Đề tài Phân tích về sự ảnh hưởng của công nghệ tới mọi hoạt động của công ty da giầy Hà Nội và chiến lược của công ty để chuẩn bị tham gia hội nhập AFTA

nâng cao năng suất và hiệu quả của việc sử dụng công nghệ như: tổ chức sắp xếp lại cơ cấu các phòng ban, các bộ phận, đào tạo đội ngũ công nhân lành nghề và phù hợp với công nghệ, nâng cao năng lực quản lý giám sát của nhà lãnh đạo trong công ty .là những công việc cần phải tiến hành khi có sự đổi mới công nghệ trong công ty thì mới nâng cao được việc sử dụng công nghệ nhập về và mới có được kết quả cao trong việc vận dụng công nghệ mới vào quá trình sản xuất.

doc19 trang | Chia sẻ: ndson | Lượt xem: 1548 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Phân tích về sự ảnh hưởng của công nghệ tới mọi hoạt động của công ty da giầy Hà Nội và chiến lược của công ty để chuẩn bị tham gia hội nhập AFTA, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục lục I. Đổi mới công nghệ ở công ty giầy da Hà Nội chuẩn bị tham gia vào AFTA. Trang 3 II. thành tựu và hạn chế trong việc đổi mới công nghệ ở công ty giầy Hà Nội Trang 7 Chức năng và quan hệ giữa các thành phần của công nghệ Trang 7 Nhận thức về đổi mới công nghệ Trang 10 III. bài học và kinh nghiệm trong việc chuyển đổi công nghệ mới ở công ty giầy da hà nội Trang 15 Đối với các doanh nghiệp Đối với nhà nước Lời nói đầu. Trong xu hướng hội nhập ngày nay,việc chuyển giao công nghệ cũng là xu thế chung của các công ty. Công việc này được diễn ra nhanh hơn khi quá trình hội nhập vào AFTA sắp tới điều này chứng tỏ công nghệ có vai trò rất quan trọng trong việc đổi mới của công ty, nó sẽ quyết định thắng bại trên thị trường với nhiều sức cạnh tranh trong thời gian sắp tới. Để nhìn nhận rõ về điều này em đã nghiên cứu việc chuyển đổi công nghệ mới ở công ty giầy da Hà Nội (Hanshoes) và những thành tựu, những hạn chế của công tác này ở công ty thông qua việc đánh giá xem xét về tình hình hoạt động của công ty trong quá trình đổi mới công nghệ, đổi mới về cơ cấu tổ chức, phân cấp các phòng ban và các bộ phận sản xuất trong công ty. Sau quá trình đổi mới công nghệ công ty giầy Hà Nội đã đạt được một số thành tựu như: doanh thu tăng lên, chất lượng sản phẩm tăng, mẫu mã đa dạng phong phú … Trong bài viết này em đã phân tích về sự ảnh hưởng của công nghệ tới mọi hoạt động của công ty da giầy Hà Nội và chiến lược của công ty để chuẩn bị tham gia hội nhập AFTA. Tuy có nhiều cố gắng nhưng khó tránh khỏi nhiều thiếu sót vì vậy em rất mong thầy cô và bạn đọc góp ý để cho bài viết được hoàn thiện hơn. Em xin trân thành cảm ơn! Sinh viên thực hiện: Trần thanh nam I/ Đổi mới công nghệ của công ty giầy Da Hà nội chuẩn bị tham gia vào AFTA. Cùng với sự phát triển của ngành công nghiệp giầy thế giới và khu vực, từ đầu những năm thập kỷ 90 nghành công nghiệp giầy Việt Nam đã đón nhận sự dịch chuyển sản xuất từ các nước công nghiệp và lãnh thổ.Các doanh nghiệp đã tận dụng thời cơ cải tạo nhà xưởng hiện có, đầu tư máy móc thiết bị, thu hút các đối tác vào sản xuất giầy tại Việt Nam với nhiều hình thức như hợp tác sản xuất, gia công ,mua bán sản phẩm… Do vậy mà các sản phẩm da giầy đã từng bước trở thành một trong những mặt hàng chủ lực , đứng vị trí thứ tư sau dầu thô, dệt may và thuỷ sản , góp phần đáng kể vào tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Chỉ tính trong năm 2001 kim ngạch xuất khẩu của mặt hàng này đã đạt 1520 triệu $ , chiếm khoảng 10% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước, riêng quý 1/2002 xuất khẩu cũng đạt 429 triệu $ và dự kiến đạt khoảng 2700 triệu $ vào 2005. Hiện nay thị trường xuất khẩu giầy dép lớn nhất của Việt Nam là liên minh châu âu chiếm 85%. Theo báo nghiên cứu kinh tế năm 2002. Trang 44 Với số dân khoảng 400 triệu người với mức tiêu thụ khoảng 4-5 đôi giầy/người /năm, hàng năm EU nhập khẩu hơn 800 triệu đôi giầy các loại. Ngoài thị trường EU ,15% số lượng xuất khẩu giầy dép còn lại của Việt Nam vào thị trường Nhật và Mỹ cùng một số nước khác . Cũng giống như EU ,Mỹ và Nhật là những thị trường đầy tiềm năng với sức mua lớn. Hàng năm Mỹ nhập khoảng 1,3 tỷ đôi giầy , kim ngạch xuất khẩu giầy dép của Việt Nam vào Mỹ cũng được tăng lên trong những năm gần đây. Nếu như năm 1998 mới đạt khoảng 90 triệu$ thì năm 2001 đã lên tới 115 triệu $ chiếm 