Đề tài Phân tích ma trận swot của ngành xuất khẩu gạo Việt Nam

Trong 6 tháng đầu năm 2010 việt nam sẽ thực hiện nhiều hợp đồng xuất khẩu sang Philippine, đa số là gạo phẩm cấp thấp; 6 tháng cuối năm thị trường xuất khẩu chủ yếu là Indonesia, Ấn Độ, Trung Đông, Châu Phi là những thị trường có nhu cầu gạo cấp cao hơn. Vì vậy, đầu năm có thể chấp nhận thu mua giống IR50404, đến giữa và cuối năm chỉ mua gạo chất lượng cao. Về lâu dài sẽ hạn chế các hợp đồng gạo phẩm cấp thấp vì khó cạnh tranh với Myanma, còn thế mạnh của Thái Lan là dòng gạo thơm đặc sản. Vì vậy, Việt Nam muốn giữ thị trường xuất khẩu ổn định chỉ còn cách xen vào kẽ giữa, tức là chọn dòng sản phẩm gạo phẩm cấp cao làm thế mạnh cho mình. Để có dòng sản phẩm gạo phẩm cấp cao phải có vùng nguyên liệu ổn định, sản xuất các giống lúa ngắn ngày chất lượng cao, và chỉ sản xuất tập trung 1 - 3 giống lúa có quy cách tương đương. Ông Phong đề xuất thành lập quỹ hỗ trợ nông dân, trích từ lợi nhuận của các doanh nghiệp xuất khẩu gạo. Quỹ này tập trung hỗ trợ cải thiện chất lượng giống, hỗ trợ xây dựng lò sấy và thành lập hệ thống thông tin cho 1.300 xã phường có sản xuất nông nghiệp trong toàn quốc. Bên cạnh đó là việc tổ chức lại mạng lưới thương lái thu mua lúa có hệ thống, đề xuất thành lập hiệp hội xay xát.

doc20 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 3464 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Phân tích ma trận swot của ngành xuất khẩu gạo Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Từ ngàn đời nay, cây lúa đã gắn bó với con người, làng quê Việt Nam, đồng thời cũng trở thành tên gọi cho một nền văn minh đó là nền văn minh lúa nước. Cây lúa, hạt gạo không chỉ mang lại sự no đủ mà còn trở thành một nét đẹp trong đời sống văn hoá tinh thần của người Việt. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều vấn đề đặt ra cho cây lúa, hạt gạo Việt Nam. Cây lúa, hạt gạo gắn liền với sự phát triển của dân tộc và đến nay là hàng hoá xuất khẩu quan trọng trong nền kinh tế nước ta Việt Nam là nước nông nghiệp, sản xuất chủ yếu là lúa gạo. Mặc dù quá trình đô thị hoá đang phát triển nhanh, diện tích sản xuất lúa gạo ngày càng bị thu hẹp, nhưng năng suất sản lượng lương thực mỗi năm đều tăng trên 1 triệu tấn, năm 2008 đạt trên 38 triệu tấn. Về xuất khẩu gạo, năm 2008 xuất khẩu 5 triệu tấn, năm 2009 có khả năng xuất khẩu đến 6 triệu tấn gạo. Việt Nam có diện tích sản xuất lúa xếp hạng 5 và xuất khẩu gạo đứng thứ 2 trên thế giới, đã góp phần đảm bảo an ninh lương thực nước nhà và thế giới. Tuy nhiên, nước ta xuất khẩu số lượng lúa gạo nhiều nhưng lợi nhuận thấp, tình trạng việc được mùa, mất giá vẫn tiếp tục diễn ra, gạo xuất khẩu giá còn thấp, thị trường không ổn định, làm cho đời sống và thu nhập người sản xuất lúa gạo còn nhiều khó khăn. Việc giới thiệu tiềm năng thế mạnh về sản xuất lúa gạo Việt Nam ra thế giới chưa nhiều. Việc xây dựng thương hiệu lúa gạo Việt Nam chưa cân xứng với yêu cầu xuất khẩu.điều gì đã khiến cho cây lúa hạt gạo của chúng ta như vậy.hãy cùng phân tích ma trận swot của ngành xuất khẩu gạo việt nam để làm rõ vấn đề này. XUẤT KHẨU GẠO Lúa gạo luôn là mặt hàng xuất khẩu có thế mạnh truyền thống của Việt Nam. Từ chỗ đảm bảo lương thực còn là mối lo, Việt Nam vươn lên xếp thứ hai trong dự đoán 10 quốc gia xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới vào năm 2003. Giá trị xuất khẩu khẩu gạo vượt qua con số 1 tỷ USD năm 2005... 10 quốc gia xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới 2003 1 Thái Lan 7.750.000 tấn 2 Việt Nam 4.250.000 tấn 3 Ấn Độ 4.000.000 tấn 4 Mỹ 3.400.000 tấn 5 Trung Quốc 2.250.000 tấn 6 Pakistan 1.100.000 tấn 7 Miến Điện 1.000.000 tấn 8 Uruguay 650.000 tấn 9 Ai Cập 400.000 tấn 10 Argerntina 350.000 tấn Theo VietNamNet, 4/4/2003 Dự báo của Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ Xưa... Hơn một thế kỷ trước, các thương gia Việt Nam đã tổ chức xuất khẩu lúa gạo. Tác giả Trần Văn Đạo, trên báo Công nghiệp tiếp thị số ngày 12/2/2007 có bài viết Theo sử triều Nguyễn, từ khi lên ngôi, vua Gia Long đã chọn Đà Nẵng làm cảng biển ngoại giao duy nhất của triều đình. Nhưng từ năm 1802 đến khi Pháp xâm lược nước ta (năm 1858), có tới 20 lần, tàu Pháp, Anh, Mỹ… đến Đà Nẵng dâng quốc thư, gửi lên các vua Nguyễn xin thông thương, lập quan hệ buôn bán, nhưng đều bị khước từ. Với chính sách “trọng nông khinh thương”, “bế quan tỏa cảng” ấy, mặc dù Tường Tộ, Đặng Huy Tứ, Phạm Phú Thứ đã dâng sớ lên Vua đề nghị chính sách canh tân đất nước, nhưng cũng không được chấp nhận. Tuy nhiên, ở Sài Gòn và các địa phương thuộc khu vực Nam bộ vẫn tìm cách giao thương với các thương nhân nước ngoài. Thời kỳ này, lúa gạo, hàng tiểu thủ công nghiệp vùng Sài Gòn - Gia Định vẫn phát triển. Sách “Những vấn đề lịch sử về triều đại cuối cùng ở Việt Nam” có đoạn: Ở Sài Gòn - Chợ Lớn, các nghề chế biến nông sản như xay xát lúa gạo, sản xuất đường, sản xuất các loại bột từ khoai, gạo… các nghề rèn, mộc, đóng thuyền, dệt nhuộm hoạt động mạnh mẽ. Ở làng Bình Tây, vào đầu thế kỷ XIX đã có 240 nhóm xay gạo, làm hàng xáo, mỗi nhóm có 5-6 giàn cối xay. Gạo đã trở thành một mặt hàng xuất khẩu quan trọng của Nam kỳ thời đó… Đặc biệt từ đầu những năm 70 của thế kỷ XIX, các thương nhân người Hoa đã có vai trò quan trọng trong việc thu mua và xuất khẩu gạo ở miền Nam. Nam kỳ là thuộc địa Pháp, nên các nhà buôn Pháp phải cạnh tranh với thương nhân người Hoa trong việc xuất khẩu gạo. Sách dẫn trên đã công bố một tài liệu lịch sử quan