Đề tài Phân tích những ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính trước tiên đối với những nước trong khu vực Châu á,

Nhìn chung cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực cho đến nay đã giảm nhưng chưa phải là đã chấm dứt. Từ thực tế cuộc khủng hoảng người ta sẽ tìm ra được nguyên nhân và có biện pháp khắc phục trong thời gian tới. Cũng qua cuộc khủng hoảng này những vấn đề yếu kém của nền kinh tế trong lĩnh vực tài chính tiền tệ sẽ được nhận biết để sửa chữa. Việt nam là một trong những nước chịu các động cuộc khủng hoảng với mức độ không lớn lắm. Những điều chỉnh trong chính sách kinh tế thời gian vời qua đã hạn chế đến mức tối đa những tác động tiêu cực. Việt nam là một nước đi sau và các lợi của nước đi sau là nhìn vào các nước đi trước để rút ra những bài học xương máu cho mình. Rồi từ đó sẽ lần tìm ra những bước đi thích hợp với hoàn cảnh. Để đạt được những giải pháp nói trên. Việt nam là nước đi sau lên phải đi lên bằng con đường thực lực của mình, như trong nghị quyết TW IV của Đảng đã khẳng định phát huy nội lực là nhân tố quan trọng nhất.

doc30 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1229 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phân tích những ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính trước tiên đối với những nước trong khu vực Châu á,, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu Có thể nói, cuộc khủng hoảng Tài chính tiền tệ khu vực Châu á là sự kiện nổi bật nhất trong năm 1997. Tính đến nay, cuộc khủng hoảng này đã diễn ra hơn một năm và chưa có dấu hiệu chấm dứt. Cuộc khủng hoảng Tài chính tiền tệ đã bao trùm bầu trời Đông Nam á và Đông á nổ ra vào khoảng tháng 7/1997 đến nay, gây chấn động trên phạm vi thế giới, thu hút sự quan tâm chú ý của những nhà lãnh đạo quốc gia cũng như đông đảo những người dân bình thường ở Việt nam. Với điểm xuất phát là Thái Lan, khi ngân hàng Thái Lan chính thức tuyên bố thả nổi đồng Bath đồng tiền Thái Lan lập tức giảm 5 - 7% đến 20%, cuộc khủng hoảng Tài chính tiền tệ đã kéo theo những sự kiện quốc tế lớn chứng minh vai trò của các thế lực tài chính quốc tế và khu vực trong quá trình toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới hiện nay. Quá trình toàn cầu hoá, khu vực hoá nền kinh tế đang đi vào sâu rộng dần tới vấn đề ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng Tài chính tiền tệ Chân á là tất yếu. Khi kinh nghiệm cho thấy để ngăn chặn mức tàn phá nặng nề và nhanh chóng của các cuộc khủng khoảng tiền tệ trước đây, Chính phủ các nước đã phải chấp nhận những tốn kém về tiền của, công sức rất lớn. Do vậy, rất cần thiết phân tích những ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính trước tiên đối với những nước trong khu vực Châu á, hay nói cách khác việc nhận dạng rõ vấn đề này để đưa ra những bài học và hoàn chỉnh các biện pháp chiến lược, ngăn ngừa, phòng tránh ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng đối với nền kinh tế Việt nam hiện nay ngày càng bức thiết. Phần I diễn biến Cuộc khủng hoảng Tài chính tiền tệ khu vực Châu á 1. Diễn biến ở Thái lan: Có thể nói Thái Lan là nơi châm ngòi cho cuộc khủng hoảng Tài chính tiền tệ trong khu vực với dấu mốc ngày 2/7/1997 khi Ngân hàng trung ương Thái Lan tuyên bố thả nổi đồng bath. Ngay sau khi đồng bath giảm giá (15 - 20% so với USD) với mức thấp nhất 32 bath/1USD kể từ 20 năm trở lại đây, kéo theo phản ứng giảm giá dây chuyền đối với các đồng tiền trong khu vực như: đô la Xingapore giảm giá 5%. pê xô Philipin 9 - 10% ...Mặc dù Thái Lan cách đây không lâu đã được coi là một trong những nước ASEAN có tốc độ phát triển ‘thần kỳ’, nhưng theo các nhà phân tích kinh tế thì những nguy cơ tiềm ẩn và cũng là nguyên nhân chính dẫn tới cuộc khủng hoản Tài chính tiền tệ tại Thái Lan đã có từ lâu. Đó là khủng hoảng Tài chính tiền tệ và cơn sóng ngầm đầu cơ phá giá đồng Bath của Thái Lan. Trước hết phải kể đến chiến lược phát triển kinh tế có phần thiên lệch của Chính phủ Thái Lan, không duy trì được thế cân bằng giữa các chính sách kinh tế vĩ mô, hệ thống Tài chính Ngân hàng không được phát triển tương ứng dẫn tới tốc độ tăng trưởng kinh tế giảm (từ 9% năm 1995 xuống còn 6,4% năm 1996 ) nợ nước ngoài tăng quá lớn so với dự trữ ngoại tệ ( nợ 90 tỷ USD, trong đó nợ ngắn hạn chiếm tới 40% ). Việc đầu tư ồ ạt vào bất động sản dẫn tới hậu quả tỷ lệ phòng trống của các nhà cao ốc văn phòng và khu nhà ở lên tới 20%. Điều này đã gây khó khăn lớn cho các nhà đầu tư bất động sản dẫn tới hậu quả tỷ lệ phòng trống của các cao ốc văn phòng và khu nhà ở lên tới 20%. Điều này đã gây khó khăn lớn cho các nhà đầu tư bất động sản phải trả nợ ngân hàng khi lãi xuất lại đang ở mức cao (thời điểm này, các Công ty tài chính và ngân hàng Thái Lan năm tới 30 tỷ USD các khoản vay không trả được của các công ty). Đồng thời Thái Lan dựa chủ yếu vào danh mục đầu tư ngắn hạn của nước ngòai mà phần lớn trong số này được thông qua các ngân hàng trong nước và các công ty tài chính. Như vậy các khoản vay càng trở thành gánh nặng không chịu nổi với Thái Lan. Mặt khác việc Chính phủ Thái Lan giữ cố định tỷ giá đồng bath đối với đồng đô la Mỹ trong suốt 13 năm qua khiến đồng bath trở nên kém linh hoạt và gây cản trở đối với các nhà xuất khẩu. Đồng bath lên giá đã làm cho hàng hoá của Thái Lan trở nên quá đắt trên thị trường trường Châu Âu và kể từ giữa năm 1995 khi đồng bath lên giá theo với đồng USD đã làm Thái Lan mất đi hàng tỷ USD đầu tư trực tiếp của nước ngoài. Như vậy từ việc mua sản pẩm và dịch vụ nước ngoài nhiều hơn là thu nhập từ xuất khẩu và đầu tư, Thái Lan trở thành nước có mức thâm hụt tài khoản vãng lai cao nhất thế giới (8% so với GDP năm 1996). Theo phân tích cho thấy chính sách quản lý ngoại hối của Thái Lan tương đối tự do, cơ chế chuyển đổi ngoại tệ đồng bath khá dễ dàng, do đó tạo điều kiện cho các luồng vốn nước ngoài đổ vào hoặc chảy ra bất cứ lúc nào theo ý kiến của các nhà đầu tư. Chính vì vậy, khi có biến động trên thị trường Tài chính tiền tệ, luồng vốn ngoại tệ chuyển ra ngoài tăng mạnh, đã kéo theo đồng Bath xuống giá. Bối cảnh này càng thúc đẩy giới đầu cơ trong và ngoài nước muốn phá giá đồng Bath để kiếm lợi nhuận do chênh lệch tỷ giá. Hơn nữa từ những năm trước, giới đầu cơ tiền tệ đã có xu hướng chú trọng nhiều vào các đồng tiền ASEAN ( mà