Đề tài Phân tích thực trạng và các giải pháp cơ bản để nâng cao hiệu quả của kĩ thuật đổi mới ở nước ta trong giai đoạn hiện nay

Điểm đáng chú ý là hệ thống luật pháp của ta hiện vẫn chưa ăn khớp với các cam kết mà ta đã đăng ký,càng có một khoảng cách xa với thông lệ quốc tế hiện nay.Công tác làm luật và sửa luật của ta còn rất chậm,đặc biệt là các nghị định ,thông tư hướng dẫn thi hành luật,những luật pháp sau đây sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng tới hoạt động kinh tế đối ngoại và hiện đang có nhiều vấn đề: Thứ nhất là luật đất đai,ta đã có luật đất đai nhưng hiện chưa đủ cho các doanh nghiệp có thể sử dụng đất để thế chấp vay ngân hàng làm vốn kinh doanh đối ngoại.

doc42 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 963 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phân tích thực trạng và các giải pháp cơ bản để nâng cao hiệu quả của kĩ thuật đổi mới ở nước ta trong giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước,đưa nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu lên nước công nghiệp tiên tiến hiện đại. Góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế,tạo nhiều công ăn việc làm,giảm tỷ lệ thất nghiệp,tăng thu nhập,ổn định và cải thiện đời sống nhân dân theo mục tiêu dân giàu nước mạnh,xã hội công bằng,dân chủ,văn minh. Những vai trò to lớn của KTĐN chỉ đạt được khi hoạt động KTĐN vượt qua được những thách thức(mặt trái)của toàn cầu hoá và giữ đúng định hướng XHCN. II: Thực trạng và các giải pháp cơ bản để nâng cao hiệu quả của KTĐN ở Việt Nam. 1:Các nguồn lực và lợi thế trong việc phát triển KTĐN ở Việt Nam. 1.1:Vị trí địa lý. Vị trí địa lý của Việt Nam nằm trên các đường hàng không và hàng hải quốc tế quan trọng.Hệ thống cảng biển là cửa ngõ không chỉ cho nền kinh tế Việt Nam mà cả các quốc gia lân cận.Vị trí địa lý thuận lợi của Việt Nam tạo khả năng phát triển các hoạt động trung chuyển,tái xuất khẩu và chuyển khẩu hàng hoá qua các khu vực lân cận.Đây chính là nguồn tài nguyên vô hình rất quan trọng. 1.2:Tài nguyên thiên nhiên phong phú đa dạng. Tài nguyên thiên nhiên ở việt nam rất đa dạng và phong phú,bao gồm đất đai,khoáng sản,tài nguyên rừng, tài nguyên biển... cho phép ta có thể phát triển nhiều ngành công nghiệp để tham gia một cách tích cực vào phân công lao động quốc tế.Tuy nhiên các nguồn tài nguyên này phân bố rải rác,điều kiện khai thác khó khăn, khối lượng không lớn, tài nguyên rừng và biển bị xói mòn hiệu quả sử dụng thấp. Tài nguyên đất đai:Diện tích đất canh tác hạn chế,trong 64 loại đất chiếm gần 30 triệu ha,chỉ có 2 loại đất chiếm khoảng 6 triệu ha có độ phì nhiêu cao và thuận lợi cho việc trồng trọt:đất phù xa và đất đỏ 3 gian Về khí hậu:khí hậu nước ta là khí hậu nhiệt đới ẩm cho phép khai thác có hiệu quả tài nguyên đất đai. Tài nguyên rừng:với 8 triệu ha rừng hiện nay được quản lí tốt. Nó sẽ trở thành một lợi thế nhất định trong quan hệ KTĐN. Tài nguyên biển:Việt Nam có tiềm năng thuận lợi cho việc nuôi trồng một số loại hải sản. Tài nguyên khoáng sản: đa dạng nhưng lợi thế này tồn taị trong một thời gian nhất định nên phải khai thác hợp lý có hiệu quả. Tiềm năng du lịch:có nhiều thắng cảnh đẹp có lợi thế trong mối quan hệ kinh tế và mối quan hệ đối ngoại. 1.3:Nguồn nhân lực. Nguồn nhân lực dồi dào,giá nhân công rẻ,tư chất con người Việt Nam rất cần cù,sáng tạo,tiếp thu nhanh công nghệ mới,có thể tham gia vào phân công lao động quốc tế.Tuy nhiên,người lao động Việt Nam bị hạn chế về thể lực,về trình độ và ý thức kỉ luật trong lao động,còn thiếu nhiều việc làm và tâm lí hẹp hòi,tản mạn. Phát triển những mặt mạnh và hạn chế những mặt yếu thì nguồn nhân lực và yếu tố con người mới trở thành thế mạnh trong KTĐN. 1.4:Cơ sở vật chất kinh tế. Nó đặt nền tảng cho kinh tế phát triển cả nước cũng như KTĐN. 2:Những thuận lợi và khó khăn. 2.1:Thuận lợi. Với quan điểm và nguyên tắc rõ ràng,Việt Nam chủ động đẩy nhanh quá trình hội nhập.Đường lối ở tầm vĩ mô về su thế không thể tránh khỏi đối với sự phát triển của quá trình toàn cầu hoá.Từ nhận thức này,trong những năm qua Việt Nam đã có những thay đổi lớn trong chính sách phát triển KTĐN. Tham gia toàn cầu hoá chính là nhằm tranh thủ những điều kiện quốc tế để khai thác tiềm năng của nước nhà.Việt Nam là quốc gia có tài nguyên thiên nhiên phong phú, những nguồn lực và lợi thế so sánh quan trọng.Trên cơ sở đó Việt Nam có thể xác lập cơ cấu ngành kinh tế với những sản phẩm có tính cạnh tranh đáp ứng được nhu cầu của thị trường thế giới. Việt Nam nằm trong một khu vực phát triển năng động nhất của nền kinh tế thế giới,có thời cơ thuận lợi để hội nhập và giao lưu kinh tế khu vực cũng nhu tham gia vào các tổ chức kinh tế APEC... Việt Nam đẩy nhanh tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế trong điều kiện đất nước hoà bình,chính trị ổn định.Đây là cơ hội rất quan trọng để tập chung phát triển kinh tế,mở rộng quan hệ đối ngoại.Chính trị xã hội ổn định là bộ lọc quan trọng trong quá trình hội nhập,hơn nữa nó bảo đảm vai trò định hướng trong hội nhập quốc tế. Qua 15 năm đổi mới Việt Nam thực hiện chính sách mở cửa và đạt được nhiều kết quả quan trọng Là quốc gia đi sau Việt Nam có điều kiện học hỏi,rút ra kinh nghiệm của các quốc gia đi trước,hơn nữa Việt Nâm cũng có được nhiều kinh nghiệm trong hơn 15 năm đổi mới của mình. Trong điều kiện nền kinh tế thế giới đang quá độ sang nền kinh tế trí tuệ,khoa học công nghệ phát triển mạnh trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp,chi phối mọi hoạt động kinh tế-xã hội nhưng cũng không thể thay thế vai trò của nguồn lực lao động,hơn nữa,bản thân nguồn lực lao động còn là nhân tố sáng tạo ra công nghệ thiết bị và sử dụng chúng trong qua trình phát triển kinh tế.Trên thực tế nhiều công ty của nước ngoài vào Việt Nam,một trong những lý do quan trọng là tận dụng nguồn lao động rồi rào,rẻ và có khả năng tiếp thu công nghệ mới ở Việt Nam.Hội nhập kinh tế quốc tế đã tạo cơ hội cho nguồn lực của chúng ta khai thông,giao lưu với thế giới bên ngoài. 