhánh, tưng phòng giao dịch, vừa đảm bảo tiết kiệm, vừa phù hợp và hiệu quả. Giải pháp đối với chi nhân viên Khoản chi nhân viên quyết định đến hiệu quả công việc hoạt động kinh doanh của chi nhánh. Như em đã phân tích trong phần tìm hiểu chi tiết khoản chi cho nhân viên, đây là khoản chi không thể cắt giảm, bởi nếu cắt giảm sẽ không kích thích sự hăng say sáng tạo, làm việc tích cực. Vì vậy chi nhánh cần có kế hoạch chi lương, chi thưởng cụ thể, chi đúng chế độ, đồng thời xác định biên chế lao động hợp lý. Bên cạnh chi lương, các khoản chi phụ cấp, công tác phícũng cần được theo dõi cụ thể, tránh lạm dụng dẫn đến lãng phí, tăng chi phí nhân viên cho ngân hàng. Giải pháp đối với chi tài sản Ta có thể thấy trong những năm qua chi cho việc mua sắm tài sản là khoản chi lớn bởi ngân hàng đang phải mở rộng mạng lưới chi nhánh và sở giao dịch, do đó việc mua sắm được đầu tư nhiều. Tuy nhiên khi ngân hàng đã đi vào hoạt động ổn định thì khoản đầu tư này có thể giảm bớt, cần xác định nhu cầu mua sắm hợp lý, tránh lãng phí, không khai thác hết công suất sử dụng. Ngoài ra với những tài sản đã hư hỏng, chi nhánh cần có biện pháp để giảm các khoản chi khấu hao phải trích hàng tháng. Giải pháp đối với chi khác Các khoản chi khác rất đa dạng và phức tạp,việc quản lý hết sức khó khăn. Chẳng hạn như các khoản chi cho lễ tân, hội nghị Các khoản chi khó xác định rạch ròi chi phí, các khoản chi này dễ bị lạm dụng song các khoản chi này phải có trong hoạt động ngân hàng nói riêng và hoạt động kinh tế nói chung, vì thế cần có sự xác định rõ ràng về hóa đơn cụ thể kèm theo, đồng thời thực hiện tốt việc kiểm tra, kiểm soát các hóa đơn, chứng từ của các khoản chi cho hoạt động này. Chi dự phòng là khoản chi đảm bảo bù đắp cho những trường hợp rủi ro trong hoạt động kinh doanh. Như đã biết, hoạt động ngân hàng luôn chứa đựng rủi ro cao vì thế bất cứ ngân hàng nào cũng có khoản chi dự phòng này. Tuy nhiên ngân hàng có thể giảm bớt khoản dự phòng bằng cánh nâng cao chất lượng các khoản cho vay, làm tốt công tác thu hồi nợ. Trong những năm qua, mặc dù tỷ lệ nợ quá hạn của ngân hàng rất thấp, song nhìn vào tỷ trọng đã trích cho dự phòng thì chưa thực sự hợp lý, ngân hàng nên rút bớt khoản chi xuống và tính toán con số dự phòng cho phù hợp với mức độ rủi ro trong những năm tới. Trên đây chỉ là một số biện pháp giúp ngân hàng có thể tăng thu giảm chi trong những năm tới. Tuy nhiên các biện pháp này có thể khả thi hay không phụ thuộc rất nhiều vào việc ngân hàng phải ứng dụng linh hoạt vào tình hình thay đổi của thị trường. Bởi thu nhập và chi phí có mối quan hệ ràng buộc, mỗi khoản thu tăng lên thì việc đầu tư cho nó cũng tương xứng, ngân hàng chỉ có thể hạn chế hạn chế chi phí cho từng khoản mục trong điều kiện có thể cho phép. Ngoài ra việc giảm chi của ngân hàng hiện nay là vô cùng khó khăn bởi thị trường tiền tệ luôn luôn biến động. Ngày nay các NHTM ngày càng nhiều, đặc