Đề tài Phát triển năng lực sư phạm cho học viên đào tạo cán bộ chính trị tàu ở Học Viện Hải Quân hiện nay

MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nâng cao năng lực toàn diện của đội ngũ cán bộ nói chung, người cán bộ chính trị quân đội nói riêng là tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt của Đảng cộng sản Việt Nam, của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong quá trình tổ chức, xây dựng và rèn luyện quân đội cách mạng. Văn kiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã khẳng định: “Xây dựng đội ngũ cán bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức, lối sống lành mạnh, không quan liêu tham nhũng, lãng phí, kiên quyết đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí; có tư duy đổi mới, sáng tạo, có kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH; có tinh thần đoàn kết, hợp tác, ý thức tổ chức, kỷ luật cao và phong cách làm việc khoa học, tôn trọng tập thể, gắn bó với nhân dân, giám nghĩ, giám làm, giám chịu trách nhiệm.” [tr.292-293]. Về trình độ năng lực đối với cán bộ đảng viên ngày nay Đảng ta yêu cầu: “Có hiểu biết cơ bản về chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ để đủ sức hoàn thành tốt nhiệm vụ. Có năng lực vận động và lãnh đạo quần chúng tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng” [tr.300]. Là những người trực tiếp tiến hành hoạt động CTĐ, CTCT đội ngũ CBCT ở các đơn vị cơ sở có một vai trò hết sức quan trọng. Họ không chỉ là những người truyền thụ kiến thức, rèn luyện kỹ xảo, kỹ năng cho CBCS mà còn phải giáo dục hình thành, phát triển PCNC cho họ trong tương lai. Qua đó thấy rằng việc nâng cao năng lực sư phạm trong quá trình thực hiện nhiệm vụ CTĐ, CTCT ở đơn vị cơ sở là một yêu cầu quan trọng, trực tiếp góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả hoàn thành nhiệm vụ của các tàu Hải quân nhân dân Việt Nam. Trải qua 65 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của bộ đội Hải quân, đội ngũ CTV tàu luôn được xác định là lực lượng nòng cốt, nắm giữ những vị trí trọng yếu trong các đơn vị cơ sở của quân chủng Hải quân, là lực lượng kế cận trực tiếp cho đội ngũ cán bộ chiến thuật và chiến dịch của Đảng. Ngày nay, trước những yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc XHCN, xây dựng quân đội, Hải quân nhân dân theo hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và hiện đại, trước những yêu cầu của Nghị quyết 51 về việc thực hiện cơ chế chính uỷ, chính trị viên đòi hỏi đội ngũ CTV tàu phải nâng cao hơn nữa năng lực toàn diện, trong đó cần chú trọng phát triển NLSP, đây sẽ là yếu tố góp phần không nhỏ vào việc hình thành và phát triển nhân cách cho cán bộ, chiến sĩ dưới quyền. Tuy nhiên, thực tiễn hiện nay NL của CTV tàu bên cạnh những mặt mạnh cơ bản, còn bộc lộ không ít những bất cập cần khắc phục như còn lúng túng trong việc tìm ra những phương thức có hiệu quả cho quá trình giáo dục, truyền đạt, hướng dẫn CBCS, tính tích cực, chủ động, sáng tạo, nhạy bén về chính trị còn hạn chế . Điều đó đã làm cho công tác giáo dục, huấn luyện, quá trình hoạt động CTĐ, CTCT trên tàu chưa đạt được hiệu quả cao, ảnh hưởng trực tiếp tới quá trình thực hiện nhiệm vụ của các tàu hải quân. Đối với học viên đào tạo cán bộ chính trị tàu ở HVHQ hiện nay, đây là đối tượng đào tạo mới, tuổi đời còn trẻ, kinh nghiệm hoạt động sư phạm còn hạn chế trong khi mục tiêu, yêu cầu đào tạo đặt ra rất cao; họ sẽ là những cán bộ chính trị ở các đơn vị cơ sở, lực lượng nòng cốt góp phần đào tạo đội ngũ cán bộ quân đội có chất lượng cao. Tuy nhiên, một số đồng chí sau khi đã được tuyển chọn vẫn không thật sự thiết tha với mục tiêu, nhiệm vụ học tập, rèn luyện để trở thành cán bộ chính trị. Quá trình đào tạo, do đặt trọng tâm vào nâng cao trình độ kiến thức chuyên môn cho nên một số NLSP của người giáo viên chưa được giáo dục để phát triển một cách vững chắc. Chưa kết hợp chặt chẽ giữa quá trình dạy học với giáo dục kiến thức hoạt động sư phạm cho học viên, không ít những hạn chế, bất cập khác chưa được giải quyết. Học viên nặng về chạy theo kết quả học tập, trong khi đó còn coi nhẹ rèn luyện NLSP của mình. Trước những yêu cầu đó việc “Phát triển năng lực sư phạm của chính trị viên tàu hải quân hiện nay” là cần thiết, vì thế tác giả đã chọn vấn đề trên làm đề tài nghiên cứu. 2. Tình hình nghiên cứu có liên quan Việc nghiên cứu năng lực con người trong các lĩnh vực hoạt động cụ thể được chú ý vào những năm đầu của thế kỷ XIX. F.Gantol với tác phẩm “Sự di truyền của tài năng” Trải qua một thời kỳ dài, vấn đề phát triển năng lực của con người đã được nhiều nhà khoa học, nhiều ngành tập trung nghiên cứu. Ở Việt Nam, đã có nhiều đề