Đề tài Phát triển kinh tế tư nhân trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta

Hơn hai mươi năm thực hiện đường lối đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, kinh tế tư nhân đã phát triển rộng khắp trên cả nước. Kinh tế tư nhân ở nước ta tăng nhanh về số lượng và chất lượng, góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế giữ vững ổn định chính trị xã hội của đất nước. Đóng góp lớn nhất và quan trọng nhất của kinh tế tư nhân là tạo việc làm và góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động xã hội. Sự phát triển của kinh tế tư nhân đã góp phần giải phóng lực lượng sản xuất, thúc đẩy phân công lao động xã hội, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

doc37 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1286 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phát triển kinh tế tư nhân trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ẩy kinh tế tăng trưởng. -Đặc điểm KTTN ở nuớc ta: KTTN ở nước ta đang tồn tại và phát triển trong những điều kiện chủ yếu sau: Một là, kinh tế tư nhân mới được phục hồi và phát triển nhờ công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo. Hai là, KTTN hình thành và phát triển trong điều kiện có nhà nước xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo tuyệt đối của Đảng Cộng Sản. Ba là, KTTN ở nước tar a đời và phát triển trong điều kiện quan hệ sản xuất thống trị trong xã hội không phải là quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Bốn là, KTTN ở nước ta ra đời và phát triển ở một nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế phát triển chậm, trong bối cảnh thực hiện Công Nghiệp Hoá- Hiện Đại Hoá, giả phóng sức sản xuất, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế đã trở thành vấn đề trung tâm trong điều kiện đó. 1.1.3 Tính tất yếu phát triển kinh tế tư nhân trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Nền kinh tế nước ta đang trong thời kỳ quá độ sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, ở đó tồn tại nhiều hình thức sở hữu, nhiều trình độ phát triển khác nhau của lực lượng sản xuất đã tạo nên sự đa dạng trong cơ cấu các hình thức kinh tế . Trong đó hình thức KTTN đã và sẽ đóng góp vai trò rất quan trọng trong sự phát triển kinh tế. KTTN như một động lực thúc đẩy sản xuất hàng hoá phát triển trong nền kinh tế thị trường. Ngược lại nền kinh tế thị trường chính là môi trường hoạt động và phát triển của các thành phần kinh tế, trong đó có KTTN. Lịch sử phát triển hàng trăm năm của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa cũng như hơn 70 năm của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa đã chứng minh điều đó. Sau mấy trăm năm phát triển, nền kinh tế các nước tư bản chủ nghĩa phát triển vẫn chủ yếu là nền kinh tế tư nhân, còn sau hơn 70 năm thử xây dựng một nền kinh tế gồm hai thành phần chi phối là nhà nước và tập thể, phần lớn các nước xã hội chủ nghĩa trước đây đã phải trở lại với KTTN. Thực tế cho thấy chưa có nước nào thành công trong phát triển nền kinh tế thị trường lại thiếu khu vực kinh tế tư nhân. Trong công cuộc đổi mới kinh tế vừa qua ở nước ta, cùng với việc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng và nhà nước ta đã hết sức coi trọng sự phát triển của khu vực KTTN. Điều này đã được thể hiện rõ trong quan điểm của Đảng cũng như những chủ trương chính sách của Nhà nước. “Chỉ với nghị quyết 10 của Bộ Chính trị về khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động trong chính sách đổi mới quản lý sản xuất nông nghiệp, trao lại quyền tự chủ sản xuất, kinh doanh cho kinh tế hộ nông dân đã đủ sức gây nên một sự đột biến kỳ diệu là Việt Nam từ một nước thiếu lương thực luôn phải nhập khẩu chỉ hơn một năm đã trở thành một trong những nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới. 1.1.4 Nội dung phát triển kinh tế tư nhân ở nước ta - Đổi mới trong nhận thức và thống nhất chỉ đạo phát triển KTTN trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. -Trước năm 80 khu vực kinh tế tư nhân không được khuyến khích phát triển và là đối tượng cải tạo xã hội chủ nghĩa theo kiểu mệnh lệnh hành chính. Xuất phát từ quan niệm cho rằng KTTN gắn liền với bóc lột, quy mô kinh tế nhỏ thì bóc lột ít, quy mô kinh tế lớn thì bóc lột nhiều nên một thời KTTN không được khuyến khích phát triển, là đối tượng của cải tạo xã hội chủ nghĩa để từng bước thu hẹp và xoá bỏ khu vực kinh tế này. Kể từ khi thực hiện các chính sách đổi mới kinh tế, nhất là sau đại hội đại biểu toàn quốc lần tứ VI của Đảng, KTTN đã được hồi sinh trở lại và mở rộng quy mô, phạm vi hoạt động khá nhanh chóng. Cùng với quá trình đổi mới các chính sách đối với KTTN đã thay đổi căn bản: kinh tế hộ gia đình và kinh tế cá thể được khuyến khích phát triển, kinh tế tư bản tư nhân mặc dù đã tuyên bố được phát triển bình đẳng với các thành phần kinh tế khác song trong nhận thức lý luận của cấp hoạch định chính sách trên thực tế còn nhiều quan điểm chư nhất quán. Một điều cần chú ý ở đây là khi nhà nước xã hội chủ nghĩa điều hành đất nưởc trong đó có điều hành nền kinh tế ở mức phù hợp thì nhà tư bản và người lao động làm thuê không phải là nhà tư bản và người làm thuê thuần tuý như trong xã hội tư bản chủ nghĩa, có nghĩa là không có sự bóc lột. Đổi mới tổ chức quản lý kinh tế tư nhân theo hướng hội nhập kinh tế quốc tế qua việc định rõ tiêu chuẩn doanh nghiệp vừa và nhỏ theo ngành kinh tế; định hướng rõ hơn chính sách ưu đãi doanh nghiệp vừa và nhỏ giúp kinh tế tư nhân phát triển đúng hướng. Tuyệt đại bộ phận kinh tế tư nhân của Việt Nam hiện nay là các hộ cá thể, tiểu chủ( có thể coi là các doanh nghiệp nhỏ). Theo thống kê quốc tế phổ biến, các doanh nghiệp vừa, doanh nghiệp nhỏ và rất nhỏ luôn hỗ trợ trong nước và quốc tế trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế là một tất yếu trong xu thế toàn cầu hoá hướng tới sự phát triển của mỗi quốc gia. Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế bao giờ cũng vừa là cơ hội vừa là thách thức đối với mỗi quốc gia. Đặc biệt là đối với Việt Nam, một nước có nền kinh tế nhỏ mới chuyển đổi khỏi cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung thì cơ hội tiếp cận các thành tựu của thế giới để phát huy lợi thế riêng của mình là rất lớn nhưng thách thức cũng không phải là nhỏ. Mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế sẽ tạo cơ hội cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ tiếp cận với một thị trường toàn cầu rộng lớn, tăng khẳ năng thu hút vốn, tiếp cận chuyển giao công nghệ và nguồn tri thức, tăng cường năng lực quản lý, nâng cao năng lực cạnh tranh. Mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế còn đặt ra cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam nhiều thách thức. Nếu không có sự hỗ trợ của chính phủ với các biện pháp ứng phó tốt để vượt qua khó khăn và phát triển bền vững thì nguy cơ “ thua ngay trên sân nhà” của các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam không xa sẽ thành sự thực. 1.1.5. Mục tiêu cụ thể của kinh tế tư nhân ở nước ta Phát triển mạnh mẽ các hộ kinh doanh cá thể ở những lĩnh vực phù hợp. Tăng thêm vốn và trình độ của những hộ kinh doanh nhỏ. Một bộ phận không ít các hộ sản xuất, kinh doanh sẽ phát triển chuyển thành doanh nghịêp. Khi chuyển thành doanh nghiệp sẽ khắc phục được tính phi chính thức và có điều kiện thuận lợi hơn về huy động và sử dụng nguồn lực để phát triển với quy mô lớn hơn, làm ăn lâu dài hơn. Mục tiêu phát triển trang trại trong thời gian tới là kết hợp giữa trồng trọt, chăn nuôi, sản xuất, chế biến và kinh doanh tổng hợp. Vì vậy, sẽ có những trang trại có quy mô lớn, sản xuất kinh doanh đa ngành. Tăng nhanh số lượng doanh nghịêp mới, mở rộng và phát triển theo chiều sâu những doanh nghiệp hiện có. Hình thành cho được một số doanh nghiệp của tư nhân có năng lực cạnh tranh cao, tham gia các tập đoàn kinh tế mạnh do doanh nghiệp Nhà nước làm nòng cốt. Đến năm 2010 sẽ có 50 vạn doanh nghiệp của tư nhân được đăng kí. Đến thời điểm đó, các doanh nghiệp của tư nhân sẽ trở thành nòng cốt của kinh tế tư nhân, trở thành động lực cho phát triển kinh tế- xã hội. Tăng tỷ trọng doanh nghiệp của tư nhân hoạt động trong các ngành công nghiệp, trước hết là công nghiệp chế biến. Khuyến khích họ tham gia những dịch vụ có giá trị gia tăng cao. Tăng cường sự tham gia vào các hoạt động công ích. Từng bước mở rộng hoạt động đầu tư ra nước ngoài. 1.2. Quan điểm của Đảng về khu vực kinh tế tư nhân Trước năm 80, khu vực kinh tế tư nhân không được khuyến khích phát triển và là đối tượng cải tạo xã hội chủ nghĩa theo kiểu mệnh lệnh hành chính. Xuất phát từ quan niệm cho rằng kinh tế tư nhân gắn liền với bóc lột, quy mô kinh tế nhỏ thì bóc lột ít, quy mô lớn thì bóc lột nhiều nên một thời kinh tế tư nhân không được khuyến khích phát triển, là đối tượng cải tạo xã hội chủ nghĩa để từng bước thu hẹp và xoá bỏ khu vực kinh tế này. Kể từ khi thực hiện các chính sách đổi mới kinh tế, nhất là từ sau Đại Hội Đại Biểu Toàn Quốc lần thứ VI của Đảng kinh tế tư nhân đã được hồi sinh trở lại và mở rộng quy mô, phạm vi hoạt động khá nhanh chóng. Cùng với quá trình đổi mới, các chính sách đối với kinh tế tư nhân đã thay đổi căn bản: kinh tế hộ gia đình và kinh tế cá thể được khuyến khích phát triển, kinh tế tư bản tư nhân mặc dù đã tuyên bố là được phát triển bình đẳng với các thành phần kinh tế khác song trong nhận thức lý luận của các cấp hoạch định chính sách trên thực tế còn nhiều quan điểm chưa nhất quán, một điểm cần chú ý ở đây là khi Nhà nước xã hội chủ nghĩa điều hành đất nước trong đó có điều hành nền kinh tế ở mức phù hợp hơn thì nhà tư bản và người lao động làm thuê không phải là nhà tư bản và người làm thuê thuần tuý như trong xã hội tư bản chủ nghĩa có nghĩa là hoàn toàn không có sự bóc lột. II. Thực trạng và các giải pháp phát triển KTTN ở nước ta 2.1. Thực trạng phát triển kinh tế tư nhân ở nước ta 2.1.1. Tổng quan về kinh tế tư nhân ở nước ta Trong lịch sử phát triển kinh tế nước ta kể từ sau cách mạng tháng tám năm 1945, kinh tế tư nhân trong nhiều thời kỳ đã được coi là một trong những nguồn lực quan trọng để phát triển kinh tế đất nước. Quá trình phát triển của kinh tế tư nhân Việt Nam có thể được hệ thống hoá và trình bày khái quát theo các giai đoạn chủ yếu sau: - Thời kỳ 1945-1954: Trong thời kỳ này, Đảng và Nhà nước ta chủ trương tiếp tục duy trì và phát triển kinh tế tư nhân, coi kinh tế tư nhân là một bộ phận để xây dựng nền kinh tế kháng chiến. - Thời kỳ 1954-1986: Sau năm 1954, kết thúc 9 năm kháng chiến, miền bắc gặp muôn vàn khó khăn, vì vậy khôi phục kinh tế là nhiệm vụ cấp bách hàng đầu. trong thời kỳ khôi phục kinh tế (1955-1957). Thời kỳ này lực lượng kinh tế quốc doanh còn nhỏ, kinh tế hợp tác chưa phát triển, tham gia lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế – xã hội chủ yếu là kinh tế tư nhân, kinh tế cá thể. Cùng với những chính sách đúng đắn, sau ba năm khôi phục và phát triển, các ngành và các lĩnh vực kinh tế – xã hội Miền Bắc đều đạt được những kết quả quan trọng. giá tổng sản lượng nông nghiệp năm 1957 tăng 16,7% so với năm 1955. Sản lượng quy thóc từ 3759 nghìn tấn năm 1955 lên 4293 nghìn tấn năm 1957. Công nghiệp đạt tốc độ tăng bình quân năm là 64,1%. Từ năm 1958. Miền bắc bắt đầu bước vào thời kỳ cải tạo xã hội chủ nghĩa và phát triển kinh tế theo mô hình kế hoạch hoá tập trung, theo đó kinh tế tư nhân bị hạn chế cải tạo và dần dần bị xoá bỏ. Đến năm 1960, kinh tế tư nhân cơ bản đã bị xoá bỏ. Từ cuối năm 1960 trở đi, kết cấu nền kinh tế xã hội Miền bắc đã hoàn toàn thay đổi. Từ một nền kinh tế nhiều thành phần thành một nền kinh tế có một thành phần cơ bản: kinh tế xã hội chủ yếu dưới hai hình thức: quốc doanh và tập thể. Sau năm 1975, với thắng lợi của cuốc kháng chiến chống Mỹ, đất nước ta bước vào thời kỳ đổi mới . Mô hình kinh tế kế hoạch hó tập trung ở Miền bắc được áp dụng vào Miền nam. Hợp tác hoá nông nghiệp, cải tạo công thương nghiệp tư bản chủ nghĩa, xây dựng kinh tế quốc doanh. Đến giữa những năm 1980 nền kinh tế lâm vào tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng, thực tiễn cho thấy chủ trương xoá bỏ kinh tế tư nhân trong một nền kinh tế lạc hậu, phát triển chậm là không thích hợp. Trước tình hình đó công cuộc đổi mới được khởi xướng, trong đó nhận thức về kinh tế tư nhân cũng từng bước được đổi mới. Trong công nghiệp năm 1985 vẫn có 59,3 vạn người sản xuất cá thể. Số lao động hoạt động trong kinh tế tư nhân hàng năm vẫn thêm trên 20% tổng số lao động ngành công nghịêp (năm 1986: 23,2%). Giá trị sản lượng công nghiệp do khu vực kinh tế tư nhân tạo ra hàng năm chiếm trên dưới 19% giá trị toàn ngành công nghịêp. Số người kinh doanh thương nghiệp những năm 1986 ở mức 96,8 vạn Thời kỳ 1986 đến nay. Tháng 12 năm 1986, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng với đường lối đổi mới toàn diện đã mở ra bước ngoặt mới đối với nền kinh tế nước ta. Bước đột phá của Đại hội VI là chấp nhận và vận dụng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần nhằm khai thác mọi khẳ năng của các thành phần kinh tế. Đại hội VI đã thừa nhận sự tồn tại khách quan của KTTN bao gồm kinh tế tiểu sản xuất- hàng hoá, tiểu thương, tư sản nhỏ Tháng 12 năm 1987, Quốc Hội nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam đã ban hành luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, chính thức chấp nhận hoạt động kinh doanh của tư bản nước ngoài ở nước ta. Luật công ty và luật doanh nghịêp tư nhân có hiệu quả từ ngày 15 tháng 4 năm 1991 đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho các doanh nghiệp tư nhân có quy mô lớn hoạt động. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng tiếp tục khẳng định phát triển kinh tế nhiều thành phần là cần thiết để giải phóng và phát huy mọi tiềm năng sản xuất. Đại hội VIII của Đảng năm 1996 đã khẳng định vai trò của kinh tế tư nhân, trong đó kinh tế cá thể và tiểu chủ có vị trí quan trọng lâu dài, kinh tế tư bản tư nhân có khẳ năng góp phần xây dựng đất nước, do đó đòi hỏi Nhà nước vừa phải khuyến khích phát triển, vừa phải tăng cường quản lý, hướng dẫn làm ăn hợp pháp. Đại hội IX của Đảng (tháng 4 năm 2001): đã khẳng định : “thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh:…kinh tế cá thể, tiểu chủ cả ở nông thôn và thành thị có vị trí quan trọng lâu dài …khuyến khích phát triển kinh tế tư bản tư nhân rông dãi trong những ngành nghề sản xuất kinh doanh mà pháp luật không cấm”. Từ quan điểm và đường lối của đảng đối với kinh tế tư nhân, Nhà nước đã có những đổi mới cơ chế đối với kinh tế tư nhân. Như vậy, chính sách kinh tế nhiều thành phần ngày càng được nhận thức rõ hơn, có nhiều chủ trương khuyến khích phát triển và các chính sách hỗ trợ. Những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đã tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế tư nhân phát triển. 2.1.2. Đánh giá về phát triển kinh tế tư nhân ở Nước ta thời gian qua *Những thành tựu trong phát triển kinh tế tư nhân ở nước ta thời gian qua Kể từ khi thực hiện chính sách đổi mới kinh tế, kinh tế tư nhân ở nước ta đã thực sự được hồi sinh và phát triển mạnh mẽ cả về quy mô, phạm vi và lĩnh vực hoạt động: - Sự phát triển về số lượng của khu vực kinh tế tư nhân Về hộ kinh doanh cá thể, tiểu chủ. Hộ kinh doanh cá thể có số lượng lớn và tăng nhanh. Tính đến cuối năm 2003 cả nước có 2,7 triệu hộ kinh doanh cá thể công thương nghiệp, 130 000 trang trại và trên 10 triệu hộ nông dân sản xuất hàng hoá. Nếu tính ở thời điểm năm 2000, thì số hộ kinh doanh thương mại, dịch vụ chiếm 51,89%, số hộ sản xuất công nghiệp chiếm 30,21%, giao thông vận tải chiếm 11,63%, xây dựng chiếm 0,81%, các hoạt động khác chiếm 5,64%. - Về doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân: Năm 1991 cả nước chỉ có 414 doanh nghiệp thì đến năm 1992 có 5 189 doanh nghiệp, năm 1995 có 15276 daonh nghiệp, năm 1999 có 28700 doanh nghiệp. Trong giai đoạn 1991-1999 bình quân mỗi năm tăng 5000 doanh nghiệp. Luật doanh nghiệp có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2000 là một khâu đột phá thúc đẩy sự phát triển vượt bậc của doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân. Sau gần bốn năm thực thi luật doanh nghiệp, đến cuối năm 2003 đã có gần 73 nghìn doanh nghiệp mới đăng kí, đưa tổng số doanh nghiệp đăng kí lên gần 120 nghìn doanh nghiệp. Được thể hiện qua biểu đồ dưới đây: Biểu đồ 1: Số lượng các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân thời kỳ 1992- 2004 Trong số các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân thì loại hình doanh nghịêp tư nhân chiếm khoảng 70%, tiếp đó là công ty cổ phần và công ty trách nhiệm hữu hạn. - Vốn đầu tư của kinh tế tư nhân cho đến nay, khu vực kinh tế tư nhân đã thu hút một lượng lớn vốn đầu tư xã hội. Vốn đầu tư các doanh nghiệp dân doanh và hộ kinh doanh cá thể đang trở thành nguồn vốn đầu tư chủ yếu đối với sự phát triển kinh tế ở nhiều địa phương. Tổng vốn đầu tư phát triển các hộ kinh doanh cá thể năm 2000 là 29.267 tỷ đồng, tăng 12,93% so với năm 1999. Vốn đầu tư của hộ kinh doanh cá thể năm 2000 chiếm 81,54% trong tổng số vốn đầu tư của khu vực kinh tế tư nhân và chiếm 19,82% vốn đầu tư toàn xã hội, tổng vốn dùng vào sản xuất kinh doanh của hộ kinh doanh cá thể là 63668 tỷ đồng. Tổng vốn đăng kí của các loại hình doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần từ năm 1991 đến hết tháng 9 năm 2001 đạt 50795 tỷ đồng, tăng 87,9 lần. Trong đó công ty cổ phần chiếm tỷ trọng lớn nhất 57,22%. Bình quân vốn đăng kí của một doanh nghiệp mới cũng không ngừng tăng lên, từ 900 triệu đồng năm 2000 lên 1500 triệu đồng năm 2002. Tổng vốn thực tế sử dụng của doanh nghiệp cũng tăng nhanh đến năm 2000 đạt 110071 tỷ đồng. Tổng vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp tư nhân tăng cả về số lượng vốn và tỷ trọng( năm 2000 tăng 17,7% so với năm 1999, tỷ trọng trong khu vực kinh tế tư nhân tăng từ 17,84% lên 18,46%). Trong đó phi nông nghiệp chiếm phần lớn. Biểu đồ 2: Số vốn đăng kí hàng năm của các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân. - Về lao động của khu vực kinh tế tư nhân So với tổng số lao động toàn xã hội thì khu vực này chiếm tỷ lệ khoảng 11% qua các năm. Năm 2000 lao động trong khu vực kinh tế tư nhân là 21017326 người chiếm 96,3% lao động có việc làm thường xuyên trong cả nước. Trong đó lao động khu vực kinh tế tư nhân hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp có 16373482 người chiếm 63,9% tổng số lao động nông nghiệp toàn quốc; trong các ngành phi nông nghiệp lao động trong công nghiệp chiếm ty trọng cao nhất, chiếm 45,67% tính từ năm 1996 đến nay, lao động trong công nghiệp tăng nhiều hơn ngành thương mại, dịch vụ. Lao đông công nghiệp ở doanh nghiệp tư nhân tăng nhanh hơn ở hộ kinh doanh cá thể (114,02% so với 6,4%: năm 2000) - Tăng trưởng sản xuất kinh doanh khu vực kinh tế tư nhân Tổng sản phẩm trong nước của khu vực kinh tế tư nhân tăng trưởng liên tục trong những năm gần đây. Năm 1996 GDP khu vực kinh tế tư nhân đạt 68518 tỷ đồng, đến năm 2000 lên 86929 tỷ đồng, tăng bình quân 7,7%/năm. Tương ứng GDP của hộ kinh doanh cá thể từ 52169 tỷ đồng năm 1996 lên 66,142 tỷ đồng năm 2000, tăng bình quân 7%/ năm; của doanh nghiệp từ 14785 tỷ đồng lên 20787 tỷ đồng, tăng bình quân 7,1%/năm. Năm 2000 khu vực kinh tế tư nhân chiếm 42,3% GDP cả nước, trong đó GDP khu vực kinh tế tư nhân phi nông nghiệp bằng 26,87%, khu vực nông nghiệp chiếm 15,4%. Trong đó kinh tế hộ gia đình chiếm 9,8% GDP kinh tế