biệt là hiện nay theo xu thế hội nhập thế giới các NHTM lần lượt cổ phần hóa, vừa có thể huy động được một nguồn vốn lớn phục vụ cho hoạt động của ngân hàng , vừa tạo động lực cho ngân hàng, vì thế họ càng phải phát huy hết tính độc lập, sáng tạo để tồn tại và phát triển. Do đó để cạnh tranh với các ngân hàng thì cần phải đầu tư có chọn lọc, hạn chế các khoản thu bất hợp lý, ưu tiên các khoản chi mang lại hiệu quả cho nhiều hoạt động, thực hiện nhiều biện pháp để tốc độ tăng thu nhập cao hơn tốc độ tăng chi phí. Nhờ đó mà chênh lệch giữa thu nhập và chi phí ngày càng hiệu quả hơn. 3.3 Một số kiến nghị 3.3.1 Kiến nghị với chính phủ Để thực hiện được các giải pháp chung ở tầm vĩ mô, cũng như giúp ngân hàng thực hiện được các giải pháp cụ thể của mình thì nhà nước cần có một số biện pháp như sau: Bảo đảm môi trường kinh tế ổn định, góp phần đảm bảo hiệu quả vốn tín dụng ngân hàng cấp cho nền kinh tế. Tạo lối chơi lành mạnh giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Môi trường kinh tế không ổn định sẽ gây cản trở cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, giảm hiệu quả sử dụng vốn vay của ngân hàng, dẫn đến khó khăn cho các doanh nghiệp trong việc hoàn trả nợ cho ngân hàng. Nhanh chóng hoàn thiện môi trường pháp lý cho hoạt động của ngân hàng, đó là một hệ thống pháp lý đầy đủ, đồng bộ, hiệu lực cao, tránh tình trạng chồng tréo, mâu thuẫn cản trở nhau sẽ có tác động tới hoạt động của tổ chức tín dụng. Nhà nước cần tiến hành rà soát lại hệ thống các văn bản pháp quy, tạo môi trường kinh doanh lành mạnh, tự do cạnh tranh trong khôn khổ pháp luật. Thực hiện cải cách tăng cường hiệu lực của chính sách thuế, chính sách trợ giá, chính sách ngăn chặn hàng nhập lậu, hàng giảđảm bảo tác dụng tích cực của các chính sách này. Nhanh chóng hoàn thiện hệ thống pháp luật về kinh tế có liên quan đến hệ thống ngân hàng như: Luật cạnh tranh, luật sec, thương hiệu Cục thống kê nên hoàn thiện hệ thống các chỉ tiêu thống kê, để đưa hệ thống các chỉ tiêu thống kê nước ta tiến gần đến hệ thống thống kê chuẩn mực quốc tế. Theo đó phòng thống kê sẽ áp dụng và phân tích một cách chính xác tình hình hoạt động tài chính của ngân hàng, để dựa vào đó đưa ra được những chiến lược phát triển cụ thể. Nhà nước nên có phương án thành lập cơ quan chuyên trách về xếp hạng tín nhiệm. Cơ quan này sẽ có trách nhiệm thu thập, xử lý và phân tích thông tin dài hạn về tình hình tài chính, hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.Trên cơ sở xếp hạng đó các NHTM sẽ tham khảo để có được những đánh giá chính xác về doanh nghiệp vay vốn. Ngoài ra cũng tạo động lực cho các doanh nghiệp tự hoàn thiện mình, nâng cao năng lực tài chính, năng lực sản xuất kinh doanh để có vị trí cao, đồng thời cũng tạo điều kiện để cho doanh nghiệp vay vốn ngân hàng được dễ dàng hơn. 3.2.2 Kiến nghị với NHNN NHNN cần có chính sách hợp lý để các NHTM có thể mở rộng phạm vị hoạt động