10,7% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường này. Còn Nhật mỗi năm cũng nhập khoảng 250 triệu đôi giầy. Hàng năm kim ngạch xuất khẩu giầy của Việt Nam vào Nhật cũng đạt khoảng 100 triệu $. Theo đánh giá của các chuyên gia , mặc dù Nhật ,EU và Mỹ là những thị trường to lớn giàu tiềm năng và ổn định đối với các mặt hàng giầy da của nước ta, nhưng các doanh nghiệp còn phải cố gắng rất nhiều để cải tiến mẫu mã ,nâng cao chất lượng sản phẩm , tăng cường đầu tư đổi mới công nghệ tiến tới hạ giá thành sản phẩm để cạnh tranh có hiệu quả với hàng xuất khẩu của các nước trên thế giới . Có như vậy hàng giầy da Việt Nam mới mong tìm được chỗ đứng cho mình trên thị trường to lớn và khó tính trên . Sự hội nhập của việt Nam vào AFTA là mối quan tâm của ngành bởi lẽ theo đó thì trong vòng 10 năm các nước thành viên phải giảm thuế hàng hoá xuống còn từ 0-5% . Mặc dù ngành đã đạt kim ngạch xuất khẩu cao trong những năm qua , song phần tiêu dùng nội địa còn ít và kim ngạch xuất khẩu giầy dép sang các nước ASEAN còn nhỏ bé chiếm chưa đầy 2%. Hơn nữa Việt Nam đang trong quá trình gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO), ngành da giầy sẽ phải chịu sự cạnh tranh gay gắt hơn. Ngoài ra do sở thích người tiêu dùng trên thế giới đã quen sử dụng những sản phẩm mang thương hiệu nôỉ tiếng như : nike, adidas, reebook, pumma… Do đó các nước sản xuất và xuất khẩu giầy với số lượng nhiều như Trung Quốc , Đài Loan , Hàn Quốc và một vài nước trong khối ASEAN đã mua lại bản quyền của các hãng này nhằm đáp ứng nhu cầu nhập khẩu của đối tác và mở rộng thị trường , điều này tác động đến ngành giầy da Việt nam trong thời gian tới về: chiến lược sản phẩm , chiến lược maketing ,giá cả và chất lượng sản phẩm … Những lợi thế của ta là giá nhân công rẻ , đội ngũ công nhân dễ thích nghi với môi trường làm việc và công nghệ mới , với giá khoảng 42 - 47 $ / tháng , trong khi đó ở Malaixia:150 $, Thái Lan:135 $,Philipin:130 $, Hồng Kông 750 $, Đài Loan 870 $, Trung Quốc 80 $ nhưng giá thành sản phẩm của ta vẫn cao hơn Trung Quốc khoảng 20% . Một trong những nguyên nhân chính là công nghệ của ta quá lạc hậu, phần lớn nhập từ Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan, kết cấu đơn giản, mức độ tự động hoá thấp, sử dụng nhiều nhân công, tiêu hao nhiều nguyên liệu. Mặt khác, các doanh nghiệp của ta chưa biết áp dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật vào công nghệ sản xuất giầy da như CAD 2D, CAD 3D, ít sáng tạo, dẫn đến các sản phẩm của ta chất lượng chưa được cao mẫu mã chưa phong phú, giá thành còn cao vv… Chính vì vậy ngành giầy da phải có những biện pháp khắc phục như: phát huy nguồn nhân lực hơn nữa, đào tạo đội ngũ lành nghề, tăng cường năng lực quản lý, đặc biệt là chú trọng đầu tư chiều sâu, hiện đai hoá máy móc thiết bị, đổi mới công nghệ, áp dụng khoa học mới một cách triệt để, nhằm nâng cao năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm, giảm chi phí, tăng năng lực thiết kế mẫu mã, đã dạng hóa sản phẩm nâng cao chất lượng để mở rộng thị trường và tăng sức cạnh tranh trên thương trường khu vực và quốc tế. Đứng trước tình hình đó công ty da giầy Hà Nội (Hanshoes) với tiền thân là nhà máy da Thuỵ Khuê. Năm 1998, theo qui hoạch phát triển ngành Da-Giầy Việt Nam. Từ năm 2010 theo quy hoạch của tổng công ty da giầy Việt Nam. Công ty da giầy Hà Nội đã chuyển đổi từ thuộc da sang sản xuất, kinh doanh giầy dép với sản phẩm chủ yếu như giầy vải, giầy da nam nữ, giầy thể thao, xăng đan, dép đi trong nhà với công suất 2 triệu đôi/năm. Được sự ủng hộ của tổng công ty, công ty đã mạnh dạn đầu tư hai dây truyền giầy vải xuất khẩu với công suất 1,2 triệu đôi/năm và một dây truyền giầy da nam nữ với công suất 500.000 đôi/năm. Năm 1999 công ty đã tăng trưởng 300% so với năm 1998. Năm 2000 mặc dù gặp nhiều khó khăn do những biến động về thị trường giầy dép thế giới và khu vực nhưng công ty đã hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu kế hoạch trong đó giá trị sản xuất công nghiệp đạt 133%, doanh thu đạt 138%, nộp ngân sách Nhà nước đạt 340%. Để chủ động nâng cao hiệu quả công ty đã cho ra thị trường hàng loạt mẫu mốt mới. Đây là điều kiện để thực hiện phương thức kinh doanh ”mua đứt bán đoạn” đạt 90%, phương thức gia công chỉ còn từ 5-10%. Do nhận thức được tầm quan trọng trong việc