tài, tác phẩm nghiên cứu về phát triển năng lực của con người Việt Nam, các công trình nghiên cứu chủ yếu trên góc độ lý thuyết của TLH phát triển, TLH đại cương và có vận dụng vào một số hoạt động cụ thể như: Giáo dục, kinh doanh, lãnh đạo - quản lý . Một số nhà TLHQS cũng tập trung nghiên cứu nâng cao năng lực ở một số dạng hoạt động nhất định như Nguyễn Ngọc Phú, Lê Anh Chiến, Ngô Minh Tuấn, Cao Xuân Trung. Khi đề cập đến vấn đề sư phạm thì chủ yếu được các nhà nghiên cứu thực hiện dưới góc độ khoa học Tâm lý. Đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng, phát triển năng lực sư phạm, các nghiên cứu chủ yếu đi sâu vào các kỹ năng, quy trình bồi dưỡng giáo viên. Trong quân đội, tác giả Dương Quang Bích nghiên cứu biện pháp “Nâng cao chất lượng đào tạo giáo viên khoa học xã hội - nhân văn trong quân đội giai đoạn hiện nay”. Gần đây, có nhiều đề tài khoa học các cấp đã luận giải những vấn đề cơ bản, chung nhất về bồi dưỡng, nâng cao năng lực sư phạm cho học viên đào tạo các môn KHXH&NV. Tuy nhiên cho đến nay, nội dung cụ thể chưa được tác giả nào nghiên cứu. Chúng tôi thấy rằng, đi tìm lời giải khoa học đầy đủ cho vấn đề này vẫn đang là đòi hỏi vừa khách quan, vừa cấp thiết đặt ra. Từ các công trình trên cho thấy, việc nghiên cứu, phát triển NLSP của người CTV trong quá trình tiến hành CTĐ, CTCT ở tàu hải quân chưa có một công trình nào đi sâu nghiên cứu một cách hệ thống và đạt hiệu quả cao hơn. Xuất phát tính cấp thiết và tình hình nghiên cứu của vấn đề, chúng tôi xác định đề tài là “phát triển năng lực sư phạm cho học viên đào tạo cán bộ chính trị tàu ở Học Viện Hải Quân hiện nay” với tư cách là đề tài nghiên cứu. 3. Mục đích, nhiệm vụ, khách thể và đối tượng nghiên cứu * Mục đích nghiên cứu: Đề xuất hệ thống biện pháp phát triển NLSP cho học viên đào tạo cán bộ chính trị tàu nhằm góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho đối tượng này. * Nhiệm vụ nghiên cứu: - Nghiên cứu cơ sở lý luận của năng lực sư phạm. - Đánh giá thực trạng năng lực sư phạm của người CTV tàu. - Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao năng lực này của CTV tàu hải quân hiện nay. * Khách thể nghiên cứu: Học viên đào tạo cán bộ chính trị tàu. * Đối tượng nghiên cứu: Năng lực sư phạm của Học viên đào tạo cán bộ chính trị tàu. 4. Giả thuyết Khoa học Năng lực sư phạm của CTV tàu hải quân là một loại năng lực đặc thù do hoạt động sư phạm quy định. Năng lực đó được hình thành, phát triển trong quá trình đào tạo ở nhà trường và trong chính hoạt động thực tiễn phong phú, đa dạng ở tàu. Nếu làm rõ những yếu tố cấu thành năng lực sư phạm; đặc điểm hoạt động năng lực sư phạm và đánh giá đúng thực trạng năng lực sư phạm của CTV tàu thì sẽ đưa ra được các giải pháp cơ bản để nâng cao năng lực này cho đội ngũ CTV các tàu hải quân hiện nay. 5. Cơ sở phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu * Cơ sở phương pháp luận Đề tài dựa trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về bản chất, sự hình thành và phát triển năng lực, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam về năng lực nói chung và năng lực của CTV trong quân đội nhân dân Việt Nam nói riêng, các nguyên tắc phương pháp luận của TLH Mác xít như: Nguyên tắc quyết định luận duy vật, nguyên tắc thống nhất giữa ý thức và hoạt động, nguyên tắc phát triển, nguyên tắc tiếp cận nhân cách. * Phương pháp nghiên cứu Tác giả sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu lý thuyết và thực tiễn: phân tích, khai thác các tài liệu lý luận thuộc phạm vi nghiên cứu của đề tài; quan sát, đàm thoại với giáo viên, học viên và cán bộ quản lý; điều tra bằng phiếu trưng cầu ý kiến Cụ thể là: Quan sát hoạt động sư phạm của học viên đào tạo cán bộ chính trị tàu Tọa đàm với cán bộ quản lý, giảng viên và học viên các lớp đào tạo cán bộ chính trị tàu ở HVHQ hiện nay. Điều tra, trưng cầu ý kiến bằng phiếu với các đối tượng: học viên đang đào tạo tạo cán bộ chính trị tàu, giảng viên ở HVHQ để tìm hiểu và khẳng định tính khách quan của một số nhận định cần thiết. Khi xử lý số liệu tác giả tiến hành phân tích, tổng hợp và sử dụng phương pháp thống kê toán học để đảm bảo tính khách quan của kết quả nghiên cứu. 6. Kết cấu luận văn Luận văn được kết cấu gồm phần mở đầu, 2 chương, kết luận, kiến nghị, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục. Luận văn chia làm 40 trang

doc40 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1740 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phát triển năng lực sư phạm cho học viên đào tạo cán bộ chính trị tàu ở Học Viện Hải Quân hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