của mình. NHNN cần nới lỏng các quy định về ngoại hối và phát hành công cụ nợ NHNN phải hoàn thiện hơn nữa hoạt động của trung tâm thông tin tín dụng để nó thực sự trở thành đầu mối trung tâm thông tin tín dụng để nó thực sự trở thành đầu mối trung tâm thông tin quan trọng giúp các tổ chức tín dụng nắm được thông tin khách hàng, từ đó có quyết định chính xác trong việc cấp tín dụng NHNN và bộ tài chính cần chuẩn hóa và bàn hành hệ thống kế toán mới dần theo chuẩn mực kế toán quốc tế, hướng dẫn các NHTM thực hiện đúng chế độ tài chính theo nghị định của chính phủ Hàng năm NHTM đều phải có một khoản dự trữ bắt buộc gửi tại ngân hàng nhà nước nhằm đảm bảo an toàn cho hoạt động kinh doanh tiền tệ. Tuy nhiên để lượng tiền này được sử dụng một cách có hiệu quả hơn, NHNN nên cho phép các NHTM sử dụng khoản dự trữ này đầu tư vào các loại giấy tờ có giá có tính thanh khoản cao, như trái phiếu chính phủ. Như vậy các NHTM vừa có thể đảm bảo khả năng thanh toán, vừa nâng cao được thu nhập của ngân hàng, đồng thời ngân hàng giảm chi phí cho việc huy động vốn. 3.2.3. Kiến nghị đối với NHNo & PTNT Việt Nam NHNo & PTNT cần tiến hành phát triển rộng rãi hơn nữa phương thức giao dịch một cửa để chi nhánh hoạt động hiệu quả hơn, tăng năng suất lao động. Vì như hiện nay giao dịch một cửa chỉ được thực hiện ở TP Hà Nội, TP Hồ Chí Minh và một vài thành phố cấp tỉnh khác. NHNo & PTNT nên xem xét lại việc mở quá nhiều chi nhánh trên địa bàn Hà Nội như hiện nay. Chính điều này đã làm tăng chi phí xã hội, tạo sự cạnh tranh không cần thiết giữa các chi nhánh của ngân hàng trong cùng một hệ thống, làm tăng lãi suất huy động, tăng chi phí tài chính NHNo & PTNT cũng nên có những điều chỉnh trong cơ chế khoán tài chính. Cụ thể mỗi ngân hàng hoạt động trong những môi trường kinh doanh khác nhau, do đó quỹ thu nhập tạo ra cũng khác nhau, cần phải có những mức lương để khuyến khích những nhân viên có khả năng làm việc tốt, có như thế mới giữ chân được các cán bộ giỏi của ngân hàng Ngoài ra NHNo & PTNT cũng nên đưa ra những chính sách phù hợp để hỗ trợ việc mở rộng chính sách cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ để các chi nhánh chủ động hơn khi tiếp xúc với đối tượng này 3.2.4. Kiến nghị với NHNo & PTNT chi nhánh Nam Hà Nội Trước hết một vấn đề lớn của NHNo & PTNT chi nhánh Nam Hà Nội là tỷ trọng thu dịch vụ còn thấp, để nâng cao tỷ trọng này ngân hàng cần có sự nỗ lực hơn tìm kiếm các khách hàng có uy tín, có khả năng trả nợ đúng hạn. Đồng thời NHNo & PTNT chi nhánh Nam Hà Nội phải xây dựng chiến lược kinh doanh: + Ngân hàng cần xây dựng được chính sách kinh doanh phù hợp với điều kiện thực tế của mình cũng như của nền kinh tế. Hiện nay thẻ thanh toán là một xu thế tiêu dùng của những người bởi những tiện ích khi sử dụng thẻ để thanh toán người dân không cần mạng theo tiền mặt. Với quan điểm “ khách hàng là thượng đế” trong tương lai ngân hàng sẽ tìm đến với