Đề tài Phân tích rủi ro lãi suất trong hoạt động kinh doanh tại ngân hàng thương mại cổ phần An Bình phòng giao dịch Long Xuyên

Một là: trong bối cảnh lãi suất thị trường có xu hướng biến động nhiều như hiện nay, cần có sự quan tâm của bộ máy lãnh đạo và cán bộ ngân hàng trong nhận thức toàn diện về quản trị rủi ro lãi suất trong hoạt động kinh doanh ngân hàng như: xây dựng một chính sách quản lý rủi ro lãi suất, có những nội dung thực hiện trong quá trình quản lý rủi ro đặc biệt trong xu thế hội nhập kinh tế, tài chính quốc tế hiện nay vì trên thực tế, muốn biết được mức độ tổn thất của rủi ro lãi suất để có biện pháp phòng chống thì ABBank - Long Xuyên cần phải tính toán được rủi ro lãi suất tác động như thế nào đến thu nhập ròng cũng như giá trị tài sản của ngân hàng. Để xác định một cách chính xác những tác động này đòi hỏi cán bộ ngân hàng phải thực sự am hiểu về quản lý tài sản – nguồn vốn của ngân hàng, đồng thời phải có những kiến thức nhất định về tài chính để nắm vững những kỹ thuật đo lường rủi ro lãi suất bằng việc sử dụng mô hình. Đối với ABBank - Long Xuyên, đây là vấn đề tương đối mới và phần lớn cán bộ, nhân viên ngân hàng chưa được trang bị những kiến thức này. Bên cạnh đó, trình độ hiểu biết của các cán bộ, nhân viên ngân hàng về các dịch vụ phái sinh như giao dịch kỳ hạn, hoán đổi, quyền chọn vẫn còn hạn chế. Ngân hàng chưa có đội ngũ nhân viên am hiểu những kiến thức về tài chính, pháp lý, về thị trường giao dịch, đặc biệt là kỹ thuật định giá và giao dịch các công cụ tài chính phái sinh, và đây chính là một trong những nguyên nhân gây trở ngại trong việc triển khai các nghiệp vụ phái sinh phòng ngừa rủi ro lãi suất tại ngân hàng.

pdf66 trang | Chia sẻ: Kuang2 | Lượt xem: 774 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phân tích rủi ro lãi suất trong hoạt động kinh doanh tại ngân hàng thương mại cổ phần An Bình phòng giao dịch Long Xuyên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ỳ hạn dưới 12 tháng vẫn chiếm tỷ trọng cao trong tổng tiền gửi tiết kiệm nhạy cảm với lãi suất với tỷ lệ gần 93%. Có kết quả như vậy là do trong những tháng đầu 2008, chính sách thắt chặt tiền tệ của chính phủ đã đẩy lãi suất huy động lên cao, để đáp ứng tính thanh khoản của mình, ngân hàng đã huy động mức lãi suất cao ở những kỳ hạn ngắn, điều này làm người dân đầu tư nhiều vào loại tiền gửi này và xem đây là hình thức đầu tư đạt hiệu quả cao. Sang 6 tháng cuối năm 2008, lượng tiền tiết kiệm huy động có giảm so với đầu năm do lãi suất huy động hạ nhưng tiền gởi tiết kiệm có kỳ hạn dưới 12 tháng vẫn chiếm tỷ trọng cao trong tổng nguồn vốn huy động nhạy cảm với lãi suất. Ở vùng nông thôn hiện nay có rất nhiều hộ làm ăn khá giả nên lượng tiền nhàn rỗi ở vùng nông thôn là khá lớn. Trong thời gian qua, ABBank đã hoạt động rất hiệu quả, đạt được niềm tin của khách hàng cùng với sự hướng dẫn cặn kẽ của các nhân viên, biểu lãi suất được niêm yết rõ ràng nên việc huy động vốn gửi tiết kiệm của người dân là rất thuận lợi. Tuy nhiên vẫn còn khá nhiều hộ làm ăn khá giả nhưng chưa từng làm quen với việc gửi tiền vào ngân hàng, chưa thấy được lợi ích của việc gửi tiền vào ngân hàng nên họ thường cất tiền tại nhà hay mua vàng để cất giữ. Vì vậy ABBank - Long Xuyên cần quan tâm hơn nguồn vốn nhạy cảm từ nông thôn, cần có sự linh hoạt trong lãi suất huy động để thu hút được được lượng tiền nhàn rỗi này, đây là một thị trường lớn mà ABBank - Long Xuyên cần khai thác trong thời gian tới. SVTH: Võ Thùy Mỹ Anh Thư 34 Phân tích rủi ro lãi suất trong hoạt động kinh doanh tại NHTMCP An Bình - PGD Long Xuyên SVTH: Võ Thùy Mỹ Anh Thư 35 Biểu đồ 4.4 Tình hình nguồn vốn nhạy cảm của ABBank - Long Xuyên qua các thời kỳ ™ ™ Tiền gửi tổ chức kinh tế nhạy cảm với lãi suất: tiền gửi các tổ chức kinh tế chiếm tỷ lệ khá cao trong tổng nguồn vốn huy động nhạy cảm với lãi suất ở 6 tháng cuối 2007 với tỷ lệ 51%, số vốn huy động từ tổ chức kinh tế trong thời gian này đạt 7.060 triệu đồng, tăng 25% so với 6 tháng đầu năm 2008. Ở 6 tháng đầu năm 2008, tỷ lệ vốn huy động từ các tổ chức kinh tế chỉ chiếm 22% trong tổng vốn huy động nhạy cảm với lãi suất là do huy động tiền gửi tiết kiệm tăng cao. Sang 6 tháng cuối 2008, số vốn huy động từ các tổ chức kinh tế tăng 49% so với 6 tháng đầu năm tương đương 2.788 triệu đồng. Có sự tăng trưởng này một phần là do lãi suất cho vay hạ, kèm theo sự hỗ trợ lãi suất của chính phủ đã làm cho hoạt động của các doanh nghiệp có phần bình ổn trở lại nên các doanh nghiệp sẽ gửi lượng tiền chưa cần thiết sử dụng vào ngân hàng trong một thời gian để giảm bớt chi phí cho doanh nghiệp, đồng thời các doanh nghiệp cũng muốn có sự linh hoạt trong việc bổ sung vốn lưu động của mình. Điều này cũng giải thích lý do tại sao trong cơ cấu tiền gửi của các tổ chức kinh tế, thì tiền gửi không kỳ hạn lại chiếm tỷ trọng cao hơn tiền gởi có kỳ hạn. ™ Chứng từ có giá nhạy cảm với lãi suất: đây cũng là một trong những công cụ huy động vốn hiệu quả của ABBank - Long Xuyên với mục đích thực hiện kế hoạch kinh doanh của ngân hàng trong năm. 6 tháng cuối 2007, ABBank - Long Xuyên phát hành 1.374 triệu đồng giấy tờ có giá chiếm 9% tổng vốn huy động nhạy cảm với lãi suất của ngân hàng. Sang 6 tháng đầu 2008, do huy động được tiền gửi tiết kiệm khá cao nên ABBank - Long Xuyên đã giảm việc phát hành giấy tờ có giá xuống 15% so với 6 tháng cuối 2007. Ở 6 tháng cuối 2008, do lãi suất cho vay bắt đầu hạ, các tổ chức Phân tích rủi ro lãi suất trong hoạt động kinh doanh tại NHTMCP An Bình - PGD Long Xuyên kinh tế, cá nhân bắt đầu vay vốn trở lại để phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh của mình nên ABBank - Long Xuyên đã tăng tiền huy động thông qua chứng từ có giá là 14% so với 6 tháng đầu năm để đáp ứng nhu cầu cho vay tăng. ™ Tiền gởi các tổ chức tín dụng nhạy cảm với lãi suất: lượng tiền gởi này chiếm tỷ trọng trung bình khoảng 20% trong vốn huy động nhạy cảm với lãi suất của ngân hàng qua các thời kỳ phân tích. Trong cơ cấu tiền gửi của các tổ chức này thì tiền gửi không kỳ hạn chiếm tỷ lệ cao sao với các kỳ hạn khác vì phần lớn là tiền gửi thanh toán. Tình trạng các tổ chức tín dụng thừa vốn do phần lớn vốn của các tổ chức tín dụng là vốn huy động, phải trả lãi suất cho vốn huy động nên biện pháp gửi tiền vào ngân hàng khác là rất hiệu quả. Nhìn chung, công tác huy động vốn của