Đề tài Phát triển các dịch vụ hậu cần trong tiêu thụ sản phẩm tại công ty cổ phần dệt vải công nghiệp Hà Nội

Trong xu thế toàn cầu hóa, nền kinh tế Việt Nam ngày càng hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới, điều đó tạo áp lực cạnh tranh giữa các doanh nghiệp Việt Nam. Đòi hỏi các doanh nghiệp cần phải nâng cao năng lực cạnh tranh của mình. Qua thời gian nghiên cứu, học hỏi kinh nghiệm thực tế tại Công ty Cổ phần Dệt công nghiệp Hà Nội em thấy được thực trạng phát triển các dịch vụ hậu cần trong tiêu thụ sản phẩm của công ty. Từ lâu, công ty đã thấy được vai trò quan trọng của việc sử dụng các dịch vụ hậu cần trong tiêu thụ là một công cụ cạnh tranh hữu hiệu mang lại kết quả cao trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Qua kết quả hoạt động kinh doanh cho thấy các dịch vụ hậu cần trong tiêu thụ của doanh nghiệp đã có những đóng góp to lớn vào việc tăng doanh thu, lợi nhuận cho doanh nghiệp. Đặc biệt là lĩnh vực kinh doanh dịch vụ kho bãi và dịch vụ kinh doanh hàng hóa xăng dầu đang rất phát triển, nó đóng góp một phần rất đáng kể vào tổng doanh thu của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, các dịch vụ hậu cần trong tiêu thụ sản phẩm vẫn chưa được phát triển một cách toàn diện, các dịch vụ hiện nay mới chỉ dừng lại ở chỗ là một công cụ hỗ trợ cho tiêu thụ sản phẩm mà chưa phải là một dạng dịch vụ kinh doanh. Vì vậy trong thời gian tới doanh nghiệp cần phải phát triển hơn nữa các dịch vụ hậu cần trong tiêu thụ để mang lại hiệu quả kinh doanh cao hơn.

doc97 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1704 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phát triển các dịch vụ hậu cần trong tiêu thụ sản phẩm tại công ty cổ phần dệt vải công nghiệp Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
giới nên những được hưởng nhiều ưu đãi trong việc xuất khẩu sản phẩm dệt may. Doanh nghiệp luôn tập trung vào việc giao nhận mặt hàng chủ lực của doanh nghiệp như vải mành, vải không dệt. Mặt khác việc giao nhận được tiến hành rất tốt, không có những sai sót nghiêm trọng xảy ra ảnh hưởng đối với doanh nghiệp bởi vì doanh nghiệp có một đội ngũ cán bộ giao nhận giàu kinh nghiệm, thông thạo các nghiệp vụ giao nhận ở cả trong nước và quốc tế. Nhưng tuổi đời của họ đều không quá 35, đây là những người trẻ và năng động, dễ dàng tiếp thu và nắm bắt cái mới. Cơ sở được trang bị đầy đủ thiết bị phục vụ cho việc giao nhận như máy Fax, điện thoại, máy in, máy photocopy, và các dụng cụ cần thiết khác. Trong xuất khẩu hàng hóa ra quốc tế do doanh nghiệp là một doanh nghiệp nhà nước lại có mối quan hệ tốt với hải quan nên các thủ tục tiến hành khá nhanh chóng, hạn chế tối thiểu chi phí hải quan. *Hoạt động kho bãi của doanh nghiệp: Doanh nghiệp đã sử dụng tối đa hệ thống nhà kho của doanh nghiệp, doanh nghiệp có một hệ thống nhà kho rộng khắp cả nước nhưng tất cả đều được sử dụng, không có hiện tượng bỏ trống lãng phí nhà kho. Đặc biệt thiết bị kho hàng được trang bị khá đầy đủ, hệ thống giá kệ, thiết bị chiếu sáng, thiết bị theo dõi, các công cụ dụng cụ phục vụ cho việc luân chuyển hàng hóa vào kho và ra kho khá đẩy đủ. Điều đó tạo thuận lợi cho công tác vận chuyển, giao nhận được tiến hành thuận lợi và thực sự làm cho khách hàng rất hài lòng về dịch vụ vận chuyển nhanh chóng của công ty. Khi nói đến dịch vụ kho bãi không thể không nhắc đến việc vận chuyển hàng hóa đến tận nơi khách hàng yêu cầu. Trước kia khi có hệ thống xe chuyên chở thì dịch vụ này tiến hành khá tốt nhưng ngay cả khi doanh nghiệp chuyển sang thuê công ty vận tải thì doanh nghiệp vẫn làm tốt dịch vụ này. Điều đó góp phần lôi kéo thêm khách hàng cho doanh nghiệp, quan trọng hơn là đã lấy được lòng tin từ phía khách hàng. Một dịch vụ kho bãi không kém phần quan trọng đó là dịch vụ kinh doanh kho bãi, nhưng dịch vụ này mới được triển khai năm 2006, 2007, vì vậy mà có thể nói hệ số sử dụng nhà kho đạt 100%. Kinh doanh dịch vụ kho bãi của doanh nghiệp không những cung cấp cho khách hàng một dịch vụ mới thỏa mãn tốt hơn nhu cầu của khách hàng, mà nó đã đem lại doanh thu cho doanh nghiệp, tạo nên công ăn việc làm cũng như thu nhập cho công ty. Từ năm bắt đầu kinh doanh, doanh nghiệp không chỉ đơn thuần là dịch vụ cho thuê kho đơn thuần mà doanh nghiệp còn có cung cấp một dịch vụ trọn gói cho doanh nghiệp đi thuê kho. Bất cứ doanh nghiệp nào có yêu cầu về dịch vụ quản lý kho, dịch vụ xếp dỡ thì doanh nghiệp đều đáp ứng. *Về vận tải: Có thể nói trước đây doanh nghiệp có một đội vận tải khá hoành tráng, mọi công việc chuyên chở cho khách hàng đều do doanh nghiệp tự đảm nhận, thậm chí doanh nghiệp còn tận dụng đi chuyên chở cho đơn vị khác. Nhưng do tính chuyên môn hóa cao doanh nghiệp đã thuê các công ty vận tải chuyên nghiệp có cước phí vận tải hợp lý để thực hiện chuyên chở sản phẩm, hàng hóa. *Về các biện pháp marketing: Doanh nghiệp đã tập trung vào công tác nghiên cứu thị trường, không ngừng tìm kiếm khách hàng, thị trường mới cả trong nước và ngoài nước mà còn không ngừng củng cố thị trường hiện tại của doanh nghiệp, thường xuyên chăm sóc khách hàng bằng cách gửi Fax, catalog, hay các ấn phẩm khác. Đối với những phân đoạn thị trường mới, doanh nghiệp sử dụng hình thức quảng cáo qua các tạp chí chuyên ngành, các bản chào giá, mời hàng cho doanh nghiệp khác. Hàng năm, doanh nghiệp thường dành khoang100 triệu đồng cho hoạt động quảng cáo, khuyến mại, tuy đây chưa phải là một con số lớn nhưng nó cũng thể hiện một nỗ lực không ngừng của doanh nghiệp trong thời gian qua. 2/ Các hạn chế của công tác hậu cần trong tiêu thụ sản phẩm Giống như mọi doanh nghiệp khác, vào những tháng cuối năm thì đơn hàng nhiều, khối lượng giao nhận vì thế mà cũng nhiều, mà số lượng nhân viên lại có hạn nên dẫn đến tình trạng không giải quyết hết. Nhân viên giao nhận đều có trình độ đại học rất am hiểu về nghiệp vụ giao nhận với đối tác trong nước nhưng khi giao nhận với các đối tác là người nước ngoài thì họ còn tỏ ra vụng về, bộc lộ những yếu kém nhất định. Số lượng nhân viên giao nhận hiện nay là 8 người trong bộ phận giao nhận, vì vậy vào những thời điểm cuối năm công việc nhiều có thể khiến cho mọi người làm việc quá sức vào những tháng cuối năm, hiệu quả làm việc có phần giảm sút. -Đối với hoạt động kho hàng: Một số kho chưa được nâng cấp, thiếu công cụ dụng cụ, lại còn xa đường giao thông dẫn đến việc sử dụng kém hiệu quả của các kho này. Năm 2006 tiến hành nâng cấp một số kho tại Hà Nội nên cũng khá tốn kém, chi phí kho hàng tự nhiên lại tăng cao, lợi nhuận giảm sút. Đặc biệt dịch vụ kinh doanh kho hàng mới phát