2.2:Khó khăn và thách thức. Đất nước ta tiến hành hội nhập trong điều kiện nước ta là nước đang phát triển ở trình độ thấp,sản xuất nông nghiệp là chủ yếu,sản phẩm chưa có sức cạnh tranh cao,nhiều nguyên nhiên liệu,máy móc vẫn phải phụ thuộc nhiều vào bên ngoài. Tiềm lực vật chất của Việt Nam còn yếu,nguồn nhân lực nói chung có trình độ thấp và có kỹ năng không cao,điều này khiến cho việc tham gia vào phân công lao động thế giới gặp nhiều khó khăn.Khó khăn này thể hiện ở chỗ năng lực tiếp nhận công nghệ yếu,khó phát huy lợi thế của nươc đi sau trong việc tiếp nhận các nguồn lực sẵn có từ bên ngoài để nâng cao cơ sở hạ tầng kỹ thuật dẫn đến Việt Nam có thể trở thành bãi rác của công nghệ lạc hậu. Sức cạnh tranh,đặc biệt là của các sản phẩm công nghiệp Việt Nam còn thấp,do đó Việt Nam gặp nhiều khó khăn trong việc củng cố và phát triển thị trường mới trong điều kiện nhiều nước cũng đang chọn chiến lược tăng cường hướng về xuất khẩu nên Việt Nam sẽ bị áp lực cạnh tranh ngay trong nội địa,việc mở cửa thị trường nội địa theo AFTA,WTO có thể biến Việt Nam thành thị trường tiêu thụ sản phẩm của nước ngoài nếu các doanh ngiệp trong nước không bám giữ được. Do tri thức và trình độ kinh doanh của dân ta còn thấp,cộng với hệ thống tài chính và ngân hàng còn yếu kém nên rất rễ bị tổn thương và bị thao túng nếu tự do hoá thị trường vốn sớm,từ kinh ngiệm của các nước cho thấy nguy cơ lệ thuộc vào các tổ chức tài chính nước ngoài và quốc tế là một thực tế. Trong quan hệ kinh tế đối ngoại chủ yếu là với các quốc gia có tiềm lực mạnh,có thể chứa đựng những yếu tố tiêu cực như muốn kìm hãm thậm chí gây sức ép,buộc Việt Nam phải thay đổi những vấn đề có tính nguyên tắc như định hướng,mục tiêu,mục đích phát triển. Nguy cơ tụt hậu của nền kinh tế Việt Nam với nền kinh tế khu vực và thế giới là một thách thức to lớn,để tránh những yếu tố gây ảnh hưởng tớ nguy cơ này Việt Nam cần đưa ra những chính sách phát triển đúng đắn hợp thời đúng lúc. Xu hướng tự do hoá thương mại đang diễn gia mạnh mẽ,ngày càng được các nước áp dụng mạnh mẽ nhưng xu hướng bảo hộ mậu dịch cũng hết sức dày đặc với nhiều công cụ mới. 3:Thực trạng KTĐN ở Việt Nam hiện nay. Sự phát triển của KTĐN ở nước ta trong thời gian vừa qua đã có ý nghĩa hết sức quan trọng,thậm chí là quyết định đối với sự tăng trưởng kinh tế của nước ta.Nước ta đã đạt được nhiều thành tựu cả về tăng trưởng xuất nhập khẩu,thu hút vốn nước ngoài và phát triển du lịch...Bên cạnh đó KTĐN ở nước ta cũng có những hạn chế đáng quan tâm. Quá trình đổi mới qua hơn 15 năm đã khẳng định đường lối đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta.Trong sự thành công đó không thể không nhắc tới sự đóng góp của KTĐN. +Về ngoại thương:Nhờ có sự thay đổi trong chính sách và quản lý ngoại thương của nhà nước,các doanh nghiệp thuộc mọi ngành kinh tế đều được quyền xuất khẩu.Kim ngạch xuất khẩu không ngừng tăng qua các năm,năm 2001 đạt 16,2 tỷ USD,năm 2002 đạt 16,53 tỷ USD tăng 9,8% so với năm 2001và cao nhất từ trước cho tới nay.Cho tới năm 2002 kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản đạt 2,03 tỷ USD,cao su xuất khẩu gần hết sản lượng hàng hoá.Hàng dệt may đã đạt 2,6 tỷ USD.Hạt tiêu đứng đầu thế giới về xuất khẩu.Nhiều mặt hàng của Việt Nam đã có mặt trên thị trường thế giới như gạo, dệt may, thuỷ sản, chè, hàng thủ công mỹ nghệ...Chúng ta một mặt phát triển ở cả các thị trường truyền thống một mặt tìm kiếm và giao lưu phát triển ở những thị trường mới.Tạo chỗ đứng trên thị trường thế giới.Kim ngạch nhập khẩu năm 2002 đạt 19,3tỷ USD tăng 19,4% so với năm 2001. Trong đó khu vực có vốn đầu tư nước ngoài ngày càng tăng.Từ năm 1990 đến nay,chúng ta đã duy trì được mức độ thu nhập tương đối cao,khắc phục được hậu quả của việc thị trường truyền thống giảm sút đột ngột sau khi Liên Xô tan dã vầ các nước XHCN Đông Âu xụp đổ. Tuy đạt được nhiều thành tựu nhưng ngoại thương của Việt Nam còn nhiều hạn chế như :Mức xuất khẩu bình quân đầu người còn thấp,chưa có hoặc có rất ít mặt hàng xuất khẩu chủ lực có khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế.Nhìn chung,chất lượng hàng xuất khẩu của Việt Nam còn kém khả năng cạnh tranh.Cơ cấu hàng xuất khẩu chưa hấp dẫn,trình độ chế biến còn kém,mẫu mã,bao bì chưa theo kịp quốc tế,xuất khẩu hàng thô là chủ yếu,kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất rất lạc hậu,tổ chức bộ máy xuất khẩu chưa hợp lý,yếu và kém;hoạt động nhập khẩu chưa gắn liền với đẩy mạnh xuất khẩu,còn lãng phí trong sử dụng hàng nhập khẩu,tệ nạn buôn lậu rất trầm trọng,còn có hiện tượng chạy theo lợi nhuận,chèn ép sản xuất trong nước và khuyến khích tiêu dùng hàng ngoại.Gần đây xuất hiện những vụ tranh chấp kiện tụng về bán phá gía,về thương hiệu.Mặt khác hiện tượng nhập siêu gia tăng tập trung vào một số thị trường,trong khi đó lại suất siêu vào một số thị trường khác,cán cân thương mại mất cân bằng với nhiều bạn hàng chủ chốt.Sự mất cân bằng này làm nảy sinh hai vấn đề quan trọng ảnh hưởng tới sự phát triển lâu dài của nền kinh tế:Thứ nhất,kim ngạch nhập khẩu công nghệ nguồn từ ba trung tâm kinh tế thế giới Mỹ,Tây Âu và Nhật Bản.Hai là,trong giá trị nhập siêu lớn từ các nước châu á phần lớn là nhập khẩu nguyên phụ liệu cho hai ngành công nghiệp may mặc và giầy da.Điều này có nghĩa là hoạt động xuất khẩu của Việt Nam chưa kéo được sản xuất trong nước. Để đẩy mạnh hoạt động ngoại thương nước ta cần hướng vào giải quyết các vấn đề sau: -Tăng kim ngạch xuất khẩu để đáp ứng nhu cầu nhập khẩu,chính sách mặt hàng nhập khẩu:Theo tiêu chuẩn được thừa nhận trên thế giới,bình quân một người một năm phải đạt mức 170 USD một năm mới được coi là nước có nền ngoại thương phát triển.Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đã đạt 184 USD/người. Chúng ta phải tăng nhanh mức xuất khẩu bình quân đầu người.Nâng tỷ trọng hàng chế biến trong cơ cấu mặt hàng xuất khẩu giảm tỷ trọng hàng sơ chế và nguyên liệu,hiện nay hàng nguyên liệu thô chiếm tỷ trọng hơn 80% hàng xuất khẩu,các sản phẩm qua chế biến chỉ chiếm khoảng 19%.Do vậy,phải gấp rút nâng cao trình độ công nghệ,hạ giá thành,tiếp cận thị trường thế giới,xây dựng đồng bộ chương trình và công nghệ xuất khẩu,thực hiện nhà nước thống nhất quản lý ngoại thương,nhưng không độc quyền ngoại thương. - Chính sách mặt hàng nhập khẩu:Trong thời gian tới phải tập trung vào nguyên liệu,vật liệu,các loại thiết bị công nghệ đáp ứng nhu cầu công nghiệp hoá hiện đại hoá.Việc hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá phục vụ chiến lược hướng mạnh vào xuất khẩu,đồng thời thay thế nhập khẩu những mặt hàng có thể sản xuất có hiệu quả ở trong nước,coi trọng phạm vi xây dựng kết cấu hạ tầng,thực hiện tiết kiệm ngoại tệ,bảo vệ sản xuất trong nước,điều tiết thu nhập qua việc bán hàng cao cấp,tăng việc làm... - Giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa chính sách thương mại tự do và chính sách bảo hộ thương mại:Vấn đề đặt ra cho đất nước ta đó là sử lý thoả đáng hai xu hướng nói trên bằng cách kết hợp hai xu hướng đó trong chính sách ngoại thương sao cho vừa bảo vệ và phát triển kinh tế,công nghiệp hoá,hiện đại hoá bảo vệ thị trường trong nước,thúc đẩy tự do thương mại,khai thác có hiệu quả thị trường thế giới. - Hình thành một thị trường tỉ giá hối đoái sát với sức mua của thị trường Việt Nam:Tỷ giá hối đoái là một trong những đòn bẩy quan trọng trong trao đổi kinh tế quốc tế.Do vậy việc xây dựng một tỷ giá hối đoái thống nhất,sát với giá thị trường tiền tệ là rất cần thiết cho mỗi nước.