ABBank - Long Xuyên trong giai đoạn 6 tháng cuối 2007 – 6 tháng cuối 2008 là khá tốt, luôn vượt chỉ tiêu đề ra. Đạt được kết quả như vậy là do sự nổ lực của toàn thể cán bộ công nhân viên của ngân hàng trong công tác huy động vốn, linh hoạt đưa ra nhiều hình thức huy động như 1 tháng, 2 tháng, 3 thángphát hành kỳ phiếu, thông tin tiếp thị, quảng cáocùng với việc người dân đã phần nào ý thức được lợi ích của việc gửi tiền. Tuy nhiên, trên địa bàn còn có rất nhiều ngân hàng, tổ chức tín dụng khác với nhiều phương thức huy động vốn phong phú và lãi suất hấp dẫn nên để duy trì và gia tăng vốn huy động trong những năm tới, ABBank – Long Xuyên cần có kế hoạch và những biện pháp huy động tốt hơn nữa để giữ được khách hàng truyền thống và thu hút khách hàng mới, tăng vốn huy động để đáp ứng nhu cầu vay vốn ngày càng cao của các thành phần kinh tế trong xã hội. 4.3.2 Phân tích thực trạng rủi ro lãi suất của ABBank - Long Xuyên theo mô hình định giá lại: Rủi ro lãi suất là rủi ro cơ bản dễ mắc phải của ngân hàng hiện nay. Nó là một loạt các phản ứng dây chuyền, khi chi phí tăng khiến chi phí huy động tăng, người đi vay cũng phải chịu chi phí cao hơn, rủi ro thất bại của dự án đầu tư cũng tăng theo và nếu quá ngưỡng sẽ dẫn đến nguy cơ vỡ nợ. Rủi ro lãi suất xảy ra khi có sự chênh lệch giữa kỳ hạn bình quân của các tài sản và các khoản nợ của ngân hàng trong điều kiện lãi suất thị trường thay đổi ngoài dự kiến của ngân hàng dẫn đến khả năng giảm thu nhập của ngân hàng so với dự tính. Với đặc tính của những nguồn vốn huy động thường là ngắn hạn trong khi các khoản tín dụng lại bao gồm cả trung và dài hạn, ABBank - Long Xuyên thường xuyên phải đối mặt với rủi ro lãi suất và rủi ro thanh khoản đặt biệt trong tình hình lãi suất biến động tăng như thời gian vừa qua. Dựa vào công thức mô hình định giá lại chúng ta có thể đánh giá sơ bộ về tình hình rủi ro lãi suất của ABBank - Long Xuyên trong thời gian qua. SVTH: Võ Thùy Mỹ Anh Thư 36 Phân tích rủi ro lãi suất trong hoạt động kinh doanh tại NHTMCP An Bình - PGD Long Xuyên Bảng 4.5 Trạng thái nhạy cảm lãi suất của ABBank - Long Xuyên Giai đoạn 6 tháng cuối 2007 – 6 tháng cuối 2008 ĐVT: Triệu đồng KHOẢN MỤC 6 tháng cuối 2007 6 tháng đầu 2008 6 tháng cuối 2008 Tổng tài sản nhạy cảm với lãi suất 8.708 16.600 13.800 Tổng nguồn vốn nhạy cảm với lãi suất 31.698 37.086 37.226 Chênh lệch giữa tài sản và nguồn vốn nhạy cảm với lãi suất (GAP) -22.990 -20.486 -23.426 Tỷ lệ tài sản nhạy cảm trên nguồn vốn nhạy cảm 0,27 0,45 0,37 Trạng thái của ngân hàng Nhạy cảm nguồn vốn Nhạy cảm nguồn vốn Nhạy cảm nguồn vốn Thu nhập ròng (NIM) sẽ giảm nếu Lãi suất tăng Lãi suất tăng Lãi suất tăng Nguồn: Bảng CĐKT của ABBank - Long Xuyên Qua bảng số liệu chúng ta thấy rằng ABBank - Long Xuyên đang có tổng tài sản nhạy cảm với lãi suất là 8.708 triệu đồng trong 6 tháng cuối 2007, 16.600 triệu tại 6 tháng đầu năm 2008 và 13.800 triệu trong 6 tháng cuối 2008. Đây là những khoản cho vay sắp đáo hạn hoặc sắp được tái gia hạn. Nếu lãi suất tăng sau khi các khoản cho vay này được thực hiện Ngân hàng sẽ chỉ gia hạn thêm cho những khoản vay này nếu như nó có thể mang lại một khoản lợi nhuận tiềm năng cho ngân hàng xấp xỉ như mức lợi nhuận hiện tại của những công cụ tài chính khác có chất lượng tương đương. Tương tự vậy, những khoản cho vay sắp đáo hạn sẽ cung cấp cho ngân hàng những khoản vốn phục vụ tái đầu tư vào những khoản cho vay mới với lãi suất hiện tại. Tổng nguồn vốn nhạy cảm với lãi suất của ABBank - Long Xuyên cũng có sự biến động qua các kỳ phân tích. Cụ thể đạt 31.698 triệu vào 6 tháng cuối 2007 tăng lên 37.086 triệu vào 6 tháng đầu năm 2008 và tiếp tục tăng lên 37.226 triệu ở 6 tháng cuối 2008. Nguồn vốn nhạy cảm lãi suất ở đây bao gồm các chứng chỉ tiền gởi sắp đáo hạn hoặc sắp được tái gia hạn. Khi đó ngân hàng và khách hàng sẽ thỏa thuận mức tiền gởi mới, phù hợp với những điều kiện của thị trường; những khoản tiền gởi lãi suất thả nổi có thu nhập thay đổi tự động cùng với lãi suất thị trường và những khoản vay mượn trên thị trường tiền tệ có lãi suất được điều chỉnh hàng ngày để phản ánh những biến động mới nhất trên thị trường. Điều gì sẽ xảy ra khi giá trị tài sản nhạy cảm lãi suất không cân bằng với giá trị nguồn vốn nhạy cảm lãi suất? Rõ ràng là một khoản chênh lệch tài sản – nguồn vốn nhạy cản lãi suất hay một chênh lệch nhạy cảm lãi suất đã được hình thành. SVTH: Võ Thùy Mỹ Anh Thư 37 Phân tích rủi ro lãi suất trong hoạt động kinh doanh tại NHTMCP An Bình - PGD Long Xuyên Ở ABBank - Long Xuyên, tổng tài sản và nguồn vốn nhạy cảm lãi suất luôn có sự chênh lệch và chênh lệch nhạy cảm lãi suất là âm. Cụ thể, trong 6 tháng cuối 2007, chênh lệch nhạy cảm lãi suất là -22.990 triệu đồng, trong 6 tháng đầu năm là -20.486 triệu đồng và -23.426 triệu đồng trong 6 tháng cuối 2008. Nếu lãi suất tăng, tỷ lệ thu nhập cận biên của Ngân hàng sẽ giảm vì thu từ lãi trên tài sản sẽ ít hơn chi phí trả lãi cho vốn huy động. Nếu các yếu tố khác không đổi, thu nhập lãi của ngân hàng sẽ giảm xuống. Ngược lại, nếu lãi suất giảm khi ngân hàng đang trong tình trạng nhạy cảm nguồn vốn hay chênh lệch âm thì tỷ lệ thu nhập cận biên của Ngân hàng sẽ tăng vì thu từ lãi trên tài sản sẽ giảm ít hơn chi phí trả lãi cho các nguồn vốn. Như vậy, thu nhập của ngân hàng sẽ tăng. Qua bảng số liệu, chúng ta thấy rằng trong giai đoạn 6 tháng cuối 2007 – 6 tháng cuối 2008, ABBank - Long Xuyên đều ở trong trạng thái nhạy cảm với nguồn vốn, giá trị của chênh lệch nhạy cảm có sự biến động qua các thời kỳ là do tình hình về tài sản nhạy cảm với lãi suất và nguồn vốn nhạy cảm với lãi suất trong từng giai đoạn phân tích là khác nhau. Tỷ lệ chênh lệch nhạy cảm tương đối tăng 0,45 trong 6 tháng đầu 2008 và giảm xuống 0,37 trong 6 tháng cuối 2008 là do tài sản nhạy cảm lãi suất và nguồn vốn nhạy cảm lãi suất đều tăng nhưng không cùng tốc độ. Trong 6 tháng đầu 2008, tài sản nhạy cảm lãi suất tăng 90,62% so với 6 tháng cuối 2007 trong khi đó nguồn vốn nhạy cảm lãi suất chỉ tăng 17% so với 6 tháng cuối 2007 và tăng với mức tương đối ít ở 6 tháng cuối 2008 do ngân hàng vẫn còn duy trì huy động vốn ngắn hạn do lãi suất chưa thật sự ổn định. Bên cạnh đó chúng ta thấy rằng, ABBank - Long Xuyên có một tỷ lệ rủi ro lãi suất nhỏ hơn 1, chỉ khi tài sản nhạy cảm lãi suất cân bằng với nguồn vốn nhạy cảm lãi suất thì ngân