Đề tài Phân tích những cơ hội và thách thức trong việc thu hút ĐTNN ở Việt Nam sau khi Việt Nam gia nhập WTO

Công tác XTĐT của cả nước trong những năm qua đã gặt hái được nhiều thành tựu đáng kể, nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào VN không ngừng gia tăng. Song vẫn còn không ít khó khăn, hạn chế. Cho đến nay vẫn chưa có một chiến lược căn cơ về đầu tư nước ngoài, cũng như chiến lược về công tác XTĐT. Hoạt động XTĐT ở các bộ, ngành và địa phương vẫn còn một số mâu thuẫn, chồng chéo; xảy ra tình trạng cạnh tranh thu hút đầu tư nước ngoài giữa các địa phương, theo kiểu mạnh ai nấy làm. Một số giải pháp như sau: -Cần tăng cường công tác quy hoạch ngành, vùng, địa phương, xây dựng chiến lược riêng cho XTĐT. Nhờ đó, mới lựa chọn đúng đối tượng nhà đầu tư và dự án hiệu quả, thay cho cách thức thụ động hiện tại là "chạy theo" những dự án nhà đầu tư chủ động đề xuất hay cấp phép tràn lan cho các dự án do nhà đầu tư đề xuất; chỉ xem xét những "cái được" trước mắt như thành tích, giải quyết việc làm, tăng thu ngân sách., mà quên đi những "cái mất" to lớn hơn về môi trường và quy hoạch phát triển của đất nước. - Tăng cường công tác nghiên cứu thị trường và đối tác đầu tư. Đây vẫn là khâu yếu nhất của công tác XTĐT. Hoạt động XTĐT mới chỉ quan tâm đến xây dựng, quảng bá hình ảnh về môi trường và cơ hội đầu tư của VN; trong khi lại thiếu những nghiên cứu có tính hệ thống và những thông tin cập nhật thường xuyên về tình hình, xu hướng đầu tư thế giới, pháp luật-chính sách của các nước thu hút đầu tư nước ngoài vào VN. Vì vậy, muốn chủ động hơn trong công tác này, phải tăng cường đào tạo một đội ngũ nhân lực XTĐT chuyên nghiệp, phát triển tốt hệ thống cung cấp thông tin tới nhà đầu tư, bằng nhiều ngôn ngữ. - Tiếp tục hoàn chỉnh pháp luật, chính sách về công tác XTĐT, tăng cường hơn nữa cơ chế phối hợp giữa trung ương và địa phương, giữa các đầu mối XTĐT trong và ngoài nước. Một cơ chế, chính sách XTĐT được cải thiện, chắc chắn góp phần không nhỏ, thúc đẩy nguồn vốn đầu tư nước ngoài đổ vào VN trong những năm tới thêm nhiều triển vọng hơn.

doc50 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1612 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phân tích những cơ hội và thách thức trong việc thu hút ĐTNN ở Việt Nam sau khi Việt Nam gia nhập WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
á nhân sản xuất, kinh doanh và người tiêu dùng; tạo môi trường lành mạnh để phát triển kinh tế. Việt Nam cũng đã cam kết với Tổ chức Thương mại Thế giới là tại thời điểm gia nhập tổ chức này, mọi nghĩa vụ về việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ quy định trong Hiệp định TRIPS sẽ được Việt Nam thực hiện ngay mà không cần thời gian chuyển tiếp. Đồng thời, theo TRIPS, Việt Nam có nghĩa vụ phải tham gia các điều ước quốc tế quan trọng về sở hữu trí tuệ như Công ước Geneva về bảo hộ người sản xuất bản ghi âm chống lại sự sao chép trái phép (1971), Công ước Rome về bảo hộ người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm và tổ chức phát thanh, truyền hình (1961), Công ước Brussels về phân phối tín hiệu vệ tinh mang chương trình mã hóa (1974) và Công ước UPOV về bảo hộ giống cây trồng mới (văn kiện 1991). Nguyên nhân của tình trạng xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ là do: (i) Các quy phạm pháp luật chưa có hiệu lực cao. Hệ thống các quy định về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ của nước ta nằm rải rác, tản mạn trong rất nhiều văn bản, phần lớn là văn bản dưới luật, hiệu lực thi hành thấp, gây khó khăn, phức tạp cho người vận dụng, gây ấn tượng không ổn định, dễ thay đổi. Một số quy phạm pháp luật còn thiếu cụ thể, chưa thống nhất, đồng bộ, chưa có tính khả thi. (ii) Hoạt động của các cơ quan bảo đảm thực thi quyền sở hữu trí tuệ thiếu thống nhất và hiệu quả. Trong số các cơ quan cùng bảo đảm thực thi quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam hiện nay không có cơ quan nào làm đầu mối phối hợp như ở các lĩnh vực khác. Thông tin giữa các cơ quan bảo đảm thực thi quyền sở hữu trí tuệ nhiều khi không thông suốt. Thậm chí, không hiếm trường hợp mỗi cơ quan thực thi giữ một quan điểm khác nhau về cùng một vụ việc, dẫn đến kết quả xử lý khác nhau. Bên cạnh đó, các cơ quan bảo đảm thực thi quyền sở hữu trí tuệ hiện nay có rất ít cán bộ được đào tạo về sở hữu trí tuệ. (iii) Nhận thức của xã hội về sở hữu trí tuệ còn rất hạn chế Đối với đa số người dân, sở hữu trí tuệ vẫn là một lĩnh vực mới mẻ, thậm chí hơi “xa xỉ” so với những lo toan cuộc sống hàng ngày. Trong khi đó, thông tin về sở hữu trí tuệ là một khâu còn rất yếu, mạng lưới dịch vụ về sở hữu trí tuệ rất mỏng, không tạo điều kiện để nâng cao nhận thức chung và thúc đẩy các hoạt động bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ. Kinh nghiệm của các nước đã trải qua cho thấy nếu tăng cường bảo hộ sở hữu trí tuệ lên 10% thì đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ tăng 50% và các công nghệ cao sẽ tăng trưởng 40%. Đó là cơ hội vô cùng to lớn mà các nước đang phát triển phải nắm lấy khi mà quyền sở hữu trí tuệ đã trở thành điều kiện bắt buộc cho các quốc gia khi hội nhập sân chơi quốc tế. 2.2. Thách thức trong cạnh tranh thu hút đầu tư nước ngoài với các nước khác Tự do hoá trong việc thu hút đầu tư nước ngoài sẽ dẫn đến những khó khăn cho Việt Nam trong quá trình cạnh tranh với các nước khác, đặc biệt là các nước trong khu vực như Trung Quốc, Ấn Độ, các nước thành viên ASEAN trong thu hút đầu tư nước ngoài. Lý do thứ nhất là vì chế độ thu hút đầu tư nước ngoài của Việt Nam tuy đã được điều chỉnh nhiều lần theo hướng tự do hoá nhưng vẫn còn nhiều rào cản và so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới mức độ tự do hoá của Việt Nam chưa cao. Theo kết quả nghiên cứu về tự do hoá đầu tư của các nước APEC của Chiang Rai (Nhật Bản), Việt Nam có được mức độ các rào cản đối với thu hút đầu tư nướcngòai (FDI) đứng thứ 7 trong tổng số 19 nước được nghiên cứu. Lý do thứ hai là vì ngay cả khi môi trường luật pháp, chính sách thu hút đầu tư nước ngoài của Việt Nam có thể cạnh tranh được với các nước khác thì nhiều yếu tố khác của môi trường đầu tư nước ngòai của Việt Nam như cơ sở hạ tầng, các ngành công nghiệp phụ trợ... vẫn còn kém sức hấp dẫn so với nhiều nước trên thế giới và trong khu vực. Gia nhập WTO sẽ tạo ra một mặt bằng pháp lý chung trong khu vực để điều chỉnh đầu tư nước ngoài. Việc tạo ra một môi trường đầu tư thông thoáng và thuận lợi sẽ khiến cho các nhà đầu tư thay vì đầu tư vào một nước để chiếm lĩnh thị trường nước này, có thể đầu tư mới hoặc mở rộng cơ sở đầu tư đã có ở một quốc gia khác trong khu vực thuận lợi hơn để xuất khẩu hàng hoá sang nước kia mà vẫn được hưởng các ưu đãi về đầu tư. Điều này sẽ làm cho luồng vốn đầu tư nước vào khu vực tăng song lại mất tính chất đồng đều giữa các quốc gia khi. Trên thực tế, Việt Nam nằm trong khu vực hầu hết các nước đều cạnh tranh gay gắt để thu hút đầu tư nước ngoài . Trung Quốc, Ấn Độ, Pakistan, Myanmar,....