nâng cao chất lượng sản phẩm để tăng khả năng cạnh tranh và mở rộng thị trường, công ty đã quyết định thành lập hội đồng đăng ký chất lượng ISO 9002, tổ chức lớp bồi dưỡng về ISO. Đến 30/10/2000 công ty đã hoàn thành xong tài liệu, triển khai áp dụng thử và đến tháng 11/2000 tập đoàn chứng nhận quốc tế SGS đã cấp chứng chỉ ISO 9002 cho công ty. Đây là thành quả sau 15 tháng phấn đấu liên tục của toàn thể cán bộ công nhân viên công ty da giầy Hà Nội. Năm 2001 do tình hình kinh tế thế giới biến động đã ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động sản xuất trong nước nhưng công ty da giầy Hà Nội đã biết phát huy tốt nội lực của mình, biết tranh thủ những lợi thế đầu tư, biết duy trì mối quan hệ thường xuyên với khách hàng và tìm kiếm những khách hàng mới nên dần dần đã chiếm lĩnh được thị trường trong và ngoài nước. Vì thế mà tình hình thực hiện chỉ tiêu kế hoạch năm 2001 là khá khả quan: giá trị sản xuất công nghiệp ước đạt hơn 23 tỷ đồng, hoàn thành vượt mức 15% so với kế hoạch. Tổng doanh thu ước tính đạt 55 tỷ đồng hoàn thành vượt mức 89% so với kế hoạch(29tỷ đồng). Sản lượng sản phẩm chủ yếu là: -Sản phẩm giầy vải ước thực hiện 1000.000 đôi, đạt 100% so với kế hoạch. -Sản phẩm giầy da ước đạt 250.000 đôi vượt 100.000 đôi, tưng ứng với 66% so với kế hoạch. Công ty cũng đã quyết tâm phấn đấu khắc phục những khó khăn và sẽ không tiếp tục đầu tư đổi mới cơ sở hạ tầng, máy móc thiết bị và công nghệ ngày càng một hiện đại hơn, nhằm nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, giảm chi phí hạ giá thành sản phẩm, đa dạng hoá mẫu mã, tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường và ngày càng mở rộng thị trường hơn ra thế giới. II/ Thành tựu và hạn chế trong việc đổi mới công nghệ của công ty giầy Hà Nội: Để làm rõ những thành tựu hay những mặt lợi từ việc đổi mới công nghệ và hạn chế của nó thì cần tìm hiểu sơ bộ về công nghệ. Có thể nói công nghệ là việc áp dụng khoa học vào công nghiệp bằng cách sử dụng các kết quả nghiên cứu và sử lý nó một cách có hệ thống và có phương pháp. a) Công ty giầy Hà Nội đã chú trọng đến chức năng và quan hệ giữa các thành phần của công nghệ: Thông thường thì công nghệ bao gồm bốn thành phần chủ yếu để cấu thành một công nghệ hoàn chỉnh: phần vật tư kỹ thuật, con người, thông tin và phần tổ chức. + Phần vật tư kỹ thuật là cốt lõi của bất kỳ công nghệ nào, nó được triển khai lắp đặt vận hành do con người. Như công nghệ mà công ty giầy Hà Nội nhập về thì phần này thể hiện là toàn bộ máy móc thiết bị dây truyền khép kín để sản xuất giầy vải và giầy da. Máy móc thiết bị là yếu tố chính để cấu thành công nghệ, máy móc có hiện đại thì công nghệ mới được xem là có hiện đại không. Hơn thế nữa, các nguồn nguyên vật liệu đầu vào đều được xác định dựa vào máy móc, không chỉ vậy mà chất lượng sản phẩm, năng suất sản xuất… đều do máy móc thiết bị quyết định là chính. Máy móc càng hiện đại thì càng ít tiêu hao nguyên liệu hoặc lãng phí nguyên vật liệu, chất lượng sản phẩm được nâng cao hơn, công suất lớn hơn cho nên khi nhập công nghệ cần lưu ý là nhập công nghệ sao cho phù hợp tránh nhập phải công nghệ có máy móc lạc hậu gây ô nhiễm và tiêu phí nguyên vật liệu đầu vào. Sớm nhận biết được điều này nên công ty giầy Hà Nội đã nhập đồng bộ toàn bộ công nghệ để tận dụng được tối đa năng suất và giảm chi phí cho các nguồn đầu vào. Do sự phát triển của khoa học kỹ thuật và sự hôi nhập của các quốc gia trên thế giới diễn ra ngày càng nhanh và mạnh vì vậy mà công ty cần phải có một sự lựa chọn công nghệ sao cho phù hợp với năng lực, nguồn tài chính, và công nghệ nhập về cũng không quá hiện đại hoặc quá lạc hậu, vừa để cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong nước và trên thế giới ở hiện tại và tương lai. Đây là bước ngoặt của công ty nhằm thay đổi về chất để chuẩn bị tham gia cùng ngành giầy gia Việt Nam vào AFTA. + Trong công nghệ thì quá trình vận hành và sử dụng nó không thể thiếu con người. Máy móc thiết bị chỉ làm thay cho con người những việc khó, tỉ mỉ hoặc với số lượng sản phẩm lớn, tăng năng suất, nâng cao chất lượng sản phẩm hơn nhưng đều phải có sự góp sức của con người. Do vậy để đạt được năng suất cao và để sản phẩm đạt được tiêu chuẩn như mong muốn chuẩn bị tham gia vào AFTA thì công ty giầy da Hà Nội đã phải đào tạo thêm cho