Đề tài Phân tích mối quan hệ giữa lạm phát với lãi suất và các biện pháp kiềm chế lạm phát của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay

LỜI MỞ ĐẦU Cơ chế thị trường đã rung lên hồi chuông cảnh báo bao sự thay đổi của nền kinh tế Việt Nam trong những thập niên gần đây. Trong nền kinh tế thị trường hoạt động đầy sôi nổi và cạnh tranh gay gắt, để thu được lợi nhuận cao và đứng vững trên thương trường, các nhà kinh tế cũng như các doanh nghiệp phải nhanh chóng tiếp cận, nắm bắt những vấn đề mới của nền kinh tế mới. Bên cạnh bao vấn đề cần có để kinh doanh còn là những vấn đề nổi cộm khác trong nền kinh tế. Điển hình là diễn biến của hai chỉ số lạm phát và lãi suất. Trong khi lãi suất có vai trò quan trọng trong việc quyết định đầu tư thì lạm phát lại là “kẻ phá hoại” có tác động xấu đến các hoạt động kinh tế. Liệu rằng giữa hai biến số kinh tế này có mối liên hệ với nhau như thế nào và Chính phủ sẽ hành động như thế nào trong cuộc chiến chống lạm phát. Tất cả những vấn đề đó đã thôi thúc chúng em đi vào nghiên cứu đề tài “Phân tích mối quan hệ giữa lạm phát với lãi suất và các biện pháp kiềm chế lạm phát của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay” Do trình độ và thời gian có hạn, trong quá trình nghiên cứu đề tài chắc chắn còn nhiều thiếu sót, chúng em kính mong sự góp ý chân thành của thầy cô và bạn đọc để đề tài nghiên cứu được hoàn thiện hơn. Mục lục LỜI MỞ ĐẦU1 NỘI DUNG3 Chương 1: Tổng quan về tình hình nghiên cứu6 1.1. Tính cấp thiết nghiên cứu của đề tài.6 1.2. Xác lập và tuyên bố vấn đề nghiên cứu.6 1.3. Các mục tiêu nghiên cứu6 1.4. Các câu hỏi đặt ra cho nghiên cứu7 1.5. Phạm vi nghiên cứu 7 1.6. Ý nghĩa của nghiên cứu7 1.7. Kết cấu của báo cáo7 Chương 2: Một số vấn đề lý luận cơ bản về lạm phát và lãi suất, mối quan hệ giữa lạm phát và lãi suất 8 2.1. Một số khái niệm, định nghĩa cơ bản8 2.1.1. Lạm phát 8 2.1.2. Lãi suất11 2.2. Một số lý thuyết về mối quan hệ giữa lạm phát với lãi suất và các biện pháp kiềm chế lạm phát16 2.2.1. Một số lý thuyết về mối quan hệ giữa lạm phát với lãi suất16 2.2.2.Lý thuyết về kiềm chế lạm phát18 2.3. Tổng quan tình hình khách thể nghiên cứu ở Việt Nam và trên thế giới 20 2.4. Những nghiên cứu có liên quan 22 2.5. Mô hình nội dung vấn đề nghiên cứu của đề tài 23 Chương 3: Phương pháp nghiên cứu và các kết quả phân tích thực trạng mối quan hệ giữa lạm phát với lãi suất và các biện pháp kiềm chế lạm phát của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay25 3.1. Phương pháp hệ nghiên cứu25 3.2. Đánh giá tổng quan tình hình và ảnh hưởng nhân tố môi trường đến mối quan hệ giữa lạm phát với lãi suất và các biện pháp kiềm chế lạm phát của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay27 3.2.1. Đánh giá tổng quan tình hình 27 3.2.2. Ảnh hưởng của nhân tố môi trường27 3.2.2.1. Môi trường kinh tế thế giới 27 3.2.2.2. Môi trường kinh tế trong nước 28 3.3. Kết quả trắc nghiệm của mô hình nghiên cứu 30 3.3.1. Kết quả trắc nghiệm của mối quan hệ giữa lạm phát và lãi suất30 3.3.2. Kết quả trắc nghiệm về các biện pháp kiềm chế lạm phát của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay35 3.4. Kết quả tổng hợp đánh giá của các chuyên gia.46 3.5. Kết quả phân tích các dữ liệu thứ cấp 49 Chương 4: Kết luận, thảo luận và các đề xuất về mối quan hệ giữa lạm phát với lãi suất và các biện pháp kiềm chế lạm phát của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay53 4.1. Các kết luận và phát hiện qua nghiên cứu53 4.2. Các thảo luận về các vấn đề đặt ra qua nghiên cứu55 4.3. Các dự báo triển vọng về việc vận dụng mối quan hệ giữa lạm phát và lãi suất trong việc quản lý kinh tế của Nhà nước và việc hoàn thiện các biện pháp kiềm chế lạm phát của Việt Nam59 4.3. Các đề xuất kiến nghị61 4.4. Những hạn chế nghiên cứu và vấn đề đặt ra tiếp tục nghiên cứu DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO67

doc70 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 3109 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phân tích mối quan hệ giữa lạm phát với lãi suất và các biện pháp kiềm chế lạm phát của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n đây, mỗi năm tăng thêm 1,5 triệu việc làm. Đường tổng cầu cũng dịch chuyển sang phải qua các năm vì: tiêu dùng hộ gia đình (C) tăng (năm 1996 là 202,509 nghìn tỷ đồng; năm 2006, đạt 679,706 nghìn tỷ đồng; năm 2007, đạt 726,1 nghìn tỉ đồng, tăng hơn 3 lần); đầu tư (I) tăng nhanh (như đã đề cập ở trên), chi tiêu chính phủ (G) tăng với tốc độ rất cao (từ 22,722 nghìn tỷ đồng năm 1996 lên 319,110 nghìn tỷ đồng năm 2006 và 368.340 nghìn tỉ đồng vào năm 2007, tăng hơn 13 lần) (Tác giả tính toán dựa vào số liệu thống kê), xuất khẩu ròng (NX) mức độ thâm hụt trong một số năm gần đây có tăng nhưng chưa tác động đáng kể đến việc làm giảm tổng cầu của cả nền kinh tế. Như vậy, xét theo quy luật của nền kinh tế thị trường thì lạm phát của những năm gần đây tăng cao có nguyên nhân tất yếu là do tích luỹ mức giá từ quá trình tăng trưởng liên tục trong nhiều năm qua. Tuy nhiên, điều đáng nói ở đây là, do năng lực sản xuất của nước ta tăng chậm hơn tốc độ tăng của tổng cầu (hay nói cách khác là cung thay đổi không kịp so với cầu) đã đẩy mức giá tăng nhanh hơn đáng kể so với tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế. Điều này được thể hiện trên biểu đồ đã nêu: Nếu năng lực sản xuất của nước ta tăng nhanh hơn mức tăng thực tế trong những năm qua thì đường tổng cung AS1 (tổng cung thực tế của năm 1996) chuyển dịch mạnh hơn sang bên phải tới vị trí AS3 (giả sử đó là năm 2007) thay vì vị trí AS2 (thực tế của năm 2007). Tại điểm cân bằng E3 (giao điểm AD2 cắt AS3) với mức giá P3 < P2 mức giá thực tế của nước ta năm 2007. Điều đặt ra là, nhân tố nào quyết định năng lực sản xuất của nền kinh tế? Các mô hình định lượng đều đã đưa ra kết luận, trong dài hạn, năng lực sản xuất do các yếu tố nguồn lực đầu vào là vốn, lao động, tài nguyên thiên nhiên và công nghệ quy định, trong đó công nghệ đóng vai trò quyết định nhất. Vận dụng lý thuyết trên rất phù hợp cho việc lý giải nền kinh tế nước ta trong thời gian qua: do công nghệ sản xuất của Việt Nam xuất phát từ trình độ thấp và rất chậm được cải thiện, hầu hết công nghệ sản xuất của các doanh nghiệp hiện nay ở mức trung bình và lạc hậu so với khu vực và thế giới (chỉ có khoảng 20% đạt trình độ tiên tiến) nên năng lực sản xuất của chúng ta còn rất hạn chế, đặc biệt là các ngành sản xuất cung cấp sản phẩm trung gian cho nền kinh tế. Điều này đã dẫn đến tổng cung thiếu hụt đáng kể so với tổng cầu và đã đẩy mức giá lên cao hơn hơn đáng kể so với tốc độ tăng của nền kinh tế. Như vậy, lạm phát của nước ta trong thời gian gần đây tăng đột biến không chỉ là hệ quả tích luỹ của quá tăng trưởng dài hạn mà còn là kết quả của năng lực sản xuất yếu kém do tích tụ của trình độ công nghệ thấp và chậm được cải thiện trong nhiều năm qua. Một nguyên