học viên thành các đoàn, có giảng viên phối hợp với nhà trường, đơn vị nơi thực tập và cơ quan quản lý giáo dục tham gia chỉ đạo. Trong thời gian thực tập yêu cầu học viên phải thực hiện nghiêm túc tất cả các khâu: dự giờ, soạn bài, tập giảng, thông qua bài giảng, lên lớp…để rèn luyện tính tổ chức, tính kỷ luật trong hoạt động sư phạm cho học viên. Để khắc phục khó khăn trong khâu tổ chức thực tập cho học viên đào tạo CTV tàu hiện nay, chúng ta có thể cho học viên đi thực tập ở các đơn vị cơ sở thông qua giảng bài cho hạ sĩ quan - binh sĩ về những nội dung thích hợp theo chương trình huấn luyện của đơn vị mà không nhất thiết phải đúng chuyên ngành đào tạo. Đây là điều kiện tốt để củng cố, rèn luyện xu hướng, NLSP, rèn luyện kỹ năng và phong cách sư phạm cho học viên, đồng thời tăng thêm hiểu biết về hoạt động sư phạm ở đơn vị. Quá trình tổ chức các hoạt động sư phạm, để phát triển và rèn luyện, phát triển NLSP cho học viên cần tổ chức cho học viên tham gia vào các hoạt động sư phạm ngay trong mỗi buổi học; thông qua các cách thức, biện pháp sư phạm giảng viên cần hướng dẫn cho học viên cách xử lý từng vấn đề trong nội dung bài học, xử lý các tình huống sư phạm nảy sinh. Ba là, thông qua các hình thức tổ chức giáo dục chung để rèn luyện thói quen hành vi, phát triển NLSP cho học viên. Các hình thức giáo dục chung thường được tiến hành phổ biến hiện nay là: tổ chức học tập; giáo dục theo chuyên đề, tổ chức diễn đàn, hội thảo, chào cờ, sinh hoạt đơn vị, sinh hoạt các tổ chức… Giáo dục chung có ý nghĩa rất lớn trong việc phát triển, rèn luyện NLSP cho học viên đào tạo CTV tàu. Sự phong phú, đa dạng của các hình thức tổ chức giáo dục chung đặt ra những đòi hỏi trong giáo dục NLSP cho học viên đào tạo CTV tàu cần nhạy bén nắm bắt được diễn biến các hoạt động giáo dục, có kế hoạch tổ chức tốt các hoạt động đó để củng cố, phát triển tình cảm, tình yêu, niềm tin vào HĐSP cho học viên. Để phát huy tác dụng của các hình tổ chức giáo dục chung, trước khi tiến hành bất cứ một hình thức giáo dục nào đó, cần quan tâm chuẩn bị tốt về tâm thế cho học viên, chủ động phổ biến trước kế hoạch hoạt động; động viên, đôn đốc và kiểm tra từng bộ phận trong việc chuẩn bị mọi mặt. Qua kiểm tra, cần nhắc nhở, rèn luyện về mặt chấp hành thời gian, địa điểm, tác phong, duy trì nghiêm túc quy trình sư phạm, kỷ luật lớp học để rèn luyện tính tổ chức hoạt động sư phạm cho học viên. Cần có sự kết hợp, phối hợp chặt chẽ giữa các lực lượng giáo dục để rèn luyện thói quen hành vi tốt đẹp cho học viên thông qua tổ chức khoa học hoạt động giáo dục và mang tính mô phạm cao. Quá trình tổ chức các hoạt động giáo dục chung cần tạo bầu không khí dân chủ, phấn khởi trong tập thể. Người phụ trách cần thể hiện sự nghiêm túc, tính mô phạm, tính chuẩn mực trong truyền đạt, trao đổi các nội dung, khâu tổ chức hình thức giáo dục. Cần có sự liên hệ với đời sống, hoạt động của người CTV tàu để học viên đối chiếu, tự đánh giá, từ đó không ngừng phấn đấu tu dưỡng, rèn luyện NLSP của mình đáp ứng yêu cầu thực tiễn đặt ra. Ngoài ra, cần tổ chức tốt các loại hình giáo dục chung khác theo chủ đề như diễn đàn, hội thảo, thi tìm hiểu… để giáo dục NLSP cho học viên. Nội dung của các hoạt động này nên hướng vào nhiệm vụ chính trị trung tâm là giáo dục, phát triển NLSP cho người học. Chẳng hạn có thể tổ chức diễn đàn với chủ đề “Học viên CTV tàu làm gì để trở thành người CBCT ưu tú trong quân đội”…để qua đó phát triển ở học viên tình yêu, niềm tin, lòng tự hào, khát vọng và chí hướng vươn lên trên con đường học tập, rèn luyện để trở thành CTV tàu Hải quân. Cùng với những hình thức tổ chức giáo dục trên cần tổ chức sinh động, có chất lượng các hình thức giáo dục theo định kỳ: sinh hoạt Đảng, Đoàn Thanh niên, sinh hoạt đơn vị, chào cờ… Thông qua các hình thức giáo dục tập trung này, cần cụ thể hóa mục đích, yêu cầu, nhiệm vụ…giáo dục, phát triển NLSP cho học viên thành những chỉ tiêu, biện pháp cụ thể để học viên quán triệt và xác định chương trình hành động cho bản thân mình. Vì vậy, khi tổ chức các hoạt động phải xác định mục tiêu rõ ràng, có kế hoạch hoạt động cụ thể, hình thức phong phú, hấp dẫn, phù hợp với đối tượng học viên cấp phân đội. Học viên đào tạo CTV tàu là những người có tuổi đời rất trẻ do vậy cần coi trọng và phát huy lợi thế của sinh hoạt Đoàn, hoạt động giao lưu, kết nghĩa…để giáo dục NLSP cho họ. Cần lựa chọn những nội dung gắn với HĐSP của người CBCT tàu. Bốn là, kết hợp chặt chẽ các hình thức giáo dục gắn với đặc điểm riêng của cá nhân để bồi dưỡng, phát triển NLSP cho từng học viên. Trong những năm gần đây, các hình thức sinh hoạt, giáo dục và giao lưu diễn ra rất đa dạng, phong phú và có tác dụng lớn đối với việc giáo dục