Đây là một công việc khó khăn đòi hỏi phải có nỗ lực cao trong quản lý vĩ mô. - Đa dạng hoá ngành hàng,mở rộng thiết lập quan hệ thương mại với Mỹ và các nước công nghiệp phát triển Âu-Mỹ khác:Việt Nam có quan hệ ngoại thương với trên 100 nước,nhưng tập trung ở 14 nước chiếm 90%kim ngạch xuất nhập khẩu.Hiện nay,gần 2/3số thiết bị kỹ thuật dược nhập từ các nước và lãnh thổ có công nghệ trung gian và 1/4 là từ các nước công nghệ tiên tiến,kinh tế trung hoa đang là đối tác quan trọng của nước ta .Như vậy cần thay đổi cơ cấu bạn hàng,không quá tập trung vào khu vực châu á,tích cực tăng dần tỉ trọng buôn bán với các nước có nền công nghệ cao và hiện đại.Chúng ta cần phải nhanh chóng tham gia vào các tổ chức kinh tế lớn như WTO,cải cách cơ cấu và chính sách kinh tế cho phù hợp,tham gia vào các hiệp định hàng hoá quốc tế,nhanh chóng xúc tiến các quan hệ ngoại thương với thị trường Âu-Mĩ. - Khuyến khích các doanh nghiệp Việt Nam chủ động đầu tư ra nước ngoài:Hiện nay,chính phủ đã có quy định về đầu tư của doanh nghiệp Việt Nam ra nước ngoài.Tiếp đến cần có những chính sách hỗ trợ, khuyến khích, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài, mạnh dạn ra nước ngoài kinh doanh và thừa nhận tính hợp pháp của việc chuyển lợi nhuận về nước qua các hoạt động kinh doanh đó. - Triệt để cải tiến cơ chế quản lý của nhà nước. +Hợp tác trong lĩnh vực sản xuất. Hiện nay nước ta có trên 30 triệu người ở trong độ tuổi lao động, trong đó có mấy triệu người chưa có việc làm.Dự kiến đến năm 2010 có 56,8triệu người ở độ tuổi lao động,tăng gần11triệu người so với năm 2000. Đây là lực lượng lao động đông đảo cho việc nhận gia công trong những năm tới và xuất khẩu lao động sang các nước phát triển làm việc. Với nước ta trong những năm trước mắt,tăng cường nhận gia công để tạo công ăn việc làm và tận dụng công xuất máy móc,ổn định tình hình kinh tế xã hội trong nước.Xu hướng hiện nay là chuyển những ngành có hàm lượng lao động và nguyên liệu cao sang các nước đang phát triển.Nó cũng rất thích hợp với nước ta vì cần ít vốn đầu tư,việc đào tạo công nhân nhanh .. Việc xây dựng những xí nghiệp chung với sự hùn vốn và công nghệ của nước ngoài dưới dạng các công ty cổ phần,công ty trách nhiệm hữu hạn ở nước ta hiện nay là rất phát triển. Hợp tác sản xuất quốc tế trên cơ sở chuyên môn hoá.Hình thức này làm cho cơ cấu kinh tế ngành của các nước tham gia đan kết vào nhau,phụ thuộc vào nhau. +Hợp tác khoa học công nghệ. Đối với sự nghiệp phát triển khoa học công nghệ của đất nước,trong những năm qua,hoạt động hợp tác quốc tế về khoa họccông nghệ đã chứng tỏ vai trò,vị trí quan trọng của mình với những thành tựu chủ yếu sau: Tiếp thu và cập nhật tri thức mới của thế giới,tiếp cận với nền khoa hiện đại và công nghệ tiên tiến,trang bị kiến thức chuyên môn cho nhiều cán bộ khoa học.Đồng thời học hỏi,thu nhận nhiều phương pháp kinh nghiệm tổ chức quản lý khoa học và tiến hành nghiên cứu của nước ngoài. Giới thiệu và quảng bá các thành tựu khoa học,tiềm năng của khoa học công nghệ,những vấn đề cấp bách của Việt Nam.Mặt khác,cung cấp nhiều thông tin chính xác về công nghệ mới,hiện đại, giúp các cá nhân,tổ chức...chuyển giao được nhiều công nghệ hiện đại,tạo điều kiện đi tắt đón đầu trong nghiên cứu và ứng dụng. Tăng cường tiềm lực khoa học-công nghệ quốc gia,thông qua sự hợp tác có hiệu quả đã đào tạo được một đội ngũ cán bộ khoa học có trình độ và năng lực tự mình tiến hành nghiên cứu và ứng dụng khoa học. Góp phần giải quyết các nhu cầu cấp bách của sản xuất,kinh doanh,dịch vụ và đời sống xã hội Việt Nam,đẹm lại hiệu quả kinh tế xã hội nhất định. Trong bối cảnh tình hình thế giới có những biến đổi đột ngột và sâu sắc,hợp tác khoa học công nghệ đã vượt qua những thử thách gay gắt,duy trì và có những bước phát triển mới về chất lượng, hiệu quả ...Góp phần vào sự nghiệp phát triển khoa học công nghệ chung của đất nước. Việc đưa lao động đi làm việc theo hợp đồng ở nước ngoài đã giả quyết được nhu cầu việc làm và đem lại thu nhập cao cho công nhân.Và đang được vận dụng có hiệu quả tại Việt Nam. Ngoài những thành tựu to lớn,lĩnh vực hợp tác quốc tế về khoa học công nghệ trong thời gian qua cũng có những hạn chế, những mặt cần cải tiến,hoàn thiện hơn: -Quan hệ hợp tác quốc tế về khoa học công nghệ chủ yếu mang tính chất đơn cực,phụ thuộc vào quan hệ chính trị ý thức hệ,chưa tiếp cận được toàn diện với nền khoa học công nghệ tiên tiến của thế giới. -Hình thức chủ yếu về khoa học công nghệ trước thời kỳ đổi mới là song phương,chủ yếu diễn ra giữa nhà nước ta với một số nước và tổ chức quốc tế,do đó có đặc điểm tập trung vào bao cấp,không khuyến khích các quan hệ trực tiếp giữa các tổ chức cá nhân và với thành phần tư nhân. -Nguồn kinh phí chủ yếu là viện trợ của các nước và các tổ chức quốc tế.Nhà nước và các tổ chức cá nhân chưa dành kinh phí đầu tư hoặc hỗ trợ cho hoạt động này. Để nâng cao và mở rộng quan hệ hợp tác về khoa học công nghệ chúng ta phải thực hiện một số biện pháp sau : -Xây dựng một chính sách hợp tác quốc tế đa phương,đa dạng về hợp tác khoa học công nghệ theo tinh thần tăng cường đổi mới và chủ động hội nhập phục vụ nhu cầu công nghiệp hoá ,hiện đại hoá đất nước.Xác lập và phát triển quan hệ đối ngoại đối với tất cả các tổ chức,quốc gia,trong đó đặc biệt quan tâm đến các đối tác có tiềm năng to lớn về khoa học công nghệ và kinh tế cũng như có truyền thống quan hệ,lợi ích đặc biệt. -Tạo điều kiện cho mọi cơ quan,tổ chức và cá nhân trong nước mở rộng quan hệ,tham gia hợp tác quốc tế về khoa học công nghệ, trong đó đặc biệt chú trọng thành phần doanh nghiệp,các hiệp hội, các tổ chức phi chính phủ và người Việt định cư ở nước ngoài. -Hợp tác quốc tế về khoa học công nghệ cần phải được gắn với phát triển kinh tế,các nhu cầu kinh tế-xã hội và các chương trình kinh tế kỹ thuật của nhà nước nhằm nâng cao hiệu quả của KTĐN và hợp