nhân quan trọng nữa góp phần tăng tỷ lệ lạm phát, đó là dòng vốn FDI, FII ồ ạt chảy vào Việt Nam trong thời gian qua (trong 7 tháng đầu năm 2007 tương ứng là khoảng 7,5 tỷ USD, và 6,2 tỷ USD), khiến cho Ngân hàng nhà nước phải đóng vai trò người mua ngoại tệ cuối cùng và đưa thêm tiền đồng vào lưu thông một lượng tương ứng, khiến cho cung tiền tăng, mặt khác đối với nền kinh tế mà nền kiểm soát điều hành còn yếu, thì lượng vốn ồ ạt sẽ tăng áp lực tăng cung tiền đối với Ngân hàng nhà nước, nơi có khả năng thanh khoản lớn nhất, vì thế đây cũng chính là nguyên nhân gia tăng lạm phát. 3.2.2.2. Các biện pháp kiềm chế lạm phát của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Trong phiên họp thường kỳ cuối tháng 3 năm 2008, qua thảo luận nghiêm túc và cân nhắc thận trọng trên các mặt, Chính phủ đã thống nhất xác định nhiệm vụ trọng tâm trong tình hình hiện nay là: phấn đấu kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội và tăng trưởng bền vững. Trong đó, kiềm chế lạm phát là mục tiêu ưu tiên hàng đầu. Bởi lẽ, nếu không kiềm chế được lạm phát, chẳng những sẽ ảnh hưởng đến phát triển sản xuất và đời sống của nhân dân, đến ổn định kinh tế vĩ mô mà còn ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế trong trung và dài hạn, việc làm cũng giảm sút, môi trường đầu tư kinh doanh cũng sẽ trở nên xấu hơn. Nói kiềm chế lạm phát là mục tiêu ưu tiên hàng đầu, có nghĩa là không chạy theo chỉ tiêu tăng trưởng đã đặt ra từ cuối năm 2007 mà phải tập trung sức để kiềm chế bằng được lạm phát, phấn đấu bảo đảm tốc độ tăng giá giảm dần. Theo tinh thần đó, Chính phủ dự kiến sẽ trình Quốc hội xem xét giảm chỉ tiêu tăng trưởng và điều chỉnh lại chỉ tiêu lạm phát cho phù họp với tình hình thực tế. Sự điều chỉnh này là cần thiết nhằm hướng các giải pháp vào mục tiêu ưu tiên hàng đầu, bảo đảm tiền đề cho tăng trưởng cao và bền vững những năm tiếp theo. Chính phủ đã và đang tập trung chỉ đạo điều hành để thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm và mục tiêu ưu tiên hàng đầu này. Bảy giải pháp chủ yếu : Để đạt được những nhiệm vụ và mục tiêu nêu trên, Chính phủ đã thống nhất chỉ đạo thực hiện quyết liệt và đồng bộ các giải pháp chủ yếu sau đây: Một là, thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt: Cho dù do nhiều nguyên nhân, nhưng lạm phát luôn có nguyên nhân tiền tệ. Mức cung tiền trong lưu thông và dư nợ tín dụng tăng liên tục từ năm 2004 qua các năm và tăng cao trong năm 2007 là nguyên nhân quan trọng gây lạm phát. Nhận thức được tình hình đó, Chính phủ chủ trương kiểm soát chặt chẽ tổng phương tiện thanh toán và tổng dư nợ tín dụng ngay từ đầu năm. Ngân hàng Nhà nước, thông qua việc chủ động, linh hoạt sử dụng hợp lý các công cụ chính sách tiền tệ theo nguyên tắc thị trường để thực hiện bằng được yêu cầu này. Đồ thị dưới đã minh hoạ cho trường hợp này. i 0 Y IS E1 LM1 LM2 E2 Y2 Y1 Hình 3.4. CSTT thu hẹp Thông qua việc tăng tỷ lệ dữ trữ bắt buộc của NHTM và tăng lãi suất cho vay sẽ làm cho đầu tư giảm qua đó làm giảm tổng cầu ( từ Y2 ->Y1 ) và làm giảm tỷ lệ lạm phát. Điều cần nhấn mạnh là trong khi kiên quyết thắt chặt tiền tệ, cần bảo đảm tính thanh khoản của nền kinh tế và hoạt động của các ngân hàng, tổ chức tín dụng, tạo điều kiện cho sản xuất hàng hoá và xuất khẩu phát triển. Hai là, cắt giảm đầu tư công và chi phí thường xuyên của các cơ quan sử dụng ngân sách, kiểm soát chặt chẽ đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước, cố gắng giảm tỷ lệ thâm hụt ngân sách : Đầu tư từ nguồn ngân sách nhà nước và đầu tư của doanh nghiệp nhà nước hiện chiếm khoảng 45% tổng đầu tư xã hội. Cắt giảm nguồn đầu tư này sẽ làm giảm áp lực về cầu, giảm nhập siêu, góp phần nâng cao hiệu quả của nền kinh tế. Chính phủ sẽ quy định cụ thể tỷ lệ vốn đầu tư và chi phí hành chính phải cắt giảm và yêu cầu các bộ, địa phương xác định các công trình kém hiệu quả, các công trình chưa thực sự cần thiết để có sự điều chỉnh thích hợp. Điều này sẽ được thực hiện một cách kiên quyết ngay trong việc phân bổ lại và cân đối nguồn vốn. Cũng trên tinh thần đó, Chính phủ yêu cầu các Bộ trưởng, Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố với tư cách là đại diện chủ sở hữu nhà nước, rà soát chặt chẽ các hạng mục đầu tư của doanh nghiệp nhà nước, kiên quyết cắt bỏ các công trình đầu tư kém hiệu quả. Đồng thời, tạo điều kiện và tập trung vốn cho những công trình sắp hoàn thành, những công trình đầu tư sản xuất hàng hoá thuộc mọi thành phần kinh tế đẩy nhanh tiến độ, sớm đưa vào sản xuất. Như vậy bằng cách giảm đi chi tiêu của mình (giảm G ), chính phủ đã tác động trực tiếp đến tổng cầu. Làm tổng cầu giảm kéo theo lạm phát giảm. Đồ thị dưới minh hoạ cho trường hợp này. 0 Y2 Y1 Y IS1 IS2 E1 LM E2 i1 i2 i Hình 3.5. CSTT thắt chặt Chính phủ sử dụng chính sách tài khoá thu hẹp làm cho đường IS dịch chuyển từ IS 1 đến IS 2. Điểm cân bằng mới của nền kinh tế là E2 thay cho E1 với sự sụt giảm của thu nhập Y từ Y 1 ->Y2. Sự sụt giảm của tổng cầu này làm cho mức giá cân bằng của nền kinh tế giảm xuống. Qua đó có tác động kiềm chế lạm phát. Ba là, tập trung sức phát triển sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, khắc phục nhanh hậu quả của thời tiết và dịch bệnh để tăng sản lượng lương thực, thực phẩm : Hiện nay, tiềm năng tăng trưởng của nước ta còn rất lớn, nhất là khi Việt Nam đã là thành viên đầy đủ của Tổ chức Thương mại thế giới, đầu tư nước ngoài và đầu tư tư nhân tăng mạnh, thị trường xuất khẩu được mở rộng, vì vậy, phát triển sản xuất là giải pháp gốc, tạo hiệu quả nhiều mặt, vừa tăng nguồn cung cho thị trường trong nước và xuất khẩu, góp phần kiềm chế lạm phát, giảm nhập siêu, vừa thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, lại không gây phản ứng phụ. Để thực hiện yêu cầu này, Chính phủ đã giao nhiệm vụ cho các bộ trưởng, chủ tịch UBND các tỉnh và thành phố chỉ đạo quyết liệt, kịp thời tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc về vốn, về thị trường, về thủ tục hành chính, thúc đẩy sản xuất phát triển. Bốn là, bảo đảm cân đối cung cầu về hàng hoá, đẩy mạnh xuất khẩu, giảm nhập siêu: Cân đối cung cầu về hàng hoá, nhất là các mặt hàng thiết yếu cho sản xuất và đời sống nhân dân là tiền đề quyết định để không gây ra đột biến về giá, ngăn chặn đầu cơ. Thủ tướng Chính phủ, các bộ trưởng đã và sẽ tiếp tục làm việc với các hiệp hội ngành hàng, các doanh nghiệp kinh doanh các mặt hàng thiết yếu, như: lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, xăng dầu, sắt thép, vật liệu xây dựng, phân bón... giao nhiệm vụ cho các đơn vị này phải bảo đảm nguồn hàng, đồng thời có trách nhiệm cùng Chính phủ kiềm giữ giá cả. Trong khi kiên trì chủ trương thực hiện cơ chế giá thị trường, xoá bỏ bao cấp qua giá, nhưng trong tình hình hiện nay, mặc dầu giá thế giới tăng cao, Chính phủ đã quyết định: từ nay cho đến hết tháng 6/2009, chưa tăng giá điện, giá than, giá xăng