từng khách hàng để cung ứng mọi dịch vụ. Do đó ngoài chiến lược đầu tư phát triển thẻ ngân hàng cũng cần xây dựng chính sách marketing phù hợp với từng giai đoạn, từng vùng lãnh thổ. + Để có thể xây dựng chính sách kinh doanh thì trước hết ngân hàng phải lựa chọn thị trường mục tiêu và phân đoạn thị trường. Từ đó có những chính sách phục vụ phù hợp thu hút bằng sản phẩm, giảm chi phí, nâng cao tiện ích của thẻ.. + Đầu tư và đẩy mạnh tiếp thị quảng cáo: Ngân hàng cần tổ chức tuyên truyền và vận động dân cư sử dụng thẻ để thanh toán trên cơ sở chia các đối tượng cần tuyên truyền, vận động thành nhiều nhóm và giới thiệu về hoạt động của ngân hàng cho phù hợp với từng nhóm: Đối vơi nhân viên ngân hàng là những người hiểu biết rất rõ về lợi ích của nghiệp vụ thanh toán qua ngân hàng nên việc tuyên truyền và vận động mở tài khoản sẽ rất dễ dàng. Nhóm đối tượng đã có giao dịch với ngân hàng và biết rõ về hoạt động của ngân hàng. Ngân hàng nên liên hệ với các cơ quan, đơn vị để cung cấp những thông tin cần thiết cho các đối tượng này và trước hết là vận động họ sử dụng dịch vụ thẻ của ngân hàng để thanh toán các dịch vụ sinh hoạt hàng ngày. Nhóm đối tượng chưa biết nhiều về hoạt động của ngân hàng: Đối với nhóm này cần tổ chức tuyên truyền để họ hiểu thêm về các hoạt động của ngân hàng và những tiện ích của dịch vụ thanh toán cá nhân. Trong nhóm đối tượng này cần chú ý đến tới sinh viên, học sinh là những người ham hiểu biết, thích đổi mới, thích hiện đại. Đối với các đối tượng chưa từng biết đến hoạt động ngân hàng cần phải tổ chức tuyên truyền để họ làm quen với hoạt động ngân hàng, bước đầu vận động họ gửi tiền nhàn rỗi vào ngân hàng và từng bước giới thiệu về các dịch vụ khác của ngân hàng. Bằng cánh thiết lập bảng thăm dò với hệ thống các câu hỏi liên quan tới tuổi, tình trạng hôn nhân, trình độ học vấn, nghề nghiệp, thu nhậpTừ đó ngân hàng xác nhận nhân tố nào có ảnh hưởng đến quyết định lựa chọn hình thức thanh toán. Đây chính là cơ sở để ngân hàng có được những bước đi thích hợp nhằm tạo xu thế tiến bộ trong hành vi thanh toán của người dân. Biện pháp tuyên truyền hiệu quả nhất là quảng cáo trên truyền hình, đài phát thanh, các tạp trí thu hút nhiều bạn đọcNgoài ra ngân hàng cũng có thể giới thiệu thương hiệu của mình qua cách tài trợ cho các giải bóng đá, bòng truyền, các cuộc thi trí tuệ, đặc biệt là niêm yết ngân hàng trên trung tâm giao dịch chứng khoán..Đồng thời tuyên truyền cho người dân bảo vệ máy móc thiết bị của ngân hàng, không có hành vi phá hoại tài sản của ngân hàng. - Đầu tư xây dựng củng cố thương hiệu AGRIBANK. Thương hiệu là tập hợp tài sản vô hình gắn liền với tên gọi, biểu tượng nó có thể làm tăng hoặc giảm giá trị sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp. Với niềm tin sẵn có của khách hàng với ngân hàng, ngân hàng cần phổ biến hình ảnh của không chỉ tới người dân trong nước mà còn cả với dân chúng khu vực và