tư nhân trong nông nghiệp. Như vậy, khu vực kinh tế tự nhiên đang thực sự trở thành một động lực mạnh mẽ cho sự phát triển kinh tế- xã hội ở nước ta. - Đóng góp lớn nhất và quan trọng nhất của khu vực kinh tế tư nhân là tạo công ăn việc làm. trong điều kiện ở nước ta, vấn đề lao động và việc làm đang là vấn đề kinh tế - xã hội cấp bách. khu vực kinh tế tự nhiên chính là nơi thu hút, tạo việc làm mới cho xã hội. các doanh nghiệp và hộ kinh doanh cá thể đã sử dụng khoảng 16% lực lượng lao động xã hội với khoảng hơn 6 triệu người trong 3 năm ( 2000 – 2002 ), các doanh nghiệp dân doanh và hộ cá thể mới thành lập đã tạo ra khoảng 1,5 triệu chỗ làm việc mới. Hầu hết các doanh nghiệp cũng góp phần chủ yếu đào tạo và nâng cao tay nghề cho người lao động và phát triển nguồn nhân lực. Một bộ phận lớn lao động nông nghiệp đã được thu hút vào các doanh nghiệp và thích ứng với phương thức sản xuất công nghiệp.sự phát triển của kinh tế tư nhân không chỉ góp phần tạo việc làm, mà còn có tác dụng thúc đẩy nhanh sự chuyển dịch cơ cấu lao động vốn đang rất mất cân đối ở nước ta hiện nay. - Khu vực kinh tế tư nhân đã đóng góp quan trọng vào GDP và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế tính đến năm 2003, king tế tư nhân góp khoảng 8% GDP. Tuy nhiên theo các nhà kinh tế thì con số thực tế còn lớn hơn nhiều. Trong những năm gần đây, khu vực kinh tế tư nhân có tốc độ tăng trưởng rất nhanh, góp phần đáng kể vào sự tăng trưởng kinh tế của đất nước. Trong bốn năm( 2000-2003), tốc độ tăng trưởng kinh tế của khu vực kinh tế tư nhân trong công nghiệp đạt mức 20%/năm. Trong nông nghiệp, khu vực kinh tế tư nhân đã có đóng góp đáng kể, trồng trọt, chăn nuôi và đặc biệt là trong các ngành chế biến, xuất khẩu. Nhờ sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân, cơ cấu kinh tế nông nghiệp đã có sự chuyển dịch quan trọng theo hướng sản xuất hàng hoá, đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn. - Khu vực kinh tế tư nhân đóng góp về xuất khẩu và tăng nguồn thu ngân sách. Theo số liệu thống kê của Bộ Thương Mại, đến năm 2002, khu vực kinh tế tư nhân trong nước đóng góp khoảng 48% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. -Kinh tế tư nhân là nguồn lực chủ yếu phát triển các mặt hàng mới, mở rộng thị trường xuất khẩu. Một số doanh nghịêp đã vươn lên chiếm lĩnh thị trường xuất khẩu về một số mặt hàng quan trọng. ở một số địa phương, kinh tế tư nhân là khu vực đóng góp chủ yếu về xuất khẩu( Hà Giang: 60%, Bình Thuận: 45%, Quange Ngãi: 34%). - Đóng góp của các doanh nghiệp dân doanh vào ngân sách nhà nước đang có xu hướng tăng nhanh, từ khoảng 6,4% năm 2001 lên hơn 7% năm 2002. Thu từ thuế công thương nghiệp và dịch vụ ngoài quốc doanh năm 2002 đạt 103,6% kế hoạch và tăng 13% so với năm 2001. Ngoài ra khu vực kinh tế tư nhân còn góp phần tăng nguồn thu ngân sách như thuế ngôn bài, VAT trong nhập khẩu và các khoản phí khác. ở một số địa phương, đóng góp của doanh nghiệp dân doanh chiếm tỷ trọng rất lớn trong ngân sách. Chẳng hạn ở TP Hồ Chí Minh khoảng 15%, Tiền Giang 24%,ĐồngTháp 16%, Gia Lai 22%, Quảng Nam 22%, Bình Định 33%... - Khu vực kinh tế tư nhân đã có đóng góp rất lớn trong việc thu hút các nguồn vốn đầu tư xã hội.tính đến năm 2003, đầu tư của khu vực kinh tế tư nhân chiếm 27% tổng đầu tư xã hội của Việt Nam, ( khoảng 10 tỷ USD), cao hơn tỷ trọng đầu tư của doanh nghiệp Nhà nước. - Khu vực kinh tế tư nhân góp phần quan trọng tạo môi trường kinh doanh, thúc đẩy phát triển cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, xóa đói giảm nghèo. Sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân là nhân tố chủ yếu tạo môi trường cạnh tranh giữa các thành phần kinh tế, phá bỏ dần thế độc quỳên của một số doanh nghiệp nhà nước. Cơ chế kinh tế thị trường ngày càng thích ứng hon với cơ chế kinh tế mới. Các loại thị trường bắt đầu hình thành và phát triển. quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta sẽ không thể thực hiện nếu không có sự tham gia của khu vực kinh tế tư nhân. * Những khó khăn, hạn chế cơ bản trong phát triển kinh tế tư nhân thời gian qua - Những khó khăn: Kinh doanh trong điều kiện nước ta còn rất nhiều khó khăn, đặc biệt là kinh tế tư nhân. Bởi lẽ, môi trường đầu tư kinh doanh chưa thuận lợi, khó tiếp cận nguồn lực, thủ tục hành chính phức tạp và tâm lý xã hội chưa thuận lợi. Hệ thống pháp luật về quyền tài sản về hợp đồng, giải quyết tranh chấp hợp đồng chưa thật phát triển và rất khó thực thi. Môi trường đầu tư chưa thuận lợi. Kinh tế hộ gia đình ở nông thôn vẫn là sản xuất nhỏ, lạc hậu chiếm đa số. Quá trình phân chia lại đất đai của hợp tác xã ở miền bắc tạo nên tình trạng vốn đã manh mún lại càng manh mún hơn, gây khó khăn cho cơ giới hoá khâu làm đất và thuỷ lợi ở nhiều nơi. Thiếu mặt bằng sản xuất đang là trở ngại đối với các cơ sở kinh tế tư nhân. Hầu hết các hộ phải sử dụng nhà ở , đất ở của gia đình trong khu dân cư làm mặt bằng sản xuất kinh doanh nên chật hẹp, làm ô nhiễm môi trường, khó mở rộng sản xuất kinh doanh. Một bộ phận không nhỏ doanh nghiệp phải đi thuê lại đất, nhà xưởng của các đơn vị khác với giá cao hơn với giá quy định của nhà nước. Vì vậy họ không giám đầu tư lâu dài vào nhà xưởng máy móc thiết bị. Việc kiếm đủ vốn đầu tư vẫn là thức lớn với doanh nghiệp tư nhân, cả trong giai đoạn khởi nghiệp và hoạt động sau đó. Đa số các doanh nghiệp không thể vay tiền ngân hàng và họ tin rằng, việc khó tiếp cận các khoản tín dụng ngân hàng đang kìm hãm triển vọng phát triển của họ. Trở ngại chính dường như là thiếu tài sản có giá trị để thế chấp. Thủ tục hành chính phiền hà, phức tạp làm tăng chi phí và thời gian cho việc tuân thủ pháp luật. Thời gian hoàn thành các khâu đăng kí kinh doanh, khắc dấu, đăng kí mã số thuế, mua hoá đơn khoảng 60 ngày. Thủ tục đất đai, xây dựng nhanh cũng phải vài tháng, chậm có khi kéo dài cả năm. Doanh nghiệp còn bị thanh tra, chồng chéo, không đúng chức năng và kéo dài của nhiều cơ quan nhà nước. Kinh tế tư nhân được nhìn nhận, đánh giá đúng mức trong quan niệm và nhận thức xã hội vẫn còn một số mặc cảm, định kiến, e dè trong phát triển kinh tế tư nhân. - Những hạn chế: Một là, hầu hết các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân ở nước ta mới được thành lập, hơn 90% là doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ, kinh nghiệm và năng lực cạnh tranh thấp dễ bị tổn thương. Theo số liệu của phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam, hơn 61% doanh nghiệp mới thành lập thiếu