dầu; giữ ổn định giá xi măng, phân bón, nước sạch, thuốc bệnh, vé máy bay, tàu hoả; giao Bộ Tài chính rà soát để cắt, giảm các loại phí thu từ nông dân... Để bảo đảm nguồn cung trên thị trường nội địa, giữ vững an ninh lương thực và kiềm chế sự tăng giá quá mức của nhóm hàng này, Chính phủ quy định lượng xuất khẩu gạo năm nay ở mức 4 triệu tấn và từ nay đến hết quý 3 không quá 3,2 triệu tấn. Chính phủ cũng đã giao Bộ Tài chính đề xuất phương án nâng thuế xuất khẩu than, dầu thô và nghiên cứu khả năng áp dụng thuế xuất khẩu gạo. Trong điều kiện đồng Đô la Mỹ giảm giá so với đồng tiền các nước là thị trường xuất khẩu lớn của nước ta, việc neo giữ quá lâu tỷ giá hối đoái giữa đồng tiền Việt Nam và đồng Đô la Mỹ không phản ánh đúng quan hệ thực trên thị trường ngoại tệ. Vì vậy, Chính phủ chủ trương áp dụng tỷ giá linh hoạt với biên độ thích hợp, phản ánh quan hệ cung cầu trên thị trường, giúp cho việc kiềm chế lạm phát nhưng không ảnh hưởng lớn đến xuất khẩu, bảo đảm việc mua bán, chuyển đổi ngoại tệ diễn ra thuận lợi. Cán cân thương mại là một chỉ tiêu vĩ mô rất quan trọng. Nhập siêu tăng trong năm 2007 và tăng cao hơn trong quý 1 năm nay, đã đe doạ đến cân đối vĩ mô, đòi hỏi phải áp dụng các biện pháp kiên quyết để hạn chế tình trạng này trên cơ sở đẩy mạnh xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu. Để làm việc này, Chính phủ đang chỉ đạo quyết liệt thực hiện nhiều giải pháp: Ngân hàng Nhà nước bảo đảm đủ vốn và mua hết ngoại tệ cho các doanh nghiệp làm hàng xuất khẩu, xử lý ngay các ách tắc về tín dụng xuất khẩu cho từng trường hợp cụ thể; tăng cường hỗ trợ công tác xúc tiến thương mại đối với hàng xuất khẩu; cải cách mạnh thủ tục hành chính liên quan đến hoạt động xuất khẩu để giảm chi phí cho doanh nghiệp, góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu Việt Nam đi đôi với việc áp dụng các hàng rào kỹ thuật và các biện pháp khác phù hợp với các cam kết quốc tế của nước ta để giảm nhập siêu, kể cả việc tăng thuế nhập khẩu những mặt hàng không thiết yếu. Năm là, triệt để tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng: Hiện nay, tình trạng lãng phí trong sản xuất và tiêu dùng diễn ra khá phổ biến ở các cơ quan, đơn vị. Tiềm năng tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng là rất lớn. Vì vậy, Chính phủ yêu cầu các cơ quan nhà nước cắt giảm 10% chi tiêu hành chính, các doanh nghiệp phải rà soát tất cả các khoản chi nhằm hạ giá thành và phí lưu thông. Chính phủ kêu gọi mọi người, mọi nhà triệt để tiết kiệm tiêu dùng, nhất là nhiên liệu, năng lượng. Đây là giải pháp vừa có tác dụng giảm sức ép về cầu, giảm nhập siêu, vừa góp phần nâng cao hiệu quả của cả nền sản xuất xã hội. Sáu là, tăng cường công tác quản lý thị trường, kiểm soát việc chấp hành pháp luật nhà nước về giá: Kiên quyết không để xảy ra tình trạng lạm dụng các biến động trên thị trường để đầu cơ, nâng giá, nhất là các mặt hàng thiết yếu cho sản xuất và tiêu dùng, như: xăng dầu, sắt thép, xi măng, thuốc chữa bệnh, lương thực, thực phẩm…; ngăn chặn tình trạng buôn lậu qua biên giới, đặc biệt là buôn lậu xăng dầu, khoáng sản. Các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế phải thường xuyên kiểm tra giá bán tại các mạng lưới bán lẻ và các đại lý bán lẻ của doanh nghiệp mình. Chính phủ đã chỉ đạo các tổng công ty nhà nước phải gương mẫu đi đầu trong việc thực hiện yêu cầu này và chịu trách nhiệm trước Chính phủ về hoạt động của hệ thống bán lẻ và đại lý bán lẻ của doanh nghiệp. Chính phủ cũng yêu cầu các hiệp hội ngành hàng tham gia tích cực, ủng hộ các chủ trương và giải pháp bình ổn thị trường, giá cả. Bảy là, mở rộng việc thực hiện các chính sách về an sinh xã hội: Trước tình hình giá cả tăng cao, ảnh hưởng đến đời sống của nhân dân, nhất là vùng nghèo, hộ nghèo, vùng bị thiên tai, người lao động có thu nhập thấp, Chính phủ đã chủ trương mở rộng các chính sách về an sinh xã hội. Chính phủ đã quyết định tăng 20% mức lương tối thiểu cho những người lao động thuộc khối cơ quan nhà nước, lực lượng vũ trang, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội từ ngày 1 tháng 1 năm 2008. Chính phủ cũng quy định điều chỉnh mức lương tối thiểu theo hướng tăng lên đối với lao động Việt Nam làm việc cho doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, cơ quan, tổ chức nước ngoài, tổ chức quốc tế và cá nhân người nước ngoài tại Việt Nam, lao động làm việc ở công ty, doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ hợp tác, trang trại, hộ gia đình, cá nhân và các tổ chức khác của Việt Nam có thuê mướn lao động. Riêng với người lao động đã qua học nghề (kể cả lao động do doanh nghiệp tự dạy nghề), mức lương tối thiểu quy định cao hơn ít nhất 7% so với mức lương tối thiểu vùng. Ngoài ra, khoảng 1,8 triệu người về hưu và người hưởng trợ cấp bảo hiểm xã hội đã được tăng lương 20%, hơn 1,5 triệu người có công đã được điều chỉnh trợ cấp lên 20% so với mức chuẩn hiện hành. . 3.4. Kết quả tổng hợp đánh giá của các chuyên gia về mối quan hệ giữa lạm phát với lãi suất và các biện pháp kiềm chế lạm phát của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. 3.4.1. Ý kiến chuyên gia về mối quan hệ giữa lạm phát với lãi suất. Tựu chung lại các nhà nghiên cứu và các chuyên gia kinh tế đều khẳng định có một mối tương quan chặt chẽ giữa lạm phát và lãi suất. Nhưng mối quan hệ đó dừng lại ở mức độ nào thì còn tuỳ thuộc vào từng ý kiến chuyên gia. Dưới đây là một số luồng tư tưởng chủ đạo. Thứ nhất: Nhấn mạnh lãi suất là một công cụ để đối phó với lạm phát. Lãi suất là phí tổn, là nghĩa vụ tài chính mà người vay phải thực hiện với người cho vay trong các quan hệ tín dụng, đồng thời cũng là một trong các biểu hiện và thước đo giá trị của 1 đồng tiền quốc gia. Lãi suất nội tệ tùy thuộc vào chính sách tín dụng - đầu tư của Chính phủ, vào lượng cung - cầu ngoại tệ, vào tỷ giá chính thức, cũng như vào quy mô mở rộng thị trường vàng, bạc, đá quý trong nước. Về nguyên tắc, sự lên xuống mạnh của lãi suất là một tín hiệu và biểu hiện của một cuộc chấn động kinh tế, và khi đó hiệu quả của chính sách lãi suất sẽ bị suy giảm rất nhiều trong việc thực thi mục tiêu của chính sách tiền tệ.” Thứ hai : Đề cao vai trò của chính sách lãi suất thực dương Như chúng ta đã biết giá cả của hàng hoá được xác định bằng cung cầu thị trường...Khi lãi suất tăng lên thì đồng nghĩa với việc đồng tiền được coi trọng hơn hay tổng cung tiền tệ thấp hơn tổng cầu tiền tệ. Khi lãi suất thấp thì khuyến khích các nhà đầu tư dùng nhiều vốn cho đầu tư phát triển, nhưng khi nhu cầu đầu tư tăng lên sẽ kéo theo tăng lãi suất tiền tệ vì lúc này với một lượng cung tiền tệ nhất định mà tổng cầu sử dụng tiền tệ tăng lên đưa đến tiền tệ khan hiếm hay tổng cung tiền tệ bị thấp đi tương đối..Khi lãi suất thấp thì nhu cầu sử dụng đồng tiền tăng lên và tổng cung tiền tệ cao hơn tổng cầu tiền tệ, trong khi đó tổng cầu hàng hoá và dịch vụ tăng