đang nỗ lực cải thiện môi trường FDI. Đặc biệt, do rút ra bài học từ cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ châu Á về vai trò tích cực của đầu tư nước ngòai so với đầu tư chứng khoán và vay thương mại, các nước Đông Nam Á, Hàn Quốc, Trung Quốc nhanh chóng điều chỉnh chính sách thu hút đầu tư nước ngoài theo hướng ngày càng tự do hơn nhằm tăng sức hấp dẫn đối với dòng vốn này. Trong khi đó, mặc dù năm 2006 thu hút được 10,2 tỷ USD vốn FDI, mức cao nhất trong 10 năm gần đây, nhưng xét về sức hấp dẫn đối với FDI Việt Nam chỉ đứng thứ tư trong ASEAN và đứng thứ 48 trong số 79 nền kinh tế thế giới. Việt Nam có một số lợi thế cạnh tranh trong thu hút đầu tư nước ngoài nhưng các lợi thế này lại thuộc cấp thấp (lợi thế tĩnh: tài nguyên tự nhiên không có khả năng tái sinh, tiền lương thấp, tỷ lệ lao động có trình độ tay nghề cao còn hạn chế). Trong khi đó, nhiều nước đã chú trọng và chuẩn bị cho mình các lợi thế cạnh tranh cấp cao (lợi thế động: vốn lớn, công nghệ hiện đại, người lao động có chuyên môn cao, dịch vụ tốt...). Ngoài các lợi thế trên, môi trường đầu tư ở Việt Nam bị đánh giá là kém sức hấp dẫn so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới do có nhiều rủi ro, chi phí đầu tư cao, hệ thống tài chính - ngân hàng chưa hoàn thiện, chính sách thuế, chính sách xuất nhập khẩu, cân đối ngoại tệ còn nhiều vướng mắc, kết cấu hạ tầng chưa phát triển, thủ tục sau giấy phép còn nhiều phiền hà, tốc độ tăng trưởng kinh tế đã chững lại, lợi thế so sánh về chi phí lao động rẻ, chi phí sản xuất thấp, giá thành sản phẩm hạ đang mất dần, dân số đông nhưng sức mua thấp, quy mô thị trường nhỏ bé, có những ràng buộc về tỷ lệ xuất khẩu sản phẩm, tự cân đối ngoại tệ. Có thể minh chứng cho nhận định trên qua việc so sánh giữa môi trưòng đầu tư của các nước ASEAN và của Việt Nam. Bảng 2.6 cho thấy cơ sở hạ tầng của Việt Nam còn kém so với các nước ASEAN, đây là một bất lợi thế của Việt Nam trong thu hút đầu tư nước ngoài. BẢNG 2.6: So sánh cơ sở hạ tầng của các nước trong ASEAN Nước Sân bay Cảng biển Giao thông Điện lực Viễn thông Bình quân Singapore 4,9 4,9 4,6 4,4 4,7 4,7 Brunei 3,3 3,0 3,3 3,6 3,5 3,3 Malaysia 3,1 3,1 2,7 2,6 3,2 2,9 Thái Lan 3,1 2,5 1,6 2,7 3,0 2,6 Philippin 2,3 2,4 1,9 2,2 2,7 2,3 Indonesia 3,0 2,4 2,3 2,6 2,7 2,6 Việt Nam 1,9 2,0 1,9 1,9 2,2 2,0 Myanmar 1,6 1,5 1,6 1,4 1,4 1,5 Lào 1,5 1,5 1,7 1,5 1,5 Campuchia 1,6 1,5 1,8 1,4 1,4 1,5 Xếp hạng: Điểm 5 là cao nhất                                                                     Nguồn: năm 2006 * Số liệu trong bảng trên được tính toán trên cơ sở phân tích các yếu tố của môi trường đầu tư về cơ sở hạ tầng, các điều kiện luật pháp, chính sách với thang điểm từ 1-5.Như vậy, khi thực hiện các cam kết trong khuôn khổ, Việt Nam sẽ phải mở cửa hầu hết các lĩnh vực, dành NT cho các nhà đầu tư nước ngoài, không còn duy trì chính sách bảo hộ sản xuất trong nước nữa. Khi đó nếu kinh tế, công nghệ và các yếu tố khác của môi trường đầu tư của Việt Nam vẫn yếu kém hoặc chậm được cải thiện như đã phân tích thì Việt Nam sẽ không thu hút được nhiều vốn đầu tư nước ngoài. 5. Biến Việt Nam thành nơi tiếp nhận các công nghệ thấp từ các nước đang phát triển Ngày nay, các nước đang phát triển rất tích cực đầu tư ra nước ngoài. Hội nhập đầu tư quốc tế theo xu thế tự do hoá FDI sẽ tạo thuận lợi cho các nước trong đó có các nước đang phát triển đầu tư vào Việt Nam. Dòng vốn FDI từ nhiều nước đang phát triển thường đi kèm với các công nghệ lạc hậu mà các nước này trước đây đã tiếp nhận từ các nước phát triển hơn và nay để đổi mới công nghệ nhưng vẫn khai thác được các công nghệ cũ, các nước này thường tìm cách chuyển giao sang các nước có trình độ phát triển kém hơn. Vì vậy nếu quản lý không tốt, Việt Nam có thể trở thành nơi tiếp thu những công nghệ lạc hậu của các nước đang phát triển khác. Điều này sẽ kìm hãm sự phát triển của Việt Nam, khiến khoảng cách giữa Việt Nam và các nước sẽ ngày càng xa hơn. Thực tiễn thu hút FDI vào Việt Nam trong thời gian vừa qua cho thấy thách thức này không dễ vượt qua. Do trình độ của cán bộ quản lý, trình độ của các kỹ sư, kỹ thuật viên còn kém, chưa được tiếp xúc nhiều với các công nghệ tiên tiến, chưa được cập nhật thường xuyên nên trong thời gian vừa qua Việt Nam đã tiếp nhận nhiều công nghệ lạc hậu trên thế giới thông qua FDI. Điều này làm ảnh hưởng xấu đến môi trường và làm chậm lại quá trình CNH – HĐH đất nước. 2.3/ Những yếu kém, bất cập đang tồn tại ở Việt Nam + Thiếu cán bộ quản lý và lao động tay nghề cao Để có thể hội nhập WTO một cách hiệu quả, một trong những công việc trong tương lai đòi hỏi Việt Nam phải có một đội ngũ cán bộ quản lý đông đảo về số lượng và giỏi về chuyên môn. Có như vậy `Việt Nam mới chủ động đề ra được các kế hoạch, lộ trình hội nhập trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài phù hợp với tình hình kinh tế trong nước và không bị quá chậm so với các nước khác, mới chuẩn bị tốt được các yếu tố trong nước để hạn chế các tác động tiêu cực và tăng cường các tác động tích cực trong việc thu hút đầu tư nước ngoái. Trong khi đó, hiện tại đội ngũ cán bộ quản lý của Việt Nam còn ít, thiếu kinh nghiệm hội nhập. Việc đào tạo đội ngũ cán bộ đòi hỏi phải có thời gian và kinh phí. Đây là một việc không dễ đối với Việt Nam trong điều kiện ngân sách còn hạn chế và hệ thống giáo dục chưa theo kịp trình độ tiên tiến trên thế giới. Một vấn đề nữa đặt ra cho nguồn nhân lực của Việt Nam đó là nguồn lao động phổ thông. Tăng cường hội nhập trong lĩnh vực đồng nghĩa với việc có cơ hội tăng dòng vốn này lên, nhưng muốn tăng vốn đầu tư thì trước tiên cần có nguồn lao động có chất lượng phù hợp yêu cầu của nhà tuyển dụng. Trên thực tế, nguồn lao động phổ thông của Việt Nam có ưu điểm là cần cù, chịu khó và có giá rẻ nhưng chuyên môn kỹ thuật yếu, thiếu tác phong công nghiệp và không tôn trọng cam kết. Lực lượng lao động có trình độ, kiến thức ở Việt Nam còn thiếu. Việt Nam là nước khá thành công trong việc phổ cập giáo dục với tỷ lệ người biết chữ cao (chiếm 97%), tỷ lệ người có bằng cấp trên đại học cũng tương đối cao. Nhưng trên thực tế số người tiếp cận được với khoa học kỹ thuật và phong cách quản lý mới còn quá ít ỏi, số lượng sinh viên tốt nghiệp khối kỹ thuật của Việt Nam chỉ là 30,6% tổng số sinh viên tốt nghiệp; trong khi đó con số này của Trung Quốc là 64,2% và Singapore là 42%. Theo đánh giá