nguồn lực cơ bản như vốn, năng lực quản lý, thị trường đất đai, khó tiếp cận với nguồn cung ứng hỗ trợ. Hai là, khu vực kinh tế tư nhân ở nước ta nhìn chung năng lực cạnh tranh thấp, trình độ công nghệ và năng lực quản lý kém. Ba là, các doanh nghiệp tư nhân mới chủ yếu tập trung kinh doanh trong các ngành thương mại và dịch vụ sơ cấp. Số lượng doanh nghiệp trong các ngành chế biến và dịch vụ cao cấp còn rất ít. Bốn là, kinh tế tư nhân, nhất là các doanh nghiệp, mới tập trung ở một số thành phố lớn. Trong khi đó ở nhiều vùng nông thôn, miền núi… hầu như có rất ít các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân. Năm là, nhiều đơn vị kinh tế tư nhân chưa thực hiện tốt các quy định của pháp luật về lao động, hợp đồng lao động, chế độ bảo hiểm, tiền lương, tiền công, bảo hộ lao động, giờ làm việc…đối với người lao động. Nguyên nhân của tình trạng này xuất phát từ cả phía chủ doanh nghiệp lẫn người sử dụng lao động. Sáu là, một số doanh nghiệp, hộ kinh doanh cá thể vi phạm pháp luật, trốn thuế, kinh doanh trái phép, chưa thực hiện đúng luật doanh nghiệp và các quy định về đăng kí kinh doanh. Bảy là, quản trị nội bộ của nhiều doanh nghiệp còn yếu kém, bất cập như: thiếu chiến lược và kế hoạch kinh doanh,chưa thực hiện đầy đủ chế độ báo cáo tài chính theo quy định. Nguyên nhân hạn chế: quan điểm của Đảng về đảng viên làm kinh tế tư nhân chưa thật rõ và đang tiếp tục được làm rõ. Đảng viên là những người tiên tiến nhất trong xã hội, nếu được làm kinh tế tư nhân như những người dân bình thường, không phải sẽ huy động một nguồn lực lớn cho phát triển kinh tế xã hội vì Đảng viên có số lượng không lớn và ít vốn, mà quan trọng hơn là sẽ tạo tâm lý yên tâm cho người dân bình thường bỏ vốn, bung ra làm ăn lâu dài và quy mô lớn hơn vì: Một số chính sách của Nhà nước chưa phù hợp với đặc điểm của kinh tế tư nhân với đại bộ phận có quy mô vừa và nhỏ, quản lý có phần buông lỏng và có những sơ hở, hạn chế việc thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển đúng hướng. Hiệp hội ngành nghề và hiệp hội doanh nghiệp chưa phát triển, còn hạn chế trong việc bảo vệ quyền lợi hợp pháp của kinh tế tư nhân. Kinh tế tư nhân nước ta mới phát triển nên nhìn chung khẳ năng tích tụ, huy động vốn xã hội còn hạn chế, quy mô nhỏ bé, trình độ công nghệ thấp, chưa tạo được uy tín, khó chiếm lĩnh thị trường. Tính riêng rẽ, cá nhân của mỗi doanh nghiệp còn phổ biến, còn cạnh tranh không lành mạnh, còn chèn ép nhau. 2.2. Chính sách, giải pháp phát triển kinh tế tư nhân ở nước ta 2.2.1. Quan điểm chỉ đạo của Đảng Thứ nhất, kinh tế tư nhân là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Phát triển kinh tế tư nhân là vấn đề chiến lược lâu dài trong phát triển nền kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa. Kinh tế tư nhân phát triển góp phần giải phóng và phát triển lực lượng sản xuất, huy động các nguồn lực vào sản xuất, kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp. Kinh tế tư nhân có những tiềm năng to lớn, ở đó có những doanh nhân có tinh thần doanh nghiệp, vươn lên làm giàu không cam chịu đói nghèo. Thứ hai, Nhà nước tôn trọng và bảo đảm quyền tự do kinh doanh theo pháp luật, bảo hộ quyền sở hữu tài sản hợp pháp của công dân, khuyến khích, hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi và định hướng, quản lý sự phát triển của kinh tế tư nhân theo pháp luật, bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Các hộ kinh doanh có thể được Nhà nước tạo điều kiện và giúp đỡ để phát triển cả ở nông thôn và thành thị. Thứ ba, bảo vệ lợi ích hợp pháp, chính đáng của cả người sử dụng lao động và người lao động. Xây dựng, mối quan hệ tôt đẹp giữa người sử dụng lao động và người lao động trên cơ sở pháp luật và tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái. chăm lo bồi dưỡng, giáo dục các chủ doanh nghiệp nâng cao lòng yêu nước, tự hào dân tộc, gắn bó với lợi ích của đất nước và sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Thứ tư, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng ở tất cả các cấp, các ngành, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng trực tiếp và thông qua luật pháp, chính sách đổi mới khu vực kinh tế tư nhân, tạo sự thống nhất cao trong nhận thức của toàn Đảng, toàn dân, tạo tâm lý xã hội thuận lợi về vị trí, vai trò quan trọng của kinh tế tư nhân.Đổi mới phương thức lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng trong khu vực kinh tế tư nhân, tập trung vào việc nâng cao nhận thức chính trị-xã hội, ý thức chấp hành pháp luật. Về mặt chính trị, phát triển kinh tế tư nhân chính là quán triệt chính sách đại đoàn kết dân tộc. Đối với doanh nhân, cần khẳng định rằng họ là “thành quả đặc biệt” của công cuộc đổ mới. 2.2.2. Chính sách phát triển kinh tế tư nhân ở nước ta * Chính sách đầu tư Chính sách đầu tư đã góp phần tạo môi trường đầu tư cho khu vực kinh tế tư nhân trên các mặt: - Tiếp cận các nguồn lực thuận lợi hơn: giao đất, cho thuê đất theo quy định của pháp luật về xây dựng kết cấu hạ tầng, vay vốn tín dụng. - Hỗ trợ đầu tư trên các mặt: cho thuê mặt bằng trong các khu công nghiệp, lập và khuyến khích các quỹ hỗ trợ đầu tư để cho vay trung hạn và dài hạn. Ưu tiên, ưu đãi trong một số ngành, nghề, vùng lãnh thổ và các hoạt động kinh tế liên quan đến công nghệ mới, gồm 6 nhóm lĩnh vực, 4 nhóm vùng, các doanh nghiệp mới thành lập. * Chính sách thuế Chính sách thuế đã có nhiều mặt tích cực, hỗ trợ cho các cơ sở kinh tế, trong đó có kinh tế tư nhân phát triển sản xuất kinh doanh: hệ thống thuế ngày càng hoàn chỉnh hơn, mục đích của các sắc thuế rõ ràng hơn; đối tượng chịu thuế được mở rộng, về cơ bản không có sự phân biệt đối xử theo thành phần kinh tế; thuế suất áp dụng theo hướng áp dụng thống nhất cho các đối tượng và đơn giản hóa: giảm cả về số lượng và mức thuế suất; có nhiều ưu đãi thuế cho các cơ sở kinh tế, trong đó có kinh tế tư nhân theo các sắc lệnh thuế hiênh hành. * Chính sách đất đai Chính sách đất đai đã tạo điều kiện bước đầu cho các cơ sở sản xuất-kinh doanh tư nhân trong việc tạo lập mặt bằng và xây dựng các công trình phục vụ sản xuất –kinh doanh. Tuy nhiên, đến nay chính sách đất đai vẫn còn nhiều bất hợp lý. * Chính sách vốn, tín dụng Chính sách vốn, tín dụng đã có nhiều đổi mới rất cơ bản, góp phần tạo môi trường và điều kiện thuận lợi hơn cho khu vực kinh tế tư nhân trong hoạt động sản xuất- kinh doanh của mình, cụ thể là: -Tạo môi trường và điều kiện cho khu vực kinh tế tư nhân huy động và sử dụng vốn - Chính sách