hàng được coi như là không có rủi ro lãi suất. Trong trường hợp này, thu lãi từ danh mục tài sản và chi phí trả lãi vay sẽ thay đổi theo cùng một tỷ lệ, chênh lệch nhạy cảm lãi suất của ngân hàng bằng 0 và tỷ lệ thu nhập lãi cận biên được bảo vệ dù lãi suất có thay đổi theo chiều hướng nào đi nữa. Tuy nhiên, trên thực tế chênh lệch nhạy cảm lãi suất bằng 0 không loại trừ hoàn toàn được rủi ro lãi suất bởi vì lãi suất của các khoản nợ không ràng buộc chặt chẽ với nhau. Chẳng hạn lãi suất cho vay có xu hướng thay đổi chậm hơn lãi suất của những khoản vay trên thị trường tiền tệ, vì vậy thu từ lãi của ngân hàng có xu hướng tăng chậm hơn chi phí trả lãi trong giai đoạn kinh tế hiện nay Qua bảng 4.6, 4.7 dưới đây chúng ta thấy rằng cơ cấu tài sản và nguồn vốn nhạy cảm lãi suất của ABBank - Long Xuyên qua các giai đoạn khác nhau là khác nhau, điều này là đương nhiên. Nhưng nhân tố có ảnh hưởng quan trọng đến thu nhập thuần của ngân hàng lại là lãi suất. SVTH: Võ Thùy Mỹ Anh Thư 38 Phân tích rủi ro lãi suất trong hoạt động kinh doanh tại NHTMCP An Bình - PGD Long Xuyên Bảng 4.6 Thu từ lãi suất của ABBank - Long Xuyên Giai đoạn 6 tháng cuối 2007 – 6 tháng cuối 2008 ĐVT: Triệu đồng 6 tháng cuối 2007 6 tháng đầu 2008 6 tháng cuối 2008 TÀI SẢN Số Tiền Lãi suất % /năm Thu nhập từ lãi Số Tiền Lãi suất % /năm Thu nhập từ lãi Số Tiền Lãi suất % /năm Thu nhập từ lãi I. TổngTS NCLS 8.708 545 16.600 1.709 13.800 801 1.Chứng khoán ĐT 0 0 4.708 19,52 460 5.280 0 2. Cho vay ngắn hạn 8.708 545 11.892 1.249 8.520 801 +DN ngoài QD 4.354 12,24 266 7.135 21,00 749 4.516 18,75 423 + Hộ cá thể 2.419 13,20 160 2.330 21,05 245 1.702 19,00 162 + Các tồ chức TD 1.935 12,24 118 2.427 21,00 255 2.303 18,75 216 II. Khoản mục TS có LSCĐ 20.552 1.788 13.263 849 24.626 1.796 1. Tiền gửi tại các TCTD 0 4.939 5,06 125 5.371 4,51 121 2. Cho vay trung dài hạn 20.552 17,40 1.788 8.324 17,40 724 19.255 17,40 1.675 III. Tổng thu nhập từ lãi 2.333 2.558 2.597 Nguồn: Báo cáo KQHĐKD của ABBank - Long Xuyên Lãi suất của ABBank - Long Xuyên trong giai đoạn 6 tháng cuối 2007 – 6 tháng cuối 2008 có những biến đổi đột ngột cả lãi suất huy động lẫn lãi suất cho vay. Cụ thể, lãi suất bình quân đầu vào trong 6 tháng cuối 2007 trung bình khoảng 13%/năm, tăng lên khoảng 19,5% trong 6 tháng đầu năm 2008 và giảm còn 17,5% trong 6 tháng cuối năm 2008, lãi suất bình quân huy động cũng biến đổi không ngừng. Vào 6 tháng đầu 2007, lãi suất huy động vào khoảng 8%/năm, tăng lên 17,5% trong 6 tháng đầu 2008 và giảm còn khoảng 12,5 % trong 6 tháng cuối 2008. Điều này đã dẫn đến thu nhập và chi phí của ngân hàng biến động tương ứng theo từng thời kỳ phân tích. Cũng qua bảng phân tích trên, nếu ngân hàng tăng lãi suất huy động mà không tăng lãi suất cho vay thì khoảng cách lãi suất sẽ co hẹp lại, lợi nhuận giảm và nếu không trích đủ dự phòng rủi ro sẽ dẫn ngân hàng đến hậu quả tương tự khi người vay vốn gặp rủi ro. Vì vậy, cơ cấu của tài sản và nguồn vốn nhạy cảm với lãi suất tuy có tăng giảm qua các năm nhưng SVTH: Võ Thùy Mỹ Anh Thư 39 Phân tích rủi ro lãi suất trong hoạt động kinh doanh tại NHTMCP An Bình - PGD Long Xuyên với sự điều chỉnh linh hoạt của lãi suất đầu vào – đầu ra nên phần bù do chênh lệch lãi suất này cũng đủ để thu nhập thuần của ngân hàng tăng lên qua các năm. Chênh lệch giữa lãi suất đầu vào – đầu ra (chưa kể chi phí vận hành) của hệ thống ngân hàng nước ta vẫn còn cao so với các nước có hệ thống ngân hàng phát triển, điều này phần nào thể hiện sự kém phát triển của hệ thống ngân hàng nước ta. Một trong những thước đo của hệ thống ngân hàng phát triển là chênh lệch lãi suất đầu vào – đầu ra thấp và phần lớn thu nhập của ngân hàng có được từ các hoạt động dịch vụ. Điều này đang ngược lại ở các ngân hàng Việt Nam. Lợi nhuận cao là tốt, nhưng lợi nhuận cao từ việc “độc canh” tín dụng là điều không tốt cho cả hệ thống ngân hàng và nền kinh tế. Sở dĩ có sự gia tăng lãi suất của ABBank - Long Xuyên trong thời gian vừa qua là do hệ quả cuộc đua tranh huy động vốn quyết liệt của các ngân hàng. Bảng 4.7 Chi từ lãi suất của ABBank - Long Xuyên Giai đoạn 6 tháng cuối 2007 – 6 tháng cuối 2008 ĐVT: Triệu đồng 6 tháng cuối 2007 6 tháng đầu 2008 6 tháng cuối 2008 NGUỒN VỐN Số Tiền Lãi suất % /năm Chi phí lãi suất Số Tiền Lãi suất % /năm Chi phí lãi suất Số Tiền Lãi suất % /năm Chi phí lãi suất 1. Tiền gởi TK 2.284 83 13.292 1.072 7.214 431 + Tiền gởi KKH 134 3,24 2 971 4,00 19 380 3,60 7 + tiền gởi CKH<12 th 2.150 7,56 81 12.321 17,09 1.053 6.834 12,42 424 2. Tiền gởi TCKT 7.606 133 5.696 117 8.484 153 + Tiền gởi KKH 6.782 3,00 102 5.477 3,60 99 7.934 3,00 119 + tiền gởi CKH<12 th 824 7,56 31 219 17,09 19 550 12,42 34 3.Tiền gởi TCTD 3.840 62 6.028 109 4.786 78 + Tiền gởi KKH 3.665 3,00 55 6.028 3,60 109 4.657 3,00 70 + tiền gởi CKH<12 th 175 7,56 7 0 17,09 0 129 12,42 8 4.Giấy tờ có giá 1.374 8,40 58 1.170 17,93 105 4.321 13,20 285 5. Vốn vay hội sở 16.594 9,80 1.626 10.900 18,05 984 12.421 13,73 853 Tổng NVNCLS 31.698 1.962 37.086 2.387 37.226 1.800 Khoản mục có LSCĐ 1.097 8,82 48 5.051 9,07 229 14.106 9,07 640 Tổng chi từ lãi 2.010 2.616 2.440 Nguồn: Bảng CĐKT của ABBank – Long Xuyên So với 6 tháng cuối năm 2007, lãi suất huy động của các ngân hàng trên địa bàn TP. Long Xuyên tăng khá cao, dao động từ 10,32%/năm – 18%/năm tùy theo từng kỳ SVTH: Võ Thùy Mỹ Anh Thư 40 Phân tích rủi ro lãi suất trong hoạt động kinh doanh tại NHTMCP An Bình - PGD Long Xuyên hạn, lãi suất cho vay cũng tăng mạnh dao động từ 12%/năm – 21%/năm. Không chỉ tăng lãi suất, các ngân hàng còn đua nhau huy động vốn bằng nhiều hình thức như phát hành kỳ phiếu, khuyến mãiBên cạnh đó có nhiều tác động dẫn đến việc gia tăng lãi suất trong thời gian qua. Đó là cục dự trữ Liên Bang Mỹ (Fed) tăng lãi suất liên tục khiến lãi suất USD của các ngân hàng trong nước tăng, lạm phát tăng, các ngân hàng khác cũng đã tăng lãi suất. Cuộc chạy đua huy động vốn trong thời gian qua còn gọi là các ngân hàng đang “phá giá nhau”. Nhiều ngân hàng tăng lãi suất khiến các ngân hàng khác cũng phải tăng lãi suất để giữ khách hàng, nếu không khách hàng sẽ rút tiền ra gửi ở ngân hàng khác chứ thực ra tăng lãi suất huy động không hoàn toàn là do nhu cầu vốn tăng. Trước việc tăng lãi suất huy động và cho vay trong thời gian qua đã gây ảnh hưởng không nhỏ tới đầu tư sản xuất kinh doanh của nền kinh