trọng, bàn đến các biện pháp bảo đảm gạo và tăng cường chất lượng gạo Nam kỳ xuất khẩu. Trong đó có “biên bản” cuộc họp giữa các nhà xuất nhập khẩu người Âu và người Hoa vào ngày 12/9/1874 tại Sài Gòn - Chợ Lớn nhằm chấn chỉnh tình hình mất giá và chất lượng gạo xuất khẩu kém. Về cách ứng xử trong quan hệ buôn bán với nông dân và các thương gia nước ngoài, sách có đoạn: “Hôm nay, 12/9/1874, vào lúc 3 giờ chiều, tại Nhà hàng Denis Fréses, đường Catinat, tất cả thương nhân người Âu và người Hoa ở Sài Gòn và Chợ Lớn có ký tên dưới đây đã thực sự lo lắng về tình trạng lúa gạo của chúng ta bị mất giá trên mọi thị trường tiêu thụ do chất lượng kém, mà nguyên nhân là do người bản xứ cũng như chính những tiểu thương người Hoa ở Chợ Lớn đã không làm sạch hột gạo và pha trộn gạo. Tất cả đã họp lại để có những biện pháp nghiêm chỉnh nhằm đảm bảo một tương lai tốt đẹp hơn cho việc kinh doanh của chúng ta; và sẽ rất phương hại nếu gạo của chúng ta từ nay về sau không được chuyển giao tốt hơn. Có thể nói toàn bộ nền thương mại Sài Gòn dựa vào sản xuất lúa gạo. Vì vậy, mọi người đều quan tâm muốn cho sản phẩm này được nước ngoài tìm đến và ưa thích. Cho nên, mọi người đều nhất trí quyết định chấp nhận các biện pháp sau: Tất cả thương nhân người Hoa ký tên dưới đây hứa danh dự với người Âu và với chính bản thân họ rằng: Họ sẽ chăm sóc nghiêm chỉnh chất lượng gạo chuyển đến thị trường Chợ Lớn, kể từ đợt thu mua lúa gạo sắp bắt đầu vào tháng 12 tới. Hai loại gạo ngon sẽ được bán cho thương nhân người Âu là gạo Gò Công hay gạo tròn và gạo Vĩnh Long hay gạo dài đúng theo hạt gạo làm mẫu. Các loại gạo này không có bất cứ sự pha trộn nào và không được vượt quá 3% đến 5% lúa (thóc). Chỉ chấp nhận 10% tấm đối với các loại gạo tròn và 15% tấm đối với các loại gạo dài: Loại gạo Pye-Chow (có lẽ loại “gạo hoa liên” hạt trong và dài - chú thích của HT-HA, sách đã dẫn) cũng cùng những điều kiện như gạo Vĩnh Long. Gạo bán ra không phù hợp với các hợp đồng đã ký sẽ phải bồi thường theo ấn định của các trọng tài. Gạo làm mẫu sẽ đặt tại Phòng Thương mại, được sử dụng để đối chiếu trong trường hợp có tranh chấp” (Sách đã dẫn, trang 68 - 69). ... và Nay Theo tổng kết của Xuân Bách, báo Nhân dân số ngày 2/8/2007, trong sáu tháng đầu năm 2007, xuất khẩu gạo của Việt Nam đạt hơn 2,3 triệu tấn, kim ngạch 731 triệu USD, giảm hơn 18% về lượng và gần 6% về trị giá so cùng kỳ năm trước. Các thị trường nhập khẩu gạo chủ yếu của Việt Nam vẫn tập trung ở khu vực châu Á (chiếm 76,58%), phần còn lại là châu Phi (14,32%) và châu Mỹ (5,9%). Tuy nhiên, giá cước vận tải tăng nhanh đang là khó khăn rất lớn đối với hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam. Cước luồng châu Á tăng từ 18-19 USD/tấn lên 26-30 USD/tấn; luồng vận tải đi châu Phi còn tăng cao hơn, từ 80-90 USD/tấn lên tới 120-130 USD/tấn, chiếm trên 30% trị giá FOB của loại gạo cao cấp khi xuất khẩu. Mặc dù vậy, cho đến thời điểm hiện nay, tổng lượng gạo xuất khẩu đã ký hợp đồng đạt 4,5 triệu tấn (trong đó các hợp đồng thương mại chiếm khoảng 30%). Cụ thể số lượng đã ký có thời gian giao hàng từ ngày 1-7 còn khoảng 2,2 triệu tấn, trong đó có khoảng 100 nghìn tấn giao vào đầu năm 2008. Theo chỉ tiêu xuất khẩu 4,5 triệu tấn gạo trong năm nay thì các doanh nghiệp chỉ còn có thể ký xuất khẩu được khoảng 100 nghìn tấn gạo nữa. Trong khi đó, dự báo sản lượng lương thực hàng hóa của Việt Nam năm 2007 chỉ đạt khoảng 8,7 triệu tấn, điều này cũng có nghĩa là lượng gạo để xuất khẩu của Việt Nam trong năm 2007 đã hết. Trong những ngày cuối tháng 6 và đầu tháng 7, giá xuất khẩu gạo Việt Nam tiếp tục vững ở mức cao trong bối cảnh nhu cầu xuất khẩu mạnh và nguồn cung tăng dần. Tại TP Hồ Chí Minh và Đồng bằng sông Cửu Long, giá gạo 5% tấm là 303 USD/tấn, trong khi gạo 25% tấm là 285 USD/tấn. Tuy nhiên, trong tuần qua, giá gạo xuất khẩu của Việt Nam đã tăng lên, giá xuất khẩu ngày 17-7 loại 5% tấm là 308 USD/tấn và gạo 25% tấm là 290 USD, tăng 5 USD/tấn so với hồi đầu tháng 7. Theo tìm hiểu của Đức Kế (báo Tiền phong), dù giá gạo tăng cao nhưng lợi nhuận của DN vẫn chưa tương xứng. Nguyên nhân chính là do giá cước vận chuyển đã tăng gần 40% so với cùng kỳ năm ngoái (khoảng 30 USD/tấn). Thêm nữa, giá cước tăng nhưng vẫn khó thuê tàu. Về thông tin ngừng ký các hợp đồng xuất khẩu gạo mới có ảnh hưởng đến người trồng lúa, đại diện Bộ Công Thương cho rằng, không có ảnh hưởng lớn. Lý do, trong tổng số hơn 1,7 triệu tấn gạo mà các DN phải giao từ nay đến cuối năm thì các DN mới thu mua được 0,6 triệu tấn. Số còn lại khá “khít” với lượng gạo còn tồn đọng trong dân. Thống kê xuất khẩu gạo Gạo Đơn vị Tăng trưởng Nghìn tấn 1995 1988.0 - 1996 3003.0 51% 1997 3575.0 19% 1998 3730.0 4% 1999 4508.3 21% 2000 3476.7 -23% 2001 3720.7 7% 2002 3236.2 -13% 2003 3810 18% 2004 4063.1 7% Sơ bộ 2005 5250.3 29% Tổng cục thống kê, 2007 Họat động xuất khẩu đã có truyền thống từ xưa.vậy ngành xuất khẩu gạo đang đối mặt với những vấn đề gì.hãy cùng phân tích ma trận swot để hiểu rõ hơn I. PHÂN TÍCH MA TRẬN SWOT thế mạnh : là 1 nước chiếm đa phần về nông nghiệp , đất đai màu mỡ nên thuận lợi cho việc trồng trọt , chăn nuôi . công nhân ( ở đây là nông dân ) không phải trải qua đào tạo bất cứ 1 khoá học nào. bên cạnh đó , công nghệ khoa học luôn giúp sức khi liên tục nghiên cứu và cải tạo ra những giống lúa , cây trồng ngắn hạn và đạt năng suất cao . -luôn có sự ưu đãi về vay vốn của nhà nước -điểm yếu : - là ngành kinh tế theo thời vụ . - phụ thuộc chủ yếu vào thời