đồng Bath là mục tiêu đầu tiên) nên tới thời điểm này họ đã đồng loạt bán các đồng tiền này ra (ước tính 10 - 15 tỷ USD ) để kiếm lời về giá cả. Cho nên việc tuyên bố phá giá ở Ngân hàng trung ương Thái Lan chẳng qua cũng chỉ là giải pháp cuối cùng nhằm cứu vãn tình thế, nhưng trên thực tế lại góp phần đẩy tỷ giá USD/bath tăng thêm. Trước tình hình đó, Chính phủ Thái lan đã phải công bố những giải pháp ưu tiên hàng đầu. Đó là sát nhập một số công ty tài chính với nhau (có số vốn ít nhất là 7,5 tỷ bath) và dùng quỹ của Ngân hàng trung ương Thái Lan để cứu vãn tình trạng của khoảng 91 công ty có số nợ trên 200 triệu bath. Chính phủ Thái Lan cũng kêu gọi sự giúp đỡ về mặt tài chính của các quốc gia trong khu vực và IMF để có được ít nhất là 10 tỷ USD giải quyết cuộc khủng hoảng Tài chính tiền tệ trầm trọng này. Tất nhiên cuộc khủng hoảng này tác hại của nó không chỉ giới hạn trong nền kinh tế Thái lan mà còn nhanh chóng lan sang các nước khác như Malaysia, Indonesia, Philipin ... và đến nay hậu quả của nó đã ảnh hưởng đến thị trường trường Tài chính tiền tệ nhiều nước Châu á, cũng như có những ảnh hưởng nhất định tới các thị trường tài chính Châu Âu, Bắc Mỹ. 2. ảnh hưởng tới một số nước - ảnh hưởng đến Philippin : Với những khó khăn nội tại của nền kinh tế nhất là việc thâm hụt lớn trong cán cân vãng lai(13% GDP ) và tác động khủng hoảng từ Thái Lan, vào cuối tháng 6 đầu tháng 7/ 1997 , Ngân hàng trung ương Philippin đã bỏ ra khoảng 2 tỷ USD để bảo vệ đồng Peso. Ngày 1/7/1997 tỷ giá Peso/USD = 26,37 . Cũng như Thái Lan do không chịu được sức ép quá lớn, ngày 7/7/1997 Ngân hàng trung ương Philippin đã công bố nới rộng biên độ giao động tỷ giá đồng Peso so với USD mà thực chất là sự phá giá đồng tiền không chính thức như ở Thái Lan. Dự trữ ngoại tệ của Philippin vào tháng 4/1997 chỉ có ở mức 16,3 tỷ USD. Đây quả là ít ỏi để bảo vệ giá trị đồng Peso. Sau khi nới rộng tỷ giá, tỷ giá đồng Peso so với USD tăng lên 28,1 Peso/ USD và đạt đỉnh cao vào cuối tháng 9/1997 với 34, 2 Peso /1USD. Đến nay tỷ giá vào khoảng 46 Peso/ USD và tỷ lệ mất giá của đồng Peso là 45% so với cuối tháng 6/1997. - ảnh hưởng đến Alayxia : Năm 1996, một năm thành công đối với nền kinh tế nước này. Đồng Ringgit đã mạnh lên với mức 2,53 RM/USD vào giữa quý I/1997 tỷ giá RM/USD = 2,48, nguyên nhân của sự tăng giá nàylà do sự tăng lên của các nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài và do tình hình kinh tế được cải thiện và củng cố. Nhu cầu đồng Ringgit tăng lên. Tuy nhiên, vào giữa tháng 4/1997 có thông tin cho rằng Ngân hàng Negra Malaysia (BNM) đã can thiệp vào thị trường để bảo vệ đồng Ringgit khi mà đồng tiền này bị đầu cơ. Đến cuối tháng 5/1997 lãi suất đã bắt đầu tăng lên và cả tỷ giá , lãi suất đã trở lại mức cuối năm 1996 và có dấu hiệu mất giá. - ảnh hưởng đến Inđonexia : Mặc dù đồng Rupi của Inđônêxia không bị sức ép căng thẳng như đồng Peso, nhưng chính phủ Inđônexia đã công bố nới rộng khung can thiệp tỷ giá từ 8% lên 12% vào ngày 11/7/1997 . Inđônêxia phải thực hiện giải pháp này bởi vì qui mô nhỏ bé về dự trữ ngoại tệ của Inđônêxia và điều đó chỉ ra rằng khả năng bảo vệ đồng tiền của họ chống lại các nhà đầu cơ tiền tệ là rất hạn chế. Sau một tuần mở rộng khung can thiệt, tỷ giá tăng lên mức 2520RP/USD và tỷ lệ mất giá của Rupi khoảng 8,2% vượt quá mức độ phá giá trước đây ( 4-6 % ). Ngày 13/5/1997 Ngân hàng trung ương Inđônêxia đã phải bỏ ra 500 triệu USD để giữ đồng Rupi biến động trong mức 12% . Cuối cùng đến ngày 14/8/1997 Ngân hàng trung ương Inđônêxia buộc phải tuyên bố thả nổi đồng Rupi và giá trị đồng Rupi đã sụt xuống 4,5 % so với ngày hôm trước. Vào thời điểm cuối tháng 9/1997, tỷ giá đồng Rupi/USD là 3260. Sau đó tình hình kinh tế và chính trị Inđônêxia có những biến động rất mạnh, rối loạn, đồng Rupi bị mất giá mạnh. Vào thời điểm 10/1 tỷ giá khoảng 10.000 RP/USD . Giá trị đồng Rupi đã giảm 77% so với cuối tháng 6/1997. - ảnh hưởng đến Hàn quốc: Trong số các trường hợp ở các nước nói trên thì cuộc khủng hoảng ở Hàn quốc là nặng nề nhất. Đồng Won mất giá liên tục, ngày 3/11/1997 tỷ giá Won/USD là 966,2 đến ngày 10/12/1997 tăng lên là 1450. Sự mất giá nhanh chóng của đồng Won đã buộc Ngân hàng trung ương Hàn quốc công bố thả nổi đồng Won. Đồng thời có sự cải thiện trong cán cân thanh toán, mức thặng dư tháng 11/1997 là 600 triệu USD, so với mức thâm hụt của cùng kỳ năm trước là 2,07 tỷ giá USD, giá của đồng Won đã được ổn định hơn, tỷ giá giảm xuống 1.400 Won/USD . Như vậy, nếu so với cùng thời điểm trước cuộc khủng hoảng tiền tệ ở Đông nam á (cuối tháng 6/1997) thì giá trị của đồng Won đã bị giảm khoảng 40%. Cùng với sự giảm giá của đồng tiền, giá cổ phiếu trên thị trường chứng khoán ở Hàn quốc Những điều này không có nghĩa cuộc khủng hoảng Tài chính tiền tệ chỉ đưa đến nhưngc ảnh hưởng tiêu cực mà còn đem lại một số tích cực nữa: Phần II Nguyên nhân khủng hoảng tiền tệ ở chân á Nguyên nhân. Nói về nguyên nhân của cuộc khủng hoản này có nhiều ý kiến khác nhau. Tuy nhiên tổng kết lại có một số nguyên nhân chủ yếu sâu đây: Tính trạng tăng trưởng kinh tế quá nóng Xét về mặt nguồn gốc thì đây là một nguyên nhân mà cái lợi thu được nhiều hơn cái hại. Hầu hết các nước trong khu vực đều là các nước đang phát triển. Nếu kinh tế còn kém xa hàng vài chục năm so với các nước phát triển trên thế giới. Nếu không có tốc độ tăng trưởng cao (tốc độ tăng GDP từ 8-10% kéo dài hàng thập kỷ qua) thì làm sao có thể đuổi kịp các nước khác. Tốc độ phát triển cao trong một thời gian dài đã đánh giá là sự “thần kỳ” của Châu á. Nhưng tại sao nó lại là nguyên nhân gây nên khủng hoảng. Tốc độ tăng trưởng cao tuy nhiên lại có sự đầu tư mất cân đối và thiếu hiệu quả, đặc biệt vào các lĩnh vực hạ tầng. Vào những năm 1990 Thái Lan đã tập trung một lượng vốn lớn vào cải tạo và xây dựng cơ sở hạ tầng vượt quả khả năng tài chính của nước này. Cơ sở hạ tầng là lĩnh vực đầu tư với số lượng vốn lớn, nền tảng của sự phát triển kinh tế, tuy nhiên nó có thời gian thu hồi rất dài. Việc đầu tư này có thể kích thích tăng trưởng kinh tế do đầu tư tăng lên nhưng kèm theo nó là gánh nặng nợ của Chính phủ (chủ yếu là nợ nước ngoài. Thêm vào đó trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp lại đầu tư quá thiên lệch vào thị trường bất động sản đòi hỏi phải có thời gian dài và rủi