PCNC nói chung. Vấn đề đặt ra là cần phải vận dụng có hiệu quả các hình thức ấy vào quá trình giáo dục, phát triển NLSP cho học viên đào tạo CTV tàu ở HVHQ hiện nay. Dựa trên cơ sở kế hoạch chung của Học viện, cần tổ chức có chất lượng các buổi tham quan di tích lịch sử về giáo dục quân sự, các cơ sở giáo dục tiên tiến trong và ngoài quân đội. Tăng cường tổ chức giao lưu với học viên, sinh viên, giáo viên các nhà trường trong và ngoài quân đội. Cũng có thể tổ chức giao lưu, phổ biến kinh nghiệm giữa học viên khóa trước có thành tích trong học tập, rèn luyện NLSP với học viên khóa sau. Việc tổ chức tốt các buổi giao lưu này sẽ làm tăng thêm sự hiểu biết về chuyên môn nói chung cũng như NLHĐSP nói riêng, học viên sẽ học được nhiều kiến thức, kinh nghiệm quý về rèn luyện, phát triển NLSP trong hoạt động thực tiễn. Việc tổ chức các hình thức giáo dục trên cần được lựa chọn sao cho phù hợp với đặc điểm nhân cách của từng học viên; thông qua đó giúp mỗi người nâng cao trình độ nhận thức, tạo lập tình cảm, hình thành và từng bước củng cố thói quen hành vi tốt đẹp của CTV tàu. Để nâng cao chất lượng giáo dục, phát triển NLSP theo đặc điểm riêng của từng học viên, trước khi đưa ra các tác động giáo dục, nhà giáo dục cần tìm hiểu kỹ về đặc điểm tâm, sinh lý, trình độ, khả năng phát triển trong lĩnh vực sư phạm…của cá nhân học viên. Cần phải xác định kế hoạch cụ thể, lựa chọn không gian, thời gian thích hợp, chuẩn bị nội dung chu đáo. Khi tiến hành các tác động giáo dục, phải thể hiện phong cách tự nhiên, chân tình, cởi mở, tránh khiên cưỡng; phải nắm được diễn biến tâm tư tình cảm của học viên. Nhà giáo dục cần thể hiện rõ quan điểm đồng tình hay không đồng tình với những suy nghĩ, tình cảm, nguyện vọng, hành vi của học viên. Với những học viên thiếu tích cực, hay được coi là “chậm tiến” trong rèn luyện NLSP cần phải chỉ rõ những điều mà họ chưa nhận thức thấu đáo, thái độ chưa phù hợp; đồng thời đưa ra những lời khuyên, giúp học viên định hướng suy nghĩ và hành động đúng đắn hơn. Quá trình giáo dục, cần chú trọng củng cố lòng tin, xây dựng quyết tâm, không để học viên rơi vào tình trạng bi quan, chán nản trong rèn luyện NLSP của bản thân mình; chủ động phối hợp với các lực lượng giáo dục để làm tăng tính hiệu quả trong quá trình thực hiện hình thức tổ chức giáo dục riêng. Để phát huy vai trò của các hoạt động sư phạm trong giáo dục, phát triển NLSP cho học viên, cần quán triệt và thực hiện tốt hơn nữa quan điểm chỉ đạo: “Cùng với việc đào tạo tại trường một cách cơ bản toàn diện, phải đặc biệt chú trọng đưa cán bộ vào hoạt động thực tiễn, lãnh đạo, chỉ huy quản lý bộ đội, huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu…Mọi phẩm giá, bằng cấp, danh hiệu và chức vụ cán bộ đều phải được kiểm nghiệm qua hoạt động thực tiễn…”[20, tr.5]. 2.3. Nâng cao chất lượng tự giáo dục của học viên để phát triển năng lực sư phạm cho cán bộ chính trị tương lai Quán triệt quan điểm chỉ đạo của Đảng, Nghị quyết 93/ ĐUQSTW xác định trong những năm tới đây các nhà trường quân đội cần phải “Tiếp tục cải tiến phương pháp giáo dục nhất là ở bậc đại học, thực hiện tốt quan điểm khuyến khích và tạo điều kiện phát triển tư duy độc lập, sáng tạo của người học, biến quá trình đào tạo thành tự đào tạo…”[19, tr.9]. Như vậy, việc phát huy nhân tố tự học, tự giáo dục, tự rèn luyện có vai trò quan trọng, đặc biệt là trong giáo dục PCNC nói chung, giáo dục, phát triển NLSP cho học viên đào tạo CBCT tàu ở HVHQ nói riêng. Vấn đề này được nhiều người coi là chìa khóa để phát triển, củng cố PCNC cũng như phẩm chất chuyên môn nghề nghiệp. Quá trình rèn luyện, hình thành và phát triển NLSP của học viên đào tạo CBCT tàu ở HVHQ chỉ có thể đạt kết quả cao khi người học xây dựng được động cơ, mục đích học tập, rèn luyện đúng đắn; trên cơ sở đó phát huy cao độ khả năng tự học, tự bồi dưỡng, tự rèn luyện để phát triển NLSP của mình. Vì vậy: Trước hết, các lực lượng giáo dục cần có những tác động sư phạm đủ để học viên hình thành nhu cầu tự giáo dục, tự rèn luyện trở thành người CBCT trong quân đội. Sự chuẩn bị về mặt tâm lý và thực tiễn cho tự giáo dục trở thành một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất của giáo dục, phát triển NLSP cho học viên đào tạo CBCT tàu ở HVHQ. Vì vậy, các lực lượng giáo dục cần có nhiều cách thức, biện pháp tạo ra nhu cầu phát triển và những xu thế thay đổi cơ bản cho người học. Phải làm cho học viên thật sự có bước chuyển biến trong nhận thức và hành động, có nhu cầu phát triển PCNC để trở thành người CTV tàu. Tự giáo dục chỉ trở thành thường xuyên và diễn ra một cách có hiệu quả khi tính mục đích được xác định rõ ràng, người học xây dựng được hệ thống động cơ, mục đích hoạt động đúng đắn, trên cơ sở đó phát huy cao nhất khả năng tự giáo dục, tự rèn luyện NLSP của mình. Tự giáo dục trở thành một phẩm chất của nhân cách học viên xuất hiện ở giai đoạn cao của sự phát triển trí tuệ và ý chí của cá nhân; nó là sự tổng hợp của ý chí, niềm tin và tình yêu trong lĩnh vực hoạt động sư phạm. Nhà giáo dục cần chủ động, tích cực xây dựng cho học viên động cơ, mục đích học tập, rèn luyện đúng đắn ngay từ khi mới nhập học, làm cho tự giáo dục trở thành nhu cầu của mỗi học viên. Để quá trình tự giáo dục, tự rèn luyện, phát triển NLSP của học viên đạt kết quả cao, bằng nhiều hình thức khác nhau nhà giáo dục cần tăng cường bồi dưỡng cho học viên về các chuẩn mực, giá trị, thang giá trị, hệ thống phẩm chất, năng lực của CTV tàu. Cần làm rõ nội dung của các chuẩn mực đó là gì, ý nghĩa xã hội của nó đối với người CBCT và quan trọng là phải hướng dẫn cho học viên cách thể hiện các chuẩn mực, giá trị, phẩm chất đó trong cuộc sống thực tiễn hoạt động CTĐ, CTCT nói chung và NLSP của CTV nói riêng. Nội dung giáo dục, phát triển NLSP cho học viên cần phải cụ thể hóa mục tiêu, yêu cầu đào tạo; cụ thể hóa cấu trúc của NLSP người CBCT tàu ở HVHQ thành những tiêu chí, chuẩn mực cụ thể, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ thực hiện. Hai là, thường xuyên bồi dưỡng kỹ năng tự giáo dục, tự rèn luyện NLSP cho học viên thông qua quá trình dạy học, giáo dục tại đơn vị. Để phát triển NLSP một cách vững chắc thông qua hoạt động tự giáo dục, đòi hỏi mỗi học viên phải có kỹ năng tự giáo dục, tự rèn luyện bản thân. Kết quả tự giáo dục phụ thuộc nhiều vào việc học viên tìm ra con đường, cách thức, biện pháp tự tu dưỡng, tự rèn luyện. Một số phương pháp tự giáo dục thường được sử dụng và mang lại kết quả cao như: tự thuyết phục, tự phê bình, tự rèn luyện, tự ám thị…cần được mỗi người nắm vững và tùy theo điều kiện, hoàn cảnh, mục đích mà lựa chọn các phương pháp cụ thể cho linh hoạt và có hiệu quả. Là quá trình người học tự đấu tranh với bản thân, tự so sánh, phân tích để tìm ra chân lý, tự thuyết phục có vai trò chủ đạo trong tự giáo dục, tự rèn luyện NLSP của học viên đào tạo CTV tàu; nó phát huy tính tự giác cao ở người học trong việc tìm kiếm chân lý và loại bỏ những động cơ cá nhân không phù hợp với chuẩn mực của PCNC người cán bộ. Nó giúp cho học viên vững vàng, tự tin điều khiển và điều chỉnh ý thức, hành vi của mình trong hoạt động thực tiễn để phát triển NLSP của các nhân. Vì vậy, cần xây dựng cho học viên có thế giới quan khoa học, niềm tin cộng sản chủ nghĩa, sự nỗ lực, ý chí, lòng kiên định…làm điểm tựa vững chắc cho tự giáo dục, tự rèn luyện của học viên diễn ra và đạt kết quả cao. Tự phê bình của học viên đào tạo CTV tàu là cách thức mà người học xem xét, đối chiếu thái độ, hành vi của mình với yêu cầu của mục tiêu, chuẩn mực trong lĩnh vực HĐSP của CBCT trên tinh thần trung thực, thẳng thắn, từ đó xác định phương hướng khắc phục những nội dung không phù hợp với PCNC. Để tự giáo dục, tự rèn luyện NLSP của học viên có hiệu quả, nhà giáo dục cần có quan điểm khách quan, toàn diện, trung thực, thẳng thắn…trong khắc phục những sai lầm, khuyết điểm của học viên. Phải giúp cho học viên ý thức rõ mục tiêu, yêu cầu đào tạo, ý thức được yêu cầu, sự cần thiết phải có và nội dung cấu trúc NLSP của người CBCT; lấy đó làm chuẩn mực để đánh giá, so sánh và phấn đấu rèn luyện bản thân. Trong quá trình tự giáo dục, tự rèn luyện là vấn đề rất quan trọng và cần thiết đối với sự phát triển NLSP của học viên đào tạo CTV tàu. Đó chính là cách thức người học tự tổ chức các hoạt động của mình trên cơ sở lặp đi, lặp lại nhiều lần nhằm hình thành thói quen, hành vi tốt, khắc phục những hạn chế không phù hợp với chuẩn mực PCNC của người CBCT tàu ở HVHQ. Vì vậy, thông qua tổ chức thực hiện các chế độ quy định, nhà giáo dục cần phát huy tính tích cực tự rèn luyện của học viên, tạo nên sự thuần thục trong thói quen, hành vi của họ; đồng thời qua đó tiếp tục củng cố nhận thức, bồi dưỡng tình cảm, ý chí cho người học; giúp họ tự tin hơn vào khả năng phấn đấu để trở thành người CBCT ưu tú trong quân đội. Muốn tự rèn luyện đạt kết quả cao, đòi hỏi mỗi học viên phải xác định mục đích phấn đấu rõ ràng, xây dựng động cơ tu dưỡng, rèn luyện NLSP đúng đắn, có quyết tâm vượt qua khó khăn để thực hiện mục tiêu đã xác định. Học viên phải xây dựng cho mình kế hoạch tự rèn luyện phù hợp với bản thân, tập trung rèn luyện NLSP cốt lõi của người CTV tàu. Ngoài ra, cần kết hợp với các phương pháp khác: tự bắt buộc, tự trừng phạt…để nâng cao chất lượng tự giáo dục, tự rèn luyện NLSP của học viên. Ba là, bồi dưỡng phẩm chất ý chí, tổ chức cho học