tiết khí hậu. - nhân lực, kĩ sư đào tạo ko được bài bản , chủ yếu là từ những sinh viên nghiên cứu trong nước Cơ sở hạ tâng kỹ thuật trong nông nghiệp kém Cơ hội -mởcửa thị trường gạo.gia nhập wto -ảnh hưởng của suy thoái .kinh tê toàn cầu - nguồn cung bị thu hẹp nhu cầu tiêu dùng gạo của thế giới ngày càng cao, trong khi lượng cung luôn thấp hơn nhiều so với cầu Thách thức -Sự biến đổi khí hậu toàn cầu - môi trường ngày càng ô nhiễm,sâu bệnh phá hoại co biến đổi phức tạp - sự cạnh tranh khốc liệt từ các nước châu a,và châu phi . _thách thức về chất lụong và giá cả Thách thức về thị trường và thương hiệu 1NHỮNG ƯU ĐIỂM CỦA NGÀNH XUẤT KHẨU GẠO việt nam là một nước nông nghiệp.có đất đai màu mỡ thuận lợi cho việc trồng trọt chăn nuôi. Những cánh đồng lúa bao la ở đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long . Đồng bằng sông Hồng - một nền văn minh lúa nước đã hình thành từ nghìn năm qua. Ðây là địa bàn cư trú của người Việt cổ, cũng là nơi hình thành nền văn minh lúa nước. Vùng lúa đồng bằng sông Hồng đang có những biến đổi tích cực bước đầu nhằm đáp ứng nhu cầu thị trường. Đồng bằng sông Cửu Long là vùng đất phì nhiêu, khí hậu thuận lợi. Đây là vựa lúa lớn nhất của nước ta, ngành kinh tế quan trọng là sản xuất lúa gạo, đặc biệt là gạo chất lượng cao để xuất khẩu. người dân việt nam có truyền thống trồng lúa.nên họ không phải trải qua bất kỳ khóa đào tạo nào nguồn nhân công giá rẻ đã khiến cho gạo việt nam có ưu thế về giá so với các nước xung quanh bên cạnh đó khoa học công nghệ luôn giúp cho người nông dân có những giống lúa mới hiệu quả hơn.làm tăng năng xuất các giống lúa mới được đưa ra thì nghiệm và trồng đạt hiệu quả năng xuất cao vừa qua Bộ môn công nghệ sinh học Viện lúa ĐBSCL cho biết vừa khảo nghiệm có thêm 7 giống lúa mới triển vọng đã và đang được canh tác vào vụ Hè thu năm nay ở ĐBSCL. TS Lê Thị Dự - Viện lúa ĐBSCL cho biết, các giống triển vọng được chọn lọc từ các thí nghiệm so sánh, được bố trí chính quy kiểu khối hoàn toàn ngẫu nhiên, với 3 lần lặp (RBD); chăm sóc lấy mẫu phân tích theo tiêu chuẩn của IRRI Theo Viện lúa ĐBSCL, qua kết quả đánh giá giống từ chương trình khảo nghiệm vụ Đông xuân 2008-2009 ở ĐBSCL, các giống tốt có thể đưa vào cơ cấu giống gồm: 1. Các giống lúa cũ chống chịu được bệnh RN và bệnh VL: AS 996, OM 2395, OMCS 2000, OM 576, MTL 384, VN 95-20, HD 1. 2. Các giống lúa mới năng suất cao, chống chịu được RN, đạo ôn và bệnh VL: OM 4218, OM 4101, OM 5451, OM 5490, OM 5976, OM 6377, OM 6700, OM 5472, OM 6071, OM 3960, OM 6561, OM 6297, OM 5981, OM 4059, OM 3315, OM 4088, OM 5628, OM 7926, OM 6677, OM 5464, OM 6072, OM 6162, MTL 500, HD 4, NV 2. 3. Các giống lúa triển vọng, vừa có năng suất cao, kháng sâu bệnh tốt, vừa có phẩm chất tốt như: OM 6162, MTL 449, OM 4900, OMCS 2000, OM 4218. 4. Các giống lúa đặc sản thơm nhẹ, chống chịu được bệnh VL: OM 3536, ST 5, Ja năm 2009, Viện lúa ĐBSCL cho biết sẽ triển khai dự án phát triển giống lúa XK vùng ĐBSCL giai đoạn (2006-2010). Từ vụ Đông xuân (2008-2009) Viện đã nhân giống siêu nguyên chủng trên 9,7 ha, sản lượng đạt 27 tấn cung cấp cho các trung tâm giống, trung tâm khuyến nông, công ty giống và những hộ nông dân sản xuất giỏi các tỉnh không chỉ có khoa học công nghệ giúp sức Phò nghành kinh tế xuất nhập khẩu gạo luôn có sự ưu đãi vay vốn từ nhà nước Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo Bộ NN&PTNN cân đối và công bố lượng gạo có thể xuất khẩu trong năm 2010 vào tháng 2 này. Bên cạnh đó, Tổng Công ty Lương thực miền Nam và miền Bắc được xem xét, giải quyết việc vay vượt 15% vốn tự cóng nông nghiệp và phát triển nông Nhiều biện pháp được áp dụng để đẩy mạnh xuất khẩu gạo. nhìn 1 cách sâu xa vào thực tại ngành xuât khẩu gạo luôn có lợi thế ví như các ngành kinh tế khác đều phải có những nền móng như nhà xưởng dây chuyển láp ráp , đào tạo công nhân , rồi nguyên liệu sản xuất , các dây chuyển ( công đoạn này ) ví như những sợi dây mắt xích gắn liền với nhau, không thể tách rời , mà cũng không thể gỡ bỏ. hưng đối với ngành phát triển xuất nhập khẩu gạo do thiên nhiên ưu đãi , nước ta có sẵn những cơ sở sản xuất ( ở đây chính là các vượng lúa công nhân được đào tạo và được ví như những thợ bậc 7 trong các xí nghiệp ở đây là các nông dân chân lấm tay bùn ) 2.NHỮNG ĐIỂM YẾU CỦA NGÀNH XUẤT KHẨU GẠO VIỆT NAM , nước ta xuất khẩu số lượng lúa gạo nhiều nhưng lợi nhuận thấp, tình trạng việc được mùa, mất giá vẫn tiếp tục diễn ra, gạo xuất khẩu giá còn thấp, thị trường không ổn định, làm cho đời sống và thu nhập người sản xuất lúa gạo còn nhiều khó khăn. Việc giới thiệu tiềm năng thế mạnh về sản xuất lúa gạo Việt Nam ra thế giới chưa nhiều. Việc xây dựng thương hiệu lúa gạo Việt Nam chưa cân xứng với yêu cầu xuất khẩu. Đứng trước thực trạng đó, yêu cầu phải có nhiều giải pháp đồng bộ từ Trung ương đến địa phương. Trong đó cần có nhiều hoạt động để tạo điều kiện gặp gỡ, giao lưu, thúc đẩy sản xuất, chế biến, mua bán lúa gạo tiến tới hợp tác đầu tư, liên kết kinh doanh trong và ngoài nước để nâng giá trị của hạt gạo Việt Nam ngang tầm với hạt gạo của một số nước xuất khẩu gạo đã có thương hiệu quốc tế như Thái Lan, Mỹ, Ấn Độ... Năm 2009, chúng ta đã ngăn chặn được đà suy giảm kinh tế, đạt tốc độ tăng trưởng khá và tăng được nguồn lực đầu tư phát triển trong điều kiện kinh tế thế giới suy thoái; Bảo đảm được ổn định kinh tế vĩ mô và kiềm chế lạm phát, tạo môi trường thuận lợi cho phát triển kinh tế-xã hội; Thực hiện có kết quả việc bảo đảm an sinh