đội ngũ công nhân về việc vận hành và sử dụng trang thiết bị máy móc sao cho đạt hiệu quả cao nhất thì mới tận dụng được nguồn nhân lực dồi dào ở nước ta. Để làm được điều đó thì cần phải có sự phấn đấu nhiệt tình từ phía công nhân và sự lãnh đạo tận tình cũng như sự quyết tâm của toàn công ty chuẩn bị cho việc hội nhập sắp tới + Phần thông tin: được thể hiện ở tri thức tích luỹ trong công nghệ. Do vậy mà các công nghệ được coi là tiên tiến thì phần thông tin này là rất nhiều và rất quan trọng trong việc sử dụng và vận hành máy móc thiết bị một cách thành thạo để đạt hiệu suất cao, sử dụng tối đa các khả năng mà công nghệ có thể đem lại, tránh được các rủi ro về hỏng hóc, làm hỏng sản phẩm hay sản phẩm sai qui cách, chất lượng kém… chính vì thế mà trong giai đoạn chuyển giao hay nhập công nghệ thì cần phải có thông tin chi tiết và đầy đủ về công nghệ nhập thì mới mong có được các giải pháp để sử dụng công nghệ sao cho đạt kết quả như mong muốn, đặc biệt là lúc này công ty giầy Hà Nội đang trong quá trình chuẩn bị hội nhập do vậy việc thu thập thông tin và sử lý, sử dụng thông tin có vai trò quan trọng trong việc áp dụng công nghệ để có đủ sức cạnh tranh với các doanh nghiệp khác trong nước và trong khu vực. + Phần tổ chức là một bộ phận đóng vai trò điều hoà phối hợp ba phần trên, để thực hiện một cách hiệu quả mọi hoạt động biến đổi. Nó giúp cho việc quản lý, lập kế hoạch tổ chức bộ máy nhân lực, động viên thúc đẩy và kiểm soát các hoạt động biến đổi để đạt được kết quả theo mong muốn. Xong việc tổ chức là do lãnh đạo ban giám đốc của công ty quyết định và còn phụ thuộc vào đặc điểm cụ thể của công ty thì mới có được cơ cấu tổ chức sao cho phù hợp với chiến lược kinh doanh cũng như mục tiêu của công ty. Việc hình thành thêm hai bộ phận là phòng marketing và phòng thiết kế mẫu ở công ty da giầy Hà Nội đã giúp cho công ty này chiếm lĩnh được thị trường EU và một số thị trường ở nhiều nước khác cũng như sự khuếch trương và mở rộng thị trường ra nhiều nước. Không chỉ thế mà việc phân chia xắp xếp các bộ phận một cách hợp lý: bộ phận sản xuất, bộ phận đóng gói, bộ phận phân phối sản phẩm, bộ phận marketing, bộ phận thiết kế một cách phù hợp với công nghệ, với quy mô của công ty, cho nên công ty giầy Hà Nội đã có được những thành tựu to lớn như là đa dạng mẫu mã sản phẩm, chất lượng nâng cao, tận dụng và giảm được các nguồn cung cấp cho đầu vào, kéo theo là giá thành trên đơn vị sản phẩm giảm tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường, chiếm lĩnh được nhiều thị trường tạo được uy tín đối với người tiêu dùng và kết quả đạt được là doanh thu tăng, năng xuất tăng, mở rộng thêm được nhiều thị trường mới. Nhìn chung thì việc tổ chức và xắp xếp các bộ phận phòng ban là còn phụ thuộc vào công nghệ và quy mô hoạt động của công ty, đặc biệt là trong thời gian chuẩn bị gia nhập AFTA. b) Nhận thức về đổi mới công nghệ: Đổi mới công nghệ là sự chủ động thay thế một phần đáng kể (cốt lõi, cơ bản) hay toàn bộ công nghệ đang sử dụng bằng công nghệ khác. Muốn đổi mới công nghệ cần phải xác định rõ mục tiêu và phải phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của công ty mình. Sự thành công của việc đổi mới công nghệ gắn liền với năng lực công nghệ. Bên cạnh đó cần xem xét các yếu tố ảnh hưởng đến công nghệ: + Quy mô đầu tư cần thiết cho công nghệ: Việc xác định từng loại công nghệ và với từng điều kiện có thể của công ty mà đầu tư về công nghệ với một quy mô sao cho phù hợp. Không phải đầu tư tràn lan thành nhiều mảng là tốt mà còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác như khả năng về nhân lực trong công ty liệu có đáp ứng được hay không có phù hợp và thích ứng một cách nhanh chóng được không, ngoài ra còn phụ thuộc vào nguồn tài chính của công ty, năng lực quản lý giám sát của các nhà lãnh đạo trong công ty. Dựa vào các yếu tố đó để ra quyết định đầu tư vào công nghệ nào là phù hợp và đem lại hiệu quả kinh tế cao nhất. Trong công ty giầy Hà Nội thì họ chỉ nhập hai dây truyền đồng bộ khép kín sản xuất giầy vải và giầy da và bởi họ đã đánh giá được rằng thị trường tiêu thụ hàng giầy vải và giầy da là tương đối lớn, họ đã thấy được lợi thế của họ về sản xuất giầy vải và giầy da cũng như sự thích nghi của đội ngũ công nhân trong lĩnh vực sản xuất giầy vải và giầy da là nhanh nhậy