lên kéo theo tổng cung hàng hoá thấp hơn tổng cầu hàng hoá và dịch vụ. Kết quả này làm giá cả hàng hoá và dịch vụ tăng lên ( vì khan hiếm tương đối ) và nếu tiến trình này diễn ra đồng loạt thì kéo theo lạm phát. Lãi suất là giá của tiền tệ, lạm phát là sự mất giá của tiền tệ, vậy khi sử dụng đồng tiền một thời gian nhất định nào đó phải cho người ta nhận được lợi nhuận tính theo đồng tiền tức là lãi suất trừ đi lạm phát phải cho ta một số dương nào đó thì mới có thể nói là sử dụng đồng tiền hiệu quả. Nói cách khác lãi suất dương mới bảo toàn giá trị đồng tiền và lãi suất dương là một biện pháp quan trọng để chống lạm phát Thông qua hai quan điểm trên đây, có thể khẳng đinh các chuyên gia đều cho rằng lãi suất và lạm phát có mối liên hệ mật thiết với nhau. Trong đó lãi suất là một công cụ quan trọng để điều chỉnh tỷ lệ lạm phát và lạm phát sẽ lại là nhân tố quyết định mức lãi suất của thị trường tiền tệ. 3.4.2. Ý kiến chuyên gia về các biện pháp kiềm chế lạm phát của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Bàn về các biện pháp kiềm chế lạm phát của Việt Nam-một vấn đề rất nóng và quan trọng, hầu hết các chuyên gia đều đưa ra ý kiến khá thận trọng. Trong đó ý kiến chủ đạo là ủng hộ các biện pháp mà chính phủ và Quốc hội đưa ra. Nhưng cũng có không ít ý kiến trái chiều : Ý kiến thứ nhất : Nhận định rằng kiềm chế lạm phát ở nước ta là một công việc rất phức tạp. Nhiều chuyên gia nói rằng các biện pháp chống lạm phát thì đã có đầy trong các kho sách giáo khoa thế giới, chỉ cần có quyết tâm thì ta sẽ kiểm soát được lạm phát? E rằng nhận định này có thể không đúng ở nước ta. Khác với hầu hết các nước, lạm phát có thể được NHTW đánh đổi bằng mục tiêu tăng trưởng. Nhưng đối với Việt Nam, ngay cả khi chính phủ cũng nhượng bộ phần nào với mục tiêu không đạt được tăng trưởng bằng mọi giá - để kiềm chế lạm phát - thì vẫn còn đó nhiều khả năng để lạm phát có thể vượt ngoài tầm kiểm soát của chính phủ. Ý kiến thứ hai cho rằng lạm phát cao chủ yếu do tăng cung tiền và các biện pháp kiềm chế lạm phát của Việt Nam thiên về chính sách tiền tệ. Điều này hàm ý rằng chúng ta đeo đuổi một chính sách tiền tệ (CSTT) nới lỏng. Chính sách này có thể có tác dụng kích thích tăng trưởng kinh tế trong ngắn hạn. Nhưng trong trung hạn và dài hạn chính nó lại là yếu tố làm giảm tăng trưởng kinh tế do lạm phát cao thì lãi suất tăng lên, đầu tư giảm đi, hiệu quả của đầu tư cũng giảm. Một số ý kiến khác lại cho rằng ở nước ta, kiểm soát giá cả với kỳ vọng sẽ đạt được hai mục đích: Chống độc quyền và chống lạm phát. Về lý thuyết cũng như kinh nghiệm thực tế của thế giới đã cho thấy không thể chống độc quyền bằng kiểm soát giá vì bản chất của độc quyền là lợi dụng vị trí thống lĩnh thị trường để tăng giá, trên cơ sở kiểm soát cung hàng hoá. Vì vậy, không thể vừa duy trì độc quyền vừa kiểm soát giá cả mà về cơ bản phải xoá độc quyền, tăng cạnh tranh để ổn định giá. Còn việc kiểm soát giá để chống lạm phát chỉ có tác dụng nhất thời, bởi vì giá cả tăng kiểu lạm phát (tăng toàn tuyến) được quyết định bởi mức tăng tổng cầu cao hơn tổng cung. Chừng nào tổng cầu vẫn còn cao hơn nhiều so với tổng cung thì giá cả vẫn sẽ tiếp tục tăng, bất chấp kiểm soát giá kiểu gì, đó là quy luật của kinh tế thị trường... 3.5. Kết quả phân tích các dữ liệu thứ cấp. 3.5.1.Kết quả phân tích thực trạng mối quan hệ giữa lạm phát với lãi suất. Chính sách lãi suất có quan hệ trực tiếp theo tương quan tỷ lệ nghịch tới xu hướng và động thái lạm phát của một nước. Lãi suất càng thấp, đồng tiền càng ‘rẻ”, càng kích thích mở rộng đầu tư và tiêu dùng, do đó, càng làm tăng áp lực lạm phát tiền tệ và lạm phát cơ cấu. Vì vậy, khi lạm phát gia tăng, chính phủ nào cũng phải có chính sách đề cao bản tệ, mà tiêu biểu là tuân thủ chính sách lãi suất thực dương (lãi suất tiền cho vay lớn hơn lãi suất tiền gửi và lãi suất tiền gửi phải cao hơn mức lạm phát). Việc tăng lãi suất còn được sử dụng như một công cụ để bảo vệ tỷ giá hối đoái trước sự biến động nhanh chóng của các luồng vốn trên thị trường quốc tế và trước những thiếu hụt trong cán cân thanh toán quốc tế. Nâng lãi suất sẽ khuyến khích tiết kiệm cả trong đầu tư và trong tiêu dùng, hạn chế tích trữ - đầu cơ, làm tăng tiền gửi và sử dụng tiết kiệm các khoản vay, làm tăng cung và giảm cầu tín dụng, thu hẹp nhập khẩu. Mức lãi suất càng cao hơn mức lạm phát thì tác động tức thời của nó đến việc giảm phát càng rõ rệt. Tuy nhiên, lãi suất quá cao sẽ thu hẹp đầu tư xã hội, dẫn đến tăng đình trệ, suy thoái, thất nghiệp và phá sản. Ngoài ra, mức lãi suất cho vay cao "ở đầu vào" sẽ được người vay - doanh nghiệp tự động chuyển vào giá cả hàng hóa và dịch vụ "ở đầu ra", từ đó làm tăng mức giá xã hội chung, tức lại làm tăng lạm phát... Thêm nữa, nguyên tắc thị trường đòi hỏi tiền huy động được phải sinh lợi thông qua cho vay lại hoặc đầu tư, nếu không muốn gây áp lực lạm phát tương lai bởi gánh nặng nợ lãi huy động cho ngân hàng và ngân sách nhà nước. Đặc biệt, lãi suất cao còn có thể làm gia tăng lượng cung tiền từ nước ngoài, từ đó làm tăng áp lực lạm phát tiền tệ ngoại nhập. Điều này càng rõ nét và nguy hiểm trong bối cảnh tự do hoá tài chính cao theo cam kết hội nhập trong các tổ chức kinh tế quốc tế (vì nếu lãi suất cao thì dòng vốn nước ngoài đổ vào gửi hoặc cho vay trong nước càng cao nhằm hưởng chênh lệch lãi suất so với thị trường lãi suất khu vực và quốc tế). Vì thế, mức lãi suất thông thường trong nền kinh tế bình thường luôn được khuyến nghị tuân theo bất phương trình sau: L1<L2<L3<L4, trong đó: L1: mức lạm phát; L2: lãi tiền gửi; L3: lãi cho vay và L4: lợi nhuận bình quân xã hội trong cùng kỳ hạn lãi suất. Nhiệm vụ của Nhà nước là lựa chọn mức "trần" lãi suất hoặc sử dụng “lãi suất cơ bản” sao cho phù hợp điều kiện cụ thể và mục tiêu vĩ mô kinh tế - xã hội của mình, đồng thời, phải luôn tính đến và có những biện pháp khắc phục hậu quả mặt trái luôn song hành của cả việc nâng cao hay hạ thấp lãi suất, nếu không, sẽ vấp phải vòng xoáy mới của lạm phát tuỳ theo mức độ phản ứng cuả các chủ thể kinh tế. 3.5.2. Kết quả của các biện pháp kiềm chế lạm phát của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Nhóm 7 giải pháp của Chính phủ đưa ra vào những năm đầu quý I năm 2008. Sau một thời gian dài thực hiện đã thu được kết quả sau đây : Vượt xa những dự báo lạc quan nhất, chỉ số giá tiêu dùng (lạm phát) tháng 12 tiếp tục giảm tháng thứ 3 liên tiếp, giúp cho lạm phát cả năm 2008 chỉ dừng lại ở dưới 20%. Điều này tiếp tục khẳng định mục tiêu chống lạm phát đã đạt hiệu quả rõ rệt, và mục tiêu số một hiện nay là ngăn chặn suy thoái kinh tế. Số liệu vừa được Tổng cục Thống kê công bố sáng 25/12 cho biết, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 12/2008 giảm 0.68% so với tháng 11, và cả năm CPI tăng 19,89% so với tháng 12/2007. Tính bình quân, chỉ số giá tiêu dùng năm 2008 tăng 22,97% so với năm 2007. Tất