tác quốc tế về khoa học công nghệ,biến hợp tác quốc tế thành một bộ phận gắn bó khăng khít của cả hệ thống,có quan hệ hỗ trợ,thúc đẩy lẫn nhau trong sự nghiệp phát triển chung. -Đẩy mạnh công tác đào tạo nguồn nhân lực và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ khoa học công nghệ,củng cố tiềm lực khoa học công nghệ ở trong nước,trong đó chú trọng đến các cán bộ chuyên trách hoặc có liên quan trực tiếp đến công tác này. -Nhà nước hàng năm dành tỉ lệ ngân sách thoả đáng để dành cho khoa học công nghệ.Kinh nghiệm một số nước cho thấy do có đầu tư ngân sách thích đáng cho nên nền khoa học kỹ thuật nói chung và hoạt động chuyển giao khoa học công nghệ có nhiều kết quả tốt,đồng thời huy động mọi nguồn tài trợ và các nguồn kinh phí khác phục vụ mục đích này. -Hoàn thiện hệ thống quản lý hoạt động hợp tác quốc tế về khoa học công nghệ trong nước và ngoài nước. Mặt khác, cần phát triển thị trường khoa học công nghệ, tạo môi trường cạnh tranh, bảo hộ sở hữu trí tuệ và quyền tác giả, hoàn thiện pháp luật có biện pháp bảo vệ hữu hiệu đối với quyền sở hữu trí tuệ, vì đó là một trong các điều kiện tiên quyết để phát triển nền kinh tế tri thức, làm lành mạnh môi trường xã hội và đẩy mạnh hợp tác quốc tế về chuyển giao khoa học công nghệ. -Có chính sách thúc đẩy chuyển giao công nghệ, triển khai ứng dụng các kết quả nghiên cứu theo hướng hoàn thiện quy trình, giảm nhẹ thủ tục. +Đầu tư quốc tế. Từ năm 1987,khi lần đầu tiên chúng ta ban hành luật đầu tư nước ngoài, cho đến nay đã có trên 40 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào nước ta.Tính đến hết tháng 12/2001 có 3346 dự án được cấp giấy phép với tổng vốn đăng ký 41,8 tỷ USD,trong đó vốn thực hiện khoảng 38%.Cơ cấu vốn đầu tư trực tiếp ngày càng phù hợp với nhu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế.Vốn FDI thu hút vào lĩnh vực sản xuất vật chất,kết cấu hạ tầng kinh tế đều tăng,năm 2001 đạt 85% tổng số vốn đầu tư.Đầu tư của nước ngoài từ các quốc gia phát triển đều tăng và chiếm 44% tổng vốn đăng kí tại Việt Nam.Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đã tạo ra 34% tổng giá trị sản xuất toàn ngành công nghiệp,khoảng 23% kim ngạch xuất khẩu và đóng góp trên 12% GDP của cả nước,thu hút hơn 30 vạn lao động trực tiếp và hàng triệu lao động gián tiếp.Vốn hỗ trợ phát triển chính thức(ODA) cho Việt Nam tiếp tục tăng,đóng góp đặc biệt trong lĩnh vực phát triển kết cấu hạ tầng,xoá đói giảm nghèo,y tế,giáo dục đô thị...Đến tháng 12/2001 vốn ODA được các nhà tài trợ cam kết cho Việt Nam vay là 15,04 tỉ USD(bình quân hàng năm là 1,5 tỉ). Năm2002 đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam đạt 6 triệu USD vốn thực hiện. Tính đến hết năm 2002 Việt Nam đã có 64 dự án đầu tư trực tiếp tại 19 nước và vùng lãnh thổ với tổng vốn đăng ký hơn 52 triệu USD.Theo đánh giá của chương trình phát triển Liên Hợp Quốc,Việt Nam đã cải thiện được tình hình giải ngân của các khoản ODA,đạt tới 1,5 tỉ USD trong năm 2002. Tuy phát triển nhanh và đạt được nhiều thành tựu đáng khích lệ,tuy nhiên đầu tư quốc tế vào Việt Nam còn gặp nhiều khó khăn và hạn chế như: -Chưa có định hướng và quy hoạch rõ ràng cho việc đầu tư của nước ngoài, cho việc hình thành các khu công nghiệp nên có hiện tượng phát triển tràn lan,gây khó khăn không ít cho sản xuất nội địa. -Đầu tư chủ yếu phục vụ nhu cầu trong nước ,các ngành thiết yếu quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân còn ít được đầu tư. -Việc tổ chức quản lý một số dự án gây thua thiệt cho phía Việt Nam,công nhân bị nguợc đãi,quả lý vĩ mô thiếu chặt chẽ.Đội ngũ cán bộ về quản lý của Việt Nam còn yếu về trình độ chuyên môn và chưa được rèn luyện về bản lĩnh và tinh thần dân tộc. -Sự mất cân đối đáng kể về thu hút đầu tư theo từng ngành từng vùng.Hầu hết các dự án đều tập chung ở những đô thị lớn như TP Hồ CHí Minh,Hà Nội,Đồng Nai,Bà Rịa ... -Tỉ lệ góp vốn trong liên doanh của nhiều dự án bên phía Việt Nam chỉ sấp xỉ 30% đã gây khó khăn cho việc tổ chức và quản lý,đưa đến sự thiệt thòi cho phía Việt Nam. -Một số dự án đáng kể bị rút vốn ra khỏi liên doanh hoặc rút giấy phép trước thời hạn,đưa đến sự thua thiệt cho cả hai bên. -Một số mục tiêu như tỉ trọng xuất khẩu ,chuyển từ lắp ráp bằng linh kiện nước ngoài sang lắp ráp bằng linh kiện được sản xuất trong nước...không đạt được. Để thực hiện chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài ngày càng có hiệu quả cả về số lượng và chất lượng nhằm phục vụ đắc lực cho sự nghiệp công nghiệp hoá,hiện đại hoá đất nước,chúng ta cần lưu ý các vấn đề sau: -Hoàn thiện chính sách, luật pháp,cải cách hành chính để huy động nhiều hơn nữa vốn đầu tư nước ngoài và sử dụng có hiệu quả kinh tế xã hội nhiều hơn các nguồn vốn ấy. -Có chiến lược quan hệ kinh tế đối ngoại cùng với quy hoạch và thực hiện ngiêm ngặt quy hoạch gọi vốn đầu tư của nước ngoài trên quan điểm vì lợi ích căn bản và lâu dài của đất nước,xác định đúng đắn đối tác khắc phục tình trạng đầu tư tràn lan,kiểm soát vốn đầu tư bên ngoài,ngăn chặn sự đối lập giữa đầu tư nước ngoài với lợi ích quốc phòng an ninh,với việc giữ gìn nền văn hoá dân tộc... -Xác định tốc độ tăng trưởng một cách hợp lý,vừa bảo đảm tốc độ phát triển kinh tế tối ưu,vừa thực hiện đảm bảo công bằng xã hội. -Có chính sách huy động nhiều tiềm lực trong nước để thực hiện chủ trương chiến lược lấy nguồn vốn trong nước là chính,tạo điều kiện tối đa cho các ngành các thành phần kinh tế trong nước phát triển. -Xây dựng các khu vực kinh tế nhà nước,kinh tế hợp tác xã hội chủ nghĩa vững mạnh và làm điểm tựa cho nền kinh tế quốc dân và cùng với các khu vực kinh tế tư nhân trong nước với tư cách là nội lực làm đối trọng với khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. +Các hình thức dịch vụ thu ngoại tệ,du lịch quốc tế. Du lịch quốc tế:ngành du lịch Việt Nam đã có những bước phát triển đáng kể.Số khách du lịch quốc tế vào Việt Nam tăng đều. Năm 2001 đạt 2,3 triệu khách,năm 2002 là 2,6 triệu lượt người. Khách nội địa đạt 12,5 triệu lượt người.Doanh thu xã hội từ du lịch đạt 23 nghìn tỉ đồng,tương đương 1,5 tỉ USD,tăng 11% so với năm 2001.Đáng chú ý là khách vào bằng đường hàng không đường biển đều tăng và các đối tượng có khả năng chi tiêu cao như khách Nhật Bản ngày càng đông,công suất sử dụng buồng,phòng khách sạn ở các đô thị và các trung tâm du lịch đạt 80%.Trong tình hình thế giới phức tạp và biến động thì Việt Nam được bình chọn là điểm du lịch an toàn và thân thiện.