và sáng tạo và có tiềm lực mạnh. Hơn nữa, khi nhập đồng bộ như vậy thì công nghệ mới này sẽ cho ra được những sản phẩm đòi hỏi tiêu chuẩn kỹ thuật cao hơn và dễ dang thay đổi các kiểu dáng mẫu mã mới hợp thời đáp ứng thị hiếu người tiêu dùng. + Năng lực công nghệ của cơ sở, ngành, quốc gia: Năng lực công nghệ được phản ánh ở tình trạng về công nghệ của cơ sở, ngành hay quốc gia và khả năng đổi mới hoặc chuyển giao các công nghệ mới thay thế hoặc bổ sung các công nghệ cũ nhằm đạt được mục đích có thể nào đó chủ yếu là mở rộng quy mô nâng cao hiệu quả sử dụng công nghệ, tăng doanh thu...Dựa vào năng lực công nghệ của cơ sở mà ta đánh giá loại công nghệ nào là phù hợp với cơ sở, ngành hoặc theo định hướng mục tiêu của quốc gia. Dựa vào tình trạng năng lực công nghệ, của ngành có thể cho biết tình hình chung của công nghệ, của ngành là lạc hậu hay trung bình, cần đổi mới thay thế hay nâng cấp như thế nào đó để phù hợp với tình hình công nghệ chung của ngành trong khu vực và trên thế giới. + Chiến lược và đường lối chính sách của Nhà nước và của công ty: Đây cũng là một nhân tố ảnh hưởng đến việc lựa chọn công nghệ bởi khi nhập công nghệ thì nên nhập loại công nghệ nào là phù hợp: công nghệ lạc hậu, công nghệ trung bình, công nghệ tiên tiến hay công nghệ hiện đại nhất so với thế giới. Với điều kiện của cơ sở hay các chính sách do nhà nước ban hành mà có sự lựa chọn công nghệ sao cho phù hợp nhất hay tránh tình trạng nhập tràn lan để thành “phế thải” cho các quốc gia khác, và cũng không nên nhập các công nghệ quá tiên tiến vượt quá tầm kiểm soát của công ty hoặc nằm ngoài chính sách do nhà nước ban hành. + Tính thích ứng của công nghệ: Được thể hiện ở chỗ công nghệ có dễ vận hành sử dụng hay không, độ tinh sảo và độ chính xác có cao và khả năng linh hoạt của công nghệ trong việc thay đổi mẫu mã quy cách sản phẩm có nhanh chóng thì mới có khả năng cho ra những sản phẩm mà nhà sản xuất mong muốn. Đặc tính này là một yếu tố để đánh gía tình trạng công nghệ này là tiên tiến hay lạc hậu so với thời đại. Thông thường mỗi sản phẩm không tồn tại vĩnh viễn trên thị trường vì nhu cầu luôn biến đổi theo ý thích, cá tính mưu lợi, vv...Do vậy các nhà doanh nghiệp luôn cần định hướng cho sản phẩm thay thế, sản phẩm tung ra thị trường hay chiến lược sản phẩm của doanh nghiệp. Điều này chi phối đến việc đổi mới công nghệ theo từng phần từng công đoạn hay đổi mới toàn bộ hoặc khép kín. Vấn đề này đã được công ty da giầy Hà Nội giải quyết rất hiệu quả và đem lại thành quả cao trong việc sản xuất và kinh doanh của công ty. Sau khi mạnh dạn đầu tư hai dây truyền sản xuất mới về giầy vải, giầy da, thì công ty đã có sự chuyển biến đáng kể đó là: số lượng giầy da, giầy vải tăng nhanh trong sản xuất và tiêu thụ, chất lượng được nâng cao, giá trị sản xuất công nghiệp tăng vượt trội, doanh thu tăng nhiều hơn và nộp ngân sách cũng tăng đáng kể. Điều này phải chăng đã phản ánh rằng đổi mới công nghệ ở công ty là một giải pháp sáng suốt để tạo đà cho việc phát triển của công ty ở trước mắt và trong thời gian tới đây là việc tham gia hội nhập vào AFTA với nhiều sức ép ở mỗi mức độ và khía cạnh khác nhau, đây sẽ là nền móng để công ty có đủ sức mạnh cạnh tranh với các doanh nghiệp khác trong sự hội nhập. Do tính ưu việt của công nghệ là thay thế bàn tay sức lực con người để thực hiện các thao tác tinh sảo, sản xuất được các đôi giầy sát với các mẫu mã thời trang, chất lượng sản phẩm được nâng cao lên và năng xuất lao động cũng tăng lên đột biến. Hiện nay trên thị trường tại các hãng giầy nổi tiếng thì dây truyền sản xuất hầu như là tự động hoá và được vi tính hoá do vậy mà họ giảm được rất nhiều chi phí tính trong gía thành sản phẩm, mặt khác sản phẩm của họ mà họ đưa ra thì chất lượng tốt mẫu mã phong phú. Nhận thấy được điểm này, công ty giầy da Hà Nội đã thành lập thêm hai bộ phận là phòng marketing và phòng thiết kế mẫu nhằm đáp ứng thị hiếu của người tiêu dùng ở các thị trường khác nhau. Không chỉ có vậy công ty còn tổ chức phối hợp liên kết các phòng ban, các bộ phận sản xuất một cách hợp lý, phù hợp với công nghệ mới, điều này giúp cho công ty sớm ổn định và phát triển trên thị trường. Khác với các doanh nghiệp khác là ở chỗ công ty đã đầu tư đồng bộ khép kín cả quy trình công nghệ cho nên không lâm vào tình trạng bị lỗi ở