cả 10 nhóm mặt hàng trong rổ hàng hoá đều tăng giá, trong đó nhóm giáo dục tăng giá thấp nhất, chỉ 4,16%; hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng cao nhất, tới 36,57%. Đặc biệt, chỉ duy nhất dịch vụ bưu chính viễn thông là nhóm nhỏ có sự giảm giá, với mức giảm tới 11,76% so với bình quân năm 2007. Bước sang năm 2009. tình hình tiếp tục có nhiều dấu hiệu khả quan . Sau khi công bố CPI của tháng 12 tăng ở mức 1,38% so với tháng trước, Tổng cục Thống kê đã công bố CPI cả nước nước năm 2009 tăng 6,88%. Đây là con số khả quan khi Chính phủ đặt mục tiêu kiềm chế lạm phát năm 2009 dưới 7%. Tuy nhiên vẫn còn nhiều lo ngại bởi xu hướng tăng giá nhanh của một số mặt hàng. Theo quy luật, giá cả một số mặt hàng thiết yếu thường tăng giá trước Tết nguyên đán. Mức tăng này đã đẩy chỉ số giá mặt hàng lương thực tháng 12 tăng 6,88 % so với tháng trước và tăng 4,57% so với năm 2008. Mặt hàng thực phẩm so với tháng trước không tăng mạnh nhưng so với năm 2008 lại có mức tăng cao 8,39%. Sức tăng của 2 mặt hàng này đã đưa chỉ số giá nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống trong tháng 12 tăng mạnh ở mức 2,06%. So với năm ngoái mức tăng này chênh cao 8,71%. Nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng bao gồm: tiền thuê nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tháng 12 cũng tăng ở mức 1,4%. So với năm 2008, mức tăng này thấp hơn so với một số nhóm hàng khác. Nhóm đồ uống, thuốc lá tăng 0,97%, nhóm may mặc, mũ nón, giầy dép tăng 0,81%. Một số nhóm khác có mức tăng không cao, đạt ở mức từ 0,07 đến 0,25% như nhóm văn hoá, giải trí, thiết bị và đồ dùng gia đình.. Một số chuyên gia nhận định, chỉ số giá năm 2009 đang nằm trong mức như mong đợi, tuy nhiên vẫn còn một số lo ngại bởi, so với cùng kỳ năm ngoái một số mặt hàng thiết yếu vẫn đang có xu hướng tăng cao, từ 8,53 đến 9,56% . Như vậy có thể thấy những thành công trong chính sách vĩ mô kiềm chế lạm phát của Chính phủ là đáng ghi nhận. Nó đã thể hiện được tính hợp lý và hiệu quả trong thực tiễn. Tuy nhiên đó đã là giải pháp tối ưu hay chưa? Nó còn những hạn chế nào? Chương 4 sẽ đi vào phân tích cụ thể hơn. Chương 4. Các kết luận, thảo luận và đề xuất về mối quan hệ giữa lạm phát với lãi suất và các biện pháp kiềm chế lạm phát ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. 4.1.Các kết luận và phát hiện qua việc nghiên cứu mối quan hệ giữa lạm phát với lãi suất và các biện pháp kiềm chế lạm phát ở Việt Nam. 4.1.1.Các kết luận và phát hiện thông qua việc nghiên cứu mối quan hệ giữa lạm phát với lãi suất. Xem xét toàn bộ diễn biến của lãi suất và lạm phát trong suốt quá trình phát triển kinh tế nước ta trong giai đoạn hiện nay có thể cho phép rút ra kết luận như sau: Lãi suất và lạm phát có mối quan hệ khăng khít với nhau : lãi suất là giá cuả tiền tệ nên lãi suất phải dương mới không làm đồng tiền mất giá. Muốn có lãi suất thực dương thì lãi suất danh nghĩa phải lớn hơn tỷ lệ lạm phát. Lãi suất thực dương tăng thì lạm phát giảm và lãi suất thực dương giảm thì lạm phát tăng. Nếu lãi suất thực dương quá cao sẽ dẫn đến thiểu phát và làm giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế. Đây là mối quan hệ nhân quả, cái này phát triển thì cái khác suy yếu và ngược lại. Để chống lạm phát thành công phải áp dụng chính sách lãi suất thực dương, đây là một nguyên tắc cứng trong điều hành nền kinh tế vì chỉ có thế này mới có thể thu hút được vốn vào hệ thống ngân hàng, giảm bớt tiền ngoài lưu thông thì đưa đến tổng cung tiền tệ trên thị trường nhỏ hơn tổng cầu tiền tệ và kết quả này là lạm phát giảm. Lãi suất thực dương quá cao dẫn đến làm giảm đầu tư phát triển và có nguy cơ rủi ro cao đối với an toàn của hệ thống ngân hàng vì lãi suất thực dương cao thì khả năng kinh doanh có hiệu quả để đủ lãi và trả được nợ của các doanh nghiệp cho ngân hàng là rất khó khăn. Nguy cơ phá sản và không trả được nợ cho các ngân hàng của các doanh nghiệp là rất có thể sảy ra nên các ngân hàng cũng nằm trong khả năng phá sản lớn. Trong điều hành chính sách kinh tế vĩ mô với mục tiêu nền kinh tế tăng trưởng cao, ổn định vơi tỷ lệ lạm phát ở mức vừa phải thì cần áp dụng lãi suất thực dưong, nhưng tỷ lệ lãi suất thực dương cần áp dụng ở đây không được quá cao mà ở mức tỷ lệ lãi suất thực dương với lạm phát khoảng 20%. Tuy nhiên, để điều hành mức này không bị sai lệch và lạc hậu khi tỷ lệ lạm phát thay đổi thì lãi suất danh nghĩa phải được điều chỉnh linh hoạt, thường xuyên, có khi một tháng một lần theo chỉ số giá tiêu dùng hàng tháng. Nguyên tắc lãi suất thực dương bằng 20% tỷ lệ lạm phát một cách ổn định, còn lãi suất danh nghĩa thì lên, xuống theo mức thay đổi của tỷ lệ lạm phát hàng tháng. 4.1.2. Các kết luận và phát hiện thông qua nghiên cứu các biện pháp kiềm chế lạm phát của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Phải kết hợp đồng bộ các chính sách về tiền tệ với chính sách tài khoá và chính sách tỉ giá để nâng cao hiệu quả đầu tư của kinh tế nhà nước, giảm bớt sức ép của chính sách tiền tệ đến hoạt động của các ngân hàng thương mại và doanh nghiệp, bảo đảm các doanh nghiệp có nguồn tín dụng để mở rộng đầu tư, làm cho việc chống lạm phát không ảnh hưởng nhiều đến tăng trưởng và việc làm. Thắt chặt tiền tệ: Các biện pháp dành cho chính sách thắt chặt tiền tệ hiện nay cần phải được áp dụng một cách linh hoạt. Xuất phát từ nhận định lạm phát thường xuất hiện khi lượng tiền trong lưu thông tăng, chúng ta cần hạn chế lượng tiền trong lưu thông bằng cách: Tăng lãi suất cho vay vốn và lãi suất tái chiết khấu và hạn chế mức tăng tín dụng. Quy định dự trữ bắt buộc hợp lí để vừa bảo đảm an toàn hệ thống đồng thời nâng cao được khả năng thanh khỏan trong hoạt động ngân hàng. Thêm nữa là việc phát hành tín phiếu và phân hạn mức mua cho các Ngân hàng Thương mại để rút bỏ bớt tiền khỏi lưu thông Chính sách tài khóa: Cần phải thực hiện từng bước kế hoạch giảm thâm hụt để tiến tới cân bằng ngân sách, vì đây cũng là một chỉ tiêu kinh tế vĩ mô quan trọng. Thắt chặt chi tiêu của chính phủ; kiểm soát chặt chẽ đầu tư công và đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước; giảm mạnh chi phí hành chính trong các cơ quan nhà nước nhằm giảm bớt sức ép về cầu nhất là các loại cầu không tạo ra hiệu quả. Với các dự án, cần loại bỏ những dự án đầu tư kém hiệu quả, thắt chặt những khoản chi chưa thực sự cần thiết nhưng tạo mọi điều kiện cho đầu tư tư nhân và đầu tư nước ngoài để thúc đẩy tăng trưởng. Sử dụng công cụ tỉ giá: Nên điều chỉnh tăng nhẹ VND so với USD. Điều này cũng phù hợp với việc đồng đô la Mỹ liên tục bị giảm giá so với các đồng tiền khác. Tăng nhẹ giá trị VND tuy có ảnh hưởng đến xuất khẩu nhưng không quá lớn. Tăng giá VND sẽ làm giá hàng nhập khẩu giảm, tăng nguồn cung, có tác dụng giảm mức tăng giá trên thị trường nội địa, nhất là trong điều kiện nhập khẩu hiện chiếm tỉ lệ cao trong GDP của nước ta. Tăng giá