của các nhà đầu tư nước ngoài thì hiện giá nhân công ở Việt Nam rẻ nhưng lại hoá đắt so với các nước khác nếu so sánh tương quan giữa giá nhân công và năng suất lao động. Chính vì vậy một số doanh nghiệp FDI ở Việt Nam phải thuê chuyên viên kỹ thuật người nước ngoài, điều này làm giảm cơ hội việc làm của lao động Việt Nam. Hiện nay các nhà đầu tư nước ngoài không chỉ tìm kiếm nguồn lao động với giá rẻ mà là nguồn lao động có chất lượng cao với giá hợp lý. Vì vậy, để phát huy lợi thế của lực lượng lao động dồi dào, giá rẻ trong thu hút đầu tư nước ngoài (đặc biệt là FDI), Việt Nam cần chú trọng hơn nữa việc gắn kết giữa đào tạo - sản xuất và nghiên cứu để có được lực lượng lao động có tay nghề cao, đáp ứng kịp thời với nhu cầu của các nhà đầu tư nước ngoài. + Công tác quản lý Nhà nước còn nhiều yếu kém Công tác quản lý Nhà nước còn một số bất cập. Bên cạnh những cải tiến rõ rệt về thủ tục hành chính từ khâu hình thành, thẩm định dự án đến khâu thực hiện dự án, những quy định về thủ tục hành chính ở một số lĩnh vực như xuất khẩu, nhập khẩu, hải quan, đất đai.... còn rất phức tạp, gây phiền hà và làm nản lòng các nhà đầu tư. Trong một thời gian dài, việc quản lý quá tập trung vào khâu cấp phép đầu tư, buông lỏng khâu quản lý sau giấy phép là khâu quyết định thành bại của dự án. Do đó, các cơ quan quản lý Nhà nước không nắm vững tình hình và kết quả hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý Nhà nước thiếu chặt chẽ, nhiều cơ quan có xu hướng muốn mở rộng quyền lực nhưng lại né tránh trách nhiệm.Thủ tục hành chính là một trong những cản trở làm tăng chi phí và làm nản lòng các nhà đầu tư nước ngoài. Sau khi có giấy phép đầu tư các nhà đầu tư còn phải xin rất nhiều các loại giấy phép khác mới được triển khai dự án. Việt Nam chưa có cơ quan dịch vụ tư vấn đầu tư miễn phí như ở các nước. Các thủ tục về địa chính, về thuế, những quy định về thanh tra, kiểm tra, kiểm toán... thường xuyên thay đổi, không nhất quán và chồng chéo gây hoài nghi cho các nhà đầu tư nước ngoài về chính sách và luật pháp của Việt Nam. Trong thời gian gần đây, Chính phủ Việt Nam đã có nhiều biện pháp để cải cách hành chính nhưng bộ máy hành chính Nhà nước ở Việt Nam vẫn bị các tổ chức quốc tế đánh giá thấp.Việc thực thi pháp luật, chính sách chưa nghiêm. Hiện tượng sách nhiễu, tiêu cực chưa bị chặn đứng; tình trạng thanh tra, kiểm tra còn chồng chéo, phiền hà, hiện tượng hình sự hoá các quan hệ kinh tế có xu hướng tăng lên, nạn tham nhũng, buôn lậu, làm hàng giả chậm được khắc phục... Những vấn đề trên đã làm biến dạng chính sách, làm xấu thêm môi trường đầu tư. Công tác quản lý Nhà nước còn nhiều sơ hở để một số đối tác nước ngoài lợi dụng như nâng giá đầu vào, hạ giá đầu ra để thu lời bất chính, đưa thiết bị cũ, lạc hậu vào nền kinh tế, gian lận thương mại. + Công tác vận động, xúc tiến đầu tư còn kém hiệu quả. Trong một vài năm qua, Việt Nam đã tổ chức nhiều diễn đàn giữa doanh nghiệp và Chính phủ, thực hiện các hoạt động tuyên truyền, xúc tiến đầu tư ở nước ngoài. Mặc dù Việt Nam có đầy đủ tiềm năng để thu hút khối lượng lớn FDI phục vụ công nghiệp hoá song số lượng các dự án, vốn đăng ký và vốn triển khai vẫn tương đối nhỏ và lên xuống hàng năm. Sở dĩ như vậy là do việc thu hút FDI của Việt Nam có hai tồn tại sau: a. Tuyên bố định vị không rõ ràng Việt Nam đang định vị là điểm tiếp nhận FDI như thế nào? Câu hỏi này chưa được trả lời rõ ràng. Việt Nam muốn trở thành quốc gia phân tán rủi ro khi nhà đầu tư đã đầu tư vào Trung Quốc? Việt Nam muốn là cơ sở sản xuất chi phí thấp nhất ASEAN? Việt Nam muốn là quốc gia có chính sách thu hút FDI ổn định nhất ASEAN? Việt Nam sẽ là địa bàn có tỷ lệ lợi nhuận biên cao nhất thế giới? Chính phủ Việt Nam đã đưa ra một loạt yếu tố sau như là điểm hấp dẫn với các nhà đầu tư nước ngoài: (i) ổn định chính trị; (ii) ổn định kinh tế vĩ mô; (iii) vị trí địa lý lý tưởng; (iv) nguồn nhân lực trẻ và có kỹ năng; (v) mức lương công nhân cạnh tranh (60-70% của Thái Lan, 18% của Singapore và 3-5% của Nhật Bản); (vi) kích cỡ thị trường triển vọng với dân số lớn và thu nhập đang tăng; (vii) hệ thống pháp lý được cải cách theo hướng hội nhập quốc tế; (viii) chi phí kinh doanh đang được giảm; (ix) thuế thu nhập doanh nghiệp thấp và miễn thuế nhập khẩu; (x) cho phép nhiều hình thức đầu tư; (xi) xoá bỏ kiểm soát ngoại hối; (xii) đang nỗ lực thực hiện hệ thống một giá và (xiii) mở rộng ngành đầu tư cho các dự án FDI. Tuy nhiên, khi được hỏi về việc chọn ra một hoặc hai yếu tố hấp dẫn chính, câu trả lời thường khác nhau giữa các cơ quan và các cá nhân. b. Các chương trình xúc tiến và truyền thông kém hiệu quả Trước năm 2003, công tác xúc tiến FDI của Việt Nam còn hạn chế, Bộ Kế hoạch và đầu tư sử dụng các biện pháp sau: (i) danh mục các dự án kêu gọi FDI (dự án UNIDO); (ii) hội nghị xúc tiến FDI tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh; (iii) hội thảo ở nước ngoài; (iv) sách hướng dẫn (thủ tục pháp lý, giới thiệu về Uỷ ban Nhà nước về hợp tác và đầu tư SCCI,...); (v) một cuốn băng video sử dụng ở các hội thảo xúc tiến FDI và gửi tặng nhà đầu tư ; và hợp tác với các doanh nghiệp FDI để tổ chức hội thảo, hội nghị với các nhà đầu tư tiềm năng trong năm 2000. Chính phủ Việt Nam đã nhìn thấy những điểm yếu trong việc thu hút FDI của mình là: (i) thiếu một quy hoạch cho việc thu hút FDI; (ii) danh mục các dự án kêu gọi đầu tư không phù hợp với nhu cầu và quan tâm của nhà đầu tư; (iii) các hoạt động xúc tiến ở nước ngoài kém hiệu quả; (iv) tài liệu truyền thông không đầy đủ; và (v) không cập nhật các thông tin trực tuyến. Các nhà đầu tư tiềm năng đang nghe những thông điệp không thống nhất từ các phái đoàn vận động đầu tư của Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng như của các địa phương. Vấn đề tồn tại khi thiết lập một phái đoàn quốc gia đó là đại diện của tỉnh có ít cơ hội phát biểu. Thậm chí việc chia nhỏ nhóm làm việc cũng không hoàn toàn giải quyết được hạn chế này. Thành phần của đoàn làm việc cũng là một vấn đề. Thành phần của các đoàn địa phương thường bao gồm Chủ tịch hay Phó Chủ tịch tỉnh và đại diện từ Văn phòng Uỷ ban, Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở Tài chính, ....Một số thành viên không thực sự hiểu rõ vai trò của mình trong công tác xúc tiến đầu tư. Khi hội nghị, hội thảo kết thúc, một trong những công việc cần thiết phải thực hiện là các hoạt động sau hội thảo nhằm tiếp tục tìm hiểu và kích thích nhu cầu của các nhà đầu tư tiềm năng. Trên thực tế, các phái đoàn Việt Nam thường cung cấp danh thiếp và địa chỉ liên lạc sau mỗi kỳ gặp mặt song ai là người trực tiếp chủ động liên lạc lại và trợ giúp các nhà đầu tư thì chưa rõ ràng. Hơn nữa, do thiếu thông tin