công nghệ do không có sự ăn khớp giữa các bộ phận sản xuất hoặc thành phần sản xuất, làm tiêu hao nhiên liệu và nguyên vật liệu sản xuất dẫn đến tăng giá thành sản phẩm. Đây cũng là ưu điểm của việc đồng bộ các dây truyền sản xuất mà hầu hết các doanh nghiệp sản xuất giầy có vốn 100% nước ngoài ở ta đang thực hiện. Ngày nay, nhờ có sự tiến bộ về khoa học kỹ thuật mà đem lại nhiều mặt lợi thế hơn các loại công nghệ cũ trước đây như: chất lượng sản phẩm tốt hơn, ít tiêu hao nhiên liệu hơn, tiết kiệm được các nguyên vật liệu đầu vào, tăng tính linh hoạt của công nghệ trong việc thay đổi quy cách mẫu mã sản phẩm... + Sự tiến bộ về chế tạo máy của các nhà sản xuất ITALIA đang được cả thế giới khâm phục. Họ đã và sẽ còn chế tạo ra các công đoạn rất khó khăn, rất tỉ mỉ, rất khéo léo, tưởng chừng như chỉ có bàn tay con người mới làm được. Càng ngày họ càng kết hợp nhiều nguyên công tự động trên một cỗ máy với một tốc độ thao tác rất cao. Hiện tại và trong tương lai, việc sản xuất giầy được cơ giới hoá ngày càng cao và càng chuyên sâu, được máy tính hoá. Tuy nhiên, việc có sự trợ giúp của máy tính đã đưa năng xuất lên cao chỉ chủ yếu ở hai công đoạn cắt, chặt vật liệu và gò ráp giầy. Công đoạn gò ráp giầy bằng rô bốt đã làm cho năng xuất đạt đến gần 200 đôi/ người /ngày, tăng gấp 5-6 lần gò ráp theo giây truyền băng tải dài, cổ điển cần nhiều công nhân. + Việc áp dụng những thành tựu đã đạt được trong toán học, và vật lý học, hoá học... vào các công nghệ pha cắt nguyên vật liệu nhằm làm giảm được từ 3-4% vật tư tiêu hao, đặc biệt giảm được nhiều chi phí thiết kế, chế tạo khuôn mẫu, chi tiết giầy, các loại giầy... đặc biệt là việc sử dụng rộng rãi áp lực nước, tia lazer, lập trình mẫu trong pha cắt vật liệu, áp dụng các thành tựu mới trong công nghệ ăn mòn hoá học, chế tạo cơ khí, các cấu trúc của CAD2D và 3D... làm giảm đáng kể các nguồn nguyên vật liệu sản xuất, giảm tối thiểu chi phí cấu thành sản phẩm và nâng cao độ chính xác trong quá trình thiết kế sản xuất sản phẩm. + áp dụng các thành tựu sản xuất các vật liệu mới. Chính nhờ thành tựu này mà giầy dép, đồ dùng bằng da đã trở nên phong phú, hấp dẫn gây nhiều ấn tượng thích thú cho người dùng các vật liệu mới về mũ giầy và đế giầy còn lưu ý đến cả hiệu quả cao trong sử dụng an toàn và tiện lợi cho mọi hoạt động tạo cảm giác thoải mái cho người dùng. + Người ta đang hướng tới hoàn thiện phương pháp thiết kế giầy với CAD3D vì nó gần gũi nhất với các phương pháp của các nhà tạo mẫu truyền thống và có các lợi thế như: chỉ sử dụng một yếu tố hình học chung và duy nhất cho các thành phần chủ yếu của giầy, bảo đảm được tính đồng dạng của các bộ phận khác nhau trên những đôi giày khác kích cỡ hoặc đối xứng trên cùng một đôi giày, một chiếc giầy bảo đảm độ chính xác cao khi đúc khuôn, dựa trên mẫu toán học của vật thiết kế được thể hiện trên chương trình CAD3D mà nhà thiết kế có thể tự mình vẽ thành khuôn mẫu, phương pháp 3D cho phép giảm được nhiều thời gian, công sức và công nghệ triển khai sản xuất giầy mẫu vv... Nói tóm lại quá trình đổi mới công nghệ trong công ty là một sự thay đổi về chất các yếu tố để cấu thành sản phẩm, không như các sự thay đổi khác chỉ là một bộ phận nào đó hoặc chỉ tác động đến một yếu tố trong vô số các yếu tố ảnh hưởng đến sản phẩm, hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty, thay đổi cơ cấu phân bổ nhân lực, cũng như về nội bộ lãnh đạo trong công ty được xắp xếp lại, chiến lược của công ty cũng được điều chỉnh lại... Trong thời đại ngày nay ,thời đại mà khoa học và kỹ thuật đang ngày càng phát triển và xu hướng hội nhập của các quốc gia thì đòi hỏi các doanh nghiệp phải tự định hướng phát triển sao cho phù hợp với quốc gia của mình.Do vậy việc đánh giá và chuyển giao công nghệ là công việc cần thiết trước mắt bởi lẽ nó thay đổi toàn bộ về bộ mặt của công ty.Việc đổi mới công nghệ giúp công ty có những thay đổi lớn về mọi mặt như về các yếu tố đánh giá sản phẩm,ban quản lý điều hành công ty,cơ cấu tổ chức,nhân lực...