triển nên nó bộc lộ nhiều yếu kém, chưa thể hiện tính chuyên nghiệp trong việc quản lý, cũng như điều hành. -Với vận tải: Tuy nhiên do hiện nay việc vận tải chủ yếu là do công ty đi thuê các đơn vị vận tải chuyên nghiệp, vì vậy mà doanh nghiệp không chủ động trong việc chuyên chở làm cho việc vận chuyển đôi khi bị động, lâm vào tình trạng khó khăn. Chi phí vận tải chiếm tỷ lệ khá lớn trong tổng chi phí của doanh nghiệp, dẫn đến giá thành sản phẩm hàng hóa tăng cao, lợi nhuận giảm, khả năng cạnh tranh yếu kém. Mặt khác năm 2006, 2007 giá cả xăng dầu leo thang nó lại càng đẩy chi phí vận tải tăng cao, gấp hai lần so với trước kia làm doanh nghiệp cũng đứng trước nhiều khó khăn. 3/ Thế mạnh và điểm yếu của công ty -Thế mạnh: Là một doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp được hưởng nhiều ưu đãi từ chính sách của nhà nước dành cho các doanh nghiệp quốc doanh đặc biệt là những năm trước đây. Vì vậy công ty có điều kiện để đầu tư máy móc, công nghệ hiện đại, đáp ứng yêu cầu về chất lượng mẫu mã. Là một doanh nghiệp có truyền thống hoạt động lâu năm( 40 năm), công ty đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm trong sản xuất kinh doanh, điều đó giúp công ty không ngừng phát triển trong những năm qua, trở thành một doanh nghiệp nhà nước làm ăn có hiệu quả. Việc Việt Nam chính thức là năm 2007 trở thành thành viên của tổ chức thương mại thế giới, ngành dệt may không bị áp dụng hạn ngạch khi xuất khẩu sang các nước thành viên WTO, điều đó tạo thuận lợi cho sự tăng trưởng của các doanh nghiệp dệt may tại Việt Nam trong đó có công ty cổ phần dệt vải công nghiệp Hà Nội. Nắm bắt được cơ hội đó, doanh nghiệp không ngừng tìm kiếm và mở rộng thị trường của mình sang các nước. Mặt khác là một doanh nghiệp dệt may duy nhất tại Việt Nam cung cấp sản phẩm phục vụ công nghiệp, doanh nghiệp có những lợi thế mà các công ty khác không thể có được. Đồng thời với chiến lược kinh doanh đúng đắn, với dịch vụ chất lượng cung cấp cho khách hàng, công ty đã tạo dựng được uy tín trong lòng các bạn hàng, đối tác chiến lược của công ty. Mặt khác để không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, công ty mạnh dạn đầu tư các dây chuyền mới cho vải địa kỹ thuật không dệt, mua 2 máy xe ALMA và một máy dệt thổi khí công nghệ hiện đại của Châu Âu. Ngoài ra, đối với sản phẩm vải mành và vải không dệt được quản lý theo tiêu chuẩn chất lương ISO 9001-2000 áp dụng tại xí nghiệp vải mành và vải không dệt vận hành tốt, đáp ứng yêu cầu chất lượng sản phẩm loại A đạt 98%. Các nhãn mác, thương hiệu LOGO của công ty được bảo hộ tại Cục sở hữu trí tuệ. Đặc biệt doanh nghiệp có một đội ngũ nhân viên giàu kinh nghiệm, nhiệt huyết. Và công ty thường xuyên đào tạo, nâng cao tay nghề cho công nhân viên, cử nhân viên đi học tại nước ngoài. Công tác tổ chức hậu cần cho tiêu thụ khá được quan tâm và nó đã góp phần thúc đẩy việc tiêu thụ sản phẩm, không ngừng làm tăng doanh số, lợi nhuận cho công ty. -Điểm yếu của công ty: Việc nghiên cứu thị trường của công ty chưa chuẩn bị tốt. Cơ cấu tổ chức của công ty theo kiểu trực tuyến trực năng . Cho nên mặc dù nó phát huy được tính năng động sáng tạo song không thể tránh khỏi sự chồng chéo, nhiều khi là quá tải. Đặc điểm của sản phẩm là cồng kềnh gây khó khăn trong việc vận chuyển, chuyên chở cũng như bốc xếp. Nguồn vốn của doanh nghiệp còn yếu, doanh nghiệp huy động vốn chủ yếu dưới hình thức đi vay của các tổ chưc tín dụng, không chủ động được về nguồn vôn. Mặt khác chi phí vốn vay cũng khá cao chiếm tỷ lệ lớn trong tổng chi phí của doanh nghiệp. Việc kiểm tra, giám sát hoạt động kho hàng chủ yếu tiến hành bằng phương pháp thủ công là chính, vì vậy gây ra sự mệt nhọc cho người lao động. Hơn nữa với tình hình giá cả leo thang như hiện nay thì thu nhập của người lao động là thấp, không khuyến khích động lực lao động của công nhân viên. Hoạt động marketing còn ít quan tâm, đặc biệt là chưa có một bộ phận marketing chuyên nghiệp cho doanh nghiệp. Vì vậy những dự báo vê thì trường là còn yếu, làm mất đi cơ hội kinh doanh của doanh nghiệp. 4/ Các nguyên nhân chủ yếu Là một doanh nghiệp sản xuất công ty có phần chưa thực sự quan tâm và phát triển các dịch vụ hậu cần cho tiêu thụ sản phẩm, có thể là do họ chưa nhận thức được ý nghĩa thực sự của việc phát triển các hoạt động này. Nên về mặt đầu tư về trang thiết bị, công cụ dụng cụ là chưa lớn, hệ thống các kênh thông tin khách hàng còn yếu. Mới bắt đầu bước vào kinh doanh dịch vụ kho bãi, do kinh nghiệm còn yếu nên doanh thu chưa cao như mong đợi. Ngoài ra cán bộ công nhân viên trong lĩnh vực này có trình độ chưa cao, nên khả năng tiếp cận với cái mới là khó, họ thích cách quản lý theo kiểu truyền thống, họ còn tỏ ra bảo thủ với cách quản lý mới. Mặt khác, các yếu tố như chính sách giá cả, tiềm lực tài chính của công ty, hay các chính sách marketing, quảng cáo, khuyến mại... cũng ảnh hưởng đến công tác hậu cần cho tiêu thụ sản phẩm. Ảnh hưởng từ phía người quản lý, điều hành doanh nghiệp cũng ảnh hưởng không nhỏ tới việc đầu tư thêm hay không cho các công tác hậu cần cho doanh nghiệp. Việc thực hiện chính sách đãi ngộ đối với cán bộ hoạt động kinh doanh giao hàng, kho hàng, vận tải có ảnh hưởng rất lớn đối với chất lượng dịch vụ của doanh nghiệp. CHƯƠNG 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN CÁC DỊCH VỤ HẬU CẦN CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN DỆT CÔNG NGHIỆP HÀ NỘI I/ CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN CỦA NGÀNH DỆT MAY TRONG THỜI GIAN TỚI VÀ ĐỊNH HƯỚNG CỦA TỔNG CÔNG TY DỆT MAY CHO CÁC DOANH NGHIỆP THÀNH VIÊN. 1/ Chiến lược phát triển của ngành dệt may Việt Nam. 1.1/ Một vài nét về thực trạng của ngành dệt may Việt Nam Xuất phát từ thực tế của ngành dệt may Việt Nam, năm 2006 có kim ngạch xuất khẩu mỗi năm đạt gần 6 tỷ USD nhưng lợi nhuận trong đó rất ít, chủ yếu từ gia công. Nguyên nhân chủ yếu là nguyên liệu đầu vào, mẫu mã thiết kế và cả thị trường phân phối đều do nước ngoài quyết định. Hiệp hội dệt may Việt Nam tổ chức họp báo, công bố chiến lược phát triển nhằm thay đổi chất cho ngành này. Trong đó, đặt mục tiêu kim ngạch xuất khẩu đạt 10 - 12 tỷ USD vào 2010 Theo báo cáo của Hiệp hội Dệt may Việt Nam (Vitas), toàn ngành dệt may hiện có khoảng 2.000 doanh nghiệp (doanh nghiệp). Trong đó, doanh nghiệp Nhà nước chiếm 0,5%, FDI chiếm 25% và phần lớn là doanh nghiệp tư nhân và công ty cổ phần. Tính đến 2006, năng lực sản xuất toàn ngành về nguyên liệu: xơ bông 10.000 tấn/năm (5% nhu cầu); xơ sợi tổng hợp: 50.000 tấn (30% nhu cầu), sợi xơ ngắn: 260.000 tấn (60% nhu cầu). Đối