tế. Khi lãi suất thị trường tăng và lãi suất cho vay, lãi suất huy động tăng cùng mức độ thì thu nhập thuần từ lãi của Ngân hàng sẽ giảm do chi phí tiền lãi huy động nguồn vốn cao hơn doanh thu từ lãi hay Ngân hàng đang trong tình trạnh nhạy cảm nợ. Nếu lãi suất thị trường giảm và lãi suất cho vay, lãi suất huy động giảm cùng mức độ thì thu nhập thuần từ lãi sẽ tăng do chi phí huy động vốn thấp hơn doanh thu từ lãi. Để có thể nhận xét rõ hơn việc ảnh hưởng của sự biến động lãi suất đến thu nhập của Ngân hàng, chúng ta sẽ phân tích bảng tổng kết tài sản của ABBank - Long Xuyên, phân nhóm theo khoản mục nhạy cảm lãi suất. Khi đó trong từng trường hợp lãi suất tăng hoặc giảm thu nhập của ngân hàng sẽ thay đổi theo. Bảng 4.8 Biến động của thu nhập với lãi suất của ABBank - Long Xuyên Giai đoạn 6 tháng cuối 2007 – 6 tháng cuối 2008 ĐVT: Triệu đồng 6 tháng cuối 2007 6 tháng đầu 2008 6 tháng cuối 2008 TÀI SẢN Số Tiền LSCV TB % năm Thu Nhập Số Tiền LSCV TB % năm Thu Nhập Số Tiền LSCV TB % năm Thu Nhập Khoản mục NCLS 8.708 12,56 547 16.600 21,02 1.745 13.800 18,83 1.299 Khoản mục có LSCĐ 20.552 17,40 1.788 13.263 16,00 1.061 24.626 16,00 1.970 Tổng 29.260 2.335 29.863 2.806 38.426 3.269 NGUỒN VỐN Số Tiền LSHĐ TB % năm Chi phí Số Tiền LSHĐ TB % năm Chi phí Số Tiền LSHĐ TB % năm Chi phí Khoản mục NCLS 31.698 6,27 994 37.086 12,29 2.279 37.226 9,22 1.716 Khoản mục có LSCĐ 1.097 8,82 48 5.051 9,00 227 14.106 9,07 640 Tổng 32.795 1.042 42.137 2.506 51.332 2.356 Nguồn: Bảng CĐKT của ABBank – Long Xuyên SVTH: Võ Thùy Mỹ Anh Thư 41 Phân tích rủi ro lãi suất trong hoạt động kinh doanh tại NHTMCP An Bình - PGD Long Xuyên — Trường hợp 1: Thu nhập từ lãi với mức lãi suất được tính trung bình được thể hiện cụ thể ở bảng số liệu 4.8 bên trên. — Trường hợp 2: Nếu lãi suất thị trường tăng 1% cho cả khoản mục tài sản và nguồn vốn huy động thì thu nhập thuần từ lãi của ABBank - Long Xuyên biến động qua bảng số liệu 4.9. Nếu như không xét đến các khoản chi phí và thu nhập ngoài lãi suất thì thu nhập từ lãi suất của ngân hàng sẽ tăng ít hơn chi phí từ lãi suất, từ đó làm cho thu nhập từ lãi sẽ giảm xuống. Thu nhập thuần trong 6 tháng đầu 2008 giảm so với 6 tháng cuối 2007, điều này cho thấy chênh lệch nhạy cảm lúc này mở rộng, nên ngân hàng đã mắc phải rủi ro lãi suất, tuy nhiên, trong 6 tháng cuối năm thì thu nhập thuần có chiều hướng tăng rất khả quan, làm cho chênh lệch nhạy cảm hẹp lại, nên rủi ro lãi suất của ngân hàng giảm dần. Trong trường hợp xảy ra rủi ro lãi suất như trên, ngân hàng đã phải chịu lỗ một số tiền bằng hiệu số chênh lệch thu nhập thuần từ lãi suất so với trường hợp 1. Bảng 4.9 Biến động của thu nhập khi lãi suất thay đổi 1%/năm ĐVT: Triệu đồng 6 tháng cuối 2007 6 tháng đầu 2008 6 tháng cuối 2008 TÀI SẢN Số Tiền LSCV TB % năm Thu Nhập Số Tiền LSCV TB % năm Thu Nhập Số Tiền LSCV TB % năm Thu Nhập Khoản mục NCLS 8.708 13,56 590 16.600 22,02 1.828 13.800 19,83 1.3682 Khoản mục có LSCĐ 20.552 18,40 1.891 13.263 17,00 1.127 24.626 17,00 2.093 Tổng 29.260 2.481 29.863 2.955 38.426 3.461 NGUỒN VỐN Số Tiền LSHĐ TB % năm Chi phí Số Tiền LSHĐ TB % năm Chi phí Số Tiền LSHĐ TB % năm Chi phí Khoản mục NCLS 31.698 7,27 1.152 37.086 13,31 2.468 37.226 10,22 1.902 Khoản mục có LSCĐ 1.097 9,82 54 5.051 10,07 254 14.106 10,07 710 Tổng 32.795 1.206 42.137 2.722 51.332 2.612 Nguồn: Bảng CĐKT của ABBank – Long Xuyên — Trường hợp 3: Vậy khi lãi suất tăng lên nhưng không cùng mức độ thì thu nhập của ngân hàng sẽ thay đổi như thế nào? Chúng ta tiếp tục theo dõi bảng số liệu 4.10 dưới đây khi lãi suất tăng nhưng không cùng mức độ trên tài sản và nguồn vốn, dẫn đến lãi suất cho vay và lãi suất huy động chênh lệch 1%. Khi đó thu nhập từ lãi tăng nhưng chậm hơn so với chi phí từ lãi làm cho thu nhập từ lãi giảm so với trường hợp 1 và 2 SVTH: Võ Thùy Mỹ Anh Thư 42 Phân tích rủi ro lãi suất trong hoạt động kinh doanh tại NHTMCP An Bình - PGD Long Xuyên Bảng 4.10 Biến động của thu nhập khi lãi suất của TS tăng 0,5%/năm và lãi suất của NV tăng 1,5%/năm ĐVT: Triệu đồng 6 tháng cuối 2007 6 tháng đầu 2008 6 tháng cuối 2008 TÀI SẢN Số Tiền LSCV TB % năm Thu Nhập Số Tiền LSCV TB % năm Thu Nhập Số Tiền LSCV TB % năm Thu Nhập Khoản mục NCLS 8.708 13,06 569 16.600 21,52 1.786 13.800 19,33 1.334 Khoản mục có LSCĐ 20.552 17,90 1.839 13.263 16,50 1.094 24.626 16,50 2.032 Tổng 29.260 2.408 29.863 2.880 38.426 3.365 NGUỒN VỐN Số Tiền LSHĐ TB % năm Chi phí Số Tiền LSHĐ TB % năm Chi phí Số Tiền LSHĐ TB % năm Chi phí Khoản mục NCLS 31.698 7,77 1.231 37.086 13,81 2.561 37.226 10,72 1.995 Khoản mục có LSCĐ 1.097 10,32 57 5.051 10,57 267 14.106 10,57 746 Tổng 32.795 1.288 42.137 2.828 51.332 2.741 Nguồn: Bảng CĐKT của ABBank – Long Xuyên Nếu như lãi suất của những tài sản nhạy cảm tăng lên 0,5%/năm và lãi suất của những nguồn vốn nhạy cảm lãi suất tăng lên 1,5%/năm thì ngân hàng hiện đang có mức nhạy cảm nguồn vốn chỉ nhận được thu nhập nhỏ hơn hai trường hợp đã phân tích ở trên. Cụ thể trong 6 tháng cuối 2007 là 1.120 triệu đồng, lỗ 155 triệu so với trường hợp 2 và 173 triệu so với trường hợp 1. Trong 6 tháng đầu 2008 là 58 triệu đồng, lỗ 240 triệu đồng so với lãi suất chưa biến động. Thu nhập trong 6 tháng cuối 2008 là 625 triệu đồng giảm 224 triệu so với biến động 1%/năm. Tuy nhiên so với 6 tháng đầu 2008 thì lợi nhuận ròng đã tăng trở lại do sự hoạt động tích cực của ngân hàng nên chênh lệch nhạy cảm lãi suất thu hẹp và rủi ro lãi suất của ngân hàng giảm dần. Bảng 4.11 Tổng hợp thu nhập thuần từ tiền lãi của ABBank - Long Xuyên khi lãi suất biến động ĐVT: Triệu đồng Chỉ tiêu 6 tháng cuối 2007 6 tháng đầu 2008 6 tháng cuối 2008 Khi lãi suất chưa biến động 1.293 299 914 Khi lãi suất tăng 1% 1.275 238 849 Khi lãi suất tăng không cùng tốc độ 1.120 58 625 Nguồn: Bảng CĐKT của ABBank – Long Xuyên SVTH: Võ Thùy Mỹ Anh Thư 43 Phân tích rủi ro lãi suất trong hoạt động kinh doanh tại NHTMCP An Bình - PGD Long Xuyên Như vậy, khi ngân hàng ở trong trạng thái nhạy cảm nguồn vốn thì lãi suất tăng nhưng không cùng mức độ dẫn đến chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động chênh lệch 1% thì thu nhập thuần từ tiền lãi giảm. Qua việc phân tích sự ảnh hưởng của lãi suất đến thu nhập của ngân hàng như trên chúng ta cũng thấy được rằng ABBank - Long Xuyên vừa là người cho vay, vừa là người đi vay nên khi lãi suất thay đổi, ngân hàng