tiến tới, có như thế các dịch vụ của ngân hàng mới được phát triển cả về chủng loại và số lượng. Đầu tư cho khoa học công nghệ Việc đầu tư cho khoa học công nghệ kỹ thuật là một sự đầu tư không chỉ mạng tính cấp thiết mà còn là sự đầu tư mang tính chiến lược lâu dài, không chỉ giúp ngân hàng đứng vững trong tình hình kinh doanh hiện nay, khẳng định vị trí của ngân hàng mà còn đảm bảo cho sự phát triển vững chắc của ngân hàng trong tương lai. Do đó ngân hàng cần đầu tư số vốn cần thiết, phù hợp để cho công nghệ hiện đại sánh ngang và hơn hẳn đối thủ cạnh tranh. Xây dựng chiến lược Marketing hợp lý Do đặc thù hoạt động của ngân hàng trước kia là chủ yếu với khách hàng nông thôn nên khi chuyển sang cho vay với toàn bộ nền kinh tế thì cán bộ Marketing cần phải tuyên truyền cho các tổ chức kinh tế biết được khả năng phục vụ của mình đã được thay đổi. Điều này cần phải có một đội ngũ cán bộ Marketing chuyên nghiệp và năng động. Từ đó có thể thu hút được khách hàng mới nhằm tăng phạm vị hoạt động và phân chia thị trường một cách hợp lý, để mạng thương hiệu của ngân hàng tới mọi tầng lớp dân cư, mọi tổ chức kinh tế xã hội. Ngân hàng cần mạnh dạn có những ưu đãi để thu hút khách hàng như giảm bớt một số thủ tục đối với khách hàng có uy tín lâu năm. Giảm lãi suất đối với khách hàng vay nhiều, thời hạn dài. Hoặc đối với vốn huy động thì bên cạnh lãi suất huy động cạnh tranh trên thị trường nên tăng cường tiện ích cho các sản phẩm để thu hút khách hàng. 3.2.5. Kiến nghị với công tác thống kê của NHNo & PTNT chi nhánh Nam Hà Nội Hiện nay NHNo & PTNT chi nhánh Nam Hà Nội chưa có một phòng thống kê riêng, mà phòng thống kê chỉ có trên trụ sở chính của NHNo & PTNT Việt Nam. Công tác thống kê của NHNo & PTNT Việt Nam hiện đang được phòng kế hoạch tổng hợp thực hiện. Do đó theo em chi nhánh nên có một phòng thống kê riêng để có thể tổng hợp, phân tích, tạo nên những con số biết nói một cách chính xác, để tạo cơ sở vững chắc cho các chiến lược phát triển của ngân hàng,làm cho ngân hàng ngay càng phát triển hơn. KẾT LUẬN Hiện nay vấn đề tăng thu giảm chi, tiết kiệm chi phí nâng cao kết quả kinh doanh không chỉ là sự quan tâm của riêng ngân hàng mà nó là vấn đề quan tâm cho tất cả các tổ chức hoạt động kinh doanh. NHNo & PTNT Việt Nam cùng với các chi nhánh của mình cũng đang từng bước đổi mới để phù hợp với xu thế của nền kinh tế. NHNo & PTNT đang phấn đấu luôn giữ vững vị trí là một ngân hàng chủ chốt của cả nước, để làm được điều đó thì mỗi chi nhánh phải phát huy vai trò của mình và đạt kết quả cao nhất. Thu nhập – chi phí là hai nhân tố cơ bản trong bài toán lợi nhuận. Vì vậy nghiên cứu vấn đề này là vấn đề hết sức quan trọng và cũng rất phức tạp. Tuy nhiên từ những kiến thức tích lũy được trong thời gian học tập và sau một thời gian được thực tập tại NHNo & PTNT chi nhánh Nam Hà Nội, được các cán bộ cô chú trong ngân hàng đặc biệt là phòng nguồn vốn và kế hoạch