với sản xuất dệt nhuộm: vải dệt kim 150.000 tấn (60% nhu cầu); dệt thoi 680 triệu m2 (30% nhu cầu). Sản xuất hàng may mặc mỗi năm khoảng 1,8 tỷ sản phẩm và 65% trong số này phục vụ xuất khẩu. Về năng lực xuất khẩu, ông Lê Quốc Ân, Chủ tịch Vitas cho biết: sản lượng xuất khẩu tăng trưởng bình quân 20% trong những năm gần đây. Năm 2006, kim ngạch xuất khẩu đạt 5,834 tỷ USD, chiếm 15% tổng kim ngạch xuất khẩu, tăng trưởng 20,5% so với 2005. Trong đó, thị trường Mỹ đạt khoảng 3,044 tỷ (chiếm 55%), EU: 1,243 tỷ (20%); Nhật: 628 triệu USD (11%); ASEAN: 107 triệu USD (2%)...Báo cáo cũng cho biết, thị trường nội địa đối với hàng may mặc ước tính chỉ chiếm 7% tổng mức bán lẻ, đạt 1,8 tỷ USD. Từ số liệu trên, có thể thấy lâu nay, ngành dệt may đang "đi trên đôi chân của người khác". Bởi lẽ, 95% nhu cầu xơ bông, 70% nhu cầu sợi tổng hợp, 40% nhu cầu sợi xơ ngắn, 40% nhu cầu vài dệt kim và 60% nhu cầu vải dệt thoi cho cả một ngành công nghiệp hoàn toàn phải nhập khẩu từ nước ngoài. Còn nếu xét về cơ cấu thị trường, nếu chỉ tính riêng mặt hàng may mặc, trong khi kim ngạch xuất khẩu hơn 5,2 tỷ USD thì tiêu thụ nội địa chỉ đạt 1,8 tỷ USD. Con số này cho thấy thị trường nội địa bị yếu thế so với xuất khẩu và tiềm ẩn nguy cơ rủi ro khi xuất khẩu gặp khó khăn. Một bất cập nữa là ngành dệt may lâu nay chưa có sự khép kín quy trình sản xuất công nghiệp bao gồm từ sản xuất thượng nguồn (nguyên liệu đầu vào) đến mẫu mã thiết kế, sản xuất thành phẩm quy mô công nghiệp, kênh phân phối và xây dựng thương hiệu. Hầu hết các sản phẩm xuất khẩu chỉ bán cho các nhà buôn lớn ở nước ngoài nhưng chính những nhà buôn này lại không hề chia sẻ một chút rủi ro nào từ các tranh chấp pháp lý như kiện bán phá giá, áp đặt hạn ngạch hay gần đây nhất là cơ chế giám sát. 1.2/ Chiến lược của ngành dệt may Dưới đây là các chỉ tiêu của ngành dệt may Việt Nam đến 2015, định hướng đến 2020. Doanh thu năm 2010 là 14.800 triệu USD, năm 2015 là 22.500 triệu USD, năm 2020 là 31.000 triệu USD. Xuất khẩu năm 2010 là 12.000 triệu USD, năm 2015 là 18.000 triệu USD, năm 2020 là 25.000 triệu USD. Sử dụng lao động năm 2010 là 2.500 người, năm 2015 là 2750 người, năm 2020 là 3000 người. Tỷ lệ nội địa hóa năm 2010 là 50%, năm 2015 là 60%, năm 2020 là 70%. Sản xuất các sản phẩm chính như sau: + Bông xơ năm 2010 sản xuất 20 nghìn tấn, năm 2015 là 40 nghìn tấn, năm 2020 là 60 nghìn tấn. +Xơ, sợi tổng hợp: năm 2010 là120 nghìn tấn, năm 2015 là 210 nghìn tấn, năm 2020 là 300 nghìn tấn. + Sợi các loại: năm 2010 là 350 nghìn tấn, năm 2015 là 500 nghìn tấn, năm 2020 là 650 nghìn tấn. + Vải: năm 2010 là 1000 triệu m2, năm 2015 là 1500 triệu m2, năm 2020 là 2000 triệu m2. + Sản phẩm may: năm 2010 là 1800 triệu SP, năm 2015 là 2850 triệu SP, năm 2020 là 4000 triệu SP. Về phía nhà nước : Thủ tướng Nguyến Tấn Dũng vừa ký Quyết định phê duyệt chiến lược phát triển cho ngành công nghiệp dệt may cho đến năm 2015, định hướng tới 2020 theo hướng chuyên môn hóa, hiện đại hóa, nhằm tạo ra bước nhảy vọt về chất và lượng sản phẩm. Quyết định nêu rõ trước mắt ngành dệt may tập trung phát triển và nâng cao năng lực về nguồn nhân lực; nguồn nguyên, phụ liệu để có nguồn nhân lực chuyên môn cao, tạo nên sản phẩm chất lượng cao gắn với thương hiệu uy tín; bảo vệ môi trường. Bên cạnh đó, khuyến khích mọi thành phần kinh tế trong và ngoài nước đầu tư phát triển ngành dệt may phục vụ trong nước và xuất khẩu. - Ngành phấn đấu đạt mức tăng trưởng hàng năm từ 16-18%, xuất khẩu tăng 20%/năm (giai đoạn 2008-2010) và tăng sản lượng từ 12-14%, xuất khẩu tăng 15% trong giai đoạn 2011-2020. - Doanh thu toàn ngành đạt khoảng 14,8 tỷ USD vào năm 2010; 22,5 tỷ USD năm 2015 và 31 tỷ USD vào năm 2020. 2/ Phương hướng của tập đoàn dệt may Việt Nam trong 2008 2.1/ Phương hướng của tập đoàn dệt may Việt Nam - Đưa mô hình công ty Mẹ/con của Tập đoàn VIANTEX vào hoạt động ổn định, tạo những đổi mới căn bản nâng cấp hiệu lực của công tác quản lý. Thực hiện chiến lược tăng trưởng gắn với hiệu quả. Khai thác tối đa năng lực sản xuất, bố trí hợp lý và sử dụng có hiệu quả lực lượng lao động là đội ngũ kỹ sư, kỹ thuật và công nhân lành nghề. - Tìm giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu, chuyển dịch cơ cấu, chủng loại hàng, phương thức sản xuất đối với thị trường Mỹ. Khai thác tốt thị trường xuất khẩu hiện có, mở rộng thị trường mới. Nâng cao chất lượng sản phẩm, tiết giảm chi phí, hạ giá thành, tăng khả năng cạnh tranh để đẩy mạnh việc xuất khẩu. Chú trọng hơn nữa thị trường nội địa, đẩy mạnh thị trường nội địa. Xây dựng, quảng cáo nhãn hiệu sản phẩm và thương hiệu doanh nghiệp trên cả thị trường trong nước cũng như thị trường quốc tế. - Tập trung đầu tư có trọng điểm theo hướng chuyên môn hóa, sản xuất các mặt hàng tương xứng với trình độ công nghệ của thiết bị đầu tư mới. - Đẩy mạnh mở rộng ngành nghề kinh doanh theo hướng đa ngành đa nghề bằng việc tham gia mua cổ phần, trở thành cổ đông không chi phối với các lĩnh vực không phải là dệt may. 2.2/ Mục tiêu của tập đoàn dệt may Việt Nam Trên cơ sở dự báo khả năng hoàn thành kế hoạch năm 2007, dự báo những khó khăn, thuận lợi của DN, tình hình và xu thế phát triển thị trường trong nước và quốc tế năm 2008, các đơn vị cân đối nguồn lực (năng lực sản xuất, tiến độ huy động các dự án đầu tư vào sản xuất, mức độ huy động, hiệu suất sử dụng thiết bị, lao động, vốn kinh doanh…) xây dựng kế hoặc năm 2008 theo các biểu mẫu gửi kèm. Với tốc độ phát triển của ngành công nghiệp cả nước trong năm 2008 dự kiến tăng 17- 18%, các đơn vị cần bám sát mục tiêu phấn đấu bình quân chung của Tập Đoàn đối với một số chỉ tiêu chủ yếu sau: - GTSXCN phấn đấu tăng 16-17% so với năm 2007. - Tổng doanh thu tăng 17-18%. - Kim ngạch xuất khẩu tăng 18-20%. Tuy nhiên do điều kiện sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp dệt, may.. khác nhau, nên đối với các doanh nghiệp gặp khó khăn, không có điều kiện đầu tư mới cần tập trung thác tối đa năng lực thiết bị hiện có, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, nâng cao chất lượng sản phẩm phấn đấu với mức tăng trưởng tối thiểu là 12%, trong khi các doanh nghiệp may có nhiều thuận lợi thì mức phấn đấu tối thiểu là 20%. Bên cạnh đó phải đảm bảo hài hòa giữa hai mục tiêu tăng trưởng và hiệu quả của tập đoàn, đối với một số doanh nghiệp có cơ sở mới đầu tư có thể tiến hành xây dựng phương án ưu tiên mục tiêu tăng trưởng, trong khi một số doanh nghiệp khác có thể ưu tiên mục tiêu hiệu quả lên hàng đầu. Tập đoàn sẽ có kế hoạch làm việc với từng đơn vị để tìm ra những giải pháp hữu hiệu nhất đảm bảo mục tiêu