đều có sự thay đổi.Nhìn nhận tại công ty da giầy Hà Nội ta có thể thấy rõ điều đó qua sự phân tích ở trên.Sở dĩ công ty đổi mới công nghệ vào lúc này là vì công việc này là rất quan trọng,nó tạo nền móng cho sau này được vững chắc hơn,phát triển mạnh hơn.Một trong những nguyên nhân dẫn đến công ty phải đổi mới công nghệ vào thời điểm này là vì: -Do chỉ còn khoảng thời gian tương đối ngắn cho nên cần đổi mới ngay từ bây giờ để bắt kịp với các doanh nghiệp tiên tiến trước hết là trong khu vực và một vài nước khác trên thế giới để chuẩn bi tham gia vào AFTA lúc đó thì phải chịu sự cạnh tranh gay gắt từ các doanh nghệp thuộc các quốc gia trong khối và khu vực. -Do nước ta có ưu thế về nhân công nên việc chi phí cho nhân công là có lợi thế hơn so với các nước khác do vậy mà chi phí có giảm hẳn trên đơn vị sản phẩm. -Một lý do chính là ta phải biết chớp lấy cơ hội :phải tạo dựng tiềm năng trong công ty trước khi gia nhập AFTA thì mới mong có được chỗ đứng vững chắc và đủ sức cạnh tranh với các bạn hàng trong khối khi đã gia nhập AFTA . -Công việc tạo lập uy tín đối với khách hàng là cả một quá trình lâu dài thông qua sự đánh giá về : chất lượng sản phẩm, giá cả, mấu mã, tính hữu dụng...Chính vì thế mà công ty giầy da Hà Nội phải đầu tư từ bây giờ là hợp lý,như thế mới mong có thể chiếm lĩnh được lòng tin và thị hiếu của người tiêu dùng trong nước ,trong khu vực và trên thị trường thế giới tạo tiềm năng cạnh tranh trong tương lai. III/ Bài học và kinh nghiệm trong việc chuyển đổi công nghệ mới ở công ty giầy da Hà Nội: Dựa vào tình hình thực trạng thực tế ở công ty giầy da Hà Nội trong mấy năm qua chúng ta có thể rút ra được một số kinh nghiệm và các bài học quý giá để từ đó có thể áp dụng những thành tựu và những biện pháp khắc phục từ công ty này. * Đối với các doanh nghiệp: -Tránh tình trạng đầu tư máy móc thiết bị chỉ nhập một phần trong cả dây truyền hoặc các công nghệ quá cũ lạc hậu hết khấu hao. Đổi mới công nghệ phải phù hợp với từng điều kiện cụ thể của công ty. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất, chất lượng sản phẩm cũng như các yếu tố đầu vào khác. - Đổi mới cơ cấu tổ chức trong bộ máy vận hành của công ty. Phải biết xắp xếp các phòng ban hợp lý, biết vận hành hết công suất của máy móc thiết bị nâng cao hiệu quả sử dụng công nghệ mới. - Chủ động được về nguồn nguyên liệu đầu vào phù hợp với công nghệ mới. - Sử dụng hiệu quả sức lao động của công nhân, đội ngũ quản lý thông qua việc phân bổ các nguồn lực đúng chức năng, đúng vị trí ở mỗi công đoạn trong dây truyền công nghệ. - Cần tìm hiểu nghiên cứu bổ xung các thiết bị phục vụ quá trình sản xuất, quản lý, phân phối sản phẩm...sao cho đạt hiệu quả cao nhất. * Đối với nhà nước: - Thành lập tổ chức tư vấn về lĩnh vực đầu tư công nghệ, việc lựa chọn và chuyển giao công nghệ... cung cấp thông tin về thị trường công nghệ giúp các doanh nghiệp đâu tư phát triển hiệu quả, hoà nhập thị trường giầy da thế giới. - Quy hoạch bố trí các nhà máy thuộc da, các nhà máy chuyên nghiên cứu sản xuất các nguyên vật liệu khác phục vụ cho ngành giầy da và đặc biệt là phải thích ứng được với công nghệ mới, phục vụ cho ngành giầy da một cách hợp lý và xúc tiến thị trường. - Xoá bỏ thuế VAT đối với các công nghệ nhập khẩu phục vụ cho giầy da để hiện đại hoá dần lên trong ngành kinh tế quan trọng này. Khuyến khích đổi mới nâng cấp công nghệ để tăng kim ngạch xuất khẩu và tăng thu ngân sách cho nhà nước. kết luận Thông qua sự nghiên cứu và đánh giá xem xét về quá trình đổi mới công nghệ ở công ty da giầy Hà Nội ,có thể thấy được rằng việc chuyển đổi công nghệ là một biện pháp nhằm thay đổi về mọi mặt trong quá trình chuẩn bị tham gia hội nhập vào AFTA của công ty. Sự đổi mới này giúp cho công ty tạo đà phát triển cho sau này như: tăng doanh thu tạo nguồn cho tương lai, tạo dựng được uy tín với người tiêu dùng, chiếm lĩnh được nhiều thị trường mới tạo đà phát triển cho sau này... Như vậy có thể nói sự đổi mới công nghệ có vai trò rất quan trọng vừa nhằm thay đổi chiến lược của công ty, vừa tăng được sức cạnh tranh sản phẩm của công ty trên thương trường trong nước và quốc tế. Trong thời gian sắp tới việc đổi mới công nghệ là cần thiết song bên cạnh đó thì công việc lựa chọn và áp dùng công nghệ sao cho phù hợp với công ty và với chính sách của chính phủ lại quan trọng hơn và mang yếu tố cốt lõi để đạt được các mục tiêu đề ra, ngoài ra còn có các biện pháp nhằm nâng cao năng suất và hiệu quả của việc sử dụng công nghệ như: tổ chức sắp xếp lại cơ cấu các phòng ban, các bộ phận, đào tạo đội ngũ công nhân lành nghề và phù hợp với công nghệ, nâng cao