xã hội, quan tâm chăm lo cho người nghèo, các đối tượng chính sách, những vùng khó khăn; Các lĩnh vực văn hoá, xã hội có bước phát triển mới trong điều kiện kinh tế hiện nay; chính trị-xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng cường; vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế tiếp tục được nâng cao. Tuy nhiên, những thành tựu đạt được chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế và chưa đồng đều giữa các vùng. Đời sống vật chất và tinh thần của người dân nông thôn còn thấp, nhất là vùng đồng bào dân tộc, vùng sâu, vùng xa. Trong khi đó, giá lúa gạo luôn bấp bênh và khó lường, khiến cho người nông dân cần cù chịu khó nhưng chưa được hưởng thành quả lao động của mình một cách xứng đáng. Hơn ai hết, các nhà quản lý, các nhà kinh tế nên tìm cách giải quyết vấn đề này cho người nông dân một cách thấu đáo, chia sẻ và nâng cao giá trị sản phẩm từ hạt gạo cho người nông dân. Để làm được điều đó, thiết nghĩ cần tạo được chuyển biến mạnh mẽ trong sản xuất nông nghiệp, kinh tế nông thôn và nâng cao đời sống nhân dân trên cơ sở đẩy mạnh phát triển nông nghiệp, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn, nhất là ở các vùng còn nhiều khó khăn; tăng cường nghiên cứu và chuyển giao khoa học - công nghệ tiên tiến; đầu tư những công nghệ chế biến sau thu hoạch, xây dựng kho tàng dự trữ nhằm đảm bảo an ninh lương thực trong nước và xuất khẩu; tập trung giải quyết các vấn đề xã hội bức xúc, giữ vững ổn định chính trị - xã hội ở nông thôn. Triển khai một bước chương trình xây dựng nông thôn mới. Có như vậy, người nông dân mới vơi bớt đi được gánh nặng trên vai. (Đảng Cộng Sản Việt Nam) không chỉ có vậy nghành kinh tế xuât nhập khẩu gạo còn gặp nhiều khó khăn như nhân lực, kĩ sư đào tạo ko được bài bản , chủ yếu là từ những sinh viên nghiên cứu trong nước. chúng ta vẫn dựa dẫm quá nhiều vào thời tiết. người nông dân dù có giỏi đến mấy cũng không thể làm việc khi khí hậu , thời tiết ngăn cản chúng ta không thể bê 1 mái nhà , lợp 1 tấm lợp khi trời nắng gay gắt. chúng ta không thể hút cạn nước khi trời đổ mưa to ngành kinh tế gạo nước ta còn phụ thuộc quá nhiều vào thời tiết đành rằng có những kho gạo khổng lồ dự trữ đành rằng là 1 nước xuất khẩu gạo lớn chỉ sau Thái Lan nhưng liệu kho gạo c thời tiết có mãi ôn hòa. bài toán đó luôn luôn được đặt ra cho những nhà chức trách , những nhà nghiên cứu còn những người nông dân và những nguời làm kinh tế vẫn luôn không tránh khỏi lỗi lo 3.NHỮNG CƠ HỘI CHO NGÀNH XUẤT KHẨU GẠO Thị trường gạo thế giới năm 2010 diễn biến có lợi cho các nước xuất khẩu, trong đó có Việt Nam. Một số nước mất mùa do thiên tai; cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu trong năm 2009 nên nhiều nước giàu cắt bớt nguồn viện trợ cho các nước nghèo, từ đó dự trữ lương thực giảm, cần phải bổ sung; các nước xuất khẩu truyền thống như Ấn Độ, Băng La Đét, Trung Quốc... không có kế hoạch xuất khẩu trong năm 2010. Trong khi đó, ở Việt Nam, tính đến trung tuần tháng 01/2010, Hiệp hội Lương thực Việt Nam và các thành viên đã ký hợp đồng xuất khẩu trên 2,6 triệu tấn gạo trong niên vụ 2010. Về sản xuất, hiện nay Thái Lan đang đối phó với dịch rầy nâu trên diện rộng. Đầu tiên, rầy nâu xuất hiện với mật độ cao ở vùng Đông Bắc, theo gió mùa Đông Bắc, rầy nâu lan nhanh xuống các tỉnh phía Nam Thái Lan và Myanma. Theo thông tin từ Bộ Nông nghiệp - PTNT, ngành nông nghiệp Thái Lan đang nhờ Việt Nam tư vấn kinh nghiệm khống chế dịch  rầy nâu. Được biết ở Thái Lan chưa làm tốt lịch thời vụ, với gần 10 triệu ha đất lúa nhưng đa số sản xuất tự phát, nên lúc nào cũng có nhiều trà lúa khác nhau hiện diện trên đồng ruộng. Những năm qua Việt Nam đã thực hiện tốt lịch thời vụ, cắt vụ, xuống giống né rầy... Bên cạnh đó, công tác cải thiện chất lượng hạt giống luôn được quan tâm. Những động thái đó đã thể hiện rõ hiệu quả ở vụ Đông Xuân 2009 - 2010. Hiện nay lúa Đông Xuân ở đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) phát triển khá tốt, sâu bệnh xuất hiện và gây hại ít hơn cùng kỳ nhiều năm. Thời tiết thuận lợi cho cây lúa phát triển, hứa hẹn một vụ mùa bội thu với chất lượng gạo được cải thiện đáng kể. Nghị quyết 63/NQ-CP của Chính phủ ban hành vào ngày 23/12/2009 về Đảm bảo an ninh lương thực Quốc gia là vận hội mới cho người sản xuất và kinh doanh lúa gạo ở việt nam Năm 2006 với việc gia nhập wto va mở cửa thị trường gạo đã giúp hạt gạo việt nam có nhiều cơ hội phất triển mới Việc cho phép doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài xuất khẩu gạo sẽ giúp tạo ra một thị trường cạnh tranh và nâng cao thương hiệu gạo Việt. Theo cam kết gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), kể từ ngày 1.1.2011, các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) được phép xuất khẩu lúa gạo. Song, thông tin mới đây từ Bộ Công Thương cho thấy, nhiều khả năng các doanh nghiệp FDI được phép xuất khẩu gạo ngay trong năm 2009. Chủ trương này đã được Chính phủ chấp thuận. Đây là hướng đi được kỳ vọng có thể tạo một thị trường lúa gạo sôi động hơn, giúp đa dạng hóa chuỗi giá trị và nâng cao thương hiệu gạo Việt. việc cho phép các doanh nghiệp nước ngoài tham gia kinh doanh, xuất khẩu lúa gạo sẽ có tác động tích cực đến việc bố trí lại sản xuất một cách chuyên nghiệp. Giá trị gia tăng theo đó sẽ tăng lên rất nhiều và mang lại lợi ích cho các đơn vị tham gia.nông dân sẽ được đầu tư giống, kỹ thuật canh tác được bao tiêu sản phẩm. Nhờ sự hợp tác này, nông dân được bao tiêu sản phẩm với giá