đã giúp đỡ em nhiệt tình, em đã có thêm được nhiều hiểu biết về thực trạng và chi phí, kết quả kinh doanh của ngân hàng. Trong quá trình thu thập tài liệu, số liệu cũng như nghiên cứu và hoàn thiện chuyên đề này, bản thân em đã rất cố gắng trong khả năng của mình và trong khuôn khổ của chuyên đề mà em đã phân tích,thì chất lượng phân tích cũng như quy mô kết cấu của chuyên đề chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót của vấn đề nghiên cứu kinh mong thầy cô giáo, các cán bộ ngân hàng thông cảm và cho em những nhận xét, đóng góp để em hoàn thiện hơn về tầm hiểu biết của mình Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn sự nhiệt tình của các cán bộ ở NHNo & PTNT chi nhánh Nam Hà Nội, đặc biệt là phòng nguồn vốn và kế hoạch đã giúp em hoàn thành chuyên đề của mình. Em xin cảm ơn sự đóng góp giúp đỡ nhiệt tình, chu đáo của cô giáo- Thạc sỹ Trần Thị Nga đã giúp em hoàn thành chuyên đề của mình. TÀI LIỆU THAM KHẢO Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh NHNo & PTNT chi nhánh Nam Hà Nội Báo cáo thu nhập và chi phí hàng năm của NHNo & PTNT chi nhánh Nam Hà Nội Bảng cân đối kế toán hàng năm của NHNo & PTNT chi nhánh Nam Hà Nội Các văn bản khoán tài chính của NHNo & PTNT chi nhánh Nam Hà Nội Giáo trình lý thuyết thống kê- ĐH Kinh Tế Quốc Dân do PGS.TS. Trần Ngọc Phác và TS. Trần Thị Kim Thu chủ biên Giáo trình thống kê công nghiệp – ĐH KTQD do PGS.TS.Nguyễn Công Nhự chủ biên Tạp trí thống kê Trang web của tổng cục thống kê Quyết định 1092/2002/QĐ-NHNN về việc ban hành quy định thủ tục thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán ngày 08/10/2002 của thống đốc NHNN Nghị định 166 NHẬN XÉT CỦA CÁN BỘ TẠI CƠ SỞ THỰC TẬP MỤC LỤC DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT Nguyên nghĩa Viết tắt Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn NHNo & PTNT Ngân hàng thương mại NHTM Thanh toán và ngân quỹ TT & NQ Trung ương TW DANH MỤC BẢNG BIỂU 1.1.1 . Khái niệm 3 1.1.2 .Đặc trưng hoạt động kinh doanh của NHTM 3 1.1.3. Chức năng của NHTM 4 1.1.4. Vai trò của NHTM 5 1.2.1. Cơ chế tài chính của NHTM 6 1.2.2. Các khoản thu nhập chi phí của NHTM 7 1.3.1. Phân tổ thống kê 14 1.3.2. Phương pháp phân tích dãy số thời gian 14 2.1.1. Nguồn vốn 16 2.1.2. Sử dụng vốn 21 2.1.3. Công tác kinh doanh đối ngoại 25 2.1.4. Nghiệp vụ thanh toán và ngân quỹ 26 2.2.1. Thu nhập 27 2.2.2 . Chi phí 35 2.2.3 . Kết quả kinh doanh 44 2.2.4. Đánh giá chung về thực trạng thu - chi, kết quả kinh doanh của NHNo & PTNT 46 3.2.1. Nhóm giải pháp chung 51 3.2.2. Nhóm giải pháp cụ thể cho NHNo & PTNT chi nhánh Nam Hà Nội 51 3.3.1. Kiến nghị với chính phủ 58 3.2.2 . Kiến nghị với NHNN 59 3.2.3. Kiến nghị đối với NHNo & PTNT Việt Nam 60 3.2.4. Kiến nghị với NHNo & PTNT chi nhánh Nam Hà Nội 61 3.2.5. Kiến nghị với công tác thống kê của NHNo & PTNT chi nhánh Nam Hà Nội 63

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc2029.doc