Đồng thời nhạy bén nắm bắt được cơ hội,ngành du lịch Việt Nam đã tích cực tận dụng các ưu thế để thu hút khách du lịch.Ngành du lịch đã phối hợp với các ngành hàng không,ngoại giao văn hoá.Du lịch phát triển kéo theo các ngành hàng không,giao thông vận tải,bưu chính viễn thông,thủ công nghiệp phát triển.Điều này đã góp phần làm thay đổi đời sống vật chất, tinh thần của nhiều vùng dân cư,mở ra hướng tiêu thụ hàng hoá dịch vụ ... Hoạt động du lịch đã tạo việc làm trực tiếp và gián tiếp cho 670 nghìn người. Đáng chú ý là trong năm 2002 ngành dịch vụ tăng trưởng chậm,chỉ đạt 6,2% thấp hơn tốc độ tăng trưởng GDP toàn quốc.Vì vậy,tỷ trọng của lĩnh vực này trong tổng sản phẩm quốc dân giảm từ 39% năm 2001 xuống còn38,2% năm 2002.Có 6/13 nhóm dịch vụ có tốc độ tăng trưởng chậm hơn năm 2001.Trong đó quan trọng nhất là thương nghiệp ,chỉ tăng 6,9% so với 7,2%của năm 2001. Việt Nam có rất nhiều lợi thế để phát triển vận tải quốc tế như bờ biển dài có nhiều hải cảng và vùng vịnh nhưng thực tế vận tải quốc tế ở Việt Nam chưa phát triển tương xứng với các tiềm năng của nó. Các hoạt động dịch vụ thu ngoại tệ khác ở Việt Nam nhìn chung mới ở giai đoạn đầu hình thành và phát triển bước đầu và có những triển vọng to lớn.Tuy nhiên để đưa ngành này trở thành ngành quan trọng thì cần có cái nhìn đúng đắn về vai trò của chúng,cần đầu tư thoả đáng và có các chính sách thích hợp tích luỹ ngoại tệ tăng thu cho ngân sách nhà nước,giải quyết việc làm,cải thiện đời sống nhân dân... Trong thời gian vừa qua tuy KTĐN đã thu được nhiều thành công và phát triển nhất định nhưng đã gặp phải nhiều vấn đề cấp bách thể hiện ở các điểm sau : +KTĐN đã đạt tốc độ tăng trưởng khá cao trong cả thập kỉ 90,nhưng đã có sự giảm sút tốc độ từ năm 1999.Đó là do các nguyên nhân sau đây: - Tình trạng bảo hộ mậu dịch không giảm đáng kể mà còn gia tăng.Mức thuế suất nhập khẩu bình quân đã giảm từ trên 16% xuống còn trên 13% trong thời gian 1996-1998,nhưng đã tăng lên 16% vào năm 2001.Hàng dào bảo vệ mậu dịch cao này tưởng như chỉ có tác dụng ngăn chặn các dòng hàng nhập khẩu,nhưng trên thực tế chúng đã tác động tiêu cực tới toàn bộ nền KTĐN.Hàng dào bảo hộ mậu dịch cao chỉ khuyến khích sản xuất thay thế nhập khẩu,FDI tự nhiên cũng theo hướng này,trong khi thị trường nội địa của ta nhỏ bé và ngày càng bão hoà,do vậy FDI không tăng lên được thậm chí chậm lại.Hàng dào bảo hộ mậu dịch còn ảnh hưởng sấu đến cả du lịch,vì giá cả tiêu dùng ở Việt Nam cao,không hấp dẫn khách du lịch. -Chi phí sản xuất của ta nói chung còn cao so với khu vực,do vậy lợi thế cạnh tranh bị giảm nhiều.Chi phí sản xuất phụ thuộc vào các yếu tố:thuế nhập khẩu,thuế doanh thu,VAT,các phụ phí,tiền lương,giá các dịch vụ,công nghệ được sử dụng...Trong khi đó thuế nhập khẩu,kể cả hàng dào phi thuế quan của nước ta hiện nay cao nhất khu vực.Thuế doanh thu,thuế thu nhập với người nước ngoài cao nhất trong khu vực là 50%,giá các dịch vụ như liên lạc,viễn thông,hàng không,điện,nước,vận tải hàng không,đường biển cao nhất khu vực.Công nghệ được sử dụng trong các doanh nghiệp Việt Nam khá lạc hậu so với các quốc gia khác trong khu vực. -Chính sách tiền tệ và tín dụng hỗ trợ hoạt động KTĐN yếu.Tỷ giá giữa đồng VN với USD và các đồng tiền khác tuy đã được nhiều lần điều chỉnh nhưng hiện vẫn còn cao,mức cao này khoảng trên 10% và đã tác động tiêu cực đến hàng xuất khẩu của Việt Nam.Đồng tiền Việt Nam hiện nay chưa thể chuyển đổi tự do.Trong khi tổng giá trị xuất nhập khẩu của Việt Nam đã ngang bằng tổng GDP,thì đây là một vấn đề rất bất lợi.Cung cấp tín dụng cho xuất khẩu là một trong các yếu tố quyết định sự thành công của xuất khẩu,thế nhưng ở nước ta việc cung cấp các dịch vụ này,đặc biệt là việc cung cấp vốn lưu động cho các nhà xuất khẩu gặp nhiều trở ngại.Việc cung cấp tín dụng yếu kém đã tác động sấu tới cả vấn đề thu hút FDI và du lịch,vì các nhà đầu tư ít có cơ hội tiếp cận với các nguồn vốn trong nước để phát triển kinh doanh.Ngoài ba nguyên nhân trên còn có các nguyên nhân khác như: lao động ít được đào tạo,không lành nghề;thể chế hành chính luật pháp không minh bạch:bộ máy quản lý yếu kém và quan liêu tham nhũng.... +Nước ta đã trở thành nước xuất khẩu gạo,cà phê hàng đầu thế giới song đồng thời cũng phải chịu những tổn thất do giá gạo và cà phê suy giảm:Kể từ năm 1989,nứơc ta trở thành nước xuất khẩu gạo,sau đó là cà phê với vị trí thứ hai,thứ ba thế giới.Song do giá cả các mặt hàng này giảm sút liên tục từ cuối thập kỉ 1990 đến nay đã gây cho ngành sản xuất gạo và cà phê nước ta những tổn thất rất lớn.Ngay trong năm 2001,giá gạo còn tiếp tục hạ thấp tới 12,2% vầ giá cà phê hạ tới 39,9% so với năm 2000.Một trong các lí do chủ yếu làm cho giá gạo và cà phê giảm liên tục là nước ta đã gia tăng xuất khẩu gạo từ 2 triệu tấn năm 1995 lên 4 triệu tấn năm 1999 và từ 248 ngàn tấn cà phê năm 1995 lên tới trên 500 ngàn tấn năm 2000.Cung về gạo và cà phê đã vượt cầu do đó giá giảm xuống. Việc nghiên cứu tìm hiểu thị trường,xác định dung lượng các thị trường,các giới hạn của thị trường và khả năng thâm nhập tối đa của hàng Việt Nam vào thị trường đó là một vấn đề rất quan trọng. +Sự phát triển vượt trội của khu vực KTĐN với nhiều thành tựu đáng vui mừng cả về xuất nhập khẩu, đầu tư, dịch vụ,du lịch... Nhưng vấn đề đặt ra là một khi giá trị xuất nhập khẩu xấp xỉ bằng GDP,vốn FDI và các nguồn vốn nước ngoài khác đã chiếm tới gần 50% tổng vốn đầu tư xã hội,số khách du lịch vào Việt Nam lên tới gần 2,3 triệu người,thì các thể chế nền kinh tế nước ta không thể vẫn mang tính chất hướng nội như trước được.Các vấn đề về tỉ giá,thuế quan,hải quan,những quy chế về đầu tư nước ngoài,chính sách xuất nhập cảnh...cần được xem xét lại và đổi mới thích hợp với những điều kiện mới của khu vực KTĐN đã gia tăng vược trội. Nước ta đang ở thời điểm kinh tế đối nội không phát triển kịp,cản trở KTĐN. +Đội ngũ các doanh nghiệp hoạt động KTĐN đã tăng cả về số lượng và chất lượng nhưng vẫn chưa đáp ứng được vấn đề hội nhập kinh tế hiện nay.Trước những năm 1990 các doanh nghiệp hoạt động KTĐN chỉ có mấy trăm công ty xuất nhập khẩu và du lịch quốc tế và tất cả đều là quốc doanh. Nay đội ngũ doanh nghiệp hoạt động KTĐN đã lên tới hàng nghìn gồm cả quốc doanh,tư nhân và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Đó là một bước tiến to lớn cần khẳng định.