tín dụng còn nhiều điểm bất hợp lý. Điểm bất lợi đối với khu vực kinh tế tư nhân là vấn đề thế chấp *Chính sách thương mại Chính sách thương mại được đổi mới trên các mặt: tự do hoá thương mại, đổi mới chính sách xuất nhập khẩu, đổi mới hệ thống thuế quan, giảm bớt các quy định về hạn ngạch. - Tự do hoá thương mại bao gồm tự do hoá giá cả, tự do kinh doanh, bảo đảm bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. -Đổi mới chính sách xuất nhập khẩu: chuyển từ độc quyền ngoại thương do một số công ty ngoại thương của Nhà nước nắm giữ sang khuyến khích tất cả các thành phần kinh tế cùng tham gia. -Đổi mới hệ thống thuế quan: giảm mức thuế và hợp lý hoá thuế xuất nhập khẩu. -Đổi mới thủ tục hành chính trong hoạt động xuất nhập khẩu. -Cơ chế quản lý xuất nhập khẩu: chuyển từ quản lý bằng phương pháp hành chính là chủ yếu sang quản lý bằng phương pháp kinh tế. * Chính sách lao động và đào tạo nguồn nhân lực Chính sách lao động và đào tạo nguồn nhân lực nhằm góp phần tạo ra một thị trường cung cấp và sử dụng lao động có số lượng và chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu của các doanh nghiệp, tạo việc làm cho người lao động. *Chính sách khoa học- công nghệ Trong thời gian qua, Nhà nước đã có nhiều nỗ lực trong việc đổi mới chính sách khoa học-công nghệ với các nội dung: xác định phương thức nhập công nghệ hợp lý; khuyến khích đầu tư nước ngoài có công nghệ tiên tiến, các ưu đãi về công nghệ mới, chuyển giao công nghệ, thúc đẩy hoạt động nghiên cứu và triển khai; khuyến khích và hỗ trợ các hoạt động đào tạo kỹ năng và xây dựng kết cấu hạ tầng khoa học- công nghệ, tạo môi trường thị trường và thông tin khoa học- công nghệ thuận lợi cho khu vực kinh tế tư nhân hoạt động. 2.2.3. Giải pháp phát triển kinh tế tư nhân ở nước ta * Hỗ trợ tài chính thành phần kinh tế tư nhân ở Việt Nam vừa được khôi phục lại với thời gian không nhiều trong một nước nông nghịêp nghèo nàn lạc hậu. Do vậy vốn cho cán bộ, các doanh nghiệp tư nhân tất yếu phải được quan tâm hỗ trợ bằng nhiều hướng và nhiều cách: hỗ trợ trực tiếp từ ngân sách Nhà nước, hỗ trợ thông qua các dự án trong và ngoài nước, hỗ trợ thông qua các quỹ và qua hệ thống ngân hàng. Bộ tài chính cùng ngân hàng nhà nước cần phối hợp với phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam và các tổ chức hiệp hội khác để xây dựng các chương trình mục tiêu cụ thể theo hướng xác định để trình chính phủ duyệt. Do đó cần phải có những định hướng cơ bản cho từng phương thức hỗ trợ tài chính như sau: - Hỗ trợ trực tiếp qua ngân sách nhà nước: Về nguyên tắc, Nhà nước không bỏ vốn đầu tư ban đầu cho doanh nghiệp tư nhân song phải được tâm lý yên tâm và niềm tin của chủ đầu tư giám chuyển hết số tiền có thể có vào vốn đầu tư. Trong trường hợp cần thiết và những hoàn cảnh cụ thể, chính phủ hoặc các doanh nghiệp nhà nước có thể tham gia đầu tư thông qua mua trái phiếu hoặc đầu tư liên doanh với các chủ doanh nghiệp tư nhân. Với doanh nghiệp thuộc dạng nghiên cứu và triển khai cần có sự hỗ trợ của chính phủ về chi phí cho các công trình, sản phẩm nghiên cứu hoặc các chuyến đi tìm hiểu thị trường nước ngoài được tổ chức hàng năm để tìm hiểu công nghệ mới, tìm đối tác liên doanh hay tham gia vào các chương trình nghiên cứu, các cuộc hội thảo khoa học trong lĩnh vực kinh doanh. Những đối tượng đầu tư theo phương thức nàyphải được thể hiện trong các chương trình mục tiêu nói trên. Ngoài ra , chính phủ có thể hỗ trợ một phần vốn điều lệ qua các ngân hàng thương mại thẩm định về cấp vốn hoặc cho vay dài hạn với lãi xuất ưu đãi. Đồng thời tranh thủ các dự án của các tổ chức phi chính phủ - Về vay vốn ngân hàng: cần giúp khu vực kinh tế tư nhân tiếp cận tốt hơn với ngân hàng qua “ chương trình hỗ trợ vốn với khu vực kinh tế tư nhân”. Mục tiêu của chương trình này giúp các nhà kinh doanh hiểu rõ hơn về các dịch vụ của các ngân hàng trên cả nước do Ngân hàng Nhà nước trực tiếp cung cấp thông tin. Đồng thời cần giúp cho các doanh nghiệp hiểu rõ hơn về chế độ cho vay và ưu đãi vay. Chương trình này sẽ giúp cho các doanh nghiệp tiết kiệm chi phí tìm kiếm thông tin và nhanh chóng tìm ra ngân hàng phù hợp với mình. Ngân hàng Nhà nước cần phối hợp với các tỉnh, thành phố để xác định chính xác hơn danh mục mặt hàng được vay ưu đãi, tránh tình trạng có tỉnh không được cho vay ưu đãi ngay với mặt hàng chủ lực của tỉnh. Cải tiến về các điều kiện thế chấp tài sản: Nhà nước cần điều chỉnh lại giá nhà đất cho phù hợp với thực tế. Trong khi chưa có điều chỉnh này thì các ngân hàng phải linh hoạt trong việc định giá đối với tài sản thế chấp để số tiền cho vay gần bằng tài sản thế chấp. Mặt khác, hiện nay chính phủ đã có nghị định về thành lập quỹ bảo lãnh tín dụng, nhưng trong thực tế quỹ này đang gặp khó khăn trong việc phát triển ở các địa phương. Do vậy Ngân hàng nhà nước cần phối hợp với các địa phương để triển khai tốt quỹ này. Bên cạnh đó cần gia tăng các hoạt động tư vấn và các hoạt động đan xen giữa ngân hàng với công ty được cho vay vốn để có thể kiểm soát được tình trạng sử dụng vốn, đồng thời tăng niềm tin của doanh nghiệp với khách hàng. Về lâu dài, cần nghiên cứu kinh ngiệm của các nước phát triển trong việc thành lập các quỹ và các tổ chức ngân hàng chuyên phục vụ doanh nghiệp vừa và nhỏ. * Bồi dưỡng và nâng cao trình độ nghề nghiệp và quản lý trong khu vực kinh tế tư nhân ở Việt Nam. Trình độ nghề nghịêp và quản lý của các cơ sở kinh tế tư nhân ở Việt Nam trong thời gian này cũng có thể coi là dạng hình thức vốn tri thức. Giải quyết vấn đề này cần thông qua những chương trình dự án khác nhau như chương trình đào tạo nghề, chương trình tư vấn phát triển, chương trình đào tạo quốc gia. Nguồn đào tạo cho hoạt động này thu từ các doanh nghiệp. Chủ doanh nghiệp phải nộp từ 1 đến 3% thu nhập của công dân nhưng không cao hơn một mức cố định nào đó. Chương trình hỗ trợ đào tạo nghề từ nguồn tài trợ trên về kinh phí huấn luyện nghề nghiệp để giúp các chủ doanh nghiệp đào tạo nâng cao tay nghề cho công nhân. Chương trình này tạo cho công nhân nâng cao tay nghề hay học những nghề mới để có thể tìm được việc làm ổn định. * Cải thiện môi trường tâm lý xã hội đối với khu vực kinh tế tư nhân. Môi trường tâm lý phụ thuộc vào hai yếu tố: xã hội và bản thân cơ sở kinh doanh. Về phía xã hội, nếu giải quyết được những vấn đề nhận thức về thành phần kinh tế và giai cấp, về trách nhiệm của mỗi người trong phát triển kinh tế tư nhân thì tâm lý xã hội sẽ được giải toả, niềm tin của doanh nhân