VND cũng góp phần kìm giữ giá luơng thực hiện đang tăng tăng cao và có khả năng còn tiếp tục tăng trước nhu cầu của thị trường thế giới. 4.2. Các thảo luận về những vấn đề đặt ra qua nghiên cứu. 4.2.1. Thảo luận về mối quan hệ giữa lạm phát với lãi suất. Trước hết chúng tôi xin khẳng định có một mối tương quan mật thiết giữa lạm phát với lãi suất. Thực tế cũng đã chứng minh điều này, khi nền kinh tế đang rơi vào tình trạng lạm phát tăng cao thì Nhà nước sẽ sử dụng chính sách nâng cao lãi suất để kiềm chế lạm phát. Và trong cuộc sống thường ngày, người dân sẽ so sánh giữa tỷ lệ lạm phát và lãi suất để quyết định chi tiêu hay tiết kiệm. Chỉ khi nào lãi suất thực dương thì việc gửi tiền vào Ngân hàng mới đem lại lợi nhuận. Nhưng mối quan hệ giữa hai biến số kinh tế quan trọng này không chỉ đơn giản như thế. Có thể thấy lãi suất là biến số kinh tế nhạy cảm, sự thay đổi của lãi suất sẽ tác động làm thay đổi hành vi sản xuất và tiêu dùng của xã hội. Về phương diện lý thuyết cũng như thực tiễn các nước đã chứng minh, sự thay đổi lãi suất thực sẽ có tác động nhạy cảm đến sản lượng và giá cả. Vì vậy NHTƯ đã rất coi trọng việc điều tiết lãi suất nhằm đạt được mục tiêu cuối cùng của CSTT là kiềm chế lạm phát và góp phần tăng trưởng kinh tế. Lãi suất tăng cao hơn sẽ phân phối lại thu nhập từ người vay tiền sang người gửi tiền. Điều này làm tăng sức chi tiêu của người tiết kiệm, nhưng sự chi tiêu này bị hạn chế bởi mức tiêu dùng cận biên (phần chi tăng thêm cho tiêu dùng trong mỗi giá trị thu nhập tăng thêm), do vậy người tiết kiệm có xu hướng tăng chi tiêu dùng thấp hơn sự hạn chế chi tiêu đầu tư của người đi vay, nhất là khi lãi suất tăng cao vượt tỷ suất lợi nhuận đầu tư và các danh mục đầu tư và dự án, làm thu nhập của người đi vay giảm. Do vậy, dẫn đến tổng chi tiêu giảm, GDP giảm. Mặt khác, đối với các hộ gia đình nắm giữ nhiều cổ phiếu, trái phiếu, lãi suất tăng sẽ làm giảm giá tài sản tài chính, do đó, giảm thu nhập, từ đó tạo sức ép giảm tiêu dùng của các hộ gia đình. Tuy nhiên, tác động của lãi suất đến hành vi tiêu dùng và sản xuất của xã hội nhiều hay ít, nhanh hay chậm tuỳ thuộc vào đặc điểm kinh tế xã hội của mỗi quốc gia, trong từng quốc gia thì mỗi giai đoạn phát triển của thị trường tài chính thì mức độ tác động của lãi suất cũng khác nhau. Đối với Việt Nam từ năm 2000-2007, tác động của lãi suất đến tăng trưởng và lạm phát có thể thấy được qua việc xem xét ảnh hưởng của lãi suất trên thị trường tiền tệ Việt Nam đối với hành vi của cá nhân và các doanh nghiệp, từ đó đánh giá ảnh hưởng của lãi suất đến tăng trưởng kinh tế và lạm phát. Ngược lại, lạm phát cũng có ảnh hưởng không nhỏ đến lĩnh vực tiền tệ nói chung và lãi suất nói riêng. Lạm phát làm cho quan hệ tín dụng, thương mại và ngân hàng bị thu hẹp. Số người gửi tiền vào ngân hàng giảm đi đáng kể. Về phía hệ thống ngân hàng, do lượng tiền gửi vào giảm mạnh nên không đáp ứng được nhu cầu của người đi vay, cộng với việc sụt giá của đồng tiền quá nhanh, sự điều chỉnh lãi suất tiền gửi không làm an tâm những người hiện đang có lượng tiền mặt nhàn rỗi trong tay. Về phía người đi vay, họ là những người có lợi lớn nhờ sự mất giá của đồng tiền một cách nhanh chóng. Do vậy, hoạt động của hệ thống ngân hàng không còn bình thường nữa. Chức năng kinh doanh tiền tệ bị hạn chế, các chức năng của tiền tệ không còn nguyên vẹn bởi khi có lạm phát thì chẳng có ai muốn tích trữ của cải dưới hình thức tiền mặt. 4.2.2. Thảo luận về các biện pháp kiềm chế lạm phát của Chính phủ. Nhà kinh tế học Milton Friendman cho rằng: “ Lạm phát bao giờ và ở đâu cũng là một hiện tượng tiền tệ”, tuy nhiên không có nghĩa là để kiềm chế lạm phát hiện nay, không thể chỉ trông chờ vào chính sách tiền tệ, mà phài là một hệ giải pháp mang tính chất đồng bộ. Chính sách tiền tệ: Đối với chính sách này, chúng ta cần phải xác định, điều hành và kiểm soát tốc độ tăng trưởng phương tiện thanh toán và cung ứng tín dụng ở mức hợp lý. Trên cơ sở đó áp dụng chính sách tiền tệ một cách thích hợp, thậm chí là chấp nhận lãi suất dương. Hạn chế tình trạng khát vốn giả tạo và phát triển tín dụng xấu, đồng thời chủ động mua ngoại tệ dự trữ đi liền với các biện pháp hút tiền về nhằm vô hiệu lượng tiền vào và lượng tiền ra mua ngoại tệ cho vay kinh doanh bất động sản và chứng khoán. Giải pháp mới là phát hành trái phiếu ngoại tệ trong nước, không chỉ là trái phiếu của Chính phủ mà còn cho phép các tập đoàn kinh tế, các doanh nghiệp có uy tín có nhu cầu ngoại tệ chính đáng, được phép phát hành để huy động ngoại tệ trôi nổi trong nền kinh tế và cả lượng ngoại tệ mà các ngân hàng thương mại đang coi là thừa. Biện pháp này có tác dụng kép: vừa hút được USD về, vừa tránh đưa tiền đồng ra lưu thông, vừa ổn định được tỷ giá. Vấn đề đặt ra là cần có một mức lãi suất trái phiếu đủa sức hấp dẫn và phải sử dụng có hiệu quả lượng USD thu được từ trái phiếu. Hiện nay, Ngân hàng nhà nước đang thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ bằng cách tăng lãi suất cơ bản thêm 2%, và cho các ngân hàng tự ấn định lãi suất huy động , tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc nhằm giảm lượng cung tiền trên thị trường. Nhưng dường như chưa có tác động mạnh đối với sự tăng lên của mức giá, đây cững có thể do độ trễ của chính sách, tuy nhiên điều này đòi hỏi cần kết hợp nhiều chính sách đồng bộ, không thể chỉ trông chờ vào chính sách tiền tệ. Chính sách từ phía Bộ tài chính: Bộ tài chính tiếp tục duy trì chính sách tài chính trong việc điều hành thu chi ngân sách, mức bội chi ngân sách trong giới hạn mà Quốc hội cho phép, đồng thời kiểm soát chặt chẽ chi tiêu thường xuyên, đầu tư xây dựng cơ bản. Kiên quyết cắt giảm các dự án đầu tư không triển khai theo kế hoạch. Tiếp tục phát hành trái phiếu kho bạc, trái phiếu công trình giao thông thủy lợi theo kế hoạch được duyệt. Thực hiện lộ trình giá trị thị trường, khuyến khích cạnh tranh về giá đi liền với kiểm soát độc quyền và áp dụng chính sách hỗ trợ hợp lý đối với các đối tượng sản xuất, bộ phận dân cư nghèo, các đối tượng chính sách. Hiện nay, một trong những giải pháp kiềm chế lạm phát đó là cắt giảm 25% vốn trái phiếu Chính phủ, tuy nhiên đây lại là nguồn đầu tư cho giao thông, thủy lợi, những công trình cấp bách và cho y tế tuyến huyện và giáo dục, nếu chúng ta không cẩn trọng trong việc cắt giảm vốn trái phiếu Chính phủ thì sẽ cắt giảm đúng vào những vấn đề thuộc về an sinh xã hội. Về vấn đề cắt giảm chi tiêu công bao gồm chi đầu tư và chi thường xuyên, Chính phủ đã thống nhất cắt giảm 10% chi tiêu công, tuy nhiên cần đưa ra tiêu chí rõ ràng để sàng lọc các dự án cần cắt giảm, không thề áp đặt buộc giảm cái này hay cái kia mà cần rà soát từ các địa phương phụ thuộc vào từng yêu cầu cụ thể ví dụ như phụ thuộc vào yếu tố vùng miền. Nhóm giải pháp tăng cung hàng hóa và dịch vụ: Như đã phân tích ở trên các nhóm giải pháp kiềm chế lạm phát tác động