ro của hoạt động này là rất cao. Trong khi các doanh nghiệp Thái Lan lại sử dụng chủ yếu là nợ ngắn hạn đòi hỏi các doanh nghiệp này phải có “độ thanh khoản cao” tức là có lượng vốn lưu động, tiền khá lớn mới đảm bản khả năng chi trả khi chưa thể bán ngay được tài sản đầu tư. Thực tế không phải như vậy, các ngân hàng sẵn sàng cho các doanh nghiệp vay tiền bằng cách thế chấp bất động sản. Một điều đặc biệt nguy hiểm, bởi biến động của tư tưởng này rất khó dự đoán. Thực tế đã chứng minh là ở Thái Lan phần vay nơ kinh doanh bất động sản tăng với tốc độ bàng khoản 10 lần tốc độ tăng trưởng kinh tế Thái Lan. Một sự tăng cũng ồ ạt trong khi sử dụng hết dẫn đến một sự giảm giá của khu vực bất động sản. Điều này sẽ dẫnđến việc khủng hoảng ở khu vực bất động sản và ảnh hưởng trực tiếp tới khả năng trả nợ của các Doanh nghiệp sau đó ảnh hưởng hàng loạt đến các ngân hàng và Công ty tài chính vào tình trạng không có khả năng thanh toán. Như vậy nguyên nhân đầu tiên cần khẳng định là do sự đầu tư mất cân đối trong nền kinh tế của các nước này, đặc biệt là Thái Lan. Khủng hoảng nợ đồng USD. Trong một thời gian dài, các nước Đông Nam á đã gắn tỷ giá hồi đoái của mình với đồng USSD. Các Doanh nghiệp, ngân hàng trong nước và cả nhà đầu tư nước ngoài dần dà tin tưởng vào sự ổn định của động nội tệ đối với USD. Thêm vào đó, trong mấy năm qua, các nước này đã tự do hoá và mở cửa thị trường vốn của mình, tào điều kiện để các Doanh nghiệp và ngân hàng trong nước lần giới đầu tư tài chính thế giới cho vay đồng USD lãi suất thấp, cho vay lại bằng đồng nội tệ suất cao ăn chênh lệch lãi suất mà không phải lo sợ rủi ro phá giá đồng nội tệ. Như vậy dự trữ ngoại tệ đã không đủ để trả nợ nước ngoài,. Vì dòng chảy USD vào nhiều như vậy (thể hiện bằng việc vay ngân hàng nước ngoài0 nên dù 4 nước trên gặp thiếu hụt lớn tỏng cán cân thanh toán đương kỳ 9từ 4% đến 8% GDP), đồng tiền của nước họ vẫn ổn định so với USD. Trong năm 1996, xuất khẩu và tăng trưởng kinh tế của các nước này bắt đầu chậm lại, nhiều ngân hàng và Công ty tài chính bắt đầu bị khó khăn vì cho vay quá nhiều vào khu vực địa ốc. Các nhà đầu tư tài chính quốc tế vì cậy bắt đầu đặt dầu hỏi về khả năng có thể tiếp tục duy trì lãi suất cao để ổn định tỷ giá hồi đoái của nước này. Lãi suất cao sẽ thu hút luồng tài chính từ nước ngoài vào nhiều cung về ngoài tệ )USD) nhiều và như vậy vẫn có khả năng giữ ổn định được tỷ giá. Qua sự phân tích ở trên đây thì có thể thấy được việc vay nợ nước ngoài có thể giúp các nước tăng nhanh tốc độ phát triển kinh tế, tuy nhiên nó cũng có thể “bóp chết” các nước này nếu nguồn vay đó không được sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả. Một bài học đặc giá cho việc quản lý nợ nước ngoài đối với khu vực tư nhân, khu vực mà Chính phủ không kiểm soát được hoặc không có khả năng kiểm soat. Sự hoạt động yếu kém của hệ thống ngân hàng tài chính. Được sự thông thoáng hơn trong việc vay vốn từ nước ngoài từ phía Chính phủ. Các ngân hàng đã huy động vốn USD từ các ngân hàng nước ngoài với lãi suất thấp. Phần lớn số cho vay này nhằm tài trợ các dự án bất động sản (cao ốc văn phòng, chung cư và nhà ở, khách sạn...), các chương trình đầu tư lớn vào các khu vực hiện trên thế giới đang thừa sức cũng như hoá dầu, xe ôtô, sắt thép...hay tài trợ các giới đầu tư tài chính trong nước mua cổ phiếu. Khi thị trường địa ốc suy giảm và thị trường chính khoán bị phá giá mạnh và các công trình công nghiệp không sinh lợi (vì bị cạnh tranh trên thị trường thế giới) thì các bên nợ bị thua lỗ, phá sản; kéo đến làm cho các ngân hàng và công ty tài chính gặp khủng hoảng. Hiện nay, số dư nợ quá hạn (con nợ không trả lãi từ 6 tháng trở lên) đạt mức 23% của Malaysia, 205 GDP ở Thái Lan, 115 ở Indonesia và 8% ở Philippine. Để có thể thấy được mức độ của các con số đòi/GDP là 11% và Nhật đã phải trải qua 7 năm tăng trưởng chậm mà vẫn chưa thoát ra khỏi khủng hoảng ngân hàng. Cùng với sai lầm trong việc cho vay, một nhân tố quan trọng ở đây nữa là tệ nạn tham nhũng trong hệ thống ngân hàng. Các tập đoàn lớn đã thao túng nhiều cán bộ ngân hàng, làm cho số món vay không được đánh giá càng và chính xác ngày một tăng. Như vậy một nguyên nhân nữa đã phân tích là sự yếu kém của hệ thống ngân hàng và các trung gian tài chính. Sự yếu kém thể hiện trong phương tứch hay nói cách khác là phương hướng và mục tiêu kinh doanh đã không được xác định rõ ràng. Họ chỉ nhìn thấy lợi nhuân trước mắt mà không tính đến tương lai phát triển của ngân hàng và sự đóng góp của ngân hàng vào việc phát triển kinh tế. Một tỷ kệ nợ khó đòi rất cao cúng chưa thể nói hết được ý nghĩa trong vấn đề này. Hoạt động của ngân hàng phải theo sự chỉ đạo và mục đích phát triển của nền kinh tế đất nước. Sai lầm trong chiến lược xuất khẩu Trong suốt một thập kỷ từ năm 1985 - 1995, đồng USD đã mất giá một nửa so với các đồng tiền mạnh khác như DM của Đức và Yên Nhật. Do việc gắn chặt tỷ giá, hối đoái của mình so với hàng hoá thị trường Châu á và Nhật. Từ năm 1995 trở lại đây USD đã tăng gaias khoảng 20% so với DM và Yên, làm giảm bớt tính cạnh tranh cảu hàng hoá Đông Nam á. đặc biệt là quan trọng hơn, năm 1994 Trung quốc đã phá giái đồng nhân dân tệ khoảng 30% làm cho các mặt hàng chế biến của Trung Quốc đã hấp dẫn trên thị trường thế giới. Lấn át thị phần của các nước Đông Nam á. Thêm vào đó, giá kinh doanh và sinh hoạt ở thủ đô các nước trong khu vực trong mấy năm qua đã trở thành đắt nhất thế giới, làm cho các nước này mất đi lợi thế so sánh giá cả. Tổng kim gạch xuất khẩu của các nước Asean sau khi tăng trưởng khoản 20% mỗi năm trong hai năm 1994 - 1995 đã giảm mạnh còn 8% trong năm 1996. Đồng thời với việc giảm xuất khẩu là việc tăng nhập khẩu, các nước này đã theo đuổi chính sách theo hướng xuất khẩu một cách cứng nhắc và tập trung quá cao vào một vài mặt hàng theo kiểu “độc canh” đã làm mất dầu khả năng cạnh tranh trên thị trường Quốc tế và công nghệ chậm được đổi mới làm cho tốc độ xuất khẩu giảm dẫn và nhập khẩy tăng lên, kết quả thâm hụt tài khoản vãng lai tăng cao (thâm hụt tài khoản vãng lai năm 1996 của Thái Lan là 8,5% so với GDP, Philippine là 13%. Để bù đắp thiếu hụt ngoại tệ phải bổ xung bằng vay nợ, mà chủ yếu là vay nợ ngắn hạn nước ngoài với những điều kiện không nhuận lợi và lãi suất cao. Việc chính sách tỷ giá gẵn chặt với đồng USD, cơ chế tỷ giá cố định duy trì quá lâu như phân tích ở trên là có lợi cho xuất khẩu khi đồng USD giảm giá và không lợi khi USD tăng giá. Trong suốt 13 năm qua, tỷ gái đồng Baht Thai Lan so với đồng USD luôn ở mức 24 - 25 Baht/USD. Chính sách này trong thời gian gần đây đã vừa kìm hãm xuất khẩu, vừa kích thích tiêu dùng quá mức. Hậu quả là chính sách hướng về xuất khẩu không những không thực hiện được, còn xu hướng đầu tư nước ngoài để thay thế hàng nhập khẩu lại bộc lộ khá rõ nét. Tình trạnh này càng làm cho nhập khẩu bị đẩy lên, cán cân thương mại thêm thâm hụt và căng thẳng hơn trước. Như vậy nguyên nhân được nêu ra ở đây là các nước này đã đánh mất đi lợi thế của hàng hoá xuất khẩu do nguồn tài nguyên phong phú cộng với giá nhân công rẻ hơn so với các nước khác trên thế giới. 2. ảnh hưởng khủng hoảng tiền tệ đến nền kinh tế của các quốc gia trong khu vực Tiêu cực Sự phá giá của đồng bath và các đồng tiền khác của các nước Đông nam á gây ra hậu quả rất nghiêm trọng, lâu dài và tác động xấu đến mọi hoạt động của đời sống kinh tế xã hội của đất nước. Trong giai đoạn trước và trong khủng hoảng, các nước đều phải tiêu tốn số lượng ngoại tệ lớn để giữ cho đồng tiền không bị mất giá quá mức. Thái Lan đã sử dụng 15 tỷ USD trong tổng 33 tỷ USD dự trữ ngoại tệ của Nhà nước để cứu nguy cho đồng bath, Philipin cũng đã sử dụng 20% tổng số dự trữ để hỗ trợ cho đồng peso. Các nước khác như Malaysia, Indonesia cũng sử dụng những tỷ đô la Mỹ vào mục đích nói trên. Nợ nước ngoài tính bằng ngoại tệ tăng lên khoảng 25 - 40% tuỳ theo mức độ phá giá của đồng tiền. Như vậy nợ nước ngoài của Thái Lan từ 85 tỷ USD lên 119 tỷ USD, Malaysia từ 29 tỷ USD lên 36,5 tỷ USD, Philipin từ 43,5 tỷ USD lên 54,5 tỷ USD, Indonesia từ 10,93 tỷ USD lên 150,8 tỷ USD. Hoạt động đầu tư, kinh doanh bị đình đốn, hàng loạt các doanh nghiệp mất khả năng thanh toán hoặc bị phá sản. Do đồng tiền mất giá, nền kinh tế vĩ mô không ổn định, nguồn đầu tư nước ngoài sẽ bị giảm sút và có thể sẽ chuyển sang các khu vực khác ổn định và có lơị thế hơn như Trung Quốc, khu vực Mỹ la tinh ... Hệ thống đổ vỡ gây sức ép lạm phát, giảm thu nhập của người lao động, tác động xấu đến các mặt của đời sống chính trị xã hội. Cuối cùng để khắc phục được hậu quả khủng hoảng, ổn định trở lại nền kinh tế cân bằng mới, các quốc gia này phải tiêu tốn một lượng tài chính lớn, theo ước tính vào khoảng trên dưới 10% GDP. đây là khó khăn lớn nhất không thể giải quyết được trong thời gian ngắn. Bên cạnh những tác động tiêu cực, cuộc khủng hoảng có những yếu tố tích cực sau: Tích cực Giảm giá đồng tiền lại góp phần khuyến khích xuất khẩu, hàng xuất khẩu của các nước này có thêm cạnh tranh lớn trên thị trường trường quốc tế nhất là trong tương quan so sánh với các mặt hàng cùng loại của những nước trong khu vực có đồng tiền ổn định hơn. Các yếu tố đầu vào tính bằng ngoại tệ, bao gồm tiền lương đất đai dịch vụ . .. giảm một cách tương đối cao sơ với các nước khác, nên khi khủng hoảng kết thúc thì chính các nước này lại có lợi thuế thu hút vốn đâu tư, cả đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp. Nếu xét về lâu dài thì đây là dịp các nước này rút ra được các bài học điều chỉnh lại chính sách vĩ mô . .. tạo động lực thúc đẩy sự tăng trưởng nền kinh tế một cách bền vững hơn. Dù cuộc khủng hoảng Tài chính tiền tệ tác động tiêu cực hay tích cực đến nền kinh tế xã hội ra sao, vấn đề nghiên cứu, tìm hiểu các nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng là rất cần thiết. Trước tiên không thể không kể đến yếu tố tình trạng tăng trưởng kinh tế quá nóng (tốc độ tăng GDP từ 8 đến 10%) kéo dài hàng chục năm và đặc biệt các doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh của mình đã đầu tư quá lớn vào thị trường bất động sản bằng nguồn vốn ngắn hạn, do vậy vấn đề các quốc gia này chìm ngập trong nợ nần là điều không tránh khỏi. Thêm vào đó, nền kinh tế của các nước này trong khi theo đuổi chính sách hướng về xuất khẩu đã quá cứng nhắc và tập trung vào một số mặt hàng theo kiểu độc canh đã gián tiếp làm mất khả năng cạnh tranh của hàng hóa dịch vụ trên thị trường trường quốc tế, làm chậm tốc độ đổi mới công nghệ và tất nhiên xuất khẩu giảm dần, nhập khẩu tăng lên kết quả là thâm hụt tài khoản vãng lai. Ngoài ra có một nguyên nhân buộc phải kể đến là chiến lược phát triển kinh tế của các nước này dưạ chủ yếu vào đầu tư trực tiếp của nước ngoài (nguồn nhập khẩu vốn quan trọng ) nhưng đầu tư lại không hiệu quả làm cho gánh nặng nợ nước ngoài tăng nhanh, cơ cấu vốn đầu tư nước ngoài không hợp lý, chứa đựng nhiều rủi ro . Vốn đầu tư trực tiếp chỉ chiếm khoảng 20% tổng số vốn 80% còn lại là vốn đầu tư gián tiếp vào các loại cổ phiếu, trái phiếu, tín phiếu trên thị trường chứng khoán nên khi các nhà đầu tư nước ngoài đầu cơ, bán tháo chứng khoán và chuyển đổi ra ngoại tệ đã làm sụt giá đồng nội tệ ngay lập tức. Mặt khác, việc duy trì cơ chế tỷ giá cứng nhắc với chính sách tỷ giá gắn chặt với đồng Đôla Mỹ quá lâu đã kìm hãm xuất khẩu, kích thích tiêu dùng quá mức, xu hướng đầu tư nước ngoài thay thế hàng nhập khẩu có điều kiện bộc lộ rõ nét, cán cân thương mại thêm thâm hụt hệ thống ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính khác trong bối cảnh này lại chưa phát triển kịp đáp ứng những đòi hỏi khách quan của nền kinh tế. Việc cấp tín dụng bừa bãi (Ngân hàng cho vay thế chấp chủ yếu bằng bất động sản) vô hình chung đã khuyến khích các hoạt động đầu cơ vào bất động sản và thị trường trường chứng khoán cũng như việc bùng nổ vay nợ nước ngoài ở khu vực tư nhân. Có thể nói, đây là những yếu tố thể hiện sự yếu kém của hoạt động thanh tra ngân hàng. Hơn nữa, việc điều hành thiếu sự ăn khớp giữa chính sách tiền tệ với chính sách tài chính cũng dẫn đến tiêu dùng và chi tiêu ngân sách nhà nước tăng mạnh kéo theo mở rộng qui mô tín dụng vốn không chất lượng và tăng nhanh các khoản chi tiêu khác ngoài kế hoạch. 3. Biện pháp khắc phục Qua một vài nguyên nhân điển hình trên, chúng ta càng khẳng định rằng cuộc khủng hoảng tài chính tiến tệ ở Châu á là kết cục không thể tránh khỏi. Đứng trước diễn biến ngày càng một xấu và phức tạp của cuộc khủng hoảng, Chính phủ các nước Châu á đã phải thực hiện các biện pháp như: Chính sách thắt lưng bộc bụng: Đứng trước bất kỳ một cuộc khủng khoảng nào, khi được yêu cầu trợ giúp, IMF bao giờ cũng khuyến nghị các nước thành viên hạn chế chi tiêu, cải thiện chính sách tài chính, hạn chế thâm hụt ngân sách, thắt chặt chính sách tiền tệ. Gần đây có thêm các điều kiện như nâng lãi xuất của đồng chí nội tệ củng cố, sát nhập điều chỉnh hệ thống ngân hàng, tài chính. Chính sách tổng hợp này có thể được gọi là chính sách giảm phát, vì cùng một lúc nó chặn đứng nguồn tài trợ cho nền kinh tế thông qua hai luồng chính là đầu tư của nhà nước và cấp tiến dụng của hệ thống ngân hàng. Biện pháp nâng cao lãi suất để ổn định đồng nội tệ có lẽ chỉ đúng khi lượng tiền ngoài luồng lớn và người dân mất lòng tin và đồng nội tệ, chạy theo động ngoại tệ USD. Lãi suất cao dễ đem lại những tác hại không thể nường trước được về ngắn hạn đối với nền kinh tế, như làm bế tắc về vốn đối với các doanh nghiệp sản xuất; và làm cho việc tái cấp vốn của hệ thống tài chính lại đắt thêm. Thay đổi điều hành. Kiểm soát tài chính cũng như ổn định tỷ giá đòi hỏi phải có thời gian và lệ thuộc nhiều vào thực trạng cơ cấu tài chính, tiền teejk của nước bị khủng hoảng. Việc để cho đồng chí tiền mất gái, ngoài yếu tố bất ổn về xã hội, làm tăng sức ép về lạm phát và khả năng xử lý nợ nước ngoài. Vai trò của các nước lớn. Theo số liệu thống kê của Tạp chí Economist thì khoảng 30% lượng hàng nông sản của Mỹ xuất sang Đông á bị tắc nghẽn vị không có nhu cầu, và thừa 2,4 tỷ tần ngũ cốc buộc nhà nước phải, mua và phân phát cho các nước nghèo khác. - Vai trò của Mỹ trong việc thúc ép các tổ chức tài chính quốc tế can thiệp vào các nước khác bị khủng hoảng sẽ yếu dần đi vì: Khả năng tài chính quốc tế và tính hữu hiệu của các khoản vay cùng với những điều kiện vay hà khác. - Yếu tố và vai trò của Nhật bản có lẽ hơi được đề cao trong việc giúp đỡ các nước bị khủng khoảng. Bởi vì nền kinh tế Nhật ít nhất cũng phải mất 2-3 năm mới hồi phục được. - Khả năng biến động tài chính toàn cầu có thể sẽ xảy ra bởi hai tiền năng khủng hoảng là Nga và Braxin, cũng như việc Trung Quốc phá giá đồng tiền của mình trong năm 1999. Tự cứu lấy mình: - Hiện giờ các nước trong khu vực điều đã nhận ra rằng phải tự do lấy mình trược và trách cầu cứu nước ngoài. Muốn vậy, các nước phải lập ra chiến lược điều chỉnh cơ cấu trung hạn (3-5 năm) nhằm tập trung giải quyết những vấn đề về mặt cơ cấu, tổ chức và chính sách hoạt động của các tổ chức tài chính, kiểm soát chặt cho vay, đầu tư gián tiếp... -Khuyến khích đầu tư và tiêu dùng trong nước là một chính sách đúng cần phải làm. -Tái thiết lập lòng tin bằng nhiều biện pháp khác nhau như giữ ổn định chính trị xã hội, giáo dục và để cao ý thức đồng tâm hiệp lực của nhân dân trong việc giải quyết hậu quả của khủng hoảng. Tóm lại một loạt các nghiên cứu, phân tích về khủng hoảng trên thị trường trường Tài chính tiền tệ Châu á nhằm tìm ra những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến khủng hoảng, xem xét những yếu tố có thể ảnh hưởng tới thị trường trường tiền tệ Việt Nam nói riêng và nền kinh tế Việt Nam nói chung. Liệu Việt Nam - thành viên thứ 7 của ASEAN có thể đứng ngoài cuộc hay không? trong khi có năm quốc gia trong khối này đã rơi vào cuộc khủng hoảng tiền tệ. 4. Khả năng ảnh hưởng khủng hoảng tiền tệ khu vực đến thị trường và nền kinh tế nước ta. Trước tiên chúng ta cần nhận định khái quát khả năng ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng Tài chính tiền tệ của khu vực đối với thị trường tiền tệ và nền kinh tế nước ta. Nếu xét trên phương diện trực tiếp thì cho tới thời điểm này, khủng hoảng tiền tệ ở một số nước trong khu vực chưa ảnh hưởng lớn tới thị trường tiền tệ Việt Nam. Đó là vì tuy nước ta ra nhập ASEAN hồi tháng 7/1995 nhưng ta chưa thực sự có quan hệ gắn bó về kinh tế với các nước trong khối cũng như chưa chịu ảnh hưởng nhiều của sự liên kết tiền tệ trong khu vực. Đồng Bath và các đồng tiền của các nước khác trong khối ASEAN không giữ vai trò trực tiếp trong quan hệ tài chính mậu dịch và thanh toán với ta. Mặt khác, đồng tiền nước ta chưa chuyển đổi, thị trường của ta chưa phát triển đầy đủ để có thể hoà nhập vào thị trường Tài chính khu vực, chế độ quản lý ngoại hối vẫn còn được kiểm soát khá chặt chẽ( như hạn chế đối với các Ngân hàng nước ngoài trong hoạt động cho vay bằng Việt Nam đồng, mua bán trái phiếu kho bạc, tự do chuyển nhượng hay mua bán ngoại tệ với khối lượng lớn, nên không thể có đầu cơ lũng đoạn, phá giá đồng tiền từ bên ngoài được. Đó là chưa kể đến yếu tố thị trường trường chứng khoán ở nước ta chưa thực sự ra đời, nguồn vốn đầu tư nước ngoài chủ yếu là FDI và ODA. Tuy nhiên, chúng ta cũng không được bỏ qua bất cứ một tác động nào ở cuộc khủng hoảng này tới nền kinh tế. Xu hướng mất giá của các đồng tiền trong khu vực đồng nghĩa với sự tăng lên của khả năng cạnh tranh về giá cả (bởi giá hàng xuất khẩu của Việt nam trở nên cao hơn so với giá hàng hoá cùng loại của các nước khủng hoảng). Như vậy, nhà nước cần có chính sách bảo hộ cha nhà xuất khẩu thì mới mong hoạt động xuất khẩu phát triển được. Khả năng hàng hoá của các nước có đồng tiền giảm mạnh tràn vào Việt nam qua con đường nhập lậu cũng sẽ gia tăng làm tăng cầu ngoại tệ trên thị trường trường tự do, tỷ giá thị trường tự do sẽ phát triển lên gây áp lực giảm giá đồng Việt nam. Hàng hoá sản xuất trong nước. Vì vậy, khủng hoảng Tài chính tiền tệ đã phần nào ảnh hưởng đến lĩnh vực xuất nhập khẩu của Việt nam, đòi hỏi chính phủ tăng cường một cách có hiệu quả công tác quản lý hàng hoá nhập khẩu và chống buôn bán hàng nhập lậu ngay trong thời gian hiện nay. Tâm lý của người dân trên thị trường ở đây chúng ta cũng cần xem xét sự ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tới tâm lý người dân trên thị trường. Kinh nghiệm của các nước cho ta thấy rằng nếu không giải quyết được tâm trạng hoang mang của người dân về sự trượt giá đồng tiền thì cơn sốt USD đã lan nhanh sang thị trường trường tín dụng làm các ngân hàng lao đao, trực tiếp ảnh hưởng tới cơ cấu tiền gửi ngân hàng, đến hoạt động giao dịch ngoại tệ theo chiều hướng xấu và tất yếu ảnh hưởng lây sang thị trường chứng khoán. Khi đó dẫn đến một cuộc khủng hoảng tài chính ngân hàng, rất có thể lại xuất hiện khủng hoảng kinh tế. Cũng cần nói thêm rằng thị trường vốn trong đó có thị trường chứng khoán và thị trường tín dụng là những lĩnh vực nhậy cảm mà bọn đầu cơ nhằm vào. Nhưng có