ở nước ta các doanh nghiệp hoạt động KTĐN thường mới ở hai lĩnh vực là sản xuất và kinh doanh xuất khẩu. ở các lĩnh vực khác ta chưa có,nhưng cũng chưa cho phép các công ty nước ngoài hoạt động. Mặt khác chính sách nội địa hoá bắt buộc,ép các công ty nước ngoài phải sản xuất càng nhiều các linh kiện ở Việt Nam càng tốt. Chính sách này đã triệt tiêu mất lợi thế hoạt động của các công ty xuyên quốc gia.Vì các công ty này chỉ muốn lợi dụng lao động rẻ và vị trí thuận lợi của Việt Nam để lắp ráp rồi xuất vào Đông Nam á.Kinh nghiệm của nhiều nước cho thấy để có một đội ngũ các công ty hoạt động xuyên quốc gia cần nhiều thời gian.Bước đi đầu tiên là thu hút các công ty xuyên quốc gia nước ngoài vào hoạt động ở nước ta rồi biến họ thành của mình. Những công ty này chính là những hình mẫu để các công ty của ta đi theo và phát triển.Nước ta đang đi theo hướng này,nhưng chúng ta mới chỉ cho phép họ xuất nhập khẩu những gì họ đã đăng ký kinh doanh.Trong thời gian tới phải cho phép họ hoạt động toàn diện hơn.Tạo điều kiện cho họ kinh doanh,thúc đẩy các công ty của chúng ta phát triển theo. 4:Mục tiêu của KTĐN. Đối với nước ta, việc mở rộng quan hệ KTĐN phải nhằm từng bước thực hiện mục tiêu dân giàu,nước mạnh,xã hội công bằng dân chủ văn minh theo định hướng XHCN.Trong thời gian trước mắt thực hiện mở rộng quan hệ KTĐN nhằm thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước-nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ.Mục tiêu đó phải được quán triệt tới mọi ngành, mọi cấp trong hoạt động KTĐN.Cũng như phải được quán triệt trong mọi lĩnh vực của KTĐN. 5:Các giải pháp cơ bản để mở rộng và nâng cao hiệu quả của KTĐN. Để thực hiện mở rộng và nâng cao hiệu quả của kinh tế đối ngoại cần thực hiện đồng bộ hàng loạt các giải pháp trong đó có các giải pháp chủ yếu sau đây: 5.1:Đảm bảo sự ổn định về môi trường chính trị,kinh tế xã hội. Môi trường chính trị,kinh tế xã hội là nhân tố cơ bản có tính quyết định đối với hoạt động kinh tế đối ngoại,đặc biệt là với thu hút vốn đầu tư nước ngoài-hình thức chủ yếu của hoạt động KTĐN.Thực tiễn đã chỉ ra rằng nếu ổn định chính trị không bảo đảm,môi trường kinh tế không thuận lợi,thiếu các chính sách khuyến khích,môi trường xã hội thiếu tính an toàn ...sẽ tác động sấu đến quan hệ hợp tác kinh tế,trên hết là với việc thu hút đầu tư nước ngoài.Để đảm bảo môi trường kinh tế chính trị xã hội,đòi hỏi phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng,sự quản lý vĩ mô của nhà nước,sự nỗ lực của các ngành các cấp. 5.2:Có chính sách thích hợp đối với từng hình thức KTĐN. Đa dạng hoá các hoạt động KTĐN là một tiền đề của sự phát triển và mở rộng KTĐN.Đa dạng hoá các hoạt động KTĐN gắn bó chặt chẽ với đa phương hoá các hoạt động KTĐN và phải phù hợp với điều kiện của nền kinh tế trong từng giai đoạn phát triển,tuỳ thuộc vào những lợi thế của đất nước trong sự trao đổi và phân công lao động quốc tế,vào chính sách đối ngoại và không tách rời những diễn biến trong các mối quan hệ KTQT. Đặc biệt là phải sử dụng chính sách thích hợp đối với mỗi hình thức KTĐN.Chẳng hặn đối với ngoại thương cần phải có chính sách khuyến khích mạnh mẽ sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu,tăng nhanh tỷ trọng sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao,phát triển mạnh mẽ những hàng hoá dịch vụ có khả năng cạnh tranh,có cơ chế bảo hiểm hàng xuất khẩu, đặc biệt là nông sản.Khuyến khích sử dụng hàng hoá sản xuất trong nước,tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu tiến tới cân bằng xuất nhập khẩu. Thực hiện chính sách bảo hộ có lựa chọn,có thời hạn.Chủ động thâm nhập thị trường quốc tế,mở rộng thị trường quen thuộc,tranh thủ mọi cơ hội mở thị trường mới. Cải thiện môi trường đầu tư,tăng sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư. Khuyến khích các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài.Có chính sách thích hợp tranh thủ nguồn vốn ODA... Tăng cường mở rộng và có biện pháp hữu hiệu đối với các hình thức KTĐN khác như gia công,hợp tác khoa học công nghệ và các dịch vụ thu ngoại tệ...Nhưng có trọng điểm theo phương châm vừa mở rộng diện vừa tập trung sức vào một số hoạt động có điều kiện phát triển nhanh và có hiệu quả cao. 5.3: Xây dựng và phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế kỹ thuật. Kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế nói chung,KTĐN nói riêng.Người ta đã tính rằng có đến trên 70% những khác biệt về giá trị xuất khẩu trên đầu người là phụ thuộc vào trình độ phát triển của cơ sở hạ tầng.Trong điều kiện nền kinh tế tri thức đang hình thành và từng bước phát triển,kết cấu hạ tầng kinh tế càng đóng vai trò quan trọng và yêu cầu chất lượng ngày càng cao.Các cơ sở hạ tầng cho KTĐN bao gồm các cảng biển,đặc biệt là các cảng trung chuyển quốc tế,sân bay quốc tế,hệ thống đường cao tốc,hệ thống liên lạc viễn thông,cung cấp điện... Những yếu tố của cơ sở hạ tầng không những phải được xây dựng hiện đại mà còn phải đồng bộ và trong một thời gian ngắn.Chỉ cần một trong các yếu tố trên khiếm khuyết cũng đủ gây thiệt hại cho các hoạt động KTĐN. Đối với nước ta bên cạnh những thành tựu đã đạt được trong lĩnh vực bưu chính viễn thông thì trong lĩnh vực giao thông vận tải mặc dù đã có nhiều cố gắng,song vẫn còn quá lạc hậu so với các nước trong khu vực và thế giới,trong khi vốn đầu tư còn nhiều hạn chế. Do vậy,trong thời gian trước mắt,ta phải tập trung đầu tư xây dựng các cơ sở hạ tầng cần thiết cho KTĐN như:vệ tinh viễn thông,hệ thống đường cáp quang truyền dẫn;xây dựng cảng trung chuyển quốc tế;hiện đại hoá các sân bay quốc tế;mở rộng đường cao tốc ở các vùng trọng điểm; tăng cường việc xây dựng các nhà máy điện và hiện đaị các hệ thống truyền dẫn.Bên cạnh đó chúng ta phải có chiến lược đầu tư đúng nhất là đầu tư tập trung có trọng điểm,dứt điểm có hiệu quả cao,đặc biệt là phải kiên quyết chống lại các hiện tượng tiêu cực gây thất thoát vốn đầu tư. 5.4:Tăng cường vai trò quản lý của nhà nước đối với KTĐN. Vai trò quan trọng về quản lí kinh tế của nhà nước ta trong nền kinh tế thị trường đã được khẳng định.