phải chịu rủi ro cả hai phía bên nguồn vốn và bên tài sản. Ban giám đốc ngân hàng cần phải quyết định xem nên chấp nhận hay nên đối phó với rủi ro này bằng những chiến lược phòng ngừa rủi ro hoặc bằng những công cụ cho phù hợp để đem lại hiệu quả cao trong hoạt động của ngân hàng. SVTH: Võ Thùy Mỹ Anh Thư 44 Phân tích rủi ro lãi suất trong hoạt động kinh doanh tại NHTMCP An Bình - PGD Long Xuyên SVTH: Võ Thùy Mỹ Anh Thư 45 CHƯƠNG 5 MỘT SỐ GIẢI PHÁP VỀ QUẢN LÝ RỦI RO LÃI SUẤT TẠI ABBANK – LONG XUYÊN Chương 4 đã phần nào khái quát được rủi ro lãi suất trong hoạt động của ABBank – Long Xuyên trong giai đoạn 6 tháng cuối 2007 – 6 tháng cuối 2008. Chương 5 sẽ trình bày sơ lược về tình hình biến động lãi suất trong 2008 và xu hướng lãi suất trong năm 2009 để từ đó đề ra một số giải pháp về quản lý rủi ro lãi suất tại ABBank – Long Xuyên trong thời gian sắp tới. 5.1. Sơ lược về thực trạng biến động lãi suất 2008 và xu hướng lãi suất năm 2009: Lãi suất là một biến số kinh tế nhạy cảm và chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố khác nhau. Hiện nay, trong các tổ chức tín dụng đang tồn tại nhiều loại lãi suất ưu đãi khác nhau gây khó khăn trong quản lý và theo dõi lãi suất. Trước bối cảnh kinh tế thế giới suy giảm và có những bất trắc khó lường, giá cả và lạm phát toàn cầu gia tăng, cộng với những bất ổn của thị trường tài chính, tình trạng nhập siêu và thâm hụt thương mại còn ở mức cao dẫn đến sự lo ngại về một đợt tăng giá mới, đặc biệt là sau khi Chính phủ cho phép điều chỉnh giá xăng dầu để giảm bù lỗ từ ngân sách nhà nước .Vì những lý do trên, để kềm chế lạm phát, chính phủ đã áp dụng chính sách thắt chặt tiền tệ vào những tháng đầu năm 2008 nhưng chính điều này đã gắn liền với sự căng thẳng về thanh khoản của các ngân hàng thương mại. Cạnh tranh là yếu tố gắn liền với kinh doanh, học thuyết tư bản xem cạnh tranh là yếu tố rất quan trọng, ảnh hưởng tới kết quả hoạt động của bất cứ lĩnh vực nào, cạnh tranh càng tạo nên tính tự chủ cao, linh hoạt trong hoạt động. Ngân hàng không khác gì một doanh nghiệp hoạt động với phần lớn là huy động tiền gửi để cho vay thì yếu tố cạnh tranh càng quan trọng để các nhà quản lý có chiến lược phù hợp, đem lại hiệu quả hoạt động cho ngân hàng. Điều này thể hiện rất rõ khi cuộc đua lãi suất chính thức khởi tranh, các ngân hàng đã chạy đua nhau để có được nguồn vốn phục vụ cho doanh nghiệp và cá nhân nhằm gia tăng thị phần của mình. Trong thời điểm cuối tháng 2/2008, trên thị trường liên ngân hàng có một vài giao dịch chấp nhận mức lãi suất lên tới 40%/năm, gây sốc cho thị trường. Nguyên nhân của cú sốc này là do một số ngân hàng thương mại thiếu thanh khoản, do không điều chỉnh kịp thời kế hoạch kinh doanh trước dấu hiệu thắt chặt chính sách tiền tệ của NHNN từ giữa năm 2007 nên vẫn tiếp tục mở rộng tín dụng, vượt khả năng huy động vốn của mình, chi phí huy động vốn cao, làm giảm khả năng sinh lời, và khả năng rủi ro tăng trong hoạt động. Lãi Phân tích rủi ro lãi suất trong hoạt động kinh doanh tại NHTMCP An Bình - PGD Long Xuyên suất tăng cao, làm chi phí đầu vào của nhiều DN tăng, buộc DN phải điều chỉnh giá bán sản phẩm, tác động đến những người có thu nhập thấp, nhưng lại không hạn chế được tiêu dùng đối với số ít người có thu nhập cao (thể hiện chi tiêu cho hàng hoá đắt tiền như: ôtô, căn hộ cao cấp, biệt thự, dịch vụ du lịch, thăm khám chữa bệnh và làm đẹp), trong khi DN Việt Nam chủ yếu là nhỏ và vừa, vốn hạn chế, nhiều DN hoạt động chủ yếu bằng vốn vay ngân hàng. Vì vậy lãi suất tăng cao, điều kiện vay ngặt nghèo, đã làm cho hầu hết các DN nhỏ và vừa khó tiếp cận được vốn tín dụng, sản xuất cầm chừng, trong khi những DN này đóng góp tới 42% GDP và là nguồn chính tạo công ăn việc làm cho xã hội. Đối với thị trường tài chính: lãi suất tăng cao là một trong những nguyên nhân làm cho giá chứng khoán bị ảnh hưởng, huy động vốn của các DN trên thị trường tài chính càng khó khăn, gây áp lực lớn về vốn trung và dài hạn đối với các NHTM. Còn đối với nền kinh tế: lãi suất huy động và cho vay ở mức cao đã làm giảm đầu tư tư nhân, tăng chi phí vay mượn, giảm sức cạnh tranh của nền kinh tế. Nếu tình trạng này kéo dài sẽ tác động đến nền kinh tế, dẫn đến chiều hướng không thuận lợi, kinh tế vĩ mô bất ổn, đời sống của người lao động sẽ bị ảnh hưởng. Trước tình trạng lãi suất liên ngân hàng tăng cao như vậy, NHNN đã điều tiết tiền tệ thông qua nghiệp vụ thị trường mở, đồng thời tăng cường công tác thanh tra, giám sát hoạt động của các NHTM, nhất là những ngân hàng cho vay vượt quá nhiều nguồn vốn huy động trên thị trường và có chính sách hỗ trợ trực tiếp nguồn vốn thanh khoản cho các NHTM này. Nhờ tác động của các giải pháp chính sách từ phía NHNN mà từ giữa tháng 5/2008 đến nay, lãi suất trên thị trường liên ngân hàng tương đối ổn định và có những phản ứng theo chiều hướng tích cực. Những dấu hiệu khả quan trên cho thấy, các giải pháp mà NHNN thực hiện trong thời gian qua nhằm bình ổn lãi suất, tỷ giá và kiềm chế lạm phát đã tỏ ra đúng hướng, tất cả các giải pháp đó đã có tác động tích cực đến diễn biến thị trường. Nếu không có những diễn biến bất lợi khác của tình hình kinh tế trong nước và quốc tế, thì trong thời gian tới lãi suất sẽ có chiều hướng ổn định như hiện nay và có khả năng giảm dần trong năm 2009; chênh lệch giữa tỷ giá chính thức và phi chính thức sẽ thu hẹp hơn nữa, thị trường tiền tệ thông suốt, tạo được sự ổn định bền vững. Ai cũng biết rằng ngân hàng có yên thì nền kinh tế mới ổn. Vì vậy, tìm ra giải pháp để giải quyết tình hình lãi suất ngân hàng hiện nay là rất cần thiết. Không nên để xảy ra tình trạng tự phát tái đua tăng lãi suất, nhưng cũng không thể để tình trạng mất cân đối nguồn và sử dụng vốn của một số ngân hàng kéo dài ảnh hưởng đến tính an toàn hệ thống. Do tính phức tạp và phụ thuộc vào sự tác động của nhiều nhân tố nên dự đoán xu hướng lãi suất trong năm 2009 chỉ mang tính tương đối. Chúng ta phải hết sức thận trọng khi khái quát hóa mối quan hệ giữa lãi suất thị trường và thu nhập của ngân hàng cũng như trong việc dự báo biến động của lãi suất. Một ngân hàng được quản lý tốt và kiểm soát chặt chẽ rủi ro lãi suất có thể đạt được lợi nhuận bất kể lãi suất tăng hay giảm, ở mức thấp hay mức cao. 5.2. Một số giải pháp về quản lý rủi ro lãi suất tại ABBank Long Xuyên 5.2.1. Nhận xét về những mặt làm được và những