điều là chúng khó trực tiếp tấn công mà chỉ thường lợi dụng tâm lý hoang mang của chủ đầu tư trong thị trường. Khủng hoảng tài chính tiền tệ đến môi trường. Một hậu quả khác không thể tránh khỏi của cuộc khủng hoảng Tài chính tiền tệ Châu á gây ảnh hưởng tới môi trường đầu tư của toàn khu vực, trong đó có Việt nam cũng phải được tính đến. Thị trường các nước Asean ít nhiều sẽ trở lên kém hấp dẫn vì yếu tố rủi ro cao, các nhà đầu tư có xu hướng chuyển vốn của mình sang đầu tư cho các khu vực, các quốc gia ổn định hơn. Điều này dẫn tới luồng đâu tư nước ngoài ồ ạt chẩy ra, tác động xấu tơí cơ cấu vốn đầu tư, ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế và dự trữ quốc gia ngòai ra chính bản thân các nước trong khu vực đang gặp khó khăn do cuộc khủng hoảng nên đầu tư vào Việt nam cũng giảm mạnh. Khủng hoảng tài chính tiền tệ. Hơn thế, cuộc khủng hoảng này cũng gây ảnh hưởng lớn đến lĩnh vực Tài chính tiền tệ. Trước hết, nó tác động tới cơ cấu tiền gửi bằng ngoại tệ tăng khá nhanh. Giao dịch trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng cũng như thị trường ngoại tệ nói chung bị giảm sút. Nhu cầu mua ngoại tệ luôn cao hơn nhu cầu bán dẫn đến sự thiếu hụt về cung trầm trọng, giá ngoại tệ tăng lại gây sức ép giảm giá đồng Việt nam. Thị trường hoạt động hỗn loạn gây nhiều khó khăn trong giao dịch thanh toán. Thêm vào đó thực trạng hệ thống ngân hàng thương mại gặp nhiều khó khăn về huy động vốn sẽ đe doạ khả năng thanh toán nợ trong và ngoài nước. Sự mất cân đối cung cầu tiền Việt nam trên thị trường sẽ tạo sức ép tăng lãi suất đồng nội tệ trực tiếp gây khó khăn cho các hoạt động đầu tư kinh doanh sản xuất. - Trên đây, chúng ta mới chỉ đơn thuần phân tích một số tác động tiêu biểu của cuộc khủng hoảng Tài chính tiền tệ khu vực Châu á tới nền kinh tế Việt nam nói chung, chưa lượng hoá được mức độ tàn phá của nó một cách cụ thể bởi vì suy cho cùng điều này vô cùng phức tạp. Song cần phải ý thức được trước thực tế như vậy để có thể hạn chế và phòng ngừa những ảnh hưởng tiêu cực của cuộc khủng hoảng Tài chính tiền tệ dây chuyền trên tránh những cú sốc, những diễn biến bất lợi cho nền kinh tế xã hội, chúng ta nhất thiết phải đề ra các giải pháp trước mắt và lâu dài. Một câu hỏi được đặt ra là làm thế nào để kiềm chế và quản lý được khủng hoảng ? Quản lý một cuộc khủng hoảng kiểu này là một thách thức chính trị vô cùng phức tạp. Mâu thuẫn đã từng xẩy ra trong tư duy kinh tế đối với việc ứng dụng một số các biện pháp trong đó có biện pháp cứng rắn về chính sách tiền tệ và nghiêm khắc về thuế khoá. Điều này có thể đưa nền kinh tế của các nước đến chỗ suy thái nặng nề, vì vậy đến nay khó mà có thể khôi phục lòng tin và sự ổn định của các thị trường hối đoái. Do đó, cần thiết chúng ta phải tiến hành đồng bộ các bài học và giải pháp đối với Việt nam. Phần III Khủng hoảng Tài chính tiền tệ ở Châu á và một số giải pháp đối với Việt nam: Khủng hoảng tài chính tiền tệ ở Chân á và một số giải pháp đổi với Việt Nam. Để khắc phục những ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng, phương pháp thích hợp và khôn ngoan nhất hiện nay đối với chúng ta là phải cố gắng hướng vào việc thực thi các biện pháp ổn định, tránh mọi cú sốc không cần thiết, nhất là tránh tình trạng phá giá mạnh đồng tiền Việt nam dễ gây rối loạn trên thị trường do yếu tố tâm lý. Các biện pháp nên làm là: Một là: Tăng cường công tác dự trữ , chống lại mọi hiện tượng đầu cơ. Thực hiện tốt có biện pháp tập trung hàng hoá cần thiết lập tốt cho tiêu dùng, hạn chế biến động về giá cả vào đầu tháng đầu năm gây ảnh hưởng tâm lý đến việc mất ổn định đồng tiền và ngoại tệ trên thị trường Việt nam. Yêu cầu các doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài lập bảng cân đối ngoại tệ ngay từ đầu năm để kịp thời nắm bắt nhu cầu mua bán ngoại tệ trên thị trường. Có chính sách lãi suất hấp dẫn để thu hút tiền nhàn rỗi trong dân cư (cả nội và ngoại) vào tay nhà nước để giảm áp lực gây mất đồng tiền Việt nam. Hai là: Tập trung chỉ đạo đánh giá hiệu quả sử dụng, khả năng trả nợ của các ngành, các lĩnh vực để Chính phủ có cơ sở thực hiện điều chỉnh chính sách tỷ giá phù hợp hơn so với sự thay đổi của tình hình bên ngoài và sức chịu đựng của các đơn vị kinh tế trong nước. Thiết lập một chính sách tỷ giá hối đoái linh hoạt nhằm ngăn chặn các ảnh hưởng tiêu cực của cuộc khủng hoảng, thúc đẩy xuất khẩu và cải thiện cân bằng thương mại. Ba là: Tạo dựng củng cố niềm tin cho các nhà đâu tư nước ngoài thông qua việc ổn định chính sách cơ chế luật pháp, cần nhanh chóng sửa đổi và ban hành mới các chính sách thu hút FDI hấp dẫn hơn như các ưu đãi về thuế, trả thuế đất, cân đối ngoại tệ tiếp tục cấp giấy phép kinh doanh. Tiếp tục duy trì sự ổn định kinh tế, chính trị, xã hội kết hợp với việc áp dụng các chính sách mở cửa hơn nữa về mặt thương mại, đầu tư vào dịch vụ tài chính đối với đâu tư trong và ngoài nước để tạo điều kiện và môi trường kinh tế thuận lợi, bình đẳng cho các nhà đầu tư. Bốn là: Thực hiện đồng bộ các giải pháp chuyền dịch mạnh về cơ cấu kinh tế, cơ cấu đâu tư, cơ cấu công nghệ và lao động. Đảm bảo xây dựng kết cấu kinh tế hợp lý, hướng mạnh về xuất khẩu, có khả năng phát huy hiệu quả sử dụng vốn nhanh, đáp ứng nhu cầu trả nợ trong nước và nước ngoài, góp phần nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp Việt nam ở thị trường nội địa và quốc tế. Năm là: Cải cách mạnh và triệt để để doanh nghiệp nhà nước nâng cao vai trò và hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước. Đẩy nhanh cải cách doanh nghiệp đặc biệt là cải cách doanh nghịêp nhà nước theo hướng tăng tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm làm giảm gánh nặng ngân sách. Việc phát triển không nên chỉ dựa vào các doanh nghiệp nhà nước mà còn cần trú trọng phát triển các doanh nghiệp tư nhân trong nước. Sáu là: Tập trung huy động nguồn lực trong nước khi thị trường quốc tế đang nhiều biến động khẩn trương thực hiện triệt để các giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng và chất lượng hoạt động của ngân hàng để tăng uy tín cho ngân hàng đối với những người gửi tiết kiệm, người vay và người cho vay trong nước và ngoài nước. Đồng thời xúc tiến nhanh việc thành lập các định chế đầu tư có khả năng huy động tốt hơn và hiệu quả hơn các nguồn vốn tiết kiệm trong nước như các