tiêu tăng trưởng và hiệu quả chung đã đăng ký với Nhà nước. Đề nghị các đơn vị xác định thị trường mục tiêu và sản phẩm chủ lực của mình để đạt được mục tiêu đề ra. Đồng thời đánh giá năng lực của doanh nghiệp trên các dự án đã, đang tiến hành đầu tư. Cũng như năm 2006, Bộ Công Nghiệp và Bộ Kế Hoạch Đầu Tư đã yêu cầu tính chỉ tiêu GTSXCN theo hai giá cố định năm 1994 và giá hiện hành để so sánh. GTSXCN (giá hiện hành)= doanh thu công nghiệp(+/-) chênh lệch hàng tồn kho đầu kỳ, cuối kỳ(+) giá trị nguyên vật liệu của khách gia công. Ngoài ra, Nhà nước cũng yêu cầu tính giá trị gia tăng thêm theo giá hiện hành. 3/Phương hướng, mục tiêu kinh doanh của công ty cổ phần dệt công nghiệp Hà Nội trong năm 2008 3.1/Phương hướng kinh doanh của công ty năm 2008 - Đẩy mạnh công tác xuất khẩu vào một số thị trường lớn như Mỹ, EU, Nhật Bản… mở rộng và phát triển thị trường nội địa. - Đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại, đẩy mạnh các hoạt động marketing, các họat động bán hàng nhằm quảng bá hơn nữa hình ảnh của doanh nghiệp. - Chủ động tìm nguồn nguyên liệu trong nước có giá rẻ, hạn chế nguyên liệu ngoại nhập; tiết kiệm vật tư trong tất cả các khâu nhằm làm giảm giá thành sản phẩm nâng cao tính cạnh tranh của sản phẩm ra thị trường. - Tăng cường đầu tư, nâng cấp hệ thống kho bãi, nhà xưởng nâng cao hơn nữa hiệu quả của công việc kinh doanh kho bãi, đầu tư thêm dây chuyền thiết bị hiện đại nhằm nâng cao năng suất, nâng cao chất lượng sản phẩm. - Sử dụng tối đa công suất máy móc thiết bị, kiểm tra tính hiệu quả của dây chuyền thiết bị mới đầu tư đề xem xét tính hiệu quả của nó trước và sau khi đầu tư. 3.2/ Mục tiêu của công ty trong năm 2008 Trên cơ sở định hướng chỉ đạo của Tập đoàn dệt may, công ty cổ phần Dệt công nghiệp Hà Nội cũng đề ra mục tiêu của công ty trong năm 2008. GTSXCN 195,000 triệu đồng Doanh thu (chưa có VAT) 275,000 triệu đồng tăng 30,000 triệu đồng với tốc độ tăng 12.24%. Lợi nhuận 3,200 triệu đồng tăng 450 triệu đồng với tốc độ tăng 16.36%. Kim ngạch xuất khẩu (giá thanh toán) 1,900 nghìn USD. Kim ngạch xuất khẩu (tính đủ NPL) 3,600 nghìn USD. Tỷ suất lợi nhuận trên vốn điều lệ 19% Các khoản phải nộp ngân sách 15,000 triệu đồng. Tổng chi phí sản xuất kinh doanh là 269,500 tiệu đồng. Kim ngạch nhập khẩu 11,050 nghìn USD. Về các mặt hàng chủ yếu của công ty như sau: + Vải mành 2750 tấn. + Vải địa kỹ thuật 10,500 nghìn m2. + Sản phẩm may dệt con thoi 1600 m2. Mục tiêu đặt ra cho các dịch vụ hậu cần của công ty Về dịch vụ giao nhận: Hoàn thiện hơn nữa dịch vụ giao nhận của công ty Tăng cường các hoạt động giao nhận quốc tế như tăng cường các đơn hàng xuất nhập khẩu các sản phẩm của công ty. Nâng cao hơn nữa chất lượng của công tác dịch vụ giao nhận nhằm thỏa mãn tôt hơn nhu cầu khách hàng. Tăng cường phát triển về cả chiều rộng và chiều sâu các dịch vụ giao nhận của doanh nghiệp. Tăng cường giao nhận theo các phương thức khác. Về dịch vụ kho bãi: Sử dụng tối đa hệ thống kho bãi của doanh nghiệp. Bảo quản hàng hóa đúng số lượng, đảm bảo về chất lượng. Mở rộng và phát triển thêm các dịch vụ mới của dịch vụ kinh doanh kho bãi không dừng lại ở việc cho thuê mặt bằng, cho thuê kho chứa hàng. Doanh nghiệp có thế phát triển các dịch vụ bốc xếp, dịch vụ quản lý kho hàng. Nâng cấp, cải tiến hệ thống kho bãi theo hướng hiện đại nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ kho bãi cho doanh nghiệp cũng như cho khách hàng. Không ngừng nâng cao doanh số họat động kinh doanh kho bãi, kinh doanh có hiệu quả hơn hoạt động này. Về hoạt động vận tải của doanh nghiệp: Mặc dù hiện nay doanh nghiệp đi thuê các hãng vận tải nhưng nó vẫn là một hoạt động dịch vụ mà doanh nghiệp cung cấp cho khách hàng: Doanh nghiệp có thể hoàn thiện hơn các hoạt động vận tải. Giám sát chặt chẽ hơn các hoạt động vận tải của doanh nghiệp. Tăng cường tìm kiếm các hãng vận tải uy tín, có giá cả hợp lý. Có chính sách tốt với các công ty vận tải làm ăn lâu năm với công ty. Không ngừng giảm cước phí vận tải để hạ giá thành sản phẩm. Năm 2008 là một năm mà bản thân nền kinh tế có nhiều bất ổn chỉ số giá tiêu dùng tăng cao, lạm phát tăng cao, giá nhiên liệu, nguyên liệu cũng leo thang, có thể nói là một môi trường đầy khó khăn. Vì vậy mục tiêu mà doanh nghiệp đặt ra không hề dễ dàng chút nào, nhưng toàn thể ban lãnh đạo doanh nghiệp vẫn quyết tâm hoàn thành các mục tiêu trên. II/ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN CÁC DỊCH VỤ HẬU CẦN TRONG TIÊU THỤ SẢN PHẨM CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN DỆT VẢI CÔNG NGHIỆP Để hoàn thành kế hoạch năm 2008 cần có sự phối hợp tốt của nhiều hoạt động khác nhau, trong đó có dịch vụ hậu cần trong tiêu thụ sản phẩm. Dịch vụ hậu cần trong tiêu thụ sản phẩm là một công cụ, một vũ khí cạnh tranh hiệu quả của doanh nghiệp. Thực tế cho thấy công ty đã làm dịch vụ này khá tốt từ giao nhận, kho bãi, đến vận tải nhưng vẫn chưa thực sự tốt vì công ty vẫn chưa khai thác hết, chưa thực sự cung cấp cho khách hàng một dịch vụ hoàn hảo. Vì vậy phát triển dịch vụ hậu cần là hết sức cần thiêt, nhưng làm sao để phát triển các dịch vụ này? Sau đây là một số biện pháp: * Các giải pháp chung 1/ Các giải pháp về mặt tổ chức - Đào tạo, nâng cao chất lượng lao động trong hoạt động dịch vụ hậu cần trong tiêu sản phẩm: Nhân lực là một nguồn lực vô cùng quan trọng đối với doanh nghiệp, nó quyết định tới sự thành bại của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp có đội ngũ nhân lực có trình độ, nghiệp vụ cao thì sẽ đem lại cho doanh nghiệp một sức mạnh to lơn. Vì vậy đây là vấn đề mà được mọi doanh nghiệp luôn quan tâm và đặt ra vấn đề ưu tiên hàng đầu với mọi doanh nghiệp. Hiện này các dịch vụ hậu cần cho tiêu thụ sản phẩm còn chưa hoàn chỉnh và thực sự nó cần được phát triển hơn nữa. Nhưng để phát triển các dịch vụ hậu cần tốt, doanh nghiệp cần chuẩn bị trước hết là nhân lực cho việc tổ chức thực hiện các dịch vụ hậu cần cho tiêu thụ sản phẩm. Đội ngũ cán bộ, công nhân viên thực hiện các hoạt động dịch vụ hậu cần phải là những người am hiểu về các dịch vụ hậu cần của công ty, có chuyên môn tốt về các lĩnh vực hậu cần trong tiêu thụ, có đầu óc sáng tạo. Đặc biệt là đội ngũ cán bộ quản lý trong lĩnh vực hậu cần. Vì muốn dịch vụ hậu cần phát triển được thì bản thân người lãnh đạo phải có đầu óc nhạy bén, luôn tìm tòi ra các dịch vụ mới trong hoạt động hậu cần trong tiêu thụ. Đội ngũ người lao động hoạt động trong hoạt động hậu cần đầu ra của doanh nghiệp còn yếu về các chuyên môn, nghiệp vụ, họ cũng chưa nhận thức được vai trò quan trọng của hoạt động này đối