viên tham gia vào các hoạt động sư phạm để rèn luyện, phát triển NLSP trong quá trình đào tạo tại Học viện. Một trong những yếu tố quan trọng để quá trình tự giáo dục, rèn luyện NLSP của học viên diễn ra và đạt kết quả cao là phải xây dựng cho học viên có phẩm chất ý chí. Mục đích cuối cùng của quá trình giáo dục và tự giáo dục NLSP của học viên đào tạo CTV tàu là xây dựng được những phẩm chất tốt đẹp trong nhân cách học viên, đó là những thái độ, hành vi, thói quen phù hợp và đáp ứng yêu cầu của xã hội, của quân đội và hoạt động sư phạm quân sự; đồng thời, xóa đi những nét tính cách không phù hợp với hoạt động của người cán bộ trong quân đội. Tự giáo dục là quá trình diễn ra lâu dài, với nhiều khó khăn, phức tạp nảy sinh; đây là cuộc đấu tranh nội tâm gay gắt, động chạm đến lợi ích, nhu cầu, thói quen, lối sống của học viên. Chỉ có ý chí mạnh và sự tích cực trong hoạt động thực tiễn mới giúp học viên vượt qua được khó khăn để đạt mục đích và tự phát triển, tiến tới hoàn thiện NLSP của mình. Do vậy, việc phát triển, bồi dưỡng ý chí cho học viên là công việc thường xuyên, liên tục của nhà giáo dục, của các lực lượng sư phạm trong Học viện. Tự giáo dục nói chung, tự giáo dục, tự rèn luyện NLSP của học viên đào tạo CBCT tàu nói riêng sẽ không thể diễn ra nếu người học không tham gia vào các hoạt động giáo dục. Vì vậy, thông qua quá trình dạy học, quá trình tổ chức các hoạt động giáo dục: hội thảo khoa học., diễn đàn, tổ chức các phong trào thi đua, các buổi giao lưu…nhà giáo dục cần bồi dưỡng cho học viên những kiến thức cơ bản về tự giáo dục: bản chất, quy luật, vai trò, phương pháp tự giáo dục…, những cách thức, con đường để tự giáo dục có kết quả cao, bồi dưỡng cho học viên có kỹ năng lập kế hoạch và tổ chức thực hiện kế hoạch tự giáo dục NLSP để trở thành người CBCT trog quân độ. Đồng thời, hướng dẫn cho học viên cách thức, biện pháp tổ chức các hoạt động đó nhằm vận dụng, phát huy kết quả của hoạt động tự giáo dục, tự rèn luyện vào bồi dưỡng NLSP cho bản thân. Tạo mọi điều kiện cho quá trình tự giáo dục của học viên diễn ra thuận lợi, có biện pháp khuyến khích học viên tự giáo dục, tự rèn luyện NLSP của CTV thông qua việc thực hiện có nề nếp chế độ sinh hoạt ngày, tuần. Tổ chức các hoạt động sư phạm: tự học, chấp hành điều lệnh quân đội… theo hướng tích cực hóa hoạt động tự giáo dục của học viên. Phải làm cho hoạt động tự giáo dục, tự rèn luyện NLSP của học viên diễn ra tự giác từ những việc nhỏ nhất, từ những ngày đầu tiên và trong suốt khóa học. Trong quá trình đào tạo, để trở thành người CBCT tàu, hoạt động tự bồi dưỡng, tự rèn luyện NLSP của học viên rất quan trọng, điều này một phần lệ thuộc vào việc tổ chức các hoạt động giáo dục của nhà giáo dục. Sự tổ chức các hoạt động một cách khoa học sẽ làm nảy sinh nhu cầu, hứng thú, mong muốn phát triển và hoàn thiện NLSP của học viên. Các hoạt động sư phạm cần tổ chức theo hướng tích cực hóa hoạt động tự giáo dục của học viên, nhà giáo dục cần tạo ra sự phối hợp thống nhất giữa các lực lượng giáo dục trong thực hiện mục tiêu đào tạo đã xác định. Từ sự phối hợp thống nhất và yêu cầu cao của các lực lượng giáo dục đòi hỏi học viên phải tích cực tự tu dưỡng, tự rèn luyện NLSP của bản thân ở mọi nơi, trong mọi lúc. Để tích cực hóa hoạt động tự giáo dục của học viên, nhà giáo dục mà trực tiếp là cán bộ quản lý cần tổ chức các hoạt động giáo dục theo tinh thần dân chủ, đề cao vai trò của người học, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho quá trình tự giáo dục của học viên. Khuyến khích học viên tự giáo dục, tự rèn luyện trong quá trình học tập tại Học viện. Lãnh đạo, chỉ huy đơn vị tác động vào quá trình tự giáo dục của học viên bằng chính các hoạt động kiểm tra đôn đốc, nhằm kịp thời biểu dương những tiến bộ, trưởng thành của từng người, nhất là những học viên luôn tích cực, tự giác tự rèn luyện PCNC nói chung và NLSP nói riêng của người CTV tàu. Bốn là, thường xuyên tạo ra những điều kiện thuận lợi cho quá trình tự giáo dục, tự rèn luyện NLSP của học viên. Trong NTQS, nhân cách của nhà sư phạm, đặc biệt là nhân cách của đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình tự giáo dục, tự rèn luyện PCNC của học viên. Các nhà giáo dục được coi là những hình mẫu trực quan trực tiếp về PCNC để học viên học tập, rèn luyện và noi theo. Vì vậy, đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý cần ý thức đầy đủ về vai trò, trách nhiệm và mức độ ảnh hưởng của mình đến chất lượng giáo dục và tự giáo dục, tự bồi dưỡng NLSP của học viên đào tạo CBCT tàu. Mọi biểu hiện tiêu cực trong quá trình giáo dục của nhà giáo dục sẽ gây nên sự đổ vỡ nghiêm trọng về niềm tin và là một trong những