về nhà đầu tư, các phái đoàn Việt Nam thường có xu hướng trình bày nhiều về các thông tin không hữu ích và cung cấp ít các thông tin thực sự có ích cho nhà đầu tư. Chẳng hạn, một bài trình bày kêu gọi đầu tư điển hình thường bao gồm các số liệu về kinh tế, các thống kê về FDI, ODA, thương mại và du lịch. Thông tin về quan hệ song phương giữa Việt Nam với quốc gia đang ghé thăm cũng được trình bày như hình thức đầu tư (100% vốn nước ngoài, liên doanh, hợp đồng hợp tác kinh doanh), số lượng dự án đầu tư, số lượng việc làm tạo ra từ các dự án đầu tư... Các thông tin này cũng cần thiết cho nhà đầu tư theo cách này hay cách khác song các nhà đầu tư cần các thông tin đặc thù hơn như họ có thể bắt đầu công việc kinh doanh như thế nào, khuyến khích cụ thể nào họ có thể nhận được, Chính phủ sẽ giúp đỡ họ như thế nào để giải quyết các khó khăn phát sinh,... Các thông tin cụ thể này lại không được đề cập đầy đủ trong các tài liệu vận động đầu tư. Bên cạnh đó, việc so sánh giữa Việt Nam với Trung Quốc và Thái Lan như điểm đến của các nhà đầu tư nước ngoài cũng ít khi được thực hiện. Đây là một trong những thông tin mà nhà đầu tư thực sự muốn tìm hiểu. Nếu Việt Nam chỉ trình bày về đất nước, chính sách và tiềm năng của mình, điều này vừa quá nhiều và cũng vừa quá ít. Như vậy, hai tồn tại cơ bản trong thu hút FDI của Việt Nam là những vấn đề liên quan tới định vị và phạm vi truyền thông. Về định vị, Bộ Kế hoạch và đầu tư cũng như các tỉnh cần chọn một thông điệp khơi dậy sự quan tâm của các nhà đầu tư tiềm năng. Về phạm vi truyền thông, việc thiết kế các tài liệu xúc tiến đầu tư, quyết định thành phần phái đoàn tiếp xúc, cần lấy việc thoả mãn lợi ích, nhu cầu của nhà đầu tư làm cơ sở. CHƯƠNG III NHỮNG GIẢI PHÁP, KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO KHẢ NĂNG THU HÚT ĐTNN Ở VIỆT NAM SAU KHI VIỆT NAM GIA NHẬP WTO I. Định hướng thu hút ĐTNN ở Việt Nam sau khi Việt Nam gia nhập WTO Định hướng phát triển kinh tế của Việt Nam từ nay đến 2020 1. Duy trì tốc độ tăng trưởng ổn định và phát triển một cách toàn diện, cân đối và bền vững về kinh tế, văn hóa, xã hội. GDP năm 2020 đạt 180 - 200 tỉ USD. Tốc độ tăng trưởng GDP/năm giai đoạn 2006- 2020: 9,2-10%. GDP bình quân đầu người: 1.800-2.000 USD. Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đầu người/năm giai đoạn 2006/2020: 7,9-8,6%. Tỷ trọng giá trị nông nghiệp - công nghiệp - dịch vụ trong GDP: 10-44-46%. Giá trị xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ: 108 tỉ USD. Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu hàng năm: 9,4%. Vốn FDI: 2.384 triệu USD.     2. Phát triển kinh tế - xã đồng đều các khu vực kinh tế trọng điểm Bắc, Trung, Nam và cả nước; đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng gia tăng tỷ trọng khu vực dịch vụ; phát triển kinh tế hướng mạnh về xuất khẩu. Khu vực dịch vụ phấn đấu đạt tỷ trọng khoảng 40-41% năm nông, lâm nghiệp và thuỷ sản khoảng 15-16%; công nghiệp và xây dựng khoảng 43-44%; Theo Báo cáo, tỷ trọng ngành công nghiệp và xây dựng trong GDP năm 2005 là 41%, tỷ trọng các ngành dịch vụ là 38,1%. Với GDP năm 2005 là 53 tỷ USD ( theo giá hiện hành), giá trị ngành công nghiệp và xây dựng đạt khoảng 21,73 tỷ USD, giá trị các ngành dịch vụ đạt khoảng 20,19 tỷ USD. Như vậy, giá trị ngành dịch vụ bằng khoảng 0,9291 lần giá trị ngành công nghiệp và xây dựng ( 20,19 tỷ /21,73 tỷ USD). Hiện đại hóa các ngành dịch vụ, đặc biệt là các loại dịch vụ cao cấp phục vụ sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế và công nghiệp hóa ngang tầm với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của các khu vực kinh tế trọng điểm cả nước. Hình thành một cơ cấu các thành phần kinh tế hợp lý, liên kết hỗ trợ lẫn nhau, bao gồm kinh tế nhà nước, kinh tế hợp tác, kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. 3. Tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về năng suất, chất lượng và hiệu quả của từng ngành và toàn bộ nền kinh tế nhằm nâng cao sức cạnh tranh trong tiến trình hội nhập, chiếm lĩnh thị trường trong nước, mở rộng thị trường xuất khẩu. Tập trung đầu tư đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng các ngành CN hiện có, từng bước phát triển các ngành CN mũi nhọn, hoàn chỉnh các khu CN tập trung. Phát triển các ngành, các lãnh vực DV then chốt như thương mại, xuất nhập khẩu, tài chính - ngân hàng, bảo hiểm, du lịch, vận tải, thông tin viễn thông, khoa học công nghệ, giáo dục đào tạo; hình thành một trung tâm kinh tế - tài chánh khu vực Đông Nam Á; phấn đấu duy trì tốc độ tăng trưởng tổng kim ngạch xuất khẩu bình quân năm giai đoạn 2000-2005 là 22%/năm và giai đoạn 2006 - 2010 là 20%/năm, tốc độ tăng tổng kim ngạch nhập khẩu bình quân năm giai đoạn 2000-2005 là 17%/năm và giai đoạn 2006 - 2010 là 15%/năm. Phát triển nông nghiệp theo hướng phù hợp với đặc điểm đô thị sinh thái.     4. Tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với bảo đảm dân sinh, nâng cao chất lượng cuộc sống, công bằng xã hội. Chuẩn bị tốt nguồn nhân lực; lựa chọn phát triển các công nghệ “mũi nhọn”, đồng thời mở rộng nghiên cứu ứng dụng đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH; tạo nhiều việc làm. Phấn đấu không còn hộ đói, giảm số hộ nghèo dưới 8% tổng số hộ, giảm khoảng cách về mức sống giữa hộ dân cư giàu nhất và hộ nghèo nhất từ trên 10 lần hiện nay xuống còn 5 - 6 lần vào năm 2010; xây dựng môi trường văn hóa - xã hội lành mạnh, tiên tiến, mang đậm bản sắc và truyền thống dân tộc; cải thiện môi trường rộng thoáng, sạch và xanh. Việc cung cấp nhà ở với giá phù hợp cho các tầng lớp dân cư khác nhau trong khu vực nội thành nhằm cải thiện cuộc sống của những người nghèo, được đặt lên hàng đầu.     5. Hạn chế tăng dân số và phân bố lại hợp lý dân cư trong vùng và trên địa bàn thành phố. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, bao gồm học vấn, nghề nghiệp, đạo đức và thể chất. Coi trọng phát triển khoa học và công nghệ, văn hóa – nghệ thuật, y tế, giáo dục, thể dục thể thao tương xứng với một trung tâm của khu vực. Khắc phục các tiêu cực và tệ nạn xã hội, phân hóa giàu nghèo.   6. Phát triển đồng bộ và đi trước một bước hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế – xã hội, hạ tầng kỹ thuật, đặc biệt là giao thông đô thị. Song song với việc chỉnh trang, cải tạo, nâng cấp khu vực đô thị cũ, phát triển nhanh các khu vực đô thị mới, đô thị hóa vùng nông thôn nhằm hạn chế mật độ dân cư tập trung quá mức ở các khu vực trung tâm; gia tăng mật độ cây xanh, khắc phục ô nhiễm, cải thiện môi trường sinh thái, tiến tới xây dựng một đô thị văn minh hiện đại. Về lâu dài, thành phố là đầu mối lớn về giao thông đường sắt ở khu vực phía Nam, nối với đồng bằng sông Cửu Long, Nam Tây Nguyên và với đường sắt xuyên Á. Kiên quyết dần từng bước thay đổi cơ cấu các loại phương tiện giao thông hoạt động trên địa bàn Thành phố. Tập trung giải quyết vấn đề giao thông công cộng và phát triển cơ sở hạ tầng giao thông. Thành phố Hồ Chí Minh sẽ phát triển một hệ thống giao thông công cộng (xe Bus) tiện nghi và giá cả vừa phải trong khu vực nội thành, cũng như phát triển dọc theo trục hành lang nối ra bên ngoài.     