cao, vừa có thêm kinh nghiệm trồng lúa chất lượng cao. Như vậy, cả doanh nghiệp lẫn nông dân đều có lợi. một số nước có truyền thống xuất khẩu ,hiện tại đang thiếu gao trầm trọng như ấn độ vốn đứng thứ 3 thế giới hiện tại đang cấm xuất khẩu hay như philipin.nền kinh tế tòan cầu đang suy thóai.vấn đề an ninh lương thực khiến các nước càng có nhu cầu tích trữ gạo nhiều hơn.việt na càng có cơ hội xuất khẩu nhiều hơn 4.NHỮNG THÁCH THỨC ĐẶT RA CỦA NGÀNH XUẤT KHẨU GẠO VIỆT Sự biến đổi khí hậu toàn cầu là một thách thức lớn không dễ vượt qua. hội nghị toàn cầu về biến đổi khí hậu tổ chức tại Copenhagen (Đan Mạch), tạp chí Time (Mỹ) đã liệt kê một danh sách 10 mặt hàng xuất khẩu nổi tiếng của thế giới có nguy cơ chịu tác động của biến đổi khí hậu, trong đó có gạo của Việt Nam. Theo đó, sản lượng lúa gạo của Việt Nam có thể suy giảm mạnh khi nước biển dâng lên nhấn chìm nhiều diện tích trồng lúa ở 2 vùng đồng bằng lớn của cả nước. Tình trạng nóng lên của trái đất làm nước biển dâng do băng tan ở hai cực, một diện tích không nhỏ ở ĐBSCL, vựa lúa lớn nhất của Việt Nam sẽ bị “nhận chìm”, diện tích sản xuất bị thu hẹp đáng kể. Các nước đầu nguồn sông Mê Kông có những công trình ngăn dòng trữ nước để làm thủy điện và những mục đích khác sẽ làm cạn kiệt nước ngọt ở hạ nguồn. Theo thống kê, các công trình trên khi hoàn thành sẽ cần đến 2.000m3/giây, lượng nước đó gần bằng với lưu lượng tối thiểu đổ vào hai con sông Tiền và sông Hậu vào mùa khô. Khi đó, nhiều nhánh sông Cửu Long sẽ cạn đáy, nước biển dâng cao, những con sông nước ngọt chở nặng phù sa sẽ nhường chỗ cho nước mặn từ biển tràn vào... Các đối tượng gây hại trong sản xuất ngày càng diễn biến phức tạp, tính kháng của cây lúa ngày một giảm đi, trong khi sức đề kháng của sinh vật gây hại có chiều hướng tăng. Để đối phó với dịch hại, nông dân chỉ chú trọng phương pháp dùng thuốc hóa học, từ đó, độc chất tích tụ, môi trường ngày càng ô nhiễm, hệ sinh thái đồng ruộng ngày càng mất cân đối, là cơ hội cho dịch hại có điều kiện bộc phát. Thị trường tiêu thụ lúa gạo sẽ có sự cạnh tranh khốc liệt vì ngày càng có nhiều nước tham gia xuất khẩu. Trong đó, đáng chú ý nhất là Myanma, với diện tích đất có khả năng trồng lúa khoảng 7 triệu ha, gấp đôi diện tích sản xuất lúa của Việt Nam, trong khi dân số chưa tới 50 triệu người. Năm 2008 Myanma xuất khẩu 300 ngàn tấn gạo; năm 2009 xuất 900 ngàn tấn với giá 320 - 330USD/tấn. Kế hoạch xuất khẩu của Myanma trong năm 2010 là 1,5triệu tấn. Nếu khai thác tốt quỹ đất sẵn có, tương lai không xa Myanma có khả năng qua mặt chúng ta về xuất khẩu gạo. có 3 thách thức lớn của ngành xuất khẩu gạo việt nam Thứ nhất: Liệu có duy trì được nguồn cung? Có một thực tế đối với các nước xuất khẩu gạo là hầu như họ không phải lo đầu ra cho sản phẩm vì nhu cầu tiêu dùng gạo của thế giới ngày càng cao, trong khi lượng cung luôn thấp hơn nhiều so với cầu. Theo dự đoán của FAO trong vài thập kỷ tới, thế giới có hàng tỷ người thiếu đói lương thực, nhu cầu gạo tiêu dùng thế giới năm 2002 là 410,9 triệu tấn, năm 2003 là 414,2 triệu tấn, năm 2004 là 418 triệu tấn. Việt Nam là một cường quốc xuất khẩu gạo chiếm tỷ trọng quan trọng trong thị trường thế giới (từ 12-18% thị trường gạo thế giới). Năm 2005, để duy trì được 3,9 triệu tấn xuất khẩu và tăng hơn nữa thì bản thân nông nghiệp Việt Nam phải duy trì và tăng diện tích năng suất trồng lúa. Tuy nhiên đây lại là vấn đề hết sức nan giải vì dự báo thách thức đối với tương lai cây lúa ở Việt Nam sẽ không nhỏ. Đó là vấn đề sâu bệnh, hạn hán, lũ lụt, phèn mặn... Bên cạnh nỗi lo lũ lụt, mất mùa là nguy cơ cạnh tranh giữa các loại cây trồng có giá trị hơn trong cơ chế thị trường đang dần lấn chỗ đứng cây lúa. Có lẽ vấn đề bảo đảm an toàn lương thực quốc gia và đảm bảo nguồn cung ứng cho thị trường gạo thế giới không chỉ là vấn đề của năm 2005 mà có lẽ còn là vấn đề lâu dài đối với chiến lược xuất khẩu gạo của Việt Nam trong nhiều năm tới. Thứ hai: giá thành và chất lượng nhu cầu tiêu dùng gạo của thế giới ngày càng cao, trong khi lượng cung luôn thấp hơn nhiều so với cầu. . Để tăng giá trị kim ngạch xuất khẩu gạo thì ngoài việc tăng khối lượng hàng xuất, việc cải tiến chất lượng để tăng giá thành là vấn đề hết sức quan trọng. Trong những năm vừa qua để phù hợp với yêu cầu thị trường, chất lượng gạo của Việt Nam đã được cải thiện một bước đáng kể, loại gạo chất lượng trung bình chiếm tỷ lệ từ 22,4% (năm 1996) tăng lên 85% (năm 2003). Loại gạo chất lượng thấp chiếm tỷ lệ 23% giảm xuống còn 8%. Nhưng so với gạo của Thái Lan thì gạo xuất khẩu của Việt Nam phần lớn có chất lượng trung bình. Qua khảo sát cho thấy gạo xuất 5% tấm của Việt Nam mới đạt 35%; 15% tấm chiếm 40%; 25% tấm chiếm 12%; các loại khác là 13%. Do chất lượng gạo chưa cao nên giá bán bình quân các loại gạo xuất khẩu luôn thấp hơn giá gạo bình quân của Thái Lan. Khoảng cách chênh lệch giá gạo xuất khẩu Việt Nam với Thái Lan loại 5% tấm năm 2000 là 40-50USD/tấn, nay tuy có rút ngắn nhưng gạo 5% tấm của ta vẫn thấp hơn từ 20- 35USD/tấn so với Thái Lan. Còn so sánh bình quân tất cả các loại gạo xuất khẩu thì hàng của ta luôn thấp hơn hàng Thái Lan khoảng 12-24 USD/tấn. Thứ ba: Thách thức về thị trường và thương hiệu. Việt Nam xuất khẩu lượng gạo lớn nhưng giá luôn thấp hơn gạo của Thái Lan vài chục USD/tấn, nguyên do là gạo Việt Nam chưa có thương hiệu và chất lượng chưa ổn định. Trong khi đó, trên thị trường nội địa, gạo đóng gói có nhãn hiệu bày bán ở các siêu thị cũng có giá cao hơn gạo cùng