nguyên nhân thủ tiêu động lực của quá trình tự giáo dục, tự rèn luyện PCNN, NLSP của học viên. Nhà giáo dục vĩ đại Usinxki đã từng nhấn mạnh: “Trong giáo dục, tất cả đều phải dựa vào nhân cách người giáo viên, vì sức mạnh của giáo dục chỉ bắt nguồn từ nhân cách của con người”[61, tr.228]. Tác dụng của quá trình giáo dục NLSP cho học viên đào tạo CBCT tàu sẽ tăng lên rất nhiều nếu nhà giáo dục biết kết hợp một cách khoa học giữa hoạt động tự bồi dưỡng, tự rèn luyện với hoạt động tự quản của học viên. Do vậy, nhà giáo dục cần tin tưởng vào khả năng tổ chức, chỉ đạo giáo dục của các tổ chức, các lực lượng sư phạm trong nhà trường cũng như khả năng tự bồi dưỡng, tự giáo dục của mỗi học viên trong việc phấn đấu vươn lên hoàn thành tốt mục tiêu, yêu cầu đào tạo. Đối với học viên, trên cơ sở định hướng, chỉ đạo của các lực lượng giáo dục cần chủ động xây dựng kế hoạch tự giáo dục, tự rèn luyện NLSP cho bản thân ngay từ đầu khóa học. Biện pháp cụ thể là tự quán triệt mục tiêu, yêu cầu đào tạo, xác định cho mình mục đích, động cơ học tập đúng đắn, có kế hoạch và chủ động thực hiện kế hoạch tự giáo dục, tự rèn luyện NLSP một cách tích cực, thường xuyên, liên tục. Quá trình tự giáo dục, tự rèn luyện NLSP của bản thân cần bám sát sự chỉ đạo của nhà giáo dục, luôn xác định một tâm thế vững vàng và sẵn sàng vượt qua những khó khăn, thử thách. Phải biết đối chiếu yêu cầu, đòi hỏi của xã hội, của quân đội, những chuẩn mực của người CBCT quân đội với bản thân mình để phấn đấu, tu dưỡng, rèn luyện theo những chuẩn mực đã xác định. 2.4. Phát huy vai trò, trách nhiệm của các lực lượng trong quá trình giáo dục nhằm phát triển năng lực cho học viên Trong giáo dục, phát triển NLSP cho học viên đào tạo CTV tàu, vấn đề có ý nghĩa quan trọng là phát huy vai trò, trách nhiệm của các lực lượng sư phạm trong giáo dục nâng cao nhận thức, hình thành tình cảm, thái độ, niềm tin và tổ chức có chất lượng các hoạt động sư phạm để rèn luyện thói quen hành vi tốt đẹp, phát triển NLSP cho học viên ngay từ đầu và trong suốt cả quá trình đào tạo. Vấn đề này đòi hỏi sự tham gia của nhiều lực lượng trong nhà trường. Ở HVHQ, các lực lượng trực tiếp tham gia vào quá trình đào tạo CTV tàu là các khoa KHXH và NV - đơn vị quản lý học viên, ngoài ra còn có các cơ quan, đơn vị phục vụ đảm bảo cho quá trình đào tạo đạt chất lượng và hiệu quả cao. Mỗi cơ quan, đơn vị, mỗi bộ phận có vị trí, chức trách, nhiệm vụ riêng nhưng có mối quan hệ chặt chẽ, tác động hỗ trợ lẫn nhau tạo thành một chỉnh thể thống nhất và đều nhằm tới một mục đích chung là nâng cao chất lượng đào tạo đội ngũ cán bộ quân đội, trong đó có giáo dục, phát triển NLSP cho học viên đào tạo CBCT tàu của Học Viện. Để phát huy vai trò, trách nhiệm của các lực lượng này trong giáo dục, phát triển NLSP cho học viên đào tạo CTV tàu hiện nay cần quan tâm thực hiện tốt một số yêu cầu cơ bản sau: Một là, cần thường xuyên tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của tổ chức đảng các cấp đối với quá trình giáo dục, phát triển NLSP cho học viên đào tạo CBCT tàu. Đảng ủy, Ban Giám đốc Học viện cần quan tâm chỉ đạo việc xác định rõ mục tiêu, yêu cầu đào tạo CTV tàu cho phù hợp với thực tiễn. Kịp thời xây dựng, bổ sung phương hướng, nhiệm vụ, chương trình, nội dung đào tạo; có biện pháp cụ thể huy động sức mạnh tổng hợp của các lực lượng hướng vào nâng cao chất lượng giáo dục, phát triển NLSP cho học viên. Coi trọng công tác bồi dưỡng nâng cao trình độ năng lực và phẩm chất cho đội ngũ giảng viên của Học viện để họ có đủ điều kiện và khả năng nâng cao chất lượng giáo dục, phát triển NLSP cho học viên đào tạo CBCT tàu ở HVHQ. Hai là, đối với các khoa giáo viên: đây là tập thể nhà giáo dục trực tiếp tham gia vào các hoạt động sư phạm trong Học viện; nhân tố quyết định trực tiếp đến chất lượng đào tạo và giáo dục, phát triển NLSP cho học viên. Trước hết, cần từng bước kiện toàn tổ chức, biên chế của đội ngũ này trên cơ sở các tiêu chí cơ bản, thống nhất đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ. Bổ sung đủ số lượng, hợp lý về cơ cấu, đảm bảo đủ tiêu chuẩn, đúng ngành nghề cho từng khoa, từng bộ môn chuyên ngành. Chuẩn hóa đội ngũ giảng viên của Học viện theo quy định của Nhà nước và phù hợp với yêu cầu đặc thù của NTQS trên các mặt: chính trị, tư tưởng, tác phong, nhân cách, trình độ học vấn, trình độ sư phạm…Tăng cường tổ chức bồi dưỡng, tập huấn cho giảng viên nâng cao dần trình độ chuyên môn và khả năng sư phạm để có thể đáp ứng với yêu cầu ngày càng cao của nhiệm vụ GD - ĐT trong quân đội. Chủ động, tích cực đưa giảng viên đi đào tạo, bồi dưỡng để đạt tiêu chuẩn về trình độ theo quy định của Nhà nước và Bộ Quốc