với việc phát triển kinh doanh. Vì vậy doanh nghiệp cần có những chương trình đào tạo nhằm nâng cao trình độ cho cán bộ công nhân viên. -Hoàn thiện bộ máy tổ chức thực hiện các dịch vụ hậu cần trong tiêu thụ sản phẩm: Bộ máy tổ chức, thực hiện các hoạt động hậu cần tổ chức tốt là điều kiện để phát triển, mở rộng các hoạt động dịch vụ hậu cần cho tiêu thụ của doanh nghiệp. Bởi vì một khi các hoạt động dịch vụ hậu cần hiện có của doanh nghiệp có tổ chức tốt thì mới có điều kiện để phát triển thêm các dịch vụ mới cho khách hàng. Do đó việc nhanh chóng hoàn hiện bộ máy tổ chức thực hiện các dịch vụ hậu cần là rất cần thiết cho doanh nghiệp vì qua nghiên cứu thực trạng hoạt động dịch vụ hậu cần của doanh nghiệp còn nhiều khâu yếu kém mà nguyên nhân của nó là do sự yếu kém của khâu tổ chức, thực hiện các dịch vụ hậu cần của doanh nghiệp. Các biện pháp để hoàn thiện bộ máy thực hiện các dịch vụ hậu cần: Doanh nghiệp nên tổ chức bộ phận chuyên trách thực hiện các dịch vụ hậu cần Việc tổ chức thực hiện các dịch vụ hậu cần phải được thống nhất, có được sự hỗ trợ giữa các bộ phận khác trong doanh nghiệp. Phân công trách nhiệm rõ ràng giữa từng người, mỗi người mỗi nhiệm vụ nhưng phải thống nhất để đảm bảo chất lượng của việc thực hiện các dịch vụ này. - Tăng cường hệ thống thông tin thương mại Thông tin thương mại là toàn bộ các thông tin hỗ trợ, phục vụ cho việc xây dựng, tổ chức, thực hiện, theo dõi và điều chỉnh việc thực hiện các kế hoạch, quyết định, xử lý các vấn đề hàng ngày về các hoạt động thương mại. Xây dựng hệ thống thông tin thương mại là rất cần thiết bởi vì bất kỳ hoạt động nào muốn thực hiện tốt cần có thông tin. Đối với các dịch vụ hậu cần cho tiêu thụ sản phẩm cũng vậy, các thông tin về khách hàng, về thị trường là rất quan trọng bởi vì nó phản ánh chất lượng của các dịch vụ hậu cần mà doanh nghiệp đang cung cấp. Đồng thời nó còn cho doanh nghiệp biết khách hàng đang cần gì ở doanh nghiệp, phát triển các dịch vụ hậu cần ra sao cho phù hợp hơn với nhu cầu của khách hàng. Khi có được những thông tin phản hồi từ phía khách hàng doanh nghiệp có thể tiến hành phân tích, đánh giá, quyết định nên phát triển các dịch vụ hậu cần cho tiêu thụ sản phẩm theo hướng nào cho đúng nhất. Vậy các thông tin đó doanh nghiệp có thể lấy từ đâu? Thực tế thì các thông tin này được thu thập từ bộ phận nghiên cứu thị trường của công ty. Bộ phận này sẽ tiến hành các hoạt động thu thập thông tin thị trường, đưa ra những bảng câu hỏi, phiếu thăm dò đề nghị khách hàng của doanh nghiệp tích vào đó. Qua đó doanh nghiệp có thể phân loại thông tin, tiến hành phân tích, và cho kết quả. Mặt khác một kênh thông tin quan trọng đó là thu thập thông tin qua website riêng của doanh nghiệp. Tuy nhiên doanh nghiệp chưa thực sự khai thác được kênh thông tin này. Trang web của doanh nghiệp còn khá nghèo nàn, thông tin thì không có gì mới, phong phú nên số lượng người truy cập vào website của doanh nghiệp còn khá hạn chế. Hi vọng trong thời gian sắp tới với sự đầu tư vào trang web của mình, với sự thiết kế hệ thống thông tin phản hồi ngay trên website của doanh nghiệp và thông tin phong phú sẽ giúp doanh nghiệp có thể có được các thông tin phản hồi hiệu quả từ khách hàng của mình. Doanh nghiệp có thể quảng cáo về các dịch vụ mà doanh nghiệp cung cấp cho khách hàng của doanh nghiệp biết đến như dịch vụ kinh doanh kho bãi, dịch vụ kinh doanh Điều quan trọng nhất là việc sử dụng trang web có rất nhiều lợi ích: Tiết kiệm thời gian, chi phí Nâng cao chất lượng dịch vụ nhằm phục vụ khách hàng. Giúp khách hàng tìm kiếm thông tin dễ dàng hơn. Giảm bớt các công việc giấy tờ. Tạo lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp. 2./ Nâng cao năng lực tài chính của doanh nghiệp Khi muốn phát triển một lĩnh vực hoạt động nào đó doanh nghiệp cần có ngân sách hay nói cách khác vốn chính là tiền đề quan trọng cho việc phát triển các hoạt động của doanh nghiệp. Vì thế phát triển các dịch vụ hậu cần gắn chặt với tình hình tài chính của doanh nghiệp vì để phát triển các dịch vụ này doanh nghiệp không chỉ đầu tư về cơ sở vật chất mà còn về con người và các điều kiện khác nữa. Mặt khác năng lực tài chính của công ty còn nhiều yếu kém, nguồn vốn kinh doanh của doanh nghiệp chủ yếu là đi vay của các tổ chức tài chính như các ngân hàng thương mại, ngân hàng cổ phần, hoặc các tổ chức tài chính khác…Trong điều kiện hiện nay khi mà nhà nước đang tiến hành xiết chặt chính sách tài chính tiền tệ, không ngừng nâng cao lãi suất cho vay tại các ngân hàng thì điều này thực sự là một khó khăn, một trở ngại cho công ty. Như trên đã phân tích tỷ lệ lãi vay trên chi phí chiếm tỷ lệ khá lớn trong tổng chi phí, vì vậy với tình hình này thì tỷ lệ này còn cao hơn nữa trong thời gian sắp tới. Để có thể kiểm soát tình hình này công ty cần có biện pháp nâng cao năng lực tài chính của công ty: Tăng vốn chủ sở hữu bằng cách huy động vốn từ các cổ đông. Vì thực tế là nguồn vốn mà doanh nghiệp sử dụng hiện nay chủ yếu nguồn vốn huy động từ các tổ chức tín dụng, thiếu tính chủ động, chi phí trả lãi vay cũng khá cao.V ì vậy đây là một biện pháp rất cần thiết, một phần nhằm chủ động trong việc huy động vốn, một phần làm giảm chi phí lãi vay từ việc vay từ các ngân hàng. Công ty cần đẩy mạnh công tác thu hồi vốn tại các công trình mà công trình vì hiện nay tình trạng vốn bị đọng tại các công trình là rất nhiều, điều đó có ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc sử dụng vốn tại công ty, nhiều khi có nhiều khoản tiền đến hạn phải trả mà vẫn chưa có khả năng thanh toán. Tăng cường các biện pháp phát triển và bảo toàn vốn trong kinh doanh. Bảo toàn và phát triển vốn trong kinh doanh là nghĩa vụ của doanh nghiệp nhằm tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát triển ổn định và phát triển kinh doanh có hiệu quả, tăng thu nhập cho người lao động và thực hiện các nghĩa vụ với ngân sách nhà nước. Thực chất của việc bảo toàn vốn là giữ được giá trị thực tế hay sức mua của vốn, giữ được khả năng chuyển đổi so với các loại tiền khác. Hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp phụ thuộc rất lớn vào hiệu quả của việc sử dụng vốn trong kinh doanh. Tuy nhiên sử dụng vốn có hiệu quả hay không lại phụ thuộc rất lớn vào sự nỗ lực của tất cả các khâu, các bộ phận, từ chiến lược, kế hoạch đến các biện pháp tổ chức. Ngoài ra việc sử dụng vốn cần đảm bảo đúng mục đích, đúng kế hoạch, chấp hành đầy đủ nội dung, quy định, chế độ tài chính doanh nghiệp, hạch toán đầy đủ, chính xác, kịp thời. Muốn phát triển và bảo toàn vốn cần: đẩy mạnh khối lượng hàng hóa, dịch vụ bán ra, giảm tới mức thấp nhất các chi phí trong hoạt động sản xuất kinh doanh, tăng cường công tác quản lý tài chính ở doanh nghiệp. Với các khoản nợ ngân hàng đến hạn thanh toán thì phải trả cho ngân hàng vì nếu không thanh toán uy tín của công ty bị giảm sút và rất khó để có thể vay tiền ngân hàng lần tiếp. Đồng thời doanh nghiệp cần giữ mối quan hệ tốt với các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng. Thực hiện tốt các biện pháp đó không những giúp công ty cải tiến năng lực tài chính của mình mà còn tạo điều kiện về nguồn vốn để phát triển các dịch vụ hậu cần cho tiêu thụ sản phẩm. 3/ Các biện pháp về mặt marketing 3.1/ Mở rộng và chiếm lĩnh thị trường Việc khai thác thị trường là một hoạt động không ngừng của doanh nghiệp vì cơ hội thị trường luôn mở ra đối với doanh nghiệp. Mở rộng và chiếm lĩnh thị trường là góp phần phát triển các dịch vụ hậu cần bởi lẽ một khi thị trường của doanh nghiệp được mở rộng thì việc phát triển các dịch vụ lại càng được chú trọng. Doanh nghiệp không chỉ có nhiệm vụ tìm kiếm thị trường mới mà phải có nhiệm vụ duy trì và phát triển các khu vực thị trường. Mà nhu cầu của khách hàng ngày càng cao, họ luôn đòi hỏi được cung cấp các dịch vụ hoàn hảo, những dịch vụ trọn gói. Vì thế đây là cơ hội để doanh nghiệp hoàn thiện và phát triển các dịch vụ hậu cần cho khách hàng, doanh nghiệp có thể cung cấp cho khách hàng các dịch vụ mới, tạo sự riêng biệt của dịch vụ hậu cần cho tiêu thụ của doanh nghiệp với các doanh nghiệp khác. Chẳng hạn một dịch vụ giao nhận chính xác kịp thời, một dịch vụ vận tải đến tận công trình một cách nhanh chóng cũng đã tạo được một hình ảnh đặc trưng về phong cách phục vụ của công ty đối với khách hàng. Để làm được điều đó doanh nghiệp có thể: Về chính sách sản phẩm: Tiếp tục nâng cao hơn nữa chất lượng sản phẩm, doanh nghiệp phải không ngừng ứng dụng các công nghệ tiên tiến trên thế giới để có được năng suất chất lượng cao hơn nhằm đáp ứng hơn nhu cầu của khách hàng, đặc biệt việc nâng cao chất lượng sẽ giúp doanh nghiệp có thể tiến xa hơn, mở rộng hơn nữa thị trường ngoài nước của doanh nghiệp. Về chính sách phát triển các dịch vụ hậu cần của doanh nghiệp: Thực tế thì đấy là một chính sách rất quan trọng vì cạnh tranh bằng dịch vụ là vũ khí cạnh tranh hiệu quả nhất mà các doanh nghiệp đang sử dụng. Đối với doanh nghiệp sản xuất thì dịch vụ hậu cần là một dịch vụ hỗ trợ quan trọng cho việc tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. Các dịch vụ này bao gồm: dịch vụ giao nhận, kho bãi và vận tải. Doanh nghiệp cần có chính sách cụ thể để phát triển các dịch vụ hậu cần. Doanh nghiệp có thể đầu tư nâng cao trình độ của đội ngũ người lao động thực hiện các dịch vụ này như cho đi đào tạo, mở các chương trình đào tạo mời các chuyên gia giảng dạy để họ có thể hiểu rõ hơn về lĩnh vực mà mình đang làm viêc. Không chỉ là con người, hệ thống cơ sở vật chất cũng cần được bổ sung, hoàn thiện, hoặc mua, thay thế các thiêt bị cũ không còn sử dụng được. Về chính sách giá cả: Doanh nghiệp cũng nên có chính sách giá cả hợp lý làm hài lòng khách hàng của doanh nghiệp. Đối với hoạt động kinh doanh kho bãi doanh nghiệp cần phải đưa ra giá cả thật sự hợp lý cho khách hàng sử dụng dịch vụ hợp lý của công ty. 3.2/Giải pháp hoàn thiện và đa dạng hóa dịch vụ hậu cần trong tiêu thụ sản phẩm: Hiện nay dịch vụ hậu cần trong tiêu thụ sản phẩm hiện nay của doanh nghiệp bao gồm một số hoạt động chủ yếu: - Hoạt động giao nhận bao gồm việc tiếp nhận thành phẩm hàng hóa, dịch vụ bao gói, lên nhãn mác, dịch vụ giao nhận bán sản phẩm hàng hóa cho người tiêu dùng. - Hoạt động kho bãi của doanh nghiệp bao gồm việc sắp xếp, phân loại hàng hóa, bảo quản hàng hóa, sửa chữa, thay thế sản phẩm; dịch vụ vận tải theo yêu cầu của khách hàng…Đặc biệt hiện nay doanh nghiệp đang thực hiện kinh doanh dịch vụ kho bãi, một dịch vụ hết sức mới mẻ của công ty. - Hoạt động vận tải của doanh nghiệp chủ yếu là vận tải đường bộ, vận tải đường biển. Tuy nhiên vì là một doanh nghiệp sản xuất cho nên các hoạt động trên mới chỉ dừng lại ở chức năng hỗ trợ cho sản xuất, nó không thực hiện chức năng kinh doanh (trừ dịch vụ kinh doanh kho bãi, dịch vụ kinh doanh hàng hóa xăng dầu). Có thể nói các dịch vụ hậu cần trong tiêu thụ còn nhiều khả năng phát triển vì hiện nay dịch vụ này còn thực hiện chưa tốt. Công ty cần phải hoàn thiện hơn các dịch vụ hậu cần bằng cách hoàn thiện thêm dịch vụ giao nhận, hoàn thiện các dịch vụ vận tải, dịch vụ kho bãi theo hướng cung cấp một dịch vụ trọn gói cho khách hàng vì hầu hết khách hàng của doanh nghiệp là các công ty lớn (sản phẩm cung cấp cho các công trình, các nhà máy sản xuất các sản phẩm công nghiệp). Vì vậy nếu doanh nghiệp có thể cung cấp một dịch vụ trọn gói cho khách hàng thì sẽ làm cho khách hàng hài lòng hơn. Khi đó doanh nghiệp sẽ thực hiện từ A đến Z các hoạt động dịch vụ và tất nhiên doanh nghiệp có thể thu được doanh thu cao hơn từ việc thực hiện trọn gói các dịch vụ này. Doanh nghiệp có thể đa dạng hóa các dịch vụ hậu cần vì tùy đối tượng khách nhau người ta có thể cần các dịch vụ khác nhau: có người thì thích một dịch vụ trọn gói, có khách hàng lại chỉ yêu cầu dịch vụ giao nhận riêng, dịch vụ kho thôi. Vậy thì việc đa dạng hóa các dịch vụ hậu cần tạo cho khách hàng một sự thuận tiện khi lựa chọn các hoạt động dịch vụ, đồng thời giúp doanh nghiệp có thể linh hoạt hơn, chọn được nhiều đối tượng khách hàng hơn. 3.3/ Phát triển các dịch vụ mới: Trong cơ chế thị trường khách hàng luôn là thượng đế, họ luôn có xu hướng yêu cầu, đòi hỏi các dịch vụ mới của doanh nghiệp. Do vậy doanh nghiệp cần phải phát triển các dịch vụ mới, chỉ có vậy mới giúp khách hàng được thỏa mãn hơn, mới có thể giữ chân khách hàng của doanh nghiệp. Đối với dịch vụ kinh doanh kho bãi, doanh nghiệp có thể cung cấp thêm các hình thức dịch vụ kèm theo cho khách hàng thuê kho bãi như bốc xếp, quản lý kho hàng hóa cho khách hàng. Còn đối với hoạt động giao nhận, hiện nay công ty mới chủ yếu có giao nhận qua đường bộ, giao nhận đường biển với số lượng còn khá hạn chế, còn chưa kể là không có hình thức giao nhận khác như giao nhận hàng không, vì vậy công ty cần thiết tập trung phát triển giao nhận bằng đường biển, hình thức này có chi phí rẻ hơn rất nhiều so với giao nhận đường bộ, đặc biệt cần phát triển thêm các hình thức giao nhận mới. Ngoài ra đối với dịch vụ giao nhận quốc tế doanh nghiệp có thể cung cấp cho khách hàng các dịch vụ khách: dịch vụ tư vấn pháp lý, dịch vụ dịch thuật hợp đồng, dịch vụ marketing và cung cấp thông tin cho các đối tác nước ngoài…Đây là xu hướng