loại ở các sạp khoảng 20%. Do đó, điều cần làm là xây dựng thương hiệu lúa gạo trên cơ sở chuẩn hóa chất lượng lúa gạo theo tiêu chuẩn quốc tế. Điều kiện là doanh nghiệp có chiến lược xây dựng thương hiệu gạo chất lượng cao tham gia “Liên kết bốn nhà”, cụ thể là tham gia chuỗi giá trị, liên kết xây dựng vùng nguyên liệu thông qua hợp đồng tiêu thụ sản phẩm, để bảo đảm chất lượng nguồn nguyên liệu chế biến. Theo ông Richard Moore, chuyên gia Thương hiệu thế giới: "Giá gạo liên quan đến chất lượng gạo và phương cách giao hàng. Nâng cao giá trị hạt gạo cần sự đầu tư lớn về tiếp thị, bao bì và bán hàng. Xây dựng thương hiệu hạt gạo từ sản phẩm thông thường khi gắn lên bao bì một thương hiệu là gắn với tạo dựng uy tín và liên hệ với khách hàng trên thị trường. Thái Lan làm thương hiệu rất tốt nên họ vẫn là nước xuất khẩu gạo đứng đầu thế giới và giá trị luôn cao hơn Việt Nam". Còn Chủ tịch Hiệp hội Makerting thế giới, ông Hermawan Kartajaya, khi nói về vấn đề này đã cho rằng do chúng ta chưa khám phá ra tính đặc trưng của hạt gạo Việt Nam, làm cho nó trở nên nổi trội lên và giúp cho người tiêu dùng có thể phân biệt đâu là gạo Việt Nam, đâu là gạo Thái Lan hay Trung Quốc... Có như thế, chúng ta mới đánh đúng vào tâm lý của người tiêu dùng. Một khi đã được nhận biết và ưa chuộng một thương hiệu, vấn đề giá cả sẽ trở thành thứ yếu và người ta sẵn sàng bỏ tiền ra để mua vì sự hài lòng, thay vì phải phân vân hay mặc cả về giá cả. Vì vậy, vấn đề tạo mối liên hệ chặt chẽ với nông dân, nâng cao chất lượng và xây dựng thương hiệu sản phẩm, duy trì và mở rộng thị trường xuất khẩu. Phải xem đây là những vấn đề cốt tử, mang tính vĩ mô của nền kinh tế khi vẫn còn dựa vào thế mạnh nông nghiệp. Bộ Công Thương cho biết, theo cam kết gia nhập WTO của Việt Nam, kể từ năm 2011, các công ty nước ngoài được quyền tham gia xuất khẩu gạo của Việt Nam. Nắm bắt lộ trình này, hiện nay các công ty kinh doanh gạo nước ngoài cũng đã thiết lập đại diện tại Việt Nam, mặc dù không tham gia trực tiếp xuất khẩu gạo, nhưng họ đã cung cấp dịch vụ, làm đại lý cho công ty lương thực tỉnh, hoặc ký hợp đồng với các công ty xuất khẩu. Đây cũng là điều đáng lo cho các doanh nghiệp xuất khẩu gạo trong nước nếu không có sự chuẩn bị kịp thời. Theo Hiệp hội Lương thực Việt Nam, năm 2010 xuất gạo sẽ có nhiều thách thức, đòi hỏi phải có sự liên kết chặt chẽ giữa sản xuất và kinh doanh, vì thương mại có tác dụng hướng dẫn sản xuất và xác định kết quả sản xuất bằng cách tiêu thụ hợp lý sản phẩm làm ra. Vì vậy, muốn nâng cao chất lượng và xây dựng thương hiệu để nâng cao giá trị sản phẩm và xác lập thị phần..., các doanh nghiệp cần liên kết với nông dân xây dựng vùng nguyên liệu chuyên canh để bảo đảm sản xuất đáp ứng yêu cầu chất lượng và xây dựng thương hiệu riêng. Trong các tỉnh, thành của khu vực, An Giang là một địa phương có thành tích vượt trội, với sản lượng lúa cao nhất nước. Nhờ có sự phối hợp chặt chẽ giữa công tác khuyến nông với đội ngũ nông dân sản xuất giỏi, việc chuyển giao khoa học kỹ thuật trong canh tác lúa được thực hiện đều khắp đã giúp đồng ruộng An Giang ngày càng tăng giá trị sản xuất, mang lại hiệu quả cao. Điều đó cũng khiến cho An Giang trở thành nơi tập trung đông đảo các doanh nghiệp kinh doanh ngành xay xát, chế biến, cũng như thu hút các đơn vị thu mua lúa gạo lớn của cả nước. Trong đó đã có nhiều doanh nghiệp liên kết với nông dân tạo dựng được thương hiệu riêng cho mình. Điển hình như Công ty xuất nhập khẩu An Giang (Agimex) liên doanh với một công ty của Nhật Bản từ năm 1990 lấy tên là Agimex- Kitoku chuyên trồng và mua bán lúa gạo. Diện tích trồng lúa ban đầu chỉ có 40ha, năng suất 5 tấn/ha, nay đã tăng lên 1.870ha. Liên doanh bị lỗ suốt 13 năm liền. Nhưng trong vòng 5 năm trở lại đây liên doanh đã có lãi, mặc dù sau khi đã trừ đi số lỗ cũ, liên doanh vẫn còn lãi nhiều. Lãi lớn nhất của liên doanh là thương hiệu gạo mang tên Agimex-Kitoku. Là tỉnh có sản lượng lúa lớn nhất Đồng bằng sông Cửu Long, tỉnh An Giang đã đầu tư 3,4 tỷ đồng để thực hiện chương trình xây dựng chất lượng thương hiệu gạo xuất khẩu theo tiêu chuẩn Global GAP trên 3 dòng lúa gạo đặc sản nổi tiếng của địa phương là nàng Nhen Bảy Núi, gạo thơm Châu Phú và nếp Phú Tân với thời gian thực hiện trong 3 năm (2008-2011). Chương trình này nhằm gắn kết giữa nhà nông và doanh nghiệp để xây dựng thương hiệu gạo An Giang, đáp ứng nhu cầu thị trường cao cấp trong nước và xuất khẩu. Không chỉ riêng ở An Giang mà hiện nay ở nhiều tỉnh, thành Đồng bằng sông Cửu Long đã và đang xúc tiến xây dựng thương hiệu lúa gạo để nâng cao năng lực cạnh tranh, bán được giá cao và đem lại lợi nhuận nhiều hơn cho nông dân. Ở tỉnh Tiền Giang có hợp tác xã Mỹ Thành Nam đã thực hiện quy trình sản xuất gạo theo tiêu chuẩn Global GAP và tháng 9/2008 đã được công nhận tiêu chuẩn này. Hiện nay, Công ty trách nhiệm hữu hạn ADC đã ký hợp đồng bao tiêu sản phẩm của hợp tác xã với giá cao hơn giá thị trường 20 %. Tỉnh Bạc Liêu cũng thành công trong việc xây dựng thương hiệu gạo Một Bụi Đỏ Hồng Dân. Hiện Bạc Liêu có 18.722ha đang trồng loại lúa này, tập trung ở hai huyện là Hồng Dân và Phước Long. Năm 2008, gạo Một Bụi Đỏ Hồng Dân đã được Cục Sở hữu trí tuệ (Bộ Khoa học Công nghệ) cấp giấy chứng nhận chỉ dẫn địa lý, hứa hẹn tạo ra nhiều lợi thế cho thương hiệu của mình trong xuất khẩu. Mới đây, gạo Một Bụi Đỏ Hồng Dân đã ký kết họp đồng cung cấp 25.000 tấn cho thị trường châu Âu, với tổng trị giá 375 tỷ đồng. Trong những năm gần