tới tổng cầu đang tỏ ra kém hiệu quả bởi tác động trực tiếp tới mục tiêu tăng trưỏng kinh tế. Vì vậy, trong dài hạn cần có các chính sách tác động từ phía cung. Thứ nhất, hỗ trợ và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở khu vực tư nhân, cả về thể chế kinh tế lẫn ưu đãi tín dụng. Khi khu vực nhà nước bị thu hẹp tương đối, sức ép lạm phát sẽ giảm. Thứ hai, tiếp tục phát triển các thể chế hỗ trợ thị trường nhằm giúp thị trường vận hành tốt hơn. Thứ ba, việc nới lòng từ từ giá trị đồng USD nên được đi liền với các chính sách tái cấu trúc nền kinh tế, giúp doanh nghiệp tăng sức cạnh tranh bằng chất lượng thay vì cạnh tranh bằng giá. Việc tăng lương cơ bản đi liền với tỷ giá USD giảm, tất yếu sẽ khiến lao động Việt Nam đắt lên tương đối. Để đối phó với tình huống này trong dài hạn, cần có các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng lao động để tăng sức cạnh tranh thông qua kỹ năng lao động cao chứ không phải chỉ chờ vào lao động giá rẻ. 4.3. Các dự báo triển vọng về việc vận dụng mối quan hệ giữa lạm phát với lãi suất trong việc thực hiện các mục tiêu kinh tế của Nhà nước và về việc hoàn thiện các biện pháp kiềm chế lạm phát ở Việt Nam. 4.3.1. Các dự báo triển vọng về việc vận dụng mối quan hệ giữa lạm phát với lãi suất trong việc thực hiện các mục tiêu kinh tế của Chính phủ. Thông qua quá trình đi sâu vào tìm hiểu nghiên cứu, chúng ta đã có thể nắm bắt được phần nào mối tương quan giữa lạm phát và lãi suất. Qua đó có thể vận dụng để phục vụ cho các mục tiêu vĩ mô của chính phủ. Trước hết vì lạm phát và lãi suất có mối quan hệ trực tiếp với nhau và biểu hiện của mối quan hệ này đã được trình bày trong phần lý thuyết về hiệu ứng Fisher nên đây sẽ là một dấu hiệu tốt cho việc quyết định mức lãi suất cơ bản của NHNN. Như đã phân tích thì chính sách lãi suất thực dương là biện pháp quan trọng để chống lạm phát, nên dự báo đây sẽ tiếp tục là một công cụ quan trọng trong tương lai nhằm hỗ trợ NHNN quy định các mức lãi suất của mình sao cho lãi suất thực luôn đảm bảo lớn hơn không. Mặt khác, lãi suất sẽ tiếp tục là một công cụ quan trọng trong các chính sách tiền tệ của Chính phủ. Trong tương lai, khi mà nền kinh tế thị trường phát triển ngày càng mạnh, các doanh nghiệp Nhà nước dần được cổ phần hoá thì sự đóng góp của chi tiêu Chính phủ trong GDP sẽ giảm dần cùng với sức mạnh của các chính sách tài khoá. Khi đó chính sách tiền tệ sẽ trở thành mũi nhọn hàng đầu trong việc ổn định vĩ mô nền kinh tế. Cùng với đó là diễn biến khôn lường của lạm phát, gây hậu quả nghiêm trọng cho sự phát triển kinh tế đất nước đòi hỏi các biện pháp kiềm chế thật sự hiệu quả và nhanh chóng. Và lãi suất sẽ là “liều thuốc “ tối ưu trong việc ổn định vĩ mô nền kinh tế cũng như trong công cuộc kiềm chế lạm phát. 4.3.2. Các dự báo về các biện pháp kiềm chế lạm phát của Việt Nam trong thời gian tới. Trong thời gian tới, theo các chuyên gia đánh giá thì tình hình lạm phát trong nước sẽ có nhiều biến động mà xu hướng chủ yếu là lạm phát sẽ gia tăng. Lạm phát Việt Nam có nguồn gốc từ chiến lược tăng trưởng chạy theo số lượng bắt đầu từ những năm 2000 đến 2008. Đỉnh điểm đến vào năm 2008 với lạm phát 28%. Nói đến dự báo lạm phát những năm sau này, phải đặt nó trong mối nhân quả giai đoạn 2000-2008 mới thấy hết những rủi ro khôn lường. Rất may cho Việt Nam là những sai lầm trong chiến lược tăng trưởng méo mó và do đó dẫn đến lạm phát phi mã của thập niên đã tạm thời được che đậy bởi cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Sang năm 2010, khi kinh tế toàn cầu phục hồi rõ hơn, lạm phát có "quán tính" từ thập niên trước sẽ chuyển dần sang những năm sau đó - trừ phi ta có những thay đổi mang tính bước ngoặt trong thể chế. Bởi vậy trong thời gian tới rất có thể các biện pháp kiềm chế lạm phát của Chính phủ sẽ phải cải thiện để phù hợp hơn với tình hình thực tế. Chúng tin xin đưa ra một số dự báo như sau : Thứ nhất, tập trung tăng năng lực sản xuất trong nước mà trọng tâm hàng đầu là tăng cường đầu tư để nâng cao trình độ công nghệ của nền kinh tế. Các chính sách của Nhà nước phải hỗ trợ, khuyến khích doanh nghiệp đầu tư cho khoa học và công nghệ; các ngân hàng thương mại phải dành ưu tiên cho các khoản vay để nâng cao trình độ công nghệ và doanh nghiệp phải coi hoạt động đổi mới là vấn đề sống còn của mình. Thứ hai, phải luôn luôn duy trì sự phối, kết hợp chặt chẽ giữa chính sách tiền tệ và tài khoá trong điều hành nền kinh tế. Trước mắt, cả hai chính sách cần tập trung vào mục tiêu cắt giảm lạm phát. Trong thời gian tới, cần xây dựng lộ trình thực hiện chính sách lạm phát mục tiêu và nguyên tắc cân đối thu chi ngân sách. Tăng cường hơn nữa vai trò của Ngân hàng Nhà nước bởi hai lý do: (1) trong điều kiện nền kinh tế mở và tỷ giá ngày càng nới lỏng theo cơ chế thị trường, chính sách tiền tệ ngày càng có tác động mạnh mẽ hơn đến các chỉ số kinh tế vĩ mô của nền kinh tế; (2) để tiến tới thực hiện chính sách lạm phát mục tiêu, Ngân hàng Nhà nước phải thực sự có quyền hạn độc lập trong việc điều hành chính sách tiền tệ quốc gia. Thứ ba, các chính sách của Nhà nước, nhất là chính sách tiền lương phải cần nghiên cứu kỹ lưỡng để đưa ra cách thực hiện phù hợp, nhằm định hướng cho dân chúng có kỳ vọng hợp lý, nhất là đối với vấn đề giá cả . 4.4. Các đề xuất, kiến nghị về việc vận dụng mối quan hệ giữa lạm phát với lãi suất trong việc thực hiện các mục tiêu kinh tế và về các biện pháp kiềm chế lạm phát của Chính phủ trong giai đoạn hiện nay. 4.4.1. Các đề xuất, kiến nghị về việc vận dụng mối quan hệ giữa lạm phát với lãi suất trong việc thực hiện các mục tiêu kinh tế của Chính phủ. Trong điều hành chính sách kinh tế vĩ mô với mục tiêu nền kinh tế tăng trưởng cao, ổn định với tỷ lệ lạm phát ở mức vừa phải thì phải áp dụng lãi suất thực dương nhưng không quá cao. Tuy nhiên, để điều hành mức này không bị sai lệch và lạc hậu khi tỷ lệ lạm phát thay đổi thì lãi suất danh nghĩa phải được điều chỉnh linh hoạt, thường xuyên, có khi một tháng một lần theo chỉ số giá hàng tiêu dùng hàng tháng. Nguyên tắc, lãi suất thực dương bằng 20% tỷ lệ lạm phát một cách ổn định, còn lãi suất danh nghĩa thì lên, xuống theo mức thay đổi của tỷ lệ lạm phát hàng tháng. Tình hình thực tế cho thấy lãi suất cho vay nên ở mức 14-15% thì hợp lý vừa cao hơn mức lạm phát 2007 (12,63%) để kiềm chế lạm phát vừa bảo đảm cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có thể chịu đựng được. Trong thời gian tới, Chính phủ có thể xem xét áp dụng một số giải pháp sau: Một là, mặc dù là nền kinh tế thị trường, nhưng trong thời điểm lạm phát cao như hiện nay giải pháp khống chế trần lãi suất cho vay là cần thiết. Cũng có thể khống chế mức chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động ở mức 2-2,5%. Điều này vẫn đảm bảo các NHTM có lợi nhuận cao vì họ có thể tổ chức lại bộ máy, giảm chi phí sản xuất, kinh doanh và tăng các hoạt động dịch vụ ngân hàng khác.  