mặt tồn tại: Trong hoạt động của ngân hàng, vấn đề quản trị rủi ro lãi suất là rất phức tạp trước tình hình biến động của lãi suất, nhưng ABBank - Long Xuyên đã bước đầu thực hiện một số biện pháp nhằm hạn chế rủi ro lãi suất. Mặc dù có những khó khăn song SVTH: Võ Thùy Mỹ Anh Thư 46 Phân tích rủi ro lãi suất trong hoạt động kinh doanh tại NHTMCP An Bình - PGD Long Xuyên ABBank - Long Xuyên đã làm được những mặt tích cực trong công tác quản lý rủi ro lãi suất. Trước sự diễn biến phức tạp của lãi suất trong một năm trở lại đây, đặc biệt là cuộc chạy đua lãi suất giữa các ngân hàng trong giai đoạn 6 tháng đầu năm 2008 làm cho các ngân hàng bối rối. Nhưng dưới sự quản trị linh hoạt, hiệu quả trong việc điều hành lãi suất đã làm cho hoạt động huy động vốn và cho vay các loại tài sản và nguồn vốn nhạy cảm với lãi suất của ngân hàng tăng trưởng khá ổn định, góp phần quan trọng trong giữ vững cơ cấu của tài sản và nguồn vốn nói trên. Trước sự cạnh tranh quyết liệt của các ngân hàng trên cùng địa bàn, dưới sự nổ lực của ban lãnh đạo và cán bộ ngân hàng trong việc thông tin, quảng cáo, đưa ra hình thức huy động và cho vay hấp dẫn đã làm cho ABBank - Long Xuyên ngày chiếm được lòng tin và sự tín nhiệm của khách hàng. Chính những mặt tích cực đó đã làm cho cơ cấu tài sản và nguồn vốn nhạy cảm với lãi suất ổn định , chênh lệch nhạy cảm càng hẹp, rủi ro lãi suất càng giảm tạo nên tính ổn định trong hoạt động đạt mục tiêu lợi nhuận của ngân hàng. Tuy nhiên, những biện pháp này chỉ giúp ABBank - Long Xuyên hạn chế được phần nào rủi ro lãi suất. Hiện tại, công tác quản lý rủi ro lãi suất của ngân hàng vẫn còn nhiều hạn chế cơ bản như sau: — Một là: chưa có sự quan tâm toàn diện về quản lý rủi ro lãi suất của bộ máy lãnh đạo ngân hàng. Sự thiếu quan tâm thể hiện ở chỗ ABBank - Long Xuyên chưa xây dựng một chính sách quản lý rủi ro lãi suất, chưa có những quy định cụ thể, những nội dung cần thực hiện trong quá trình quản lý rủi ro Trong thời gian qua, lãi suất trên thị trường không ngừng biến động, nhưng do ABBabk Long Xuyên chỉ là PGD mới được thành lập trong thời gian không lâu, mức huy động và cho vay cũng chỉ tương đối nên thiệt hại do rủi ro lãi suất của ngân hàng là chưa đáng kể. Tuy nhiên, kinh nghiệm của một số quốc gia cho thấy, những cú sốc lớn về lãi suất có thể gây những hậu quả hết sức nghiên trọng đối với ngân hàng và nền kinh tế nói chung. Nếu không nhận thức đầy đủ về loại rủi ro này ABBank - Long Xuyên có thể sẽ không có sự chuẩn bị cần thiết, tạo cho mình khả năng chống đỡ trước những biến động lớn của thị trường, đặc biệt là trong xu thế hội nhập kinh tế, tài chính quốc tế như hiện nay. — Hai là: Trong nhận thức về rủi ro lãi suất của ABBank - Long Xuyên mới chỉ dừng lại ở nhận định là ngân hàng là ngân hàng có rủi ro lãi suất khi lãi suất thị trường thay đổi, nhưng chưa đo lường, đánh giá được cụ thể mức rủi ro là bao nhiêu, lãi suất biến động theo chiều hướng nào sẽ gây thiệt hại cho ngân hàngHiện nay, các NHTM của nhiều quốc gia trên thế giới đã sử dụng nhiều phương pháp, mô hình để lượng hóa rủi ro lãi suất phù hợp với trình độ của từng ngân hàng và quy định của cơ quan quản lý ở từng nước. Mặc dù mỗi mô hình đo lường rủi ro lãi suất có những hạn chế nhất định nhưng việc sử dụng mô hình này có thể giúp ABBank - Long Xuyên xác định một cách cụ thể những thiệt hại cả trong quá khứ, hiện tại và dự tính được thiệt hại trong tương lai mỗi khi lãi suất thị trường biến động. Những tính toán này sẽ là cơ sở cần thiết để ABBank - Long Xuyên áp dụng những biện pháp thích hợp nhằm hạn chế đến mức thấp nhất những tổn thất có thể xảy ra. Tuy nhiên, do chưa thực hiện được việc lượng hóa rủi SVTH: Võ Thùy Mỹ Anh Thư 47 Phân tích rủi ro lãi suất trong hoạt động kinh doanh tại NHTMCP An Bình - PGD Long Xuyên ro lãi suất vì chưa có đủ điều kiện cần thiết nên các biện pháp mà ABBank - Long Xuyên đã sử dụng để kiểm soát loại rủi ro này chỉ dựa trên cảm tính và chưa hiệu quả. — Ba là: ABBank - Long Xuyên chưa thực hiện một cách toàn diện những biện pháp cần thiết để phòng ngừa rủi ro lãi suất. Cụ thể, về các biện pháp nội bảng, chủ yếu ngân hàng mới chỉ dừng lại ở việc áp dụng chính sách thả nổi trong cho vay trung và dài hạn mà chưa có những biện pháp tích cực để duy trì sự cân xứng về kỳ hạn của tài sản và nguồn vốn. Về biện pháp ngoại bảng, cho đến nay hầu hết các ngân hàng chưa ứng dụng các nghiệp vụ phái sinh trong phòng ngừa rủi ro lãi suất. Hiện tại, ngân hàng nhà nước đã ban hành Quy chế thực hiện giao dịch hoán đổi lãi suất, trong đó quy định những điều kiện cụ thể đối với các tổ chức tín dụng thực hiện giao dịch hoán đổi. Tuy nhiên, ABBank - Long Xuyên vẫn chưa chuẩn bị đầy đủ những điều kiện này. Chẳng hạn, một trong những điều kiện quy định trong quy chế là các tổ chức tín dụng phải “ xây dựng quy trình thực hiện giao dịch hoán đổi lãi suất, trong đó gồm cả biện pháp phòng ngừa rủi ro” thì hiện nay chưa được xúc tiến tại ngân hàng. 5.2.2. Một số biện pháp chủ yếu nhằm hạn chế rủi ro lãi suất tại ABBank Long Xuyên: Sau khi nhận biết và lượng hóa các rủi ro lãi suất bằng kinh nghiệm, công thức, mô hình khác nhau để thấy được những mặt làm được và những mặt tồn tại nói trên, thì việc quan tâm làm như thế nào để có thể hạn chế những mặt tồn tại đó là rất quan trọng vì nó có thể giúp đạt được những lợi nhuận đề ra. Bản thân ABBank - Long Xuyên phải có những biện pháp và sử dụng những công cụ khác nhau để điều tiết giảm thiểu rủi ro về lãi suất trong hoạt động ngân hàng. Việc sử dụng các biện pháp, công cụ điều tiết như thế nào phụ thuộc rất nhiều vào chiến lược quản lý rủi ro của ngân hàng cũng như khả năng phân tích, dự báo xu hướng thay đổi của lãi suất trên thị trường. Ngân hàng vẫn có thể chấp nhận rủi ro, không sử dụng hay chỉ sử dụng các biện pháp điều tiết rủi ro lãi suất ở một quy mô nhất định nếu như họ tin rằng xu thế của lãi suất trên thị trường sẽ theo chiều hướng có lợi cho ngân hàng và nếu rủi ro đó xảy ra thì đó là điều đã được lường trước và nằm hoàn toàn trong sự kiểm soát của ngân hàng, ngân hàng chấp nhận được loại rủi ro này. Ta thấy qua giai đoạn 6 tháng cuối 2007 – 6 tháng cuối 2008 thì ABBank - Long Xuyên luôn ở trạng thái nhạy cảm với nguồn vốn tức tài sản nhạy cảm lãi suất luôn nhỏ hơn nguồn vốn nhạy cảm lãi suất, điều này đã ảnh hưởng đến mục tiêu lợi nhuận