sẽ được nâng cao và đầu tư phát triển cũng như hiệu quả của nó đối với xã hội sẽ có những thay đổi đột biến. Về phía các doanh nhân và cơ sở sản xuất cũng cần phát huy nội lực của mình. Song trong phạm vi vấn đề tâm lý cũng cần thấy rõ : chính bản thân doanh nghiệp và doanh nhân mới là trung tâm giải quyết vấn đề tâm lý xã hội với doanh nghiệp tư nhân nói chung và tam lý của người lao động với doanh nhân và doanh nghiệp nói riêng. Cùng với yếu tố tự giác của doanh nhân và doanh nghiệp cũng cần có sự can thiệp bên ngoài. Trên thực tế các công ty lớn, có uy tín như FPT, THIÊN LONG… do có một chế độ hợp lý tiền lương và các chính sách xã hội khác nên đã thực sự thu hút đông đảo lực lượng tri thức tham gia. Bên cạnh đó, Nhà nước cần can thiệp buộc các thành viên của khu vực này phải nghiêm chỉnh chấp hành các chế độ đối với người lao động dựa trên đạo luật cụ thể. * Hỗ trợ phát triển: - chính sách hỗ trợ khoa học kỹ thuật công nghệ cần có chương trình riêng. Chương trình này có thể được thực hiện với sự chủ trì của nhiều cơ quan như phòng thương mại và công nghiệp, Hiệp hội doanh nghiệp vừa và nhỏ và một số ban của chính phủ. Chương trình này giúp doanh nghiệp thanh toán phần chi phí ngắn hạn đã kí kết với các chuyên gia nước ngoài. kinh nghiệm của các nước phát triển và của chương trình hỗ trợ khoa học kỹ thuật- công nghệ đã đóng góp tích cực trong việc cải tiến hoạt động kinh doanh của khu vực kinh tế tư nhân. - Thành lập thị trường tư vấn cho khu vực kinh tế tư nhân. Hiện nay trên thế giới, đặc biệt là các nước phát triển thị trường tư vấn có một chỗ đứng vững chắc và đóng góp lớn cho sự phát triển kinh tế. ở nước ta trong tình hình phát triển của khu vực kinh tế tư nhân hiện nay thì loại hình này là đòi hỏi cấp bách. Việc phát triển của các công ty kiểm toán ở Việt Nam có thể cho phép thành lập các bộ phận tư vấn cho khu vực kinh tế tư nhân. Bên cạnh đó, các thông tin kinh tế công cộng được phát hành trực tiếp trên các phương tiện thông tin đại chúng như vô tuyến, đài báo… nhưng do không nhằm vào những đối tượng cụ thể nên khẳ năng và hiệu quả khai thác các loại không tin là không cao. Vì vậy việc thành lập một cơ quan chuyên trách về khu vực kinh tế tư nhân có thể giải quyết vấn đề này thông qua việc đưa ra, lục lại thông tin một cách có chủ đích cho đối tượng duy nhất là kinh tế tư nhân. - Về mặt tạo mặt bằng sản xuất kinh doanh: cần đẩy mạnh quá trình cấp chứng nhận quyền sử dụng đất, đơn giản hoá các thủ tục cấp đất cho doanh nghiệp, giảm thiểu ảnh hưởng để lỡ cơ hội kinh doanh. Bên cạnh đó, cần phải có những cải cách hợp lý trong việc cho thuê đất ở các khu công nghiệp mới. Hiện nay, có khá nhiều ý kiến của các nhà doanh nghiệp xung quanh vấn đề sở hữu và thời gian gia hạn thuê. * Nâng cao ý chí phấn đấu của doanh nghiệp Trước hết, doanh nghiệp phải xây dựng cho mình chiến lược kinh doanh trong từng thời kỳ, dựa trên cơ sở nghiên cứu đánh giá xu hướng và lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp, từ đó mà điều chỉnh cơ cấu sản phẩm, dịch vụ, thị trường, phương thức kinh doanh nhằm nâng cao sức cạnh tranh, nâng cao khẳ năng thích ứng với thị trường. Không có con đường nào khác là ứng dụng khoa học công nghệ, đổi mới thiết bị, nâng cao chất lượng hàng hoá, giảm giá thành, làm tốt công tác tiếp thị, tạo dựng và bảo vệ thương hiệu, tạo chữ tín trong hoạt động với khách hàng cũng như với các đối tác kinh doanh. Hai là, phải đặc biệt coi trọng con người, với nhận thức con người có trình độ công nghệ sản xuất và quản lý tiên tiến là yếu tố quyết định thành bại trong cuộc cạnh tranh gay gắt hiện nay. Con người ở đây không chỉ gồm đội ngũ trong doanh nghiệp mà còn những người hoạt động trong các hiệp hội doanh nghiệp, trong các lĩnh vực khoa học, công nghệ,dịch vụ như thông tin, tư vấn, đào tạo, nghiên cứu thị trường… Những tầng lớp mới nảy sinh từ công cuộc đổi mới và phát triển kinh tế. Chính vì vậy toàn xã hội cũng như mỗi doanh nghiệp cần đầu tư hơn nữa cho việc đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực. Ba là, đề cao văn hoá trong kinh doanh, xây dựng truyền thống và uy tíncủa doanh nghiệp, trước hết bằng việc kinh doanh đúng luật và tôn trọng chữ tín. Đối với doanh nghiệp và doanh nhân, lợi nhuận là động lực trực tiếp, song người kinh doanh có văn hoá lợi ích của mình trong sự kết hợp hài hoà với lợi ích của cộng đồng, của đất nước. Doanh nghiệp phải xây dựng nền nếp quản lý kinh doanh minh bạch và trung thực, thực hiện nghiêm túc các quy định của pháp luật, tích cực tham gia các hoạt động xã hội, khắc phục hành vi gian lận thương mại, làm hàng giả, trốn thuế, gian lận sổ sách… Bốn là, quản trị doanh nghiệp tốt, quản trị doanh nghiệp là những cơ chế, quy định thông qua đó doanh nghiệp được điều hành và kiểm soát. Quản trị doanh nghiệp cũng lập ra các nguyên tắc và quy trình, thủ tục ra quyết định trong doanh nghiệp, qua đó ngăn chặn sự lạm dụng quyền lực và chức vụ, giảm thiểu những rủi ro không cần thiết cho doanh nghiệp. Quản trị daonh nghiệp tốt sẽ mang lại hiệu quả cao cho nhà đầu tư, nhiều các lợi ích khác cho các thành viên khác trong doanh nghiệp. Thứ năm, phát huy tinh thần doanh nghiệp để đẩy nhanh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, vai trò của doanh nghiệp cần được phát huy. Để thực hiện được vai trò này, doanh nghiệp, doanh nhân cần một tố chất quan trọng đó là tinh thần doanh nghiệp. * Cải cách hành chính, một số bước đột phá cho phát triển kinh tế tư nhân nói riêng cũng như nền kinh tế nói chung. ở các nước tiên tiến đã có nền "hành chính phục vụ” trong khi ở nước ta nền “hành chính quản lý” với thái độ cửa quyền , cố níu giữ quan hệ “xin-cho” như thời bao cấp vẫn tồn tại. Do vậy, nhất thiết phải từng bước chuyển đổi hành chính trên cả ba bộ phận. thể chế kinh tế, bộ máy hành chính và đội ngũ cán bộ, mà bộ phận quan trọng là thể chế kinh tế. về thể chế quản lý: cần khắc phục “cái” mà doanh nghiệp Nhà nước thường gọi là “năm không”: không minh bạch, không đồng bộ, không nhất quán, không sát thực tế, không thông suốt. quan điểm và giải pháp chấn chỉnh thể chế cho sát thực tế thì kinh nghiệm của Nhật Bản trong việc phát triển kinh tế tư nhân cho thấy: Nhà nước làm việc trực tiếp với doanh nghiệp song không ép buộc mà chỉ định hướng, giúp đỡ qua đào tạo, hướng dẫn thị trường và nếu cần thì cho tiếp cận bộ phận chuyên trách về doanh nghiệp do chính phủ tổ chức. Từ đó, chính phủ hiểu rõ hơn về doanh nghịêp tư nhân trong quá trình hoạt động để đề ra