Đối với lĩnh vực KTĐN do tính chất đặc biệt của nó vai trò đó lại càng quan trọng hơn bao giờ hết.Kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn những năm vừa qua đã khẳng định rằng nếu thiếu sự quản lý của nhà nước KTĐN sẽ không thể mở rộng và đem lại hiệu quả,thậm chí còn dẫn đến những hậu quả khó lường cả về kinh tế và chính trị.Mặc dù đã có những cố gắng nhất định về quản lý nhà nước trong lĩnh vực KTĐN nên kết quả thu được không nhỏ,song do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan trong đó có vấn đề quản lý nhà nước nên kết quả đó còn rất khiêm tốn và càng khiêm tốn hơn nếu so sánh với các nước trong khu vực.Vì vậy việc tăng cường quản lý nhà nước trở thành vấn đề cấp bách.Chỉ có tăng cường vai trò quản ký của nhà nước mới có thể đảm bảo mục tiêu,phương hướng và giữ vững được những nguyên tắc cơ bản trong KTĐN và có như vậy hoạt động KTĐN mới đem lại hiệu quả.Thông qua sự tăng cường vai trò quản lý nhà nước sẽ khắc phục được tình trạng cạnh tranh thiếu lành mạnh,phát huy hiệu quả của sự hợp tác trong nước để có sức mạnh cạnh tranh quốc tế,tránh được sự thua thiệt về lợi ích... Để tăng cường vai trò quản lý KTĐN của nhà nước cần nhất thiết phải đổi mới tổ chức bộ máy,cơ chế quản lý của nhà nước.Trong đó vấn đề hết sức quan trọng là:nâng cao được năng lực của bộ máy quản lý,năng lực phẩm chất đạo đức của cán bộ công chức hoạt động KTĐN và có được hệ thống pháp luật mới ngày càng phù hợp với hệ thống luật pháp và phong tục tập quán quốc tế,thủ tục hành chính gọn nhẹ,thông tin thị trường cập nhật... 5.5:Xây dựng đối tác và tìm kiếm đối tác trong quan hệ KTĐN. Do hình thức KTĐN rất đa dạng nên đối tác cũng hết sức đa dạng.Cũng vì thế vừa xây dựng đối tác vừa tìm liếm đối tác quan hệ trở thành vấn đề phức tạp cần được sử lý linh hoạt. Đối với việc xây dựng đối tác trong nước,điều quan trọng là phải xây dựng các đối tác mạnh,có tầm cỡ quốc tế đóng vai trò đầu tầu trong quan hệ.Cần phải xúc tiến xây dựng một số doanh nghiệp nhà nước thành lập tập đoàn xuyên quốc gia.Các tập đoàn này trở thành đầu tầu trong việc mở rộng quan hệ KTĐN và thông qua đó lôi cuốn các doanh nghiệp khác. Đối với đối tác nước ngoài:việc lựa chọn đối tác thích hợp luôn là vấn đề quan trọng đối với Việt Nam.Song trong tương lai và về lâu dài cần quan tâm hơn đối với các công ty xuyên quốc gia vì đó là nguồn quốc tế lớn về vốn,công nghệ,kinh nghiệm quản lý mà chúng ta cần khai thác.Tuy nhiên để khai thác được họ không phải vấn đề đơn giản,đòi hỏi phải có chiến lược sách lược đúng đắn trên cơ sở cùng có lợi. 5.6:Khai thông các nguồn vốn cung ứng cho các hoạt động kinh tế quốc tế. Các hoat động kinh tế đối ngoại từ xuất nhập khẩu , du lịch đến đầu tư nước ngoài đều cần đến những nguồn vốn to lớn. Những nguồn vốn này hiện đang dư thừa cả trong nước và ngoài nước. Nguồn vốn tích trữ trong dân dưới nhiều dạng của cải khác nhau còn khá lớn. Vấn đề là chúng ta chưa có một cơ chế thích hợp để thu hút nguồn vốn này cho hoạt động kinh tế đối ngoại. Cơ chế và bộ máy huy động và phân bổ các nguồn vốn của nước ta hiện quá lạc hậu và vẫn theo cơ chế mệnh lệnh và bao cấp. Việc huy động và phân bổ nguồn vốn của nước ta hiện do các ngân hàng quốc doanh đảm nhận với rất nhiều hạn chế. Hơn nữa, hoạt động kinh tế đối ngoại đòi hỏi các ngân hàng cung ứng phải am hiểu thị trường thế giới, phải giám chấp nhận rủi ro, phải có năng lực không những thẩm định các dự án cho vay mà còn đưa ra các dự án kinh doanh có hiệu quả kích thích các nhà đầu tư. Các ngân hàng thương mại của ta kể cả ngân hàng ngoại thương nói chung đã không có được những khả năng này. Hơn nữa những quy định về thế chấp hiện hành là một hạn chế lớn đối với việc cung ứng cho hoạt động kinh tế đối ngoại. Những hạn chế trên đây cho thấy nếu không sớm đổi mới, khai thông các luồng vốn cho các hoạt động kinh tế đối ngoại,thì khó có thể đáp ứng nhu cầu về vốn cho hoạt động kinh tế đối ngoại.Nhưng những đổi mới này sẽ đi theo hướng nào? Trước hết cần phải mạnh dạn cho các ngân hàng thương mại của ta liên doanh với ngân hàng nước ngoài và cho phép ngân hàng nước ngoài mở rộng hoạt động kinh doanh nội và ngoại tệ. Thứ hai,thúc đẩy thị trường vốn hoạt động tốt hơn theo hướng-một mặt mở rộng diện cổ phần và cho phép các công ty cổ phần bán cổ phiếu,đồng cho phép các công ty chưa cổ phần hoá nhưng kinh doanh tốt hơn có thể bán cổ phiếu,trái phiếu...Mặt khác cần cho phép các công ty nước ngoài,người nước ngoài mua bán các loại chứng khoán trên thị trường. Thứ ba,nghiên cứu các loại hình kinh doanh vốn rủi ro ở các nước,để có thể xây dựng các quy chế,tao ra các điều kiện cho phép các công ty kinh doanh các rủi ro kể cả các công ty nước ngoài có thể ra đời và hoạt động ở Việt Nam 5.7:Các ngành dịch vụ phải được phát triển và hội nhập quốc tế. ở các nước phát triển các ngành dịch vụ đã chiếm khoảng 60-70% GDP.Vai trò của nó cực kỳ quan trọng đối với toàn bộ nền kinh tế,đặc biệt là trong thời đại nền kinh tế tri thức,ở Việt Nam các ngành dịch vụ rất kém phát triển,hơn nữa trong xã hội ta vẫn xem trọng sản xuất hơn dịch vụ,vẫn có xu hướng tập trung các nguồn lực cho sản xuất,kể cả các nguồn lực bên ngoài.Sản xuất là quan trọng nhưng nó không thể lấn áp dịch vụ.Nếu ta đầu tư vào sản xuất thép xi măng...nhưng không đầu tư thích đáng vào các dịch vụ tài chính, ngân hàng,bảo hiểm,tư vấn...thì sản xuất thép ,xi măng sẽ rơi vào tình trạng chi phí cao giá thành thấp,thiếu thị trường...Môi trường dịch vụ kém là một cản trở lớn đối với các nhà đầu tư từ các nước phát triển,vì họ đang quen với môi trường đầu tư có dịch vụ tốt. 5.8: Cơ cấu nhập khẩu phải phù hợp với định hướng xuất khẩu và sự phát triển có hiệu quả của nền kinh tế đất nước. Cơ cấu nhập khẩu của các nước khác nhau có thể khác nhau tuỳ theo các trình độ phát triển và điều kiện lịch sử kinh tế.Trong điều kiện này cơ cấu này phải phù hợp với cơ cấu xuất khẩu,phù hợp với nhu cầu thị trường thế giới và trong nước,một cơ cấu nhập khẩu và có hiệu quả thường gồm 5 nhóm hàng hoá sau:bằng phát minh sáng chế;máy móc thiết bị ;nguyên nhiên vật liệu và hàng tiêu dùng;cơ cấu nhập khẩu của các nước phát triển thường có đủ 5 nhóm trên.Cơ cấu của các nước đang và kém phát triển thường chỉ bao gồm ba nhóm hàng hoá:máy móc thiết bị nguyên nhiên vật liệu và hàng tiêu dùng.Cơ cấu nhập khẩu có đủ cả 5 nhóm hàng hoá sẽ phù hợp với hướng xuất khẩu và hội nhập quốc tế.Cơ cấu nhập khẩu của nước ta hiện là cơ cấu nhập khẩu 3 nhóm hàng hoá-máy móc thiết bị nguyên nhiên vật liệu và hàng tiêu dùng,hầu như không nhập khẩu bằng phát minh sáng chế và dịch vụ. 5.9: Tập trung đào tạo nguồn nhân lực phục vụ cho công tác đối ngoại. Các lĩnh vực kinh tế đối ngoại cần những nguồn nhân lực gì ? Đó là các nhà chuyên đàm phán kinh tế trên các diễn đàn song và đa phương để mở cửa thị trường;những nhà nghiên cứu đánh giá tình hình thế giới,tìm kiếm thông tin,hoạch định chính sách,tìm hiểu thị trường ,môi giới,quảng bá đầu tư,những nhà quản lý kinh doanh đối ngoại;những công nhân ,kỹ sư,kỹ thuật viên lành nghề...