quỹ đầu tư, dịch vụ tiết kiệm bưu điện. . . Bẩy là: Triệt để tiết kiệm, chống lãng phí đi đôi với thiết lập trật tự kỷ cương quản lý tài chính trong nền kinh tế. Thực hiện nghiêm các chế độ kế toán , thống kê, kiểm toán, công khai hoá tài chính và chế độ báo cáo. tăng cường và nâng cao hiệu quả của công tác thanh tra, kiểm tra, giá sát ở tất cả các lĩnh vực kinh tế xã hội, góp phần chống lãng phí, tăng tiết kiệm, hạn chế tiêu cực, tham nhũng trong quản lý nền kinh tế. Tóm lại, cuộc khủng hoảng Tài chính tiền tệ của các nước trong khu vực tuy các tác động đến nền kinh tế tài chính Việt nam nhưng nếu chúng ta sớm rút ra các bài học kinh nghiệm và các giải pháp phòng ngừa hữu hiệu thì không những có thể hạn chế được sự ảnh hưởng mà còn tìm ra được cơ hội để hội nhập và phát triển nhanh hơn. Từ sự khủng hoảng tiền tệ ở Thái Lan ta rút ra những bài học cảnh tỉnh cho cuộc khủng hoảng Tài chính tiền tệ ở Việt nam như sau: Bài học thứ nhất liên quan đến nhiệm vụ duy trì thế cân bằng giữa các biển số vĩ mô trong quá trình phát triển lâu dài. Việc Thái Lan bị rơi vào cuộc khủng hoảng này có căn nguyên sâu xa từ một chiến lược phát triển có phần thiên lệch. Trong Ba thập niên, Thái Lan hầu như tập trung mọi nỗ lực cho mục tiêu tăng nhanh sản lượng và dịch chuyển cơ cấu kinh tế. Nhiệm vụ phát triển hệ thống tài chính tương xứng đã không được quan tâm đúng mức. Theo sự xếp hạng chất lượng tài sản có của Ngân hàng của Công ty Morgan Stanley (Mỹ), hệ thống ngân hàng Thái Lan thuộc loại yếu kém. Việc cải tạo cơ cấu không đồng bộ đã tạo ra “gót chân Asin” trong một nền kinh tế về căn bản là mạnh của Thái Lan. Đó là khu vực tài chính. Vì thế, khi nền kinh tế bước vào nhịp tăng trưởng mới, khi nhu cầu phát triển và các điều kiện quốc tế, thay đổi thì chỉ cần một sự cố chưa nghiêm trọng lắm cũng đủ để tạo nên cơn bão tài chính lớn. Điều đã xẩy ra ở Thái Lan, về nguyên tắc cũng có thể xẩy ra với bất kỳ nền kinh tế nào khác. Sự rối loạn trong nền kinh tế Hàn Quốc hay sức chấn động mạnh từ cuộc khủng hoảng Thái Lan sang Malaysia, Philipin, Indonesia là những bằng chứng sinh động. Logic này phù hợp với dự đoán mà một số nhà kinh tế đưa ra cách đây vài năm cho rằng việc ít quan tâm phát triển khu vực tài chính, nhanh chóng hiện đại hoá nó với hai cấu trúc xương sống là ngân hàng và thị trường chứng khoán sẽ tạo thành điểm “tắc nghẽn” lớn nhất đối với tiến trình phát triển kinh tế của các “con rồng”. Thực tiến Thái Lan chứng nghiệm rằng ngay cả khi một nước đang thực thi ranh giới giữa sự thần kỳ và khủng hoảng vẫn rất mong manh. Bài học thứ hai liên quan đến mô hình tăng trưởng hướng vào xuất khẩu. Trong thời gian gần đây, sức tăng trưởng xuất khẩu - động lực mạnh nhất của nền kinh tế Thái Lan bị suy yếu nhanh chóng. Năm 1996, xuất khẩu của Thái Lan tăng chưa đầy 4% so với mức tăng bình quân hơn 25% của giai đoạn 1985-1995. Nguyên nhân của tình hình này là sự sụt giảm nhu cầu trên thị trường sản phẩm hàng điện tử thế giới, là sự xuống dốc của ngành sợi, dệt trước sự nổi lên của Trung quốc với tư cách là đối thủ cạnh tranh hùng mạnh nhất trong lĩnh vực này. Giá nhân công tăng làm tiêu tan lợi thế dựa vào nguồn lao động rẻ của Thái Lan trong nhiều ngành công nghiệp xuất khẩu quan trọng. Sự suy yếu này bị đẩy nhanh hơn bởi chính sách duy trì tỷ giá hối đoái cố định chỉ gắn vào một đồng ngoại tệ mạnh. Sự đắt lên của đồng bath đồng nghĩa với sự suy yếu sức cạnh tranh xuất khẩu. Cũng do sự đắt lên đó, ngành du lịch với doanh số hàng năm 4-5 tỷ USD trở nên kém sức hấp dẫn. Thu nhập ngoại tệ của đất nước giảm sút mạnh. Thâm hụt cán cân mậu dịch và thanh toán quốc tế gia tăng nhanh. Đây chính là nguồn gốc kinh tế trực tiếp của sự rối loạn tiền tệ. Có thể rút ra điều gì ở đây? Rõ ràng không thể chỉ dựa vào công thức trừu tượng hướng vào xuất khẩu để dễ dàng có được sự tăng trưởng “thần kỳ” để chiến lược này trở thành một sức mạnh thực tế, phải tính thật sát sao những biến đổi của tình hình để điều chỉnh kịp thời chiến lược cạnh tranh. Khi đó, chính sách cơ cấu và chính sách thị trường đủ linh hoạt, có năng lực, có năng lực phản ứng nhanh, chính sách tỷ giá đủ mềm dẻo để có thể duy trì sức thúc đẩy xuất khẩu là có ý nghĩa quyết định. Những yêu cầu tối thiểu và có tính sống còn đó đã không được Thái Lan đáp ứng đầy đủ trong những năm gần đây. Khi tương quan tỷ giá giữa các đồng tìền mạnh trên thế giới thay đổi, khi thị trường tiêu thụ Châu á có xu hướng bão hoà do mức tăng trưởng sản phẩm nhanh hơn nhiều sơ với nhu cầu (vì đầu tư gia tăng quá nhanh) thì cơ cấu xuất khẩu và chính sách tỷ giá của Thái Lan vốn hợp lý trong nhiều năm trước trở thành những yếu tố rủi ro. Chính tại đây tiềm chứa những hiểm hoạ đối với mô hình tăng trưởng hướng vào xuất khẩu. bài học thứ Ba điều hành chính sách tiền tệ và quản lý hoạt động trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng. khác với nhiều nước láng giềng cũng theo đuổi chiến lược tăng trưởng dựa vào xuất khẩu, Thái Lan thực thi chính sách tỷ giá cố định nhằm ổn định giá trị đồng bath. Trên thực tế, chính sách này đồng nghĩa với xu hướng đánh giá cao đồng bath. Về dài hạn, cách làm này giống các nước đi theo mô hình hướng nội (khuyến khích sản xuất thay thế nhập khẩu) hơn là theo mô hình hướng ngoại. Hệ quả đối với tăng trưởng xuất khẩu của nó, như đã nói ở trên, là tiêu cực. Điều cần nhấn mạnh thêm là sự kìm nén tỷ giá chứa đựng khả năng mất giá của đồng bath và gây bất ổn định tiền tệ. Vỉ sự kìm nén đó, gần đây, khi sự suy giảm kinh tế và những căng thẳng trong cán cân thanh toán bộc lộ, khi hướng kinh doanh chuyển mạnh sang phía đầu cơ, thì chỉ cần một dự đoán về khả năng mất giá của đồng bath cũng đủ sức tạo thành cơn lốc đầu cơ tiền tệ. Các nhà đầu cơ đua nhau vay đồng bath ở ngân hàng, bán lấy đô la để chờ thu lợi lớn trong vòng quay ngược lại của đồng tiền. Đây chính là lý do trực tiếp đẩy nền kinh tế Thái Lan vào cuộc khủng hoảng tài chính. Hiện nay, sau khi phá giá đồng bath, Thái lan lại mắc vào thế lưỡng nan. Nhiều sự phân tích chỉ ra rằng lợi ích thu được nhờ tăng sức thúc đẩy xuất khẩu chưa chắc đã bù lại được thiệt hại do giá nguyên liệu nhập khẩu tăng lên từ hành động phá giá. Trong hoạt động ngân hàng ở Thái Lan, một trong những loại thế chấp chủ yếu mà các nhà đầu cơ hay mang ra sử dụng là bất động sản. Tuy nhiên, do