chính sách hợp lý. Về bộ máy quản lý, cần tiến hành rà soát liên tục định kỳ hàng năm để sửa đổi. Về cán bộ, công chức: cần bổ xung và từng bước tiêu chuẩn hoá cán bộ, công chức theo luật định. * Thành lập cơ quan chuyên trách quản lý doanh nghiệp vừa và nhỏ trong cơ quan Nhà nước. Để tăng cường quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ cần có một cơ quan chuyên trách đủ mạnh về lĩnh vực này. Cơ quan chuyên trách này cần có đủ quyền hạn từ hoạch định chính sách đến hỗ trợ vốn cho doanh nghiệp cơ quan đó cần nằm trong cơ quan có quyền lực cao nhất của là Quốc Hội. Việc thành lập một cơ quan như vậy sẽ giúp cho các khu vực này có một tiếng nói riêng có trọng lượng hơn không chỉ trong kinh tế, mà còn đối với môi trường xã hội. Mặt khác Nhà nước cũng thực hiện tốt hơn vai trò quản lý kinh tế * Tăng cường năng lực nội tại của khu vực kinh tế tư nhân -Trong lĩnh vực tài chính kế toán Nhằm tăng tiềm lực kinh tài chính, ngoài nguồn vốn truyền thống cần chú trọng đến các quỹ đầu tư mạo hiểm, đến công ty cho thuê tài chính, thị trường chứng khoán để có thể huy động sử dụng tối đa mọi nguồn vốn. Bên cạnh đó có thể phấn đấu đủ điều kiện phát hành trái phiếu, liên kết với hộ kinh doanh cá thể dưới hai hình thức liên kết theo thời gian hợp đồng và liên doanh hoặc đưa hộ kinh doanh cá thể trở thành thành viên chính thức của doanh nghiệp trong lưu thông. Các giám giám đốc doanh nghiệp tư nhân và chủ hộ kinh doanh cá thể cần nắm trực tiếp về tài chính, thực hiện chức năng giám đốc bằng đồng tiền đối với hoạt động của đơn vị. -Trong lĩnh vực sản xuất . Trong lĩnh vực này cần cố gắng tối đa nắm bắt quy luật cung-cầu bằng những kinh nghiệm đã có và có thể học được, tính được nhằm đưa ra một kế hoạch sản xuất hợp lý nhất. Đặc biệt phải chú ý tín hiệu giá cả- nét đặc trưng cơ bản của cơ chế thị trường-để thông qua đó nắm bắt thị trường. Một là, tức thời cần máy móc đặc biệt là máy móc hiện đại thì công ty cho thuê tài chính là giải pháp tốt. Hai là, đổi mới từng bộ phận. Do nguồn vốn cố định doanh nghiệp tư nhân thấp nên cần thiết phải sử dụng lực lượng lao động trong nước để tiến hành đổi mới, hiện đại từng phần tiến đến toàn bộ. Trước mắt các viện nghiên cứu và các trường đại học có thể giúp các doanh nghịêp giải quyết việc này. -Trong lĩnh vực marketing cần có những giải pháp đồng bộ: + Cần đặc biệt chú trọng xây dựng thương hiệu, nhãn mác hàng hoá. + Phát huy hình thức quảng cáo mới có hiệu quả mới du nhập Việt Nam với chi phí không cao là gửi thư và phát tờ rơi.Nhờ công nghệ in phát triển, thuê lao động rẻ nên việc này tiến hành dễ dàng. + Nâng cao vai trò công cụ tin học trong tìm kiếm thị trường, từng bước tiếp cận thương mại điện tử. Hiện nay chính phủ đang có kế hoạch thực hiện hệ thống thương mại điện tử. Hệ thống này rất cần thiết, đặc biệt khi nước ta đang thực hiện lộ trình AFTA và gia nhập WTO. + Các doanh nghiệp tư nhân nên có chính sách về thị trường tương hỗ, chuyển hoá với ý nghĩa phải chú ý cả thị trường trong và ngoài nước. đặc biệt có kế hoạch luân chuyển hàng hóa từ thị trường trong nước ra thị trường ngoài nước khi thị trường trong nước gặp khó khăn và ngược lại khi có kế hoạch dự kiến tiên thụ sản phẩm ở nước ngoài không thực hiện được thì tuỳ vào từng mặt hàng mà phải có sự sửa đổi cho phù hợp với nhu cầu và thị hiếu trong nước. + Phải phát triển và hoàn thành dịch vụ hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm qua bộ phận tư vấn khách hàng hoặc bộ phận chăm sóc khách hàng hay dịch vụ sau bán hàng một cách tốt hơn. Chính dịch vụ này sẽ tạo niềm tin cho khách hàng, đồng thời tạo uy tín để họ tiếp tục mua hoặc giới thiệu cho các đơn vị, tổ chức, cá nhân khác. - Về quản trị nhâ sự: phải được coi là nhiệm vụ trung tâm, thường xuyên. Để đạt hiệu quả, cần phải có kế hoạch hợp lý từ khâu phân tích đến tuyển dụng, bồi dưỡng và sử dụng. Bên cạnh đó cần nâng cao khẳ năng sử dụng các công cụ tin học trong quản trị nhân sự. Kết luận Hơn hai mươi năm thực hiện đường lối đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, kinh tế tư nhân đã phát triển rộng khắp trên cả nước. Kinh tế tư nhân ở nước ta tăng nhanh về số lượng và chất lượng, góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế giữ vững ổn định chính trị xã hội của đất nước. Đóng góp lớn nhất và quan trọng nhất của kinh tế tư nhân là tạo việc làm và góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động xã hội. Sự phát triển của kinh tế tư nhân đã góp phần giải phóng lực lượng sản xuất, thúc đẩy phân công lao động xã hội, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tuy vậy, kinh tế tư nhân nước ta vẫn còn nhiều hạn chế, yếu kém, phần lớn có quy mô nhỏ, vốn ít, công nghệ sản xuất lạc hậu, trình độ quản lý yếu kém, còn nhiều khó khăn về vốn, môi trường pháp lý, gian lận thương mại…Vì vậy Đảng và Nhà nước ta cần có những cơ chế, chính sách, giải pháp nhằm khuyến khích, hỗ trợ, tạo môi trường pháp lý thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển cũng như cần tạo ra sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Điều này đảm bảo giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong việc phát triển kinh tế tư nhân ở nước ta. Cần có nhận thức đúng và thực hiện đồng bộ các giải pháp cơ bản và đề tài đưa ra, chắc chắn kinh tế tư nhân sẽ tiếp tục phát triển mạnh mẽ và trở thành một khu vực kinh tế mạnh trong cơ cấu nền kinh tế quốc dân. Là một sinh viên Kinh Tế- một cử nhân kinh tế tương lai, em tự nhận thấy rằng cần phải học tập tốt môn Kinh Tế Chính Trị để nhận thức tốt quá trình hình thành, vận động và phát triển của nền kinh tế thị trường, nền kinh tế của chung ta hiện nay. Tài liệu tham khảo 1. Bộ giáo dục đào tạo, giáo trình kinh tế chính trị Mác-Lênin, NXB, Chính trị quốc gia. 2. Đảng Cộng Sản Việt Nam, văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, nhà xuất bản chính trị quốc gia 3. Lê Hữu Nghĩa, Đinh Văn Ân, Phát triển kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam- lý luận và thực tiễn, nhà xuất bản chính trị quốc gia. 4. GS.TS. Nguyễn Văn Thường. Một số vấn đề kinh tế xã hội ở Việt Nam ( thời kỳ đổi mới) nhà xuất bản chính trị quốc gia 5. GS.TS. Nguyễn Văn Thường, GS.TS Nguyễn Kế Tuấn, kinh tế Việt Nam năm 2004 những vấn đề nổi bật, nhà xuất bản lý luận chính trị. 6. Vũ Quốc Tuấn, phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam hiện nay, nhà xuất bản chính trị quốc gia, HN 2006.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35869.doc
Tài liệu liên quan