Hai là, cần có chính sách kiểm soát chặt chẽ các NHTM cổ phần để khống chế việc các ngân hàng này cố tình đẩy lãi suất cho vay lên cao. NHNN phải kiểm soát các dự án, công trình vay vốn với lãi suất cao về tính hiệu quả, tính khả thi, khả năng trả nợ, tránh xẩy ra sự đổ bể sau này. Kiểm tra và khống chế hạn mức tín dụng của các NHTM cổ phần, dư nợ tín dụng trên vốn để bảo đảm các ngân hàng này hoạt động, làm ăn lành mạnh. Thứ ba, kiểm tra, kiểm soát và hạn chế việc cho vay kinh doanh và đầu cơ có bất động sản và kinh doanh chứng khoán. Bảo đảm dư nợ tín dụng ở các loại hình này thấp, trong tầm kiểm soát được khi nền kinh tế có biến động. Thứ tư, hạn chế và không cho vay tái cấp vốn đối với những NHTM đã có mức dư nợ tín dụng cao gần mức khống chế của nhà nước 30%. Đồng thời không cho vay tái cấp vốn đối với các NHTM cổ phần có tỷ lệ cho vay kinh doanh bất động và chứng khoán cao. Lãi suất là giá của tiền tệ, lạm phát là sự mất giá của tiền tệ. Do vậy, khi đồng tiền được sử dụng một thời gian nhất định nào đó nó phải cho người sử dụng nhận được lợi nhuận nhất định tính theo đồng tiền, tức là lãi suất trừ đi lạm phát phải cho người sử dụng một số dương nào đó thì mới có thể nói sử dụng đồng tiền hiệu quả. Nói cách khác, lãi suất thực dương là sự bảo toàn giá trị đồng tiền và lãi suất dương là giá thực tế của đồng tiền. Việc áp dụng chính sách lãi suất thực dương là một biện pháp quan trọng để chống lạm phát. 4.4.2.Các đề xuất, kiến nghị về các biện pháp kiềm chế lạm phát của Chính phủ Thứ nhất : Các biện pháp kiềm chế lạm phát của Chính phủ còn thiếu một PR chính phủ. Khi đưa ra các chính sách mới, Chính phủ phải cử người giải thích cho công chúng biết rõ lợi hại của chính sách đó thế nào, tác động đến đời sống người dân ra sao. Như thế chính sách của Chính phủ sẽ tăng được tính hiệu quả do nhận được sự ủng hộ một cách chủ động của người dân. Điều này sẽ làm giảm thiểu tình trạng người dân bị bất ngờ hay hoang mang, gây những ra những phản ứng bất lợi cho nền kinh tế. Thứ hai : Tiếp tục thực hiện chính sách tiền tệ một cách chặt chẽ, thận trọng; sử dụng linh hoạt và hiệu quả các công cụ chính sách tiền tệ, xem xét việc tăng dự trữ bắt buộc, tiếp tục áp dụng biện pháp mua tín phiếu NHNN bắt buộc đã công bố, kiểm soát tốc độ tăng tín dụng và tổng phương tiện thanh toán một cách hợp lý, trong đó mức tăng trưởng tín dụng tối đa 30%, kiểm soát cho vay bất động sản, kinh doanh chứng khoán và cho vay tiêu dùng. Thứ ba : Thực hiện việc mua ngoại tệ của các nhà đầu tư trên cơ sở nguồn cung ứng đã được Chính phủ phê duyệt một mặt để bổ sung dự trữ ngoại hối nhà nước, mặt khác nhằm đáp ứng đủ vốn cho các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu.Tiếp tục điều hành tỷ giá giữa đồng tiền Việt Nam với đô la Mỹ và ngoại tệ mạnh khác theo hướng căn cứ vào cung cầu trên thị trường, với biên độ giao động ±2%.  Thứ tư : Nghiên cứu triển khai phát hành Trái phiếu Chính phủ trong nước bằng đồng tiền Việt Nam, Trái phiếu Chính phủ bằng ngoại tệ để hạn chế tình trạng đô la hóa trong nền kinh tế, hút bớt tiền nhàn rỗi về, giảm áp lực lạm phát và tăng dự trữ quốc gia hoặc đầu tư ra nước ngoài. Thứ năm : Các giải pháp chính sách tài chính, tiền tệ, tín dụng phải tiếp tục tạo điều kiện phát triển lành mạnh thị trường bất động sản. Cần áp dụng các giải pháp chống đầu cơ bất động sản thông qua việc kiểm soát tín dụng, chính sách thuế, kết hợp với những biện pháp hành chính cần thiết . 4.4. Những hạn chế và vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu mối quan hệ giữa lạm phát với lãi suất và các biện pháp kiềm chế lạm phát ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. 4.4.1. Những hạn chế nghiên cứu. Chưa khái quát được mối liên hệ giữa lạm phát và lãi suất dưới dạng một quy luật cụ thể. Điều này làm cho công tác dự báo đánh giá gặp nhiều khó khăn. Chưa xác định được các mức ảnh hưởng của lãi suất đến lạm phát. Các đánh giá chỉ mang tính tương đối. Phân tích các biện pháp kiềm chế lạm phát còn mang tính chủ quan, chưa đưa ra được chứng thực cho các kết luận. 4.4.2. Các vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu mối quan hệ giữa lạm phát với lãi suất và các biện pháp kiềm chế lạm phát. Tiếp tục làm rõ mối quan hệ giữa lạm phát với lãi suất thông qua nghiên cứu thực tế và khái quát thành quy luật biểu hiện cụ thể. Tìm ra các mức lãi suất thích hợp để vừa có tác dụng kích thích đầu tư, lại vừa là công cụ hữu hiệu kiềm chế lạm phát. Nghiên cứu và bổ sung các biện pháp kiềm chế lạm phát của Chính phủ, làm cho nó trở nên thực sự tối ưu, hiệu quả trong cuộc chiến chống lạm phát. Đề xuất mức lạm phát hợp lý phù hợp với mục tiêu tăng trưởng và ổn định vĩ mô kinh tế. KẾT LUẬN Nắm bắt được quy luật biến động giữa lạm phát và lãi suất sẽ giúp chính phủ điều hành nền kinh tế một cách hiệu quả hơn. Xuất phát từ nhu cầu của nền kinh tế, đề tài đã đưa ra một số đề xuất đóng góp một phần nhỏ cho hệ thống các giải pháp về kiềm chế lạm pháp – vấn đề nóng bỏng không chỉ của một bộ phận, một ngành hay một lĩnh vực kinh tế mà là của toàn xã hội. Việc nghiên cứu mối quan hệ giữa lạm phát với lãi suất và các biện pháp kiềm chế lạm phát thông qua các lí thuyết, các mô hình đã giúp chúng em phần nào hiểu được tầm quan trọng của chúng trong nền kinh tế, có một cách nhìn tổng hợp hơn để từ đó có thể rút ra được những bài học, những kinh nghiệm đối với bản thân.  DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO : Giáo trình kinh tế học vĩ mô – NXB Giáo dục Giáo trình kinh tế học – trường ĐH Kinh tế quốc dân www.vietbao.vn www.vneconomy.com.vn www.tailieu.vn www.gso.gov.vn www.vietnamnet.vn www.sbv.gov.vn Nghị quyết số 10/2008/NQ – CP ngày 17/4/2008 của chính phủ Lê Quốc Lý.Lạm phát-hành trình và giải pháp chống lạm phát của Việt Nam. NXB Tài Chính 2005. Giáo trình Nhập môn tài chính tiền tệ.ĐH Thương Mại. David Begg. Kinh tế học. NXB Thống kê 2008. Nguyễn Văn Công. Bàn về tỷ lệ lạm phát tối ưu ở Việt Nam. Tạp chí Tài chính. Số 3. 2005 PHỤ LỤC . Biểu 1:Tốc độ tăng GDP và lạm phát Bảng 2: tốc độ tăng GDP và lạm phát Năm 2004 2005 2006 2007 2008 GPD(%) 7.79 8.44 8.17 8.48 7.2 Lạm phát (%) 9.4 8.3 7.5 12.6 19.4 Nguồn : Tổng cục thống kê Đồ thị 3:       Diễn biến lãi suất LIBOR kỳ hạn qua đêm (Từ 12/9/2008 đến 12/01/2009) Nguồn : NHNN Bảng 4: Chỉ số giá tiêu dùng 3 tháng đầu năm 2008 so với cùng kỳ các năm trước và so với tháng 12 của các năm trước (100%) Năm CPI so với tháng trước CPI so với tháng 12 năm trước tháng 1 tháng 2 tháng 3 tháng 1 tháng 2 tháng 3 2004 101.1 103.0 100.8 101.1 104.1 104.9 2005 101.1 102.5 100.1 101.1 103.6 103.7 2006 101.2 102.1 99.5 101.2 103.3 102.8 2007 101.05 102.17 99.78 101.5 103.24 103.02 2008 102.38 103.56 102.99 102.38 106.02 109.19 Nguồn : Tổng cục thống kê.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docdt_nckh_3204.doc
Tài liệu liên quan