Đội ngũ những người làm công tác trên của nước ta rất mỏng và yếu. Để đáp ứng được yêu cầu kinh tế đối ngoại,cần có những biện pháp sau: +Cần tuyển chọn và cử các lớp cán bộ đi học ở nước ngoài chuyên về các quan hệ kinh tế quốc tế và kỹ thuật đàm phán quốc tế;xây dựng một bộ phận công tác ổn định chuyên lo việc đàm phán mở cửa thị trường,xử lý các quan hệ rắc rối trong quan hệ quốc tế. +Tăng cường đầu tư cho các trường đại học mở chuyên ngành quốc tế,cho các viện nghiên cứu quốc tế,cho các bộ phận nghiên cứu tìm hiểu thị trường,cho các trường dạy những hoạt động kinh tế đối ngoại... +Cho phép các công ty nước ngoài mở trường dạy nghề ở Việt Nam,cần có các chích sách ưu đãi nhằm khuyến khích các nhân tài người Việt Nam ở nước ngoài và người nước ngoài vào Việt Nam để kinh +Cần phổ cập tiếng anh như một ngôn ngữ thứ hai,cho phép rộng rãi hơn các trường nước ngoài có chọn lọc được mở các chi nhánh đào tạo tại Việt Nam. 5.10: Sửa đổi và ban hành các luật pháp cần cho KTĐN và phù hợp với các thông lệ quốc tế mà ta cam kết. Điểm đáng chú ý là hệ thống luật pháp của ta hiện vẫn chưa ăn khớp với các cam kết mà ta đã đăng ký,càng có một khoảng cách xa với thông lệ quốc tế hiện nay.Công tác làm luật và sửa luật của ta còn rất chậm,đặc biệt là các nghị định ,thông tư hướng dẫn thi hành luật,những luật pháp sau đây sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng tới hoạt động kinh tế đối ngoại và hiện đang có nhiều vấn đề: Thứ nhất là luật đất đai,ta đã có luật đất đai nhưng hiện chưa đủ cho các doanh nghiệp có thể sử dụng đất để thế chấp vay ngân hàng làm vốn kinh doanh đối ngoại. Thứ hai,luật ngân hàng của ta chưa cho phép sử dụng thẻ tín dụng,các thương phiếu...làm thế chấp trong khi các nền kinh tế thị trường thì đó là hoạt động thường nhật. Thứ ba,Quỹ hỗ trợ xuất khẩu mới được thành lập lại giới hạn hoạt động của nó trong việc cung cấp tín dụng dài hạn cho các nhà sản xuất xuất khẩu có lựa chọn.Trong điều kiện nước ta hiện nay quy luật này rất dễ bị các doanh nghiệp lợi dụng,biến báo,chạy chọt để được vào diện chọn lựa. Thứ tư,Luật đầu tư nước ngoài và luật đầu tư trong nước hiện còn những khác biệt,tạo ra môi trường đầu tư không thống nhất và có phân biệt đối xử. Thứ năm,các luật và thuế quan,thủ tục hải quan,về thương quyền,về xuất nhập cảnh...của nước ta hiện còn có khác biệt khá lớn so với các nước trong khu vực.Hệ thống luật pháp của ta tuy đã đổi mới nhiều,nhưng vẫn còn thiếu như chưa có luật kiểm soát độc quyền,luật chống bán phá giá,luật về thị trường bất động sản ,thị trường vốn..Một số luật đã được ban hành nhưng còn khiếm khuyết như có tới hai luật đầu tư phân biệt đối xử giữa đầu tư trong nước và ngoài nước,luật phá sản không đủ hiệu lực làm phá sản các doanh nghiệp yếu kém...Do vậy tiếp tục sửa đổi các luật đã có và ban hành các luật mới chưa có là một việc làm cấp bách. C: Kết luận. Với sự thay đổi của các điều kiện quốc tế trong giai đoạn mới xu thế của mới thời đại thì kinh tế đối ngoại ngày càng khẳng định vai trò to lớn của mình trong nền kinh tế từng quốc gia nói riêng và toàn bộ nền kinh tế thế giới nói chung.Do đó việc mở rộng và nâng cao hiệu quả của kinh tế đối ngoại là một yêu cầu cấp bách để có thể phát triển nền kinh tế xã hội đối với thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Đường lối đổi mới đã đưa nước ta vào một thế kỷ mới,thời kỳ mở rộng quan hệ quốc tế theo phương châm đa dạng hoá ,đa phương hoá,đẩy mạnh hội nhập với kinh tế thế giới.Việt Nam tích cực đẩy mạnh kinh tế đối ngoại nhằm mục tiêu phát triển kinh tế xã hội lên cho dân giầu nước mạnh,xã hội công bằng dân chủ văn minh,theo định hướng xã hội chủ nghĩa,đồng thời thực hiện thành công sự nghiệp CNH-HĐH đất nước. Tham gia vào việc chủ động hội nhập kinh tế quốc tế,đất nước ta hội tụ được nhiều điều kiện thuận lợi cả về khách quan và chủ quan để phát triển kinh tế đất nước như vị trí địa lý thuận lợi,tài nguyên thiên nhiên phong phú,đa dạng,nguồn nhân lực dồi dào,giá nhân công rẻ,chúng ta là nước đi sau nên học hỏi được nhiều kinh nghiệm của các nước đi trước đồng thời có khả năng đi tắt đón đầu để bắt kịp sự phát triển của các nước trong khu vực và thế gới. Sau 15 thực hiện chính sách đổi mới,chúng ta đã học hỏi và tích luỹ được nhiều kinh nghiệm của các nước đi trước và đã đạt được những thành tựu rất đáng kể trên lĩnh vực kinh tế đối ngoại,đã có được những nền tảng bước đầu để có thể gia tăng hội nhập kinh tế đối ngoại trong giai đoạn mới.Như sự gia tăng của kim ngạch xuất nhập khẩu,của thu hút và đầu tư vốn,của hợp tác sản xuất và trao đổi công nghệ...Nhưng đồng thời chúng ta cũng có những hạn chế nhất định và những thách thức cần phải vượt qua và vấn đề đặt ra với chúng ta là chúng ta phải làm những gì và làm như thế nào để nâng cao hiệu quả của KTĐN,để có thể thúc đẩy nền kinh tế đất nước phát triển theo những mục tiêu, quan điểm mà đảng và nhà nước đề ra cho KTĐN.Trong bài viết trên tôi đã trình bày những mặt thuận lợi và khó khăn khi chúng ta hội nhập kinh tế,và những hạn chế thách thức cần vượt qua,đồng thời cũng đưa ra một số giải pháp cơ bản cần thực hiện để có thể tranh thủ được cơ hội,đối phó được những thách thức nhằm mở rộng và nâng cao hiệu quả của kinh tế đối ngoại góp phần thực hiện thành công những chính sách của đảng và nhà nước,đưa đất nước ta ngày càng phát triển tạo dựng vị trí trên trường quốc tế. MụC LụC Trang A:Đặt vấn đề. 2 B:Giải quyết vấn đề. 4 I:Một số vấn đề về mặt lý luận cơ bản 4 1:Một số khái niệm. 4 2:Tính tất yếu khách quan của việc mở rộng và nâng cao hiệu 4 quả của KTĐN. 3:Những nguyên tắc và hình thức chủ yếu của KTĐN. 6 4:Vai trò, tác dụng của KTĐN. 11 II:Thực trạng và các giải pháp cơ bản để nâng cao hiệu quả 11 của KTĐN. 1:Các nguồn lực và lợi thế trong việc phát triển KTĐN ở 12 Việt Nam. 2:Những thuận lợi và khó khăn. 13 3:Thực trạng KTĐN ở Việt Nam hiện nay. 14 4:Mục tiêu của KTĐN. 24 5:Các giải pháp cơ bản để mở rộng và nâng cao hiệu quả của 24 KTĐN. C:Kết luận. 31 DANH MụC TàI LIệU THAM KHảO. +Giáo trình kinh tế chính trị. +Giáo trình kinh tế quốc tế. +Văn kiện đại hội đảng VI,VII,VIII,IX. +Tạp chí kinh tế đối ngoại. +Tạp chí kinh tế và phát triển. +Mác Lê Nin toàn tập phần nói về kinh tế đối ngoại. +Tạp chí nghiên cứu và phát triển. +Tạp chí cộng sản. +Những vấn đề kinh tế thế giới.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc4789.doc
Tài liệu liên quan