của ngân hàng. Do đó, để đạt được mục tiêu lợi nhuận mong muốn thì ABBank - Long Xuyên cần có sự điều chỉnh lại cơ cấu của tài sản nhạy cảm với lãi suất và nguồn vốn nhạy cảm với lãi suất để giảm thiểu rủi ro lãi suất trong thời gian tới. Do chưa được phép sử dụng các công cụ hiện đại về kiểm soát lãi suất, nên các ngân hàng chủ yếu chỉ thực hiện biện pháp tái cấu trúc lại tài sản và nguồn vốn của ngân hàng để hạn chế rủi ro lãi suất. Chỉ với cách này, ngân hàng mới hạn chế được rủi ro lãi suất, nhưng lại dẫn đến hạn chế mục tiêu của ngân hàng trong việc thay đổi cơ cấu tài sản - nguồn vốn và tốn kém nhiều chi phí. Các biện pháp hạn chế rủi ro lãi suất của ngân hàng thực tế hiện nay bao gồm: Điều chỉnh cơ cấu giữa tài sản và nguồn vốn: trong những thời kỳ ngân hàng nhận thấy xu hướng lãi suất giảm, nhà quản trị ngân hàng đã thay đổi cơ cấu SVTH: Võ Thùy Mỹ Anh Thư 48 Phân tích rủi ro lãi suất trong hoạt động kinh doanh tại NHTMCP An Bình - PGD Long Xuyên giữa tài sản và nguồn vốn theo xu hướng: giảm thời gian tồn tại của nguồn vốn, tức là giảm thời gian huy động vốn có thời hạn lâu dài và tổng thời gian tồn tại của tài sản, tức là kéo dài thời gian cho vay. Mặt khác, khi nhận thấy xu hướng lãi suất tăng, các nhà quản trị đã thay đổi cơ cấu của tài sản và nguồn vốn theo hướng: kéo dài thời gian tồn tại của nguồn vốn, tức là tăng thời hạn huy động vốn có thời hạn và giảm thời gian tồn tại của tài sản, tức là giảm cho vay. Còn đối với ABBank - Long Xuyên đang trong tình trạng nhạy cảm với nguồn vốn, với tình hình lãi suất biến động theo xu hướng giảm từ nay đến cuối năm 2009 nay thì có một trong hai cách là ™ Giảm thời gian tồn tại của nguồn vốn (tức là giảm thời gian huy động vốn có thời hạn) Hoán đổi các khoản mục nguồn vốn: ABBank - Long Xuyên cũng có thể làm cho độ co giãn lãi suất của nguồn vốn tăng lên để cân bằng hoặc tiến tới cân bằng với bên tài sản thông qua việc chuyển đổi một số khoản mục của nguồn vốn. Chẳng hạn, ABBank - Long Xuyên có thể trả các khoản vay từ hội sở với lãi suất cố định để vay lại những khoản vay với lãi suất biến đổi. Như vậy, ngân hàng sẽ đạt được mục tiêu giảm rủi ro lãi suất của mình. Độ co giãn của lãi suất chuyển đổi cũng như khối lượng của khoản mục nguồn vốn này sẽ quyết định độ co giãn lãi suất chung của toàn bộ nguồn vốn tăng lên được bao nhiêu, có đạt được mục tiêu cần bằng hay giảm chênh lệch với bên tài sản hay không ™ Tăng thời gian tồn tại của tài sản (tức là tăng thời gian cho vay) Hoán đổi các khoản mục đầu tư: Với việc hoán đổi một số khoản mục trong danh mục đầu tư, ngân hàng có thể làm giảm độ co giãn của lãi suất tài sản. Chẳng hạn ngân hàng có thể tăng đầu tư vào trái phiếu chính phủ với mức lãi suất cố định. Theo đó, ABBank - Long Xuyên có thể thỏa thuận với khách hàng về một mức lãi suất cho vay cố định ở mức trung và dài hạn. Điều này giúp cho độ co giãn lãi suất của toàn bộ tài sản giảm xuống, bớt chênh lệch với độ co giãn của toàn bộ nguồn vốn. Độ co giãn này sẽ quyết định độ co giãn của toàn bộ tài sản giảm được bao nhiêu, có đạt được mục tiêu giảm rủi ro lãi suất hay không. Ngân hàng thực hiện cân đối phù hợp về mặt thời gian giữa tài sản và nguồn vốn: một số ngân hàng đã chủ động tìm kiếm các dự án có sự trùng hợp giữa thời gian của tài sản và nguồn vốn. Cụ thể, một số ngân hàng đã đa dạng hóa các kỳ hạn gửi tiền như nhận tiền gửi không kỳ hạn, kỳ hạn 1 tháng, 2 thángvà các kỳ hạn cho vay tương ứng. Sự tương ứng giữa các kỳ hạn huy động vốn và cho vay một mặt đáp ứng nhu cầu khách hàng, mặt khác giúp ngân hàng hạn chế được rủi ro lãi suất. Áp dụng nghiệp vụ bảo đảm rủi ro lãi suất: với sự ra đời của các công cụ kỳ hạn về lãi suất, hoán đổi tiền gửi sẽ tạo điều kiện cho ngân hàng có thể giảm được rủi ro lãi suất nhưng ít tốn kém và không nhất thiết phải điều chỉnh lại cơ cấu giữa tài sản và nguồn vốn. Bên cạnh đó thị trường tài chính Việt Nam kém phát triển cũng là yếu tố ảnh hưởng đến việc áp dụng các kỹ thuật quản lý rủi ro SVTH: Võ Thùy Mỹ Anh Thư 49 Phân tích rủi ro lãi suất trong hoạt động kinh doanh tại NHTMCP An Bình - PGD Long Xuyên lãi suất vì vậy, việc hạn chế rủi ro lãi suất của ngân hàng chủ yếu là tái cấu trúc tài sản và nguồn vốn cho phù hợp với mức tăng hoặc giảm lãi suất thị trường Với thực trạng hoạt động của ngân hàng hiện nay, thiết nghĩ việc nhận biết và ứng dụng các phương pháp quản lý rủi ro lãi suất nhằm giảm rủi ro trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng là hết sức cần thiết. ABBank - Long Xuyên cần nghiên cứu kỹ các phương pháp để lựa chọn, ứng dụng vào thực tiễn hoạt động kinh doanh của mình. SVTH: Võ Thùy Mỹ Anh Thư 50 Phân tích rủi ro lãi suất trong hoạt động kinh doanh tại NHTMCP An Bình - PGD Long Xuyên CHƯƠNG 6 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ Chương 5 đã đề ra một số giải pháp nhằm giúp ngân hàng hạn chế rủi ro lãi suất khi có sự biến đổi của lãi suất thị trường. Chương 6 sẽ rút ra kết luận và đề ra một số kiến nghị nhằm giúp ABBank - Long Xuyên hoạt động hiệu quả hơn trong thời gian tới. 6.1. Kết Luận: Trong suốt thời gian thành lập đến nay, ABBank – Long Xuyên đã đóng góp tích cực vào sự phát triển chung của nền kinh tế tỉnh nhà, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế, góp phần thực hiện mục tiêu công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước, gián tiếp tạo công ăn, việc làm cho người lao động. Ngoài mục tiêu kinh doanh mang lợi nhuận, ABBank - Long Xuyên còn giúp khách hàng có vốn để phát triển sản xuất, đảm bảo đời sống và cơ hội vươn lên làm giàu, có những đóng góp tích cực cho sự phát triển kinh tế, góp phần xóa đói giảm nghèo, nâng cao đời sống xã hội từ thành thị đến nông thôn. Đứng trước sự phát triển của nền kinh tế đất nước nói riêng và nền kinh tế thế giới nói chung thì vấn đề đặt ra hàng đầu đối với mọi ngân hàng là hiệu quả hoạt động. Tuy nhiên, muốn đạt được hiệu quả kinh tế như mong muốn đòi hỏi các ngân hàng phải không ngừng nổ lực hơn nữa, khắc phục những khó khăn và hạn chế của mình để vươn lên phát triển. Đây cũng chính là sự nổ lực của ABBank - Long Xuyên trong thời gian qua. Bằng chính nghị lực của mình, ABBank - Long Xuyên đã vượt qua biết bao khó khăn về biến động của nền kinh tế thị trường, sự cạnh tranh gay gắt của các NHTM khác trên cùng địa bàn, ABBank - Long Xuyên đã trở thành một trong những