7. Tiếp tục thực hiện cải cách hành chính, nâng cao năng lực điều hành quản lý nhà nước ở các cấp chính quyền thành phố; nghiên cứu đề xuất, điều chỉnh, bổ sung những vấn đề thuộc cơ chế, chính sách và luật pháp để tạo động lực mới, động viên sức dân tham gia xây dựng thành phố.     8. Phát triển kinh tế, kết hợp với giữ vững an ninh chính trị, trật tự công cộng, an toàn xã hội, đóng góp tích cực cho công tác bảo đảm an ninh - quốc phòng khu vực phía Nam và đất nước. Định hướng thu hút ĐTNN ở Việt Nam sau khi Việt Nam gia nhập WTO Định hướng thu hút đầu tư nước ngoài của Việt Nam tập trung vào các lĩnh vực quan trọng như sản xuất vật liệu mới, năng lượng mới; sản xuất công nghệ cao, công nghệ sinh học, công nghệ thông tin, cơ khí chế tạo. Các ngành xây dựng và phát triển giao thông, cảng biển, điện nước, xây dựng kết cấu hạ tầng khu công nghiệp, khu đô thị, phát triển nguồn nhân lực liên quan đến giáo dục đào tạo, y tế, thể thao… cũng là những ngành chú trọng thu hút đầu tư nước ngoài. 1.1.Tiếp tục khẳng định tính đúng đắn của chủ trương thu hút ĐTNN Một hệ thống quan điểm nhất quán trong việc tổ chức và hoạch định chính sách thu hút ĐTNN vào Việt Nam trong những năm tới đang là vấn đề cấp bách. Cho đến nay, mặc dù Đảng và nhà nước ta dã có quan điểm rõ ràng về vai trò của ĐTNN, coi vốn trong nước là quyết định, vốn nước ngoài là quan trọng. Tuy nhiên, quan điểm rõ ràng chưa được thể hiện thật sự nhất quán trong tổ chức và chính sách thu hút vốn ĐTNN. Chính vì thế việc quán triệt trong từng ngành, từng lĩnh vực, từng địa phương chưa thật đầy đủ, dẫn đến tình trạng thiếu sự nhất quán trong việc triển khai thực hiện thu hút nguồn vốn này. Do đó, tiếp tục khẳng định tính đúng đắn của chủ trương thu hút vốn đầu tư nước ngoài và cần thiết phải khai thác đến mức tối đa nguồn vốn này để thực hiện chiến lược phát triển kinh tế-xã hội ở Việt Nam đầu thế kỉ 20 trong khi nguồn vốn trong nước còn có hạn. 1.2. Tập trung thu hút ĐTNN vào những ngành, nghề, lĩnh vực có lợi thế so sánh của nước ta với các nước khác Nhà nước ta cần hướng vốn ĐTNN vào những ngành, nghề, lĩnh vực sản xuất hàng hoá và dịch vụ có lợi thế như nuôi trồng thuỷ hải sản, du lịch, thuỷ điện, đồng thời tập trung vốn ĐTNN vào những ngành có công nghệ tiên tiến, có tỉ lệ xuất khẩu cao; còn những ngành ít vốn, công nghệ thấp thì huy động chủ yếu vốn đầu tư trong nước, nếu có liên doanh thì bên Việt Nam là đối tác chính. 1.3. Khuyến khích các nhà đầu tư bỏ vốn vào khắc phục dần sự chênh lệch giữa các vùng lãnh thổ Về khắc phục dần sự chênh lệch giữa các vùng lãnh thổ, chúng ta cần khuyến khích các nhà đầu tư bỏ vốn vào các khu vực địa bàn còn đang gặp khó khăn về cơ sở hạ tầng, điều kiện thiên nhiên không thuận lợi như miền Trung, miền núi phía Bắc, vùng sâu, vùng xa… Khi cần thiết, Chính Phủ phải huy động thêm cả vốn trong nước, chấp nhận thu hồi vốn chậm, lãi suất thấp để xây dựng một số điểm kinh tế cho các khu vực như khu công nghiệp Dung Quất( Quảng Ngãi), nhà máy thuỷ điện Yaly( Tây Nguyên), nhà máy thuỷ điện Tà Bú( Sơn La),… 1.4. Chuyển đối tác đầu tư Việt Nam cần tập trung tăng cường hợp tác trực tiếp với các nước phát triển có tiềm lực kinh tế mạnh, các công ty đa quốc gia, các tập đoàn lớn trên thế giới để tranh thủ được công nghệ “gốc”; tiếp cận với cách quản lý hiện đại, tạo điều kiện cho Việt Nam hội nhập vào thị trường quốc tế. Tuy nhiên, chúng ta cũng cần phải chú ý thu hút các doanh nghiệp vừa và nhỏ của nước ngoài vì đó là doanh nghiệp năng động, thích ứng nhanh với những biến động của thị trường, phù hợp với đối tác Việt Nam về khả năng góp vốn, năng lực tiếp thu công nghệ, kinh nghiệm quản lý và tạo nhiều điều kiện việc làm. 1.5. Nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài Tiếp tục cải cách hành chính, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài. Cần xây dựng quy chế phối hợp chặt chẽ giữa chính phủ với các bộ tổng hợp, các bộ quản lý các ngành, UBND tỉnh trong việc quản lý hoạt động đầu tư nước ngoài theo đúng thẩm quyền, trách nhiệm của từng cơ quan quản lý Nhà nước. Cần triệt để và kiên quyết hơn trong việc quy định rõ ràng minh bạch các thủ tục hành chính ở mọi khâu, mọi cấp, công khai các quy trình, thời hạn, trách nhiệm xử lý các thủ tục hành chính nhằm tạo nên sự chuyển biến mạnh mẽ và cải cách hành chính trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài. II. Một số giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao khả năng thu hút ĐTNN ở Việt Nam sau khi Việt Nam gia nhập WTO 1. Cải thiện môi trường về ĐTNN: hệ thống pháp luật, thủ tục hành chính 1.Hệ thống pháp luật Với mục tiêu đưa nước ta tới năm 2020 cơ bản trở thành nước công nghiệp, bên cạnh việc phát huy nội lực, việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài để phục vụ cho mục tiêu này cũng là một nguồn lực hết sức quan trọng. Quá trình hoàn thiện về chính sách đất đai, chính sách thị trường và tiêu thụ sản phẩm phải đặt trong mục tiêu thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài một cách có hiệu quả và các chính sách này phải được đặt ra trong mối quan hệ qua lại lẫn nhau một cách thống nhất ăn khớp. 1.1 Quy hoạch thu hút vốn ĐTNN Bộ kế hoạch và đầu tư cần nhanh chóng lập qui hoạch các ngành, lãnh thổ cơ cấu kinh tế thống nhất trên phạm vi cả nước. Trước hết, cần khẩn trương qui hoạch các khu công nghiệp, các sản phẩm quan trọng thuộc các ngành công nghiệp chế biến như: chế biến thực phẩm, dệt, may; công nghiệp chế tạo như: cơ khí, hoá chất, điện tử, vật liệu xây dựng, sản xuất ô tô, xe máy, đóng tàu; công nghiệp hoá dầu; công nghiệp luyện kim; công nghiệp thông tin... Trên cơ sở đó xác định các dự án trong nước tự đầu tư hoặc vay vốn để đầu tư theo ngành và lãnh thổ cũng như xác định yêu cầu tương ứng về công nghệ. Các ngàh cần hoàn chỉnh thêm một bước công tác quy hoạch; phối hợp với các thành phố và địa phương xây dựng quy hoạch trên địa bàn lãnh thổ. 1.2 Chính sách thuế và ưu đãi tài chính Chính sách thuế và những ưu đãi tài chính gắn với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài là một yếu tố chủ yếu cấu thành tính hấp dẫn của môi trường đầu tư trực tiếp nước ngoài. Do đó chúng ta cần thực hiện: -Thực hiện tốt luật thuế VAT và thuế thu nhập công ty. Đây là hai đạo