sự suy giảm mạnh của thị trường bất động sản trong vài năm gần đây, loại tài sản này ngày càng mất giá và giảm sức thanh khoản. Rốt cuộc, các ngân hàng gặp nạn; chúng nắm trong tay khối lượng khổng lồ các khoản thế chấp kém giá trị thậm trí còn vô giá trị xét theo ngắn hạn. Sự tồn tích mâu thuẫn từ hai phía - phía doanh nghiệp là các khoản nợ không có khả năng thanh toán, phí ngân hàng là sự thiếu hụt vốn cho vay nhưng lại thừa tài sản thế chấp ít giá trị - là hậu quả của làn sóng đầu cơ tiền tệ , của tình trạng yếu kém, dễ bị lợi dụng và bị phá vỡ của hệ thống pháp lý đảm bảo an toàn cho hoạt động ngân hàng. Dĩ nhiên, ở đây, thái Lan không phải là trường hợp duy nhất. Loại đầu cơ này khá phổ biến ở nhiều nước, đặc biệt là các nước đang phát triển, nơi mà năng lực và nghiệp vụ quản lý ngân hàng còn thấp, hành lang an toàn cho hoạt động ngân hàng rất mong manh và dễ bị tổn thương. Thậm chí, đến một hệ thống ngân hàng hùng mạnh như của Nhật cũng đang bị chao đảo dữ dội bởi tình trạng này. Bài học quả thật là đắt giá. Là một thể chế kinh tế bậc cao, có độ nhạy cảm lớn và tầm quan trọng đặc biệt, hệ thống ngân hàng đòi hỏi phải được ưu tiên quan tâm về sự bảo đảm luật pháp. Với Thái lan hay Hàn Quốc và Nhật , một khe hở nhỏ ở đây đã làm nổ tung sức mạnh phá hoại khủng khiếp của nạn đầu cơ tiền tệ và bất động sản. Bài học thứ tư liên quan đến các quan hệ tài chính thế giới. Cuộc khủng hoảng tài chính ở Mexico năm 1995 ở Thái Lan hiện nay cho thấy sự liên kết tài chính quốc tế đã sâu rộng đến mức một biến cố Ngân hàng vốn chỉ có tầm vóc địa phương trước đây, hiện nay có thể gây ra những chấn động quốc tế lớn với những hậu quả toàn cầu và khu vực không lường trước được. Tình huống mới này đã chỉ ra rằng: - Thứ nhất, lĩnh vực Tài chính của bất cứ nước nào cũng chịu sự tác động của hoạt động kinh doanh và đầu cơ quốc tế. Trong trường hợp Thái lan chính các nhà đầu cơ quốc tế đóng vai trò là tác nhân kích thích mạnh mẽ hoạt động đầu cơ tấn công vào đồng Bath (sau đó là các đồng tiền của Malaysia, Philippin, Inđônêsia) - Thứ hai, các chính phủ cần phải cảnh giác trước các tình huống bất thường về tài chính trên thế giới. Những chấn động tài chính thoạt đầu là ngoại biên có khả năng trở thành sự rối loạn toàn diện trong nước nếu không có đối sách kịp thời. Hậu quả mà Malaysia, Philippin, Inđônêsia đang gánh chịu thiệt hại kinh tế do sự chấn động từ Thái lan, xét trực tiếp, mang tính chất “bị vạ lây” . Theo nghĩa đó, cách thức chống đỡ, phòng ngừa mà các nước này áp dụng sẽ gợi lên nhiều bài học bổ ích cho các nước khác. - Thứ ba, sự trợ giúp của cộng đồng tài chính quốc tế để ngăn chặn sự lan rộng và khắc phục hậu quả khủng hoảng là một yếu tố bắt buộc và có ý nghĩa hết sức to lớn. Điều này thể hiện trên hai khía cạnh: Một là, cần có sự hỗ trợ của Tài chính quốc tế để ổn định đồng tiền, lập lại thế cân bằng vĩ mô đã bị phá vỡ. Với trường hợp Mêxicô 1995 , tổng số tài trợ quốc tế khẩn cấp (chủ yếu từ Mỹ và IMF ) lên tới 38 tỷ USD. Còn với Thái lan hiện nay, khoản vay nóng lớn không kém từ Nhật và IMF đang là giải pháp cứu cánh được trông đợi rất nhiều. Hiệu quả tích cực của tài trợ quốc tế trong trường hợp Mêxicô là rõ ràng. Còn đối với Thái lan , đó mới là kết quả tiềm thế nhưng có tính hiện thực rất cao. Hai là, sự phối hợp chính sách giữa các Chính phủ, các ngân hàng trung ương liên quan nhằm ngăn chặn sự lan rộng và khắc phục hậu quả khủng hoảng. Bước đầu, cá nước láng riềng của Thái lan đã thu nhận được những kết quả đáng khích lệ khi thực thi loại nhiệm vụ mới mẻ này. Tuy còn phải chờ đợi để đưa ra những kết quả cuối cùng, song có thể khẳng định đây là một hướng hành động hết sức tích cực. Đương nhiên, trước vấn đề của chính mình , Chính phủ Thái lan đang tích cực tìm kiếm các đối sách để giải quyết. Đây thực sự là hướng căn bản và lâu dài có ý nghĩa quyết định. Các biện pháp như kiểm soát ngoại hối, ngăn chặn nạn đầu cơ đồng Bath, tăng tín dụng cho sản xuất, thực hành nghiêm ngặt các qui chế ngân hàng..đang được áp dụng và bước đầu phải phát huy tác dụng. Nhưng sóng gió chỉ mới dịu đi. Đồng Bath cũng như hệ thống tài chính của Thái lan vẫn còn trao đảo. Chưa kể nói gì về sự kết cục của cuộc khủng hoảng khi cơn xoáy lốc của nó vẫn còn rất mạnh. Nhưng có một điều khá rõ ràng, đó là những bài học rút ra từ mối quan hệ giữa mô hình phát triển dựa vào tăng trưởng xuất khẩu với những giải pháp chiến lược nhằm thực hiện nó. Những bài học đó, tuy chưa thể nói là đầy đủ, song thật sự có giá trị cảnh tỉnh cho các nước đi sau, nhất là những nước đang theo đuổi mô hình mà Thái lan và các nước Châu á khác đã áp dụng thành công. Đối với nước ta, những bài học đó càng sát sườn, thiết thực hơn. Những biến cố mới phát sinh trong nền kinh tế - như độ rỉu ro cao trong hoạt động cho vay- thế chấp, khó khăn trong hoạt động xuất khẩu hay cách thức sử lý vấn đề tỷ giá..làm cho những gợi ý về giải pháp hay tính cảnh báo về các hiểm hoạ từ sự kiện Thái lan trở nên rõ ràng và có giá trị thực tiễn trực tiếp to lớn. Kết luận Nhìn chung cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực cho đến nay đã giảm nhưng chưa phải là đã chấm dứt. Từ thực tế cuộc khủng hoảng người ta sẽ tìm ra được nguyên nhân và có biện pháp khắc phục trong thời gian tới. Cũng qua cuộc khủng hoảng này những vấn đề yếu kém của nền kinh tế trong lĩnh vực tài chính tiền tệ sẽ được nhận biết để sửa chữa. Việt nam là một trong những nước chịu các động cuộc khủng hoảng với mức độ không lớn lắm. Những điều chỉnh trong chính sách kinh tế thời gian vời qua đã hạn chế đến mức tối đa những tác động tiêu cực. Việt nam là một nước đi sau và các lợi của nước đi sau là nhìn vào các nước đi trước để rút ra những bài học xương máu cho mình. Rồi từ đó sẽ lần tìm ra những bước đi thích hợp với hoàn cảnh. Để đạt được những giải pháp nói trên. Việt nam là nước đi sau lên phải đi lên bằng con đường thực lực của mình, như trong nghị quyết TW IV của Đảng đã khẳng định phát huy nội lực là nhân tố quan trọng nhất. TàI liệu tham khảo Tạp chí nghiên cứu kinh tế Tạp chí kinh tế thế giới Tạp chí phát triển kinh tế Tạp chí kinh tế và phát triển Tạp chí kinh tế Thái Bình Dương Tạp chí thương mại Tạp chí cộng sản Tạp chí lao động xã hội Báo đầu tư

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0776.doc
Tài liệu liên quan