phòng, coi trọng nâng cao chất lượng toàn diện cho đội ngũ giảng viên. Có cơ chế, chính sách phù hợp để động viên, khuyến khích đội ngũ giảng viên phát huy hết tinh thần trách nhiệm cống hiến cho sự nghiệp “trồng người”, đào tạo đội ngũ giáo viên KHXH&NV cho toàn quân. Mặt khác, cần có biện pháp huy động các nhà khoa học công tác tại các cơ quan, đơn vị trong Học viện tham gia vào quá trình giáo dục, phát triển NLSP cho học viên. Bên cạnh đó, cần thường xuyên phát huy vai trò, trách nhiệm của đội ngũ giảng viên đối với quá trình giáo dục, phát triển NLSP cho học viên bằng cách tăng cường ảnh hưởng uy tín, tính mô phạm đối với người học. Để phát huy sức mạnh của uy tín trong giáo dục, phát triển NLSP cho học viên, mỗi giảng viên cần phải thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện tài năng và tấm lòng của người thầy giáo; phải thể hiện tấm lòng yêu thương học viên và tận tụy với nghề. Mỗi cử chỉ, mỗi lời nói cho đến tinh thần lao động, lý tưởng nghề nghiệp…của giảng viên đều là những bài học để học viên học tập, noi theo. Do vậy, trong mọi lúc, ở mọi nơi giảng viên cần thể hiện sự công bằng trong đối xử, không thiên vị, không thành kiến với bất cứ cá nhân nào. Phải có trí tiến thủ, có nguyện vọng tự phát triển, nhu cầu mở rộng tri thức và hoàn thiện năng lực, PCSP của mình. Có phương pháp và kỹ năng tác động giáo dục hợp lý, hiệu quả và sáng tạo, đặc biệt là phải thể hiện sự mô phạm, gương mẫu về mọi mặt, trong mọi lúc, ở mọi nơi. Mỗi giảng viên phải xác định được vai trò định hướng, hướng dẫn học viên học và rèn luyện phẩm chất. Quá trình giảng dạy không chỉ dừng lại ở trang bị những tri thức khoa học mà còn phải hình thành cho học viên những kỹ năng cần thiết. Giảng viên cần nâng cao ý thức trách nhiệm tự rèn cho học viên, coi đây không chỉ là công việc của cán bộ quản lý, cơ quan lý giáo dục, của một số người. Vì vậy, giảng viên cần phải có thực tế sinh động, phải nắm được nội dung, chương trình, phương pháp dạy học, giáo dục và thực chất các hoạt động giáo dục, phát triển NLSP cho học viên đang diễn ra. Ba là, đối với các cơ quan chức năng: cơ quan Đào tạo đại học cần làm tốt chức năng tham mưu cho lãnh đạo, chỉ huy Học viện về công tác giáo dục, phát triển NLSP cho học viên đào tạo CTV tàu. Phối hợp với các cơ quan liên quan và các khoa giáo viên đầu tư nghiên cứu, khảo sát thực tế để xây dựng mô hình, mục tiêu, cấu trúc PCNC người CTV tàu cho phù hợp thực tiễn hoạt động sư phạm của đối tượng này ở các NTQS. Xây dựng nội dung, chương trình đào tạo CBCT tàu theo hướng đổi mới về nội dung, hình thức, phương pháp dạy học, giáo dục, tăng cường các hình thức dạy học thực hành, kiên quyết cắt bỏ sự trùng lắp của các môn học, học phần nhằm tạo ra sự chuyển biến về chất trong công tác giáo dục, phát triển NLSP cho học viên. Kế hoạch đào tạo phải được xây dựng từ đầu khóa học, được Thủ trưởng Học viện phê duyệt và phải được phổ biến rộng rãi cho các đối tượng liên quan, kể cả với học viên đào tạo khác. Cơ quan Chính trị cần kết hợp tốt hoạt động CTĐ, CTCT với quá trình giáo dục, phát triển NLSP cho học viên. Xây dựng các chỉ tiêu thi đua, tiêu chuẩn xếp loại đảng viên, đoàn viên không chỉ thông qua kết quả đánh giá kiến thức bằng điểm mà phải hướng vào các NLSP của học viên. Nội dung hoạt động CTĐ, CTCT cần coi trọng xây dựng cho học viên các phẩm chất thế giới quan Mác - Lênin, niềm tin cộng sản chủ nghĩa; tình yêu NNSP, sự tôn trọng, lòng yêu thương quý mến con người; sự trong sáng về đạo đức sư phạm, tính mô phạm của người cán bộ quân đội, đảng viên…Nghiên cứu xây dựng và đề xuất với cấp trên các chính sách sử dụng, bổ nhiệm, đãi ngộ phù hợp, tạo động lực để học viên tích cực tu dưỡng, rèn luyện NLSP của mình, yên tâm phấn đấu, phát triển vươn lên cao hơn nữa. Bốn là, đối với đơn vị quản lý học viên: đội ngũ cán bộ quản lý học viên là những người thầy trực tiếp tham gia vào quá trình giáo dục, phát triển NLSP cho học viên. Sự hình thành, phát triển NLSP của học viên CTV tàu phụ thuộc phần lớn vào sự nhiệt huyết, phương pháp quản lý và tính mô phạm của lực lượng này. Để tăng tính hiệu quả trong giáo dục, phát triển NLSP cho học viên đào tạo CTV tàu, cán bộ của đơn vị cần nắm chắc mục tiêu, yêu cầu đào tạo, chỉ rõ cho học viên mục tiêu phải đạt được trong từng học kỳ, năm học, khóa học bằng cách cụ thể hóa thành các nội dung, biện pháp, chỉ tiêu trong hoạt động hàng tuần, hàng tháng, hàng năm; trong mỗi phong trào thi đua. Phải quản lý một cách hệ thống, liên tục và chặt chẽ cả quá trình tiếp thu kiến thức, chuyển hóa kiến thức thành niềm tin, rèn luyện thói quen nghề nghiệp; quá trình phát triển thế giới quan khoa học, niềm tin cộng sản