luật thuế trong giai đoạn đầu áp dụng để đưa hoạt động thu thuế đối với các dự án đầu tư nước ngoài đi vào ổn định. -Tăng cường các biện pháp ưu đãi taì chính cho các nhà đầu tư thông qua hệ thống giá cả áp dụng đối với các nhà đầu tư nước ngoài vào các doanh nghiệp trong nước thống nhất như giá điện nước, giá cước vận tải, bưu điện, hàng không. -Nâng cao hiệu lực và hiệu quả vủa các biện pháp ưu đãi tài chính như giả quyết nhanh vấn đề thuế cho các nhà đầu tư nước ngoài, việc chuyển lợi nhuận về nước thuận tiện, vấn đề góp vốn được dễ dàng đặc biệt là không nên hạn chế hoặc đưa ra qui định bắt được các nhà đầu tư nước ngoài phải góp vốn bằng tiền mặt khi họ cũng đang gặp những khó khăn cho tác động của cuộc khủng hoảng tài chính- tiền tệ. -Hỗ trợ cho các dự án đã được cấp giấy phép đầu tư được hưởng những ưu đãi của các qui định mới về thuế, lợi tức, giá thuế đất mới, miễn giảm thuế doanh thu đối với những doanh nghiệp thực sự lỗ vốn. -Hỗ trợ bằng ngoại tệ cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đang thực sự gặp khó khăn. -Chủ động thu hút nhiều hơn nguồn vốn nước ngoài không nhất thiết phải ấn định tỷ lệ nguồn vốn, tranh thủ mọi nguồn vốn cho phát triển. -Cho phép các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cổ phần hoá để tăng vốn phát triển sản xuất kinh doanh. -Ban hành chính sách thu phí thống nhất để tránh tình trạng thu phí bất hợp lý và không quản lý được, tránh thu phí tuỳ tiện ở các địa phương. 1.3 Chính sách đất đai Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến đất đai phạu vụ cho các dự án có vốn đầu tư nước ngoài, đặt biệt là việc tiếp tục ban hành các văn bản dưới luật cụ thể hoá 3 quyền của nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam về đất đai là quyền chuyển nhượng , quyền cho thuê và quyền thế chấp tăng cường hiệu lực của pháp luật về đất đai. Hình thành bộ máy xử lý nhanh chóng và có hiệu quả các vấn đề liên quan đến đất đai trong đầu tư nước ngoài như vấn đề thủ tục cấp đất, đền bù, giải toả, giải phóng mặt bằng và việc bảo đảm tính ổn định của khu đất được sử dụng cho đầu tư ngước ngoài. Đẩy mạnh hoạt động qui hoạch đất đai phục vụ cho đầu tư nước ngoài trước hết ở các thành phố lớn và các vùng kinh tế động lực, tiếp theo là các tỉnh trong cả nước. Việc thực hiện chính sách đất đai đối với đầu tư nước ngoài để dảm bảo hiệu qủa, cần chú trọng các giải pháp sau: -Phát huy vai trò cấu các cơ quan hoạch định chính sách về đất đai như quốc hội, chính phủ trong việc xây dựng các đạo luật, chính sách, qui định về đất đai thuộc sở hữu toàn dân và nhà nước là người sở hữu duy nhất về đất đai cho nên các chính sách về đất đai càng cụ thể, rõ ràng, ổn định bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu. Để có thể đảm bảo cụ thể hoá một cách hợp lý chính sách đất đai áp dụng ở Việt Nam trong lĩnh vự đầu tư nước ngoài cần: + Tích cực tham khảo kinh nghiệm của cá nước về việc áp ụng chính sách đất đai đối với các nhà đầu tư nước ngoài như Trung Quốc, Thái Lan, Malaixia, Mianma… + Tập hợp các ý kiến của các nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam về chính sách đất đai cũng như xu hướng xử lý chính sách đất đai áp dụng đối với khu vực có vốn đầu tư nước ngoài của các nước, thông lệ quốc tế để hình thành một chính sách đất đai giành cho đầu tư nước ngoài ổn định. + Đầu tư vào công tác phân vùng, qui hoạch vùng giành cho hoạt động đầu tư nước ngoài cần thống nhất cách thức cấp đất và giải phóng mặt bằng. Điều chỉnh khung chi phí đền bù, giải phóng mặt bằng phù hợp với mặt bằng thực tế hơn đặc biệt là dự toán về giải phóng mặt bằng.. -Tăng cường hiệu lực của các qui định pháp luật và chính sách đất đai, kết hợp giữa thuyết phục, tuyên truyền ý thức pháp luật và cưỡng chế. Những trường hợp làm trái với pháp luật về đất đai cần có. Những biện pháp cưỡng chế kịp thời. Hình thành hệ thống các chính sách đất đai có tính cạnh tranh cao so với các nước trong khu vực. Tăng thời gian cho thuê đất, giảm giá cho thuê đất, giảm bớt các thủ tục hành chính phiền hà. Chuyển quyền sử dụng đất đai nhanh chóng và kịp thời cho từng dự án. Chỉ đạo thực hiện nhanh chóng việc đền bù, giải phóng mặt bằng nhanh để đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án đã cấp giấy phép, nghiên cứu khả năng được chi phí đền bù vào giá thuê đất để đảm bảo tính cạnh tranh với các nước trong khu vực hoãn hoặc miễn tiền thuế đất đối với những dự án xin dừng, hoặc dãn tiến độ triển khai. Giảm giá thuê đất trong các khu công nghiệp, khu chế xuất. 1.4 Chính sách lao động và tiền lương Giải quyết thoả đáng các tranh chấp về lao động và tiền lương hoàn thiện các thủ tục đối với lao động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngaòi như ký hợp đồng, thoả ước lao động tập thể và thành lập, phát huy vai trò của các tổ chức công đoàn, tổ chức Đảng và Đoàn thanh niên cụ thể: -Hoàn thiện các loại văn bản qui định áp dụng đối với người lao động trong các dự án có đầu tư nước ngoài. Các văn bản đặc biệt chú trọng là qui định tuyển dụng, lựa chọn lao động, chức năng của các cơ quan quản lý lao động, vấn đề đào tạo, đề bạt và sa thải lao động, các văn bản xử lý tranh chấp về tác động, tiền lưong, thu nhập. -Hoàn thiện bọ máy hành pháp về quản lý lao động trong các dự án có vốn nước ngoài, thành lập phân toà lao động để xử lý tranh chấp lao động cá nhân và lao động tập thể. -Phát huy vai trò của tổ chức công đoàn trong doanh ngiệp tránh tình trạng hoạt động của công đoàn đi ngược lại với lợi ích của người lao động. Chú trọng đào tạo ngươi lao động cả trong nước và nước ngoài để tiếp thu công nghệ. -Phát huy vai trò của cơ quan thanh tra lao động trong việc kiểm tra, giám sát việc thực hiện chính sách lao động và tiền lương của các dự án đầu tư nước ngoài đồng thời sửa đổi các chính sách về lao động và tiền lương cho thích hợp. 1.5. Thực hiện các biện pháp bảo đảm đầu tư Các cơ quan chức năng cần nhanh chóng soạn thảo và ban hành các văn bản quy định chế độ bảo lãnh tín dụng về: thế chấp, cầm cố khi các doanh nghiệp muốn đi vay. Bên cạnh đó cũng cần ban hành quy chế thu hồi nợ, Luật đầu tư nước ngoài hiện nay quy định bên nước ngoài tham gia vào liên doanh phỉa góp vốn bằng tiền nước ngoài. Song thực tế có không ít trường hợp nhà đầu tư nước ngoài thu được lợi nhuận của mình bằng tiền Việt Nam hoặc có được nhờ thừa kế, chuyển nhượng vốn… muốn tái đầu tư mở rộng sản xuất hoặc đầu tư mới. Do đó nên cho phép các nhà đầu tư góp vốn bằng tiền Việt Nam nhưng có qui định các khoản thu nào được cho phép góp vốn để đầu tư. Thực tế phát sinh cho thấy: trong nhiều liên doanh nhờ đàm phán đôi bên, bên Việt Nam nhận được lợi nhuận nhiều hơn tỷ lệ vốn góp. Vì vậy, nhà nước nêu qui định “các bên liên doanh đợc phân chia lỗ lãi tuỳ theo sự đàm phán song không được thấp hơn tỉ lệ góp vốn” để đảm bảo quyền lợi cho phía Việt Nam. 1.6 Giáo dục pháp luật cho lao động trong các doanh gnhiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài Về hạn chế tối đa những bất công giữa công nhân và chủ đầu tư do thiếu hiểu biết về pháp luật, các cán bộ quản lý của Việt Nam và tổ chức công đoàn phải thường xuyên tuyên truyền, phổ biến các điều khoản về lao động cho công nhân biết, từ đó giúp họ nhận thức rõ hơn về trách nhiệm và quyền hạn của mình mà yên tâm sản xuất. Tổ chức công đoàn và cán bộ quản lý của Việt Nam phải phát huy hết những vai trò của mình trong khuôn khổ luật định để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người lao động. Đồng thời nhắc nhở nhà đầu tư biết những việc làm chưa đúng của họ. Có như vậy mới tạo ra mối quan hệ hài hoà giữa các bên. 2. Về thủ tục hành chính 2.1Cải tiến thủ tục cấp giấy phép đầu tư Cần đẩy nhanh hơn nữa tiến độ cải cách thủ tục hành chính, khắc phục sự trì trệ trong các cơ quan quản lý nhà nước, đơn giản hoá các thủ tục hành chính theo nguyên tắc “một cửa”, “một dấu”. Các cơ quan phụ trách hợp tác và đầu tư tạo điều kiện thận lợi cho họ đăng kí. Về hồ sơ đăng kí cấp giấy phép đầu tư, các cơ quan chức năng phải thông báo công khai các loại giấy phép cần có, riêng các loại dự án có tỉ lệ xuất khẩu từ 80% trở lên và một số lĩnh vực khác do bộ Kế hoạch và Đầu tư công bố, nhà đầu tư phải đăng kí theo mẫu của bộ Kế hoạch và Đầu tư. Bộ Khoa học- Công nghệ và Môi trường cần sửa đổi, điêù chỉnh một số nội dung theo hướng giảm bớt các danh mục phải báo cáo đánh giá tác động đến môi trường và quy định cụ thể các dự án được miễn lập các loại báo cáo này. Với các dự án đó, cơ quan thẩm định phải tiến hành khẩn trương và bảo đảm độ chính xác cao để vừa rút ngắn thời gian đăng kí vừa hạn chế được các công nghệ lạc hậu, gây ô nhiễm môi trường. Muốn vậy các cơ quan phải thường xuyên thu thập các thông tin về công nghệ tiên tiến của thế giới. Việc cấp giấy phép kinh doanh đối với những lĩnh vựcvà ngành nghề mà theo quy định phải có giấy phép kinh doanh hoặcgiấy phép hành nghề, doanh nghiệp chỉ cần đăng kí với cơ quan nhà nước có thẩm quyền để triển khai hoạt động của mình theo mục tiêu, ngành nghề quy định tại giấy phép đầu tư, không phải xin giấy phép kinh doanh hoặc giấy phép hành nghề. Để tạo điều kiện cho việc triển khaidự án nhanh sau khi được cấp giấy phép đầu tư, nhà nước giải quyết nhanh chóng các thủ tục. Thủ tục cấp đất: Sở địa chính ở các tỉnh, thành phố chỉ tiến hành đo đạc, lập bản đồ địa chính một lần và đơn giản hoá mọi thủ tục khác về đất đai. Đồng thời đề nghị tổng cục địa chính và các cơ quan hữu quan soạn thảo ngay các quy định về giả phóngmặt bằng, về đèn bù cho các dự án có vốn đầu tư nước ngoài, cũng như quy định về chuyển quyền sử dụng đất. Thủ tục quản lý xây dựng cơ bản theo thiết kế đã đăng kí cần được tổ chức chặt chẽ nhưng không được can thiệp quá sâu. cơ quan nhà nước quản lý xây dựng cơ bản cần thực hiện đúng chức năng thẩm quyền của mình, đồng thời cải tiến các thủ tục theo hướng gọn nhẹ và hiệu quả. 2.2 Đơn giản hoá thủ tục hải quan Các quy định thủ tục hải quan phải được sửa đổi ngay và công bố công khai theo hướng đơn giản, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp khắc phục ngay các hiện tượng phiền hà, tiêu cực; biết tiếp thu và xử lý các ý kiến đóng góp hoặc khiếu nại của khách hàng. Muốn vậy phải có sự phối hợp giữa các bộ, ban, ngành có liên quan như thương mại, hải quan, công nghệ môi trường. Những vấn đề phát sinh không giải quyết được mà phải nhanh chóng có công văn hỏi ý kiến và công văn phúc đáp của cơ quan chức năng. Tăng cường hoạt động xúc tiến đầu tư, kết hợp lựa chọn thẩm tra đối tác đầu tư Công tác XTĐT của cả nước trong những năm qua đã gặt hái được nhiều thành tựu đáng kể, nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào VN không ngừng gia tăng. Song vẫn còn không ít khó khăn, hạn chế... Cho đến nay vẫn chưa có một chiến lược căn cơ về đầu tư nước ngoài, cũng như chiến lược về công tác XTĐT. Hoạt động XTĐT ở các bộ, ngành và địa phương vẫn còn một số mâu thuẫn, chồng chéo; xảy ra tình trạng cạnh tranh thu hút đầu tư nước ngoài giữa các địa phương, theo kiểu mạnh ai nấy làm. Một số giải pháp như sau: -Cần tăng cường công tác quy hoạch ngành, vùng, địa phương, xây dựng chiến lược riêng cho XTĐT. Nhờ đó, mới lựa chọn đúng đối tượng nhà đầu tư và dự án hiệu quả, thay cho cách thức thụ động hiện tại là "chạy theo" những dự án nhà đầu tư chủ động đề xuất hay cấp phép tràn lan cho các  dự án do nhà đầu tư đề xuất; chỉ xem xét  những "cái được" trước mắt như thành tích, giải quyết việc làm, tăng thu ngân sách..., mà quên đi những "cái mất" to lớn hơn về môi trường và quy hoạch phát triển của đất nước... - Tăng cường công tác nghiên cứu thị trường và đối tác đầu tư. Đây vẫn là khâu yếu nhất của công tác XTĐT. Hoạt động XTĐT mới chỉ quan tâm đến xây dựng, quảng bá hình ảnh về môi trường và cơ hội đầu tư của VN; trong khi lại thiếu những nghiên cứu có tính hệ thống và những thông tin cập nhật thường xuyên về tình hình, xu hướng đầu tư thế giới, pháp luật-chính sách của các nước thu hút đầu tư nước ngoài vào VN... Vì vậy, muốn chủ động hơn trong công tác này, phải tăng cường đào tạo một đội ngũ nhân lực XTĐT chuyên nghiệp, phát triển tốt hệ thống cung cấp thông tin tới nhà đầu tư, bằng nhiều ngôn ngữ... - Tiếp tục hoàn chỉnh pháp luật, chính sách về công tác XTĐT, tăng cường hơn nữa cơ chế phối hợp giữa trung ương và địa phương, giữa các đầu mối XTĐT trong và ngoài nước... Một cơ chế, chính sách XTĐT được cải thiện, chắc chắn góp phần không nhỏ, thúc đẩy nguồn vốn đầu tư nước ngoài đổ vào VN trong những năm tới thêm nhiều triển vọng hơn. Đổi mới để phát triển mạnh nguồn nhân lực Việt Nam hiện có 163 trường đại học, 206 trường cao đẳng, và 276 trường trung cấp chuyên nghiệp (TCCN), 284 trường dạy nghề. Trong những năm gần đây một số lĩnh vực: công nghệ thông tin, cơ khí, tài chính-ngân hàng… bước đầu được cải thiện nhưng chất lượng vẫn chưa đáp ứng với yêu cầu thực tế. Tỷ lệ lao động trong độ tuổi được đào tạo nghề còn thấp, khoảng 30%. Do đó, việc đổi mới đào tạo nhân lực để đáp ứng đòi hỏi của nền kinh tế đang là một trong những nhiệm vụ hết sức quan trọng. Hơn nữa trong bối cảnh xã hội luôn có những thay đổi rất lớn về tiến bộ khoa học, công nghệ, kinh tế toàn cầu và khung luật pháp, nhất là khi Việt Nam đã gia nhập WTO, do đó nguồn nhân lực phải có khả năng thích nghi cao và nhiều hơn nữa. Một số giải pháp như sau: - Xây dựng chương trình mục tiêu để đào tạo, bồi dưỡng nhân lực quản lý DN, quản lý Nhà nước, các