đây, tỉnh Sóc Trăng đã lai tạo thành công những dòng gạo đặc sản ST như ST3, ST5, ST10 được thị trường trong và ngoài nước ưa chuộng với giá bán từ 15.000-17.000 đồng/kg, cao hơn hẳn so với gạo thường. Để khai thác lợi thế này, Sóc Trăng đã quy hoạch vùng lúa đặc sản xuất khẩu tại vùng lúa cao sản của 4 huyện Ngã Năm, Mỹ Tú, Thạnh Trị và Kế Sách, phấn đấu đưa diện tích từ 30.000ha hiện nay lên 50.000ha vào năm 2010 và 100.000ha vào năm 2020. Từ những nỗ lực quy hoạch và phát triển vùng lúa gạo đặc sản chất lượng cao gắn với việc xây dựng thương hiệu phục vụ cho xuất khẩu ở các tỉnh, thành vùng Đồng bằng sông Cửu Long, chắc hắn sẽ nâng cao năng lực cạnh trạnh cho hạt gạo Việt Nam trên thương trường quốc tế Gạo Việt Nam được xuất sang nhiều thị trường với mức độ khác nhau, bao gồm. Châu Á 46%; Trung Đông 25%; Châu Phi 12%; Châu Mỹ 1%; các nước khác 13,5%. Ngoài ra Việt Nam còn xuất sang Trung Quốc, Ấn Độ, Pakistan... Phần lớn các khu vực thị trương này có trình độ tiêu dùng thấp, khả năng thanh toán hạn chế. So với Thái Lan việc gạo Việt Nam dành được những thị trường tiêu thụ có chất lượng tiêu dùng cao còn rất hạn chế. Nhìn chung việc xuất khẩu gạo của ta vào thị trường có chất lượng tiêu dùng cao đang bị cạnh tranh quyết liệt.  Sở dĩ không giành được thị trường tốt ngoài việc chất lượng gạo còn do chúng ta chậm trong xây dựng thương hiệu. Không phải chúng ta hoàn toàn yếu kém về chất lượng, chúng ta cũng có nhiều sản phảm chất lượng cao và độc đáo như gạo thơm, gạo đồ nhưng nhiều người tiêu dùng thế giới lại không biết đến. Họ tưởng chỉ Thái Lan mới có, vì chúng ta chưa sớm xây dựng thương hiệu cho những mặt hàng độc đáo này. Năm 2009, một năm đầy biến động, khó khăn nhưng ngành xuất khẩu gạo đã nỗ lực vượt qua và đạt được kết quả rất đáng khích lệ: xuất khẩu 6,052 triệu tấn gạo với kim ngạch 2,463 tỉ USD, cao nhất từ trước tới nay. Mặc dù chưa thật đồng đều do chất lượng lúa gạo khác nhau, nhưng mức lãi bình quân cho nông dân là 30% theo đúng chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ. II.CHÍNH SÁCH VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO XUẤT KHẨU GẠO 1.CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI NGÀNH XUẤT KHẨU GẠO Bên cạnh những kết quả khả quan, việc điều hành xuất khẩu gạo thời gian qua cũng bộc lộ nhiều tồn tại cần chấn chỉnh. Với cơ chế điều hành như hiện nay, tất cả mọi doanh nghiệp đều có quyền kinh doanh xuất khẩu gạo. Số lượng doanh nghiệp xuất khẩu gạo đã lên đến hơn 200 doanh nghiệp. Theo đại diện Hiệp hội Lương thực Việt Nam, hiện có tới 205 doanh nghiệp đang tham gia xuất khẩu gạo. Trong số này, có 11 doanh nghiệp xuất khẩu lớn nhất (chiếm tới 69%), 82 doanh nghiệp xuất dưới 1.000 tấn/năm, 41 doanh nghiệp xuất khoảng 200 tấn, thậm chí có doanh nghiệp 1 năm chỉ xuất khẩu được 1 tấn. Điều đáng nói là trong số đó có nhiều doanh nghiệp không đáp ứng được những yêu cầu tối thiểu về cơ sở vật chất phục vụ xuất khẩu. Thậm chí, nhiều doanh nghiệp không dự trữ đủ lượng gạo cần thiết cho xuất khẩu, chỉ khi ký được hợp đồng xuất khẩu mới tổ chức mua lúa gạo của dân, dẫn đến tình trạng tới mùa thu hoạch, nông dân phải chờ doanh nghiệp ký hợp đồng xuất khẩu, thương lái mới đến mua. Theo Phó thủ tướng Hoàng Trung Hải, nếu giữ cơ chế cũ, Việt Nam mỗi năm xuất tới 6 triệu tấn gạo, nếu chia cho hàng trăm doanh nghiệp thì sẽ tăng thêm chi phí. Hơn nữa, từ 2011, Việt Nam cho phép doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào lĩnh vực sản xuất và xuất khẩu gạo, kéo theo khả năng dư thừa các nhà máy xay xát, kho chứa... Vì thế, Phó thủ tướng đặt vấn đề nên xem xét giảm bớt các doanh nghiệp không đủ lực mà vẫn được phép tham gia xuất khẩu gạo. Trước thực trạng đó, dự thảo lần 4 về nghị định kinh doanh xuất khẩu gạo gồm 7 chương, 29 điều đã bổ sung các điều kiện để doanh nghiệp được cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh xuất khẩu gạo như phải có kho chuyên dùng với sức chứa tối thiểu 5.000 tấn... Các quy định này sẽ loại bớt những doanh nghiệp không có thực lực. Dự thảo cũng quy định rõ trách nhiệm của doanh nghiệp trong việc thu mua lúa, gạo hàng hoá theo chỉ đạo của cơ quan có thẩm quyền và trách nhiệm duy trì mức dự trữ lưu thông tương đương 20% lượng gạo mà thương nhân đã xuất khẩu trong 6 tháng trước đó nhằm can thiệp bình ổn giá gạo cung ứng thị trường khi có biến động. Dự thảo yêu cầu các doanh nghiệp có trách nhiệm đăng ký hợp đồng xuất khẩu gạo tại Hiệp hội Lương thực Việt Nam với các tiêu chí như giá thoả thuận trong hợp đồng không thấp hơn giá sàn định hướng xuất khẩu đã được công bố, lượng gạo tồn kho tối thiểu tương đương 50% lượng gạo trong hợp đồng đăng ký xuất khẩu. Theo Ban soạn thảo nghị định, quy định này để thúc đẩy thương nhân mua lúa cho nông dân ngay sau thu hoạch, không bị động chờ hợp đồng xuất khẩu. Bên cạnh đó, dự thảo cũng quy định việc xây dựng và công bố giá thành sản xuất, giá thu mua định hướng đảm bảo có lãi cho người sản xuất và giá sàn định hướng xuất khẩu. Ngoài ra, dự thảo cũng quy định rõ các chế tài áp dụng đối với doanh nghiệp vi phạm luật chơi như tạm ngừng đăng ký hợp đồng xuất khẩu 3 đến 6 tháng hoặc thậm chí thu hồi giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh xuất khẩu gạo. Ngày 14/11, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Văn phòng Chính phủ và Bộ Công Thương đã tổ chức hội thảo về nghị định kinh doanh xuất khẩu gạo. Phát biểu tại đây, đa số doanh nghiệp đồng tình với quy định của dự thảo rằng kinh doanh xuất