phát triển tất yếu mà mọi doanh nghiệp cần phải nắm bắt vì khách hàng luôn luôn có những nhu cầu cao hơn, những đòi hỏi cao hơn về sản phẩm, dịch vụ mà doanh nghiệp cung cấp. Doanh nghiệp càng cung cấp được những dịch vụ ngày càng hoàn thiện thì tức là doanh nghiệp chiếm lĩnh được khách hàng, đã giữ chân được khách hàng của mình. 3.4/ Nâng cao chất lượng dịch vụ hậu cần cho tiêu thụ sản phẩm Với phương châm hoạt động vì chất lượng sản phẩm, doanh nghiệp luôn đặt chất lượng sản phẩm lên hàng đầu. Tuy nhiên về lĩnh vực dịch vụ hậu cần thì doanh nghiệp lại chưa thực sự làm tốt. Nhìn chung các hoạt động dịch vụ của doanh nghiệp còn tổ chức khá hình thức mặc dù có quan tâm đến chất lượng nhưng chưa quan tâm sâu nên hầu hết các dịch vụ này chưa được quan tâm chu đáo. Vì vậy muốn phát triển các dịch vụ hậu cần cho tiêu thụ phải quan tâm đến chất lượng dịch vụ. Chất lượng dịch vụ là nhân tố quan trọng quyết định khách hàng có trở lại với doanh nghiệp trong lần tiếp theo hay không. Muốn nâng cao chất lượng của các dịch vụ hậu cần doanh nghiệp cần phải có đội ngũ người lao động chuyên nghiệp thực hiện các dịch vụ này, các dịch vụ mà họ thực hiện phải có sự đặc trưng như là một sự quảng bá hình ảnh của doanh nghiệp. Hơn nữa muốn biết chất lượng dịch vụ như thế thì doanh nghiệp cần có hệ thống thông tin phản hồi giúp khách hàng giải quyết các khiếu nại về chất lượng dịch vụ. Tuy nhiên việc giải quyết này phải tiến hành nhanh chóng, tiện lợi cho khách hàng. Có vậy thì chất lượng dịch vụ mới thực sự được nâng cao. 3.5/ Giải pháp tăng cường chính sách xúc tiến, khuyếch trương Trong marketing cđo bốn tham số cơ bản: sản phẩm, giá, phân phối, xúc tiến, vì vậy xúc tiến là một hoạt động hết sức được quan tâm trong marketing. Đơn giản là vì muốn khách hàng mua sản phẩm của doanh nghiệp khách hàng cần biết doanh nghiệp là ai, đang kinh doanh sản phẩm gì, tại sao khách hàng nên mua sản phẩm của doanh nghiệp thì hoạt động xúc tiến sẽ trả lời các câu hỏi trên của khách hàng. Vậy hoạt động xúc tiến có vai trò là thông tin marketing đến khách hàng tiềm năng cũng như thông qua hoạt động xúc tiến doanh nghiệp có được thông tin về khách hàng tiềm năng, để từ đó có thể cung cấp cho khách hàng của mình sản phẩm dịch vụ phù hợp hơn, đáp ứng tốt hơn nhu cầu của khách hàng. Xúc tiến là công cụ hữu hiệu trong cạnh tranh, thúc đẩy cơ hội mua bán hàng hóa, đó là lý do tại sao doan nghiệp cần tăng cường công tác xúc tiến hàng hóa, công tác khuyếch trương. Hàng năm doanh nghiệp cũng chi một khoản tiền cho công tác xúc tiến như hoạt động quảng cáo, khuyến mại, chào hàng nhưng việc chi ngân sách cho các hoạt động này còn quá nhỏ so với doanh thu của doanh nghiệp. Hiện nay doanh nghiệp đã có trang web riêng của mình, thì đây là một hình thức quảng cáo hiệu quả về doanh nghiệp, về sản phẩm của công ty. Nhưng trên thực tế, doanh nghiệp lại đầu tư quá ít vào trang web nên thông tin trên trang web của doanh nghiệp còn rất ít, không phong phú, không hấp dẫn. Vì vậy nếu như trong thời gian tới doanh nghiệp có thể đầu tư hơn cho nó thì chắc chắn hiệu quả còn cao hơn rất nhiều. Ngoài ra đối với một số khách hàng truyền thống, công ty cũng nên dành cho họ những ưu đãi về chiết khấu, giảm giá, thường xuyên thông tin cho khách hàng về các chương trình khuyến mại của công ty. Việc tăng cường chính sách khuyến mại đem lại cho công ty những lợi ích sau: Là cơ hội quảng bá hình ảnh của doanh nghiệp. Kênh thông tin tiếp cận với khách hàng tiềm năng của doanh nghiệp. Là công cụ để giữ chân khách hàng. Thúc đẩy nhanh việc bán hàng hóa, dịch vụ. Là công cụ hữu hiệu trong cạnh tranh. 3.6/ Giải pháp nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ marketing cho nhân viên kinh doanh Ngày nay, các doanh nghiệp các chú trọng hơn đến hoạt động marketing, nó trở thành một hoạt động không thể thiếu đối với mỗi doanh nghiệp. Mặc dù ý thức được tầm quan trọng của nó nhưng doanh nghiệp vẫn chưa có phòng marketing riêng, số nhân viên làm trong lĩnh vực marketing còn rất ít. Chính khó khăn đó làm cho hoạt động marketing của doanh nghiệp chưa mạnh, thực hiện các nghiệp vụ marketing còn chưa chuyên nghiệp, cho nên việc cần làm ngay là phải có thêm đội ngũ nhân viên marketing đồng thời nâng cao trình độ nghiệp vụ marketing cho nhân viên. Nếu như được có thể tiến tới thành lập bộ phận chuyên trách về marketing. Để có thể đào tạo bồi dưỡng thêm kiến thức cho nhân viên marketing doanh nghiệp có thể thực hiện: -Doanh nghiệp có thể có những buổi đào tạo riêng về các nghiệp vụ marketing, tại đó các bậc đàn anh có thể truyền đạt kinh nghiệm thực tế của mình về lĩnh vực này cho các nhân viên mới vào nghề. - Doanh nghiệp có thể cho nhân viên tham gia các khóa học, các buổi chuyên đề về marketing của các tổ chức, các trường đại học trong cả nước - Doanh nghiệp có thể mời các chuyên gia về marketing về công ty để đào tạo nhân viên marketing. 3.7/Nâng cao uy tín và phát triển thương hiệu Uy tín và thương hiệu của doanh nghiệp đó chính là yếu tố vô hình, thể hiện qua khả năng bán hàng gián tiếp của doanh nghiệp. Nó ảnh hưởng và tác động tới tâm lý tiêu dùng, đến quyết định có mua hàng hay không của người tiêu dùng. Doanh nghiệp có uy tín tốt trên thương trường thì đã tạo được sự quan tâm của khách hàng tới sản phẩm, dịch vụ mà doanh nghiệp cung cấp. Vì vậy đây là nhân tố quan trọng quyết định sự phát triển các sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp. Do đó doanh nghiệp cần nâng cao uy tín của mình, đặc biệt là phát triển thương hiệu của doanh nghiệp, để mỗi khi nói đến HAICATEX người ta sẽ biết đến sản phẩm vải mành, vải không dệt của công ty, hai mặt hàng được coi là chủ lực của công ty.