chuyên gia công nghệ cao. Triển khai đào tạo theo đơn đặt hàng của các ngành, công ty lớn qua liên kết 3 bên: các cơ sở đào tạo, DN có nhu cầu nhân lực và các cơ quan Nhà nước (Bộ GD-ĐT, Bộ LĐ-TB&XH). Tại các địa phương có KCN lớn khuyến khích nhà đầu tư nước ngoài thành lập các trung tâm đào tạo theo các chuẩn đào tạo quốc tế. Hình thành hệ thống giám sát và đánh giá chất lượng đào tạo; triển khai kiểm định chất lượng đào tạo, gắn kết quả kiểm định với mức phân bổ tài chính. - Xây dựng đề án đào tạo theo nhu cầu xã hội. Không chỉ chú trọng đào tạo đại học mà còn phải coi trọng cả việc dạy nghề. Hiện nay, các trường đại học, TCCN năng lực có gì dạy nấy nhưng trong tương lai nhà trường phải tìm hiểu xem xã hội đang cần ngành nghề gì để đào tạo. Bên cạnh đó, cần xây dựng hệ thống dữ liệu về các trường đại học, TCCN để các DN biết được trường nào có khả năng đào tạo ngành nghề gì mà chủ động đặt hàng. Mặt khác các trường đại học, TCCN nên ký kết hợp đồng đào tạo với DN. - Xây dựng trung tâm quốc gia thông tin về thị trường lao động. Hình thành mạng lưới các trung tâm thông tin thị trường lao động thuộc vùng và địa phương, tích hợp thông tin vào hệ thống thông tin quốc gia. Ngoài ra, còn phải xây dựng trung tâm dự báo nhu cầu đào tạo có nhiệm vụ nghiên cứu về thị trường lao động, bản chất và xu hướng việc làm, kỹ năng, đào tạo chuyên gia trong lĩnh vực kinh tế lao động và phân tích nhu cầu đào tạo theo ngành nghề khác nhau để cung cấp thông tin cho hệ thống đào tạo. Chú trọng đầu tư xây dựng một số trường đào tạo chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu các ngành nghề ưu. 5. Tập trung sức phát triển cơ sở hạ tầng giao thông, năng lượng: - Tập trung đưa vào cấp kỹ thuật và nâng cấp các công trình hiện có, kết hợp xây dựng mới một số công trình phục vụ đắc lực cho phát triển kinh tế - xã hội của Trung ương và địa phương. Hoàn chỉnh, hiện đại hóa và tiếp tục phát triển cơ sở hạ tầng giao thông đảm bảo vận tải tối ưu trên toàn mạng lưới. Mở rộng và xây dựng mới các quốc lộ có nhu cầu vận tải lớn. Xây dựng hệ thống đường bộ cao tốc trên các hành lang vận tải quan trọng. Phải hoàn thành nâng cấp các tuyến đường sắt hiện có đạt cấp đường sắt quốc gia và khu vực. Xây dựng một số tuyến mới có nhu cầu. Cải tạo và xây dựng một số tuyến đường sắt đôi và điện khí hóa. Triển khai xây dựng tuyến đường sắt cao tốc Bắc - Nam. Hoàn thành việc mở rộng, nâng cấp các cảng tổng hợp quốc gia chính. Xây dựng cảng nước sâu ở 3 khu vực kinh tế trọng điểm. Phát triển cảng trung chuyển quốc tế tiếp nhận tàu trọng tải lớn, đáp ứng được nhu cầu vận tải. - Nâng cấp hệ thống đường sông chính yếu trong mạng đường sông Trung ương và địa phương đạt cấp kỹ thuật quy định. Đầu tư chiều sâu, nâng cấp và xây dựng mới các cảng hàng hóa và hành khách, đặc biệt ở đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long. Nâng cấp, mở rộng và xây dựng mới các cảng hàng không quốc tế có quy mô và chất lượng ngang tầm với các nước trong khu vực. Hoàn thành nâng cấp và xây dựng mới các sân bay nội địa đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế. Phát triển hợp lý hệ thống cơ sở hạ tầng giao thông đô thị và vận tải công cộng. Đảm bảo quỹ đất dành cho giao thong, - Phải có các chính sách có các chính sách rõ ràng về các nguồn tài nguyên hiện nay, nhất là chính sách cụ thể về năng lượng mới & tái tạo. Sự đầu tư cho lĩnh vực này còn rất nhỏ nhoi và hạn chế, điều kiện phục vụ việc nghiên cứu, phát triển và ứng dụng năng lượng mới về vật chất và nhân lực còn thiếu thốn. Trước mắt, đối với các dự án năng lượng mới cần được miễn các loại thuế và Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ thích đáng ban đầu. - Nhà nước nên hành một hệ thống các văn bản pháp quy, cho phép hình thành một thị trường trong lĩnh vực này. Bên cạnh đó, cũng cần xây dựng và đào tạo đội ngũ những người đủ trình độ, để đảm đương việc bảo dưỡng thường xuyên các hệ thống khi đã chuyển giao; Xây dựng một mạng lưới dịch vụ đến các vùng có dự án, để có thể xử lý kịp thời những sự cố xảy ra cho các hệ thống. Và quan trọng hơn là, cần thường xuyên kiểm tra, phát hiện các vi phạm và có chế tài xử phạt đối với những người tự ý thay đổi hệ thống… - Về lâu dài, Chính phủ nên giao cho các Bộ, ngành xây dựng chiến lược phát triển năng lượng tái tạo trên phạm vi toàn quốc. Đây là vấn đề lớn, đòi hỏi phải tổng hợp khả năng chuyên môn cao của các ngành, các cấp và khả năng thu hút nhiều nguồn vốn đầu tư trong và ngoài nước. Chính vì vậy, vấn đề phát triển năng lượng mới ở nước ta đang rất cần có hành lang pháp lý, để tạo sự thống nhất, tập trung sức mạnh toàn dân, nhằm khai thác có hiệu quả tiềm năng sẵn có từ thiên nhiên. Hơn nữa, để tránh bị tụt hậu với xu thế phát triển chung trên toàn thế giới. KẾT LUẬN Gia nhập WTO đem lại cơ hội to lớn trong quá trình phát triển kinh tế nhưng kèm theo đó là những thách thức khó khăn không nhỏ. WTO là một sân chơi bình đẳng, ở đó các luật lệ - qui tắc đều được áp dụng trên nguyên tắc công bằng với mọi thành viên tham gia. Một sân chơi luôn có người chiến thắng và thất bại. TÀI LIỆU THAM KHẢO Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đối thoại trực tuyến (ngày 9 – 2 – 2007). Ban Biên tập Website Chính phủ. GS.TS. Nguyễn Văn Thường: GS.TS. Nguyễn Kế Tuấn (chủ biên): Kinh tế Việt Nam 2005 trước ngưỡng của của WTO. Nxb Đại học kinh tế Quốc dân, 2006. Võ Đại Lược: Trung Quốc gia nhập WTO: thời cơ và thách thức. Nxb Khoa học xã hội 2004. Trần Đình Thiên: Gia nhập WTO: cơ hội và thách thức cho Việt Nam. Tạp chí nghiên cứu kinh tế 2006 số 8 (339). Một số trang Web: Mục “Vấn đề toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế”. Hàng Việt Nam chất lượng cao www.wto.org World Trade Organization (Tổ chức Thương mại Thế giới). TS. Đinh Đào Ánh Thủy: Bài giảng Đầu tư nước ngoài và chuyển giao công nghệ. Trường Đại học kinh tế quốc dân. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2005), Báo cáo về một số trở ngại trong việc thu hút vốn Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam, Hà Nội. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2005), Báo cáo về Tình hình và giải pháp tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài trong giai đoạn tới, Hà Nội. Nguyễn Hữu Hiểu (Học viện Tài chính): Kết hợp sử dụng vốn ODA và FDI để phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. Tạp chí Kinh tế và Phát triển số 110, tháng 8/2006. THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ: QUYẾT ĐỊNH Số: 290/2006/QĐ-TTg, Phê duyệt Đề án "Định hướng thu hút và sử dụng nguồn hỗ trợ phát triển chính thức thời kỳ 2006 - 2010"

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc24743.doc
Tài liệu liên quan