khẩu gạo phải là ngành hàng kinh doanh có điều kiện 2.GIẢI PHÁP NÂNG CAO XUẤT KHẨU Trong 6 tháng đầu năm 2010 việt nam sẽ thực hiện nhiều hợp đồng xuất khẩu sang Philippine, đa số là gạo phẩm cấp thấp; 6 tháng cuối năm thị trường xuất khẩu chủ yếu là Indonesia, Ấn Độ, Trung Đông, Châu Phi… là những thị trường có nhu cầu gạo cấp cao hơn. Vì vậy, đầu năm có thể chấp nhận thu mua giống IR50404, đến giữa và cuối năm chỉ mua gạo chất lượng cao. Về lâu dài sẽ hạn chế các hợp đồng gạo phẩm cấp thấp vì khó cạnh tranh với Myanma, còn thế mạnh của Thái Lan là dòng gạo thơm đặc sản. Vì vậy, Việt Nam muốn giữ thị trường xuất khẩu ổn định chỉ còn cách xen vào kẽ giữa, tức là chọn dòng sản phẩm gạo phẩm cấp cao làm thế mạnh cho mình. Để có dòng sản phẩm gạo phẩm cấp cao phải có vùng nguyên liệu ổn định, sản xuất các giống lúa ngắn ngày chất lượng cao, và chỉ sản xuất tập trung 1 - 3 giống lúa có quy cách tương đương. Ông Phong đề xuất thành lập quỹ hỗ trợ nông dân, trích từ lợi nhuận của các doanh nghiệp xuất khẩu gạo. Quỹ này tập trung hỗ trợ cải thiện chất lượng giống, hỗ trợ xây dựng lò sấy và thành lập hệ thống thông tin cho 1.300 xã phường có sản xuất nông nghiệp trong toàn quốc. Bên cạnh đó là việc tổ chức lại mạng lưới thương lái thu mua lúa có hệ thống, đề xuất thành lập hiệp hội xay xát. Trong hội nghị Tổng kết sản xuất lúa năm 2009 và triển khai kế hoạch năm 2010 ở Nam bộ, tổ chức tại Thành phố Cần Thơ ngày 22/01/2010, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp -PTNT Bùi Bá Bổng kết luận định hướng đầu tư cho sản xuất và tiêu thụ lúa gạo ở ĐBSCL và Đông Nam bộ như sau: - Hoàn thiện hệ thống thủy lợi kết hợp với kiến thiết lại đồng ruộng và xây dựng giao thông nội đồng, tạo điều kiện thuận lợi áp dụng khoa học kỹ thuật, cơ giới hóa và nâng cao hiệu quả sản xuất. Sản xuất ổn định lúa Thu Đông trên cơ sở đầu tư hoàn chỉnh hệ thống đê bao, bơm điện phục vụ tưới tiêu. - Thúc đẩy nhanh cơ giới hóa khâu thu hoạch và sau thu hoạch để giảm thất thoát nông sản. Khuyến khích nông dân đầu tư máy gặt đập liên hợp, dù xuất xứ từ đâu cũng có chính sách hỗ trợ. Bên cạnh đó phải nâng tầm cơ khí chế tạo trong nước ngang tầm với sự phát triển nông nghiệp. Có kế hoạch cụ thể về hỗ trợ đầu tư lò sấy để nâng tỉ lệ lúa sấy, nhất là vụ Hè Thu. Có thể chuyển khâu sấy cho doanh nghiệp, và quy chuẩn bắt buộc là khi xây dựng kho phải có hệ thống sấy. - Chọn 5 giống lúa chủ lực đáp ứng yêu cầu xuất khẩu gạo phẩm cấp cao (được Bộ công nhận), nông dân sản xuất theo quy hoạch 5 giống này sẽ được hỗ trợ. Tăng cường xã hội hóa giống lúa theo mô hình của An Giang. - Các Doanh nghiệp muốn tăng sức cạnh tranh phải quy hoạch vùng nguyên liệu cho riêng mình. Phải bàn bạc với địa phương để chọn bộ giống lúa phù hợp thổ nhưỡng. Phấn đấu trong năm 2010 xuất khẩu 500 ngàn tấn gạo theo chủng loại giống; năm 2011 là: 1 triệu tấn; năm 2012: 1,5 triệu tấn Nghị quyết 63/NQ-CP của Chính phủ đã đề ra các nhiệm vụ và giải pháp cụ thể cho người  trồng lúa. Nhiều chương trình, dự án đầu tư mạnh vào nông nghiệp, nông dân, nông thôn đã được đặt ra trong Nghị quyết. Với quyết tâm từ Trung ương đến địa phương, tin rằng Việt Nam sẽ đón nhận cơ hội tốt hơn, đủ sức ứng phó với những thử thách bằng những hành động thiết thực và hiệu quả Thách thức xuất khẩu gạo năm 2010 TTCT - Theo đánh giá của Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA), khối lượng gạo xuất khẩu của nước ta năm nay vẫn là 6 triệu tấn như mức kỷ lục của năm 2009, nhưng kim ngạch sẽ tăng “phi mã” để đạt kỷ lục 3-3,2 tỉ USD. Điều này có nghĩa giá gạo xuất khẩu sẽ dao động khoảng 500-533 USD/tấn, tăng 94,58-127,58 USD/tấn (23,33-31,47% so với năm 2009 là 405,42 USD/tấn). KẾT LUẬN Ngành xuất khẩu gạo nước ta còn quá nhiều khó khăn., Khó khăn ở đây không phải vì thiếu sản xuất , thiếu năng lực hay thiếu cơ sở hạ tầng. Không thể độ tội cho người nông dân , cũng không thể độ tội cho giống lúa. vậy quy kết dành cho ai ? câu trả lời vẫn là hai chữ đơn giản nhưng lại chứa nhiều câu hỏi . “ Tập Thể “ Vâng ! do tập thể , cái long vòng và luẩn quẩn vẫn xảy ra không chỉ ở ngành xuất khẩu gạo . Có ai biết sự thật đằng sau chữ “ Tập Thể “ đó là cái gì Vâng !. Ba tháng qua khối lượng gạo xuất khẩu ta mới chỉ đạt 1,292 triệu tấn, giảm tới 18,52% so với cùng kỳ . vậy gạo đi đâu ? . hay có lẽ các nhà kinh tế và dự đoán cho rằng gạo cũng như vàng , nên việc cất gạo dự trữ để đến 1 ngày nào đó tung ra bán . và rồi cái gì tới cũng phải tới. gạo tiếp tục giảm . vậy lỗi là do ai ? vâng ! “ tập thể “ Có lẽ đã đến lúc chúng ta phải nhìn nhận ra thực trạng . những lời khen ngợi , những lời ca tụng dường như đã quá quen thuộc trên các mặt báo , trên tivi . Nhưng đằng sau những thành tích đó , những mặt yếu kém lại không được đề cập.­ về việc giá gạo tăng 1 cách đột ngột 1 giả thuyết lớn . đc bàn đến là trung quốc đang thiếu gạo , thành ra trung quốc áp đặt những nước xung quanh đừng có bán gạo ra , để bán cho trung quốc . giả thiết thứ 2 : " tàu phù “ tức là “ ba tàu “ đang lũng đoạn thị trường . dẫn đến giá gạo tăng 1 cách đột ngột . ở Mĩ có 1 đạo luật "FAIR TRADE " tức là anh không được quyền tăng gạo bất ngờ , không được làm cái này cái kia , trừ khi anh báo cho tôi biết . liệu chúng ta có nên học tập những cái đó ? . vậy làm sao để ngành xuất khẩu gạo ở nước ta phat triển , làm sao để giá gạo luôn ở mức ổn đinh vẫn là vấn đề cần phải giải quyết cho mọi người

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc25745.doc
Tài liệu liên quan