Để nâng cao uy tín và phát triển thương hiệu, doanh nghiệp cần thực hiện các biện pháp sau: Một là: Tăng cường quảng bá hình ảnh của doanh nghiệp thông qua các kênh thông tin đại chúng, qua báo, đài, ti vi, qua internet vì qua các kênh thông tin đó khách hàng có thể nhanh chóng biết về doanh nghiệp, nhanh chóng có được thông tin về doanh nghiệp. Với sự sử dụng tổng hợp nhiều kênh thông tin truyền thông sẽ giúp cho việc quảng bá hình ảnh của doanh nghiệp thêm tính hiệu quả. Hai là: Tăng cường các hoạt động quan hệ công chúng PR (Public Relations) Hiện nay co nhiều doanh nghiệp thực hiện hoạt động này do tính hiệu quả thực sự của hoạt động quan hệ công chúng. Doanh nghiệp có thể tổ chức các buổi nói chuyện trên truyền hình, doanh nghiệp có thể tổ chức các cuộc hội nghị, các chương trình tài trợ tất cả nhằm mục đích để khách hàng biết đến về doanh nghiệp. Vai trò của hoạt động PG là truyền thông tin đến khách hàng, để sản phẩm dễ dàng đi vào nhận thức khách hàng, khách hàng có thể lưu dữ tốt hơn về sản phẩm của doanh nghiệp. Mặt khác chi phí cho hoạt động này rẻ hơn so với các chiến dịch quảng bá, phát triển thương hiệu khác của doanh nghiệp. Hơn nữa thương hiệu của doanh nghiệp biểu hiện ở tên nhãn hiệu, logo, biểu tượng. Vì vậy doanh nghiệp cần thông qua các hoạt động quan hệ công chúng để tăng cường quảng bá về nhãn hiệu, logo, biểu tượng của doanh nghiệp. Để mỗi khi nhắc đến dệt vải công nghiệp Hà Nội người ta có thể biết nhãn hiệu, logo, biểu tượng của doanh nghiệp. *Một số biện pháp khác 1/ Đầu tư thêm cơ sở vật chất, trang thiết bị, đầu tư phát triển nguồn nhân lực cho phát triển các dịch vụ hậu cần trong tiêu thụ. Đối với hoạt động dịch vụ kho bãi thì cơ sở vật chất của kho (các thiết bị, công cụ dụng cụ trong kho) có vai trò quyết định đối với chất lượng sản phẩm trước khi đưa tới công trình. Một hệ thống kho bãi rộng thoáng, trang thiết bị hiện đại sẽ tạo điều kiện để bảo quản tốt nhất sản phẩm hàng hóa. Điều này càng quan trọng hơn khi doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ kho bãi bởi vì kho bãi tốt thì mới bảo quản hàng hóa tốt. Tuy nhiên hiện nay doanh nghiệp có hệ thống kho chủ yếu là nhà cấp bốn, công cụ, dụng cụ thô sơ cũ kỹ nên trong quá trình vận chuyển rất tốn thời gian, khá là vất vả. Vì vậy việc đầu tư công cụ, dụng cụ hiện đại sẽ giúp quá trình đưa sản phẩm hàng hóa vào kho và ra ngoài kho tiến hành rất dễ dàng, tốn ít thời gian, chi phí hơn. Doanh nghiệp có thể đầu tư thêm hệ thống thông tin liên lạc nhằm kiểm soát tốt hệ thống kho hàng, tránh mât mát, tránh bị mất trộm. Đối với những nhà kho quá cũ thì doanh nghiệp phải tiến hành tu sửa, nâng cấp hệ thống nhà kho (như cải tạo nền kho, hệ thống cửa); sửa chữa thiết bị chiếu sáng tại các kho nhằm đảm bảo an toàn lao động cũng như phòng chống cháy nổ. 2/ Áp dụng các mô hình quản lý mới cho hoạt động này Hiện nay trên thế giới có rất nhiều mô hình quản lý hiệu quả cho hoạt động logistics (cho các hoạt động dịch vụ hậu cần trong tiêu thụ sản phẩm). Với những mô hình này thì công việc quản lý sẽ rất hiệu quả, giảm được độ nhọc trong các công việc lao động phổ thông bốc vác, việc áp dụng các mô hình này còn có tác dụng giảm thời gian, chi phí cho các cho doanh nghiệp. Tuy nhiên để áp dụng các mô hình quản lý tiên tiến, hiện đại cần có đội ngũ nhân viên có khả năng tiếp nhận những mô hình quản lý mới. Họ phải là những người thích nghi với mô hình quản lý tốt, nhanh nhẹn, có chuyên môn, nghiệp vụ vững chắc vì chỉ có vậy thì áp dụng các mô hình quản lý mới đem lại kết quả thiết thực. III/CÁC ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ VỚI TẬP ĐOÀN DỆT MAY VÀ NHÀ NƯỚC * Các kiến nghị với tập đoàn dệt may Tập đoàn cần tạo điều kiện cho doanh nghiệp có thể tốt các mục tiêu mà tập đoàn giao cho. Có những hướng dẫn, chỉ đạo cụ thể về mục tiêu, nhiệm vụ phải thực hiện của các doanh nghiệp. Có chính sách đầu tư thêm về cơ sở vật chất cho đơn vị thực hiện tốt các hoạt động sản xuất kinh doanh, hoạt động dịch vụ. Tăng cường sự hoạt động của Hiệp hội dệt may Việt Nam để có thể có những biện pháp giúp các doanh nghiệp hoạt động hiệu quả, tăng tính cạnh tranh. *Các kiến nghị về phía Nhà nước: Nhà nước cần tạo một môi trường pháp lý tốt cho việc tiến hành các hoạt động dịch vụ hậu cần của doanh nghiệp, tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh. Nhà nước cần có chính sách đầu tư phát triển các ngành công nghiệp cho dệt may Việt Nam vì thực tế hiện nay toàn ngành nguyên liệu chủ yếu là do nhập của nước ngoài, giá thành rất đắt làm đẩy chi phí sản xuất tăng cao, nâng cao giá thành sản phẩm. Một khi xây dựng được các ngành công nghiệp cung cấp nguyên liệu phụ trợ cho ngành may sẽ rất tốt, góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Nhà nước cũng cần tăng cường chương trình xúc tiến, quảng bá thương hiệu hàng dệt may ra thị trường quốc tế để các doanh nghiệp dệt may có thể xâm nhập dễ hơn vào các thị trường. Tạo điều kiện pháp lý thuận lợi, tạo sự thông thoáng trong các thủ tục hành chính để doanh nghiệp có những văn phòng đại diện tại các quốc gia trên thế giới. KẾT LUẬN Trong xu thế toàn cầu hóa, nền kinh tế Việt Nam ngày càng hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới, điều đó tạo áp lực cạnh tranh giữa các doanh nghiệp Việt Nam. Đòi hỏi các doanh nghiệp cần phải nâng cao năng lực cạnh tranh của mình. Qua thời gian nghiên cứu, học hỏi kinh nghiệm thực tế tại Công ty Cổ phần Dệt công nghiệp Hà Nội em thấy được thực trạng phát triển các dịch vụ hậu cần trong tiêu thụ sản phẩm của công ty. Từ lâu, công ty đã thấy được vai trò quan trọng của việc sử dụng các dịch vụ hậu cần trong tiêu thụ là một công cụ cạnh tranh hữu hiệu mang lại kết quả cao trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Qua kết quả hoạt động kinh doanh cho thấy các dịch vụ hậu cần trong tiêu thụ của doanh nghiệp đã có những đóng góp to lớn vào việc tăng doanh thu, lợi nhuận cho doanh nghiệp. Đặc biệt là lĩnh vực kinh doanh dịch vụ kho bãi và dịch vụ kinh doanh hàng hóa xăng dầu đang rất phát triển, nó đóng góp một phần rất đáng kể vào tổng doanh thu của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, các dịch vụ hậu cần trong tiêu thụ sản phẩm vẫn chưa được phát triển một cách toàn diện, các dịch vụ hiện nay mới chỉ dừng lại ở chỗ là một công cụ hỗ trợ cho tiêu thụ sản phẩm mà chưa phải là một dạng dịch vụ kinh doanh. Vì vậy trong thời gian tới doanh nghiệp cần phải phát triển hơn nữa các dịch vụ hậu cần trong tiêu thụ để mang lại hiệu quả kinh doanh cao hơn. Trong phạm vi đề tài nghiên cứu của mình, em đã đưa ra một số giải pháp nhằm phát triển các dịch vụ hậu cần trong tiêu thụ. Tuy nhiên do trình độ cũng như hiểu biết còn nhiều hạn chế nên em rất mong có được sự góp ý từ các thầy cô giáo trong khoa Thương mại. Danh mục tài liệu tham khảo 1. GS. TS. Đặng Đình Đào - Giáo trình kinh tế thương mại. 2. GS. TS. Đặng Đình Đào - Giáo trình thương mại doanh nghiệp 3. Giáo trình kinh doanh kho và bao bì 4. PGS. TS Hoàng Minh Đường & PGS. TS Nguyễn Thừa Lộc – Quản trị doanh nghiệp thương mại 5. Trang web của Bộ Công Thương WWW.moi.com 6. Trang web của công ty cổ phần dệt công nghiệp Hà Nội WWW.haicatex.com 7. Báo, tạp chí chuyên ngành thương mại 8. Luật Thương mại 9. Số liệu tại phòng kinh doanh xuất nhập khẩu của công ty cổ phần dệt công nghiệp Hà Nội. 10. Số liệu tại phòng kế toán, tài chính của công ty. MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc11509.doc
Tài liệu liên quan