ngân hàng quan trọng hiện nay. Phấn đấu theo phương châm đã đề ra và định hướng hoạt động cho tương lai “ Phát triển dựa trên nền tảng bền vững, hướng đến là một trong những NH TMCP hàng đầu trên địa bàn với cung cách phục vụ chuyên nghiệp, vì nụ cười khách hàng”, trong thời gian qua, ABBank - Long Xuyên đã đạt được nhiều thắng lợi to lớn, phục vụ ngày càng tốt hơn cho công cuộc đầu tư phát triển kinh tế xã hội. Để đạt được những thành tựu đó, ABBank - Long Xuyên đã luôn phải quan tâm đến công tác quản trị rủi ro của mình, bởi vì hoạt động của ngành ngân hàng luôn có sự đánh đổi giữa lợi nhuận và rủi ro. Một trong những rủi ro tiềm ẩn mà ngân hàng phải thường xuyên đối mặt là rủi ro lãi suất. Do đó việc quản trị rủi ro lãi suất là việc làm cần thiết đối với mỗi ngân hàng trong giai đoạn hiện nay và đối với ABBank - Long Xuyên nói riêng. Qua quá trình phân tích, đề tài đã phần nào khái quát được về thực trạng rủi ro lãi suất của ngân hàng cũng như những vấn đề đã và chưa được giải quyết. Từ đó, các nhà quản trị ngân hàng có thể có những chiến lược phản ứng với sự biến động của lãi suất thị trường nhằm hạn chế tối đa rủi ro lãi suất, đồng thời tối đa hóa mục tiêu lợi nhuận của mình. SVTH: Võ Thùy Mỹ Anh Thư 51 Phân tích rủi ro lãi suất trong hoạt động kinh doanh tại NHTMCP An Bình - PGD Long Xuyên 6.2. Kiến nghị: 6.2.1. Đối với NH TMCP An Bình – PGD Long Xuyên: — Một là: trong bối cảnh lãi suất thị trường có xu hướng biến động nhiều như hiện nay, cần có sự quan tâm của bộ máy lãnh đạo và cán bộ ngân hàng trong nhận thức toàn diện về quản trị rủi ro lãi suất trong hoạt động kinh doanh ngân hàng như: xây dựng một chính sách quản lý rủi ro lãi suất, có những nội dung thực hiện trong quá trình quản lý rủi rođặc biệt trong xu thế hội nhập kinh tế, tài chính quốc tế hiện nay vì trên thực tế, muốn biết được mức độ tổn thất của rủi ro lãi suất để có biện pháp phòng chống thì ABBank - Long Xuyên cần phải tính toán được rủi ro lãi suất tác động như thế nào đến thu nhập ròng cũng như giá trị tài sản của ngân hàng. Để xác định một cách chính xác những tác động này đòi hỏi cán bộ ngân hàng phải thực sự am hiểu về quản lý tài sản – nguồn vốn của ngân hàng, đồng thời phải có những kiến thức nhất định về tài chính để nắm vững những kỹ thuật đo lường rủi ro lãi suất bằng việc sử dụng mô hình. Đối với ABBank - Long Xuyên, đây là vấn đề tương đối mới và phần lớn cán bộ, nhân viên ngân hàng chưa được trang bị những kiến thức này. Bên cạnh đó, trình độ hiểu biết của các cán bộ, nhân viên ngân hàng về các dịch vụ phái sinh như giao dịch kỳ hạn, hoán đổi, quyền chọnvẫn còn hạn chế. Ngân hàng chưa có đội ngũ nhân viên am hiểu những kiến thức về tài chính, pháp lý, về thị trường giao dịch, đặc biệt là kỹ thuật định giá và giao dịch các công cụ tài chính phái sinh, và đây chính là một trong những nguyên nhân gây trở ngại trong việc triển khai các nghiệp vụ phái sinh phòng ngừa rủi ro lãi suất tại ngân hàng. — Hai là: Tổ chức bộ phận chuyên trách thực hiện việc đo lường, đánh giá rủi ro là một công việc tương đối khó và đòi hỏi những kỹ thuật phức tạp. Công việc này có một vị trí quan trọng trong quá trình quản lý rủi ro lãi suất của ngân hàng nên thường do một bộ phận chuyên trách thực hiện. Cần sự quan tâm đến việc đo lường, đánh giá rủi ro lãi suất, cần phân công cụ thể cho bộ phận nào trong ngân hàng nghiên cứu thực hiện. — Ba là: Hệ thống thông tin, trình độ công nghệ của ngân hàng cần được trang bị để đáp ứng yêu cầu quản lý rủi ro trong kinh doanh ngân hàng trong xu thế hội nhập quốc tế. Cần chuẩn bị kỹ những điều kiện cụ thể để ứng dụng các nghiệp vụ phái sinh trong phòng ngừa rủi ro lãi suất. Chẳng hạn, một trong những điều kiện quy định trong quy chế là các tổ chức tín dụng là phải: “xây dựng quy trình thực hiện giao dịch hoán đổi lãi suất, trong đó gồm cả biện pháp phòng ngừa rủi ro” thì cần được xúc tiến tại ngân hàng trong tương lai Tóm lại để tăng cường quản lý rủi ro lãi suất nhằm giảm thiểu tổn thất đối với ABBank - Long Xuyên từ loại rủi ro này, đòi hỏi trong thời gian tới ABBank - Long Xuyên cần quan tâm, tìm hiểu những nguyên nhân gây hạn chế, trên cơ sở đó nghiên cứu, áp dụng các giải pháp cần thiết, nhanh chóng khắc phục những mặt còn hạn chế trong công tác quản lý rủi ro lãi suất. 6.2.2. Đối với ngân hàng nhà nước Việt Nam: Ngân hàng nhà nước Việt Nam cần tăng cường quan tâm, chỉ đạo và hỗ trợ cho công tác quản trị rủi ro của các NHTM thông qua việc phổ biến kinh nghiệm về quản lý SVTH: Võ Thùy Mỹ Anh Thư 52 Phân tích rủi ro lãi suất trong hoạt động kinh doanh tại NHTMCP An Bình - PGD Long Xuyên SVTH: Võ Thùy Mỹ Anh Thư 53 rủi ro của các ngân hàng trong và ngoài nước, ban hành các văn bản thống nhất về quản lý rủi ro và có biện pháp pháp chế nghiêm túc các NHTM không tuân thủ quy định này. Hỗ trợ các NHTM trong việc đào tạo, tập huấn cho cán bộ nghiệp vụ Ngân hàng nhà nước Việt Nam cần thực hiện hiệu quả chức năng quản lý nhà nước ở lĩnh vực là đầu mối soạn thảo và ban hành các văn bản thống nhất về quản lý rủi ro trong hoạt động ngân hàng phù hợp với thông lệ quốc tế. Bên cạnh đó, ngân hành nhà nước Việt Nam trên cơ sở nghiên cứu, cập nhật số liệu báo cáo thống kê từ các ngành, đề ra dự báo về xu hướng phát triển, rủi ro có thể gặp phải của các ngành kinh tế từ đó các NHTM có định hướng đầu tư một cách hiệu quả để hạn chế rủi ro. TÀI LIỆU THAM KHẢO  ¾—½  Ths. Thái Văn Đại. 2003. Nghiệp vụ ngân hàng thương mại. Tủ sách trường đại học Cần Thơ. PGS. Ts. Trần Huy Hoàng. 2003. Quản tri ngân hàng TM. NXB Thống Kê Nguyễn Ninh Kiều. 1998. Tiền Tệ - Ngân Hàng. NXB Thống Kê. TS Lê Thị Mận. 2005. Tiền Tệ Ngân Hàng và Thanh Toán Quốc Tế. NXB Tổng Hợp TP HCM. Peter,S.Rose. 2001 . Quản trị ngân hàng thương mại. NXB Tài Chính Nguyễn Anh Thư. Mô hình định giá lại trong quản trị rủi ro lãi suất. Thị trường tài chính tiền tệ. Số 8. Ts. Nguyễn Văn Tiến. 2005. Đánh giá và phòng ngừa rủi ro trong kinh doanh ngân hàng. NXB Thống kê. Ts. Lê Văn Tư. 2005. “Quản trị ngân hàng thương mại. NXB Tài Chính. Đặng Lê Quốc Hoàng. 29/10/2008. Tình hình ngân hàng năm 2008 và dự báo 2009 [online]. Doanh nhân 360o. Đọc từ: doanhnhan360.com/Desktop.aspx/Thi-truong-360/Tai-chinh-360/ ngan_hang_nam_2008_va_du_bao_2009/ (đọc ngày 30/4/2009)

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfXT1116.pdf
Tài liệu liên quan