năng lực quản lý giám sát của nhà lãnh đạo trong công ty ...là những công việc cần phải tiến hành khi có sự đổi mới công nghệ trong công ty thì mới nâng cao được việc sử dụng công nghệ nhập về và mới có được kết quả cao trong việc vận dụng công nghệ mới vào quá trình sản xuất. Tài liệu tham khảo Tạp chí công nghiệp Việt Nam số 5/2001 Trang 20 Tạp chí công nghiệp Việt Nam số 1/2002 Trang 11 Tạp chí công nghiệp Việt Nam số 18/2001 Trang 9,10 Tạp chí công nghiệp Việt Nam số 7/2001 Trang 33 Tạp chí công nghiệp Việt Nam số 17/2001 Trang 14,15 Tạp chí công nghiệp Việt Nam số 22/2001 Trang 24,50 Tạp chí công nghiệp Việt Nam số 10/2001 Trang 18 Phát triển kinh tế 14/2000 Trang 22 Tạp chí “Con số và sự kiện(2002)” Trang 10,11 Công nghiệp tết nhâm ngọ Trang 29,30 Công nghiệp xuân 2001 Trang 30 Nghiên cứu kinh tế số 285- tháng 2/2002 Trang 43,44,45 Trang www.hanshoes.com Trang www.vnn.vn Giáo trình Công Nghệ trường đại học KTQD Nhận xét của giáo viên hướng dẫn ........................................................................................................................... ........................................................................................................................... ........................................................................................................................... ........................................................................................................................... ........................................................................................................................... ........................................................................................................................... ........................................................................................................................... ........................................................................................................................... ........................................................................................................................... ........................................................................................................................... ........................................................................................................................... ........................................................................................................................... ........................................................................................................................... ........................................................................................................................... ........................................................................................................................... ........................................................................................................................... ........................................................................................................................... ........................................................................................................................... ........................................................................................................................... ........................................................................................................................... ........................................................................................................................... ........................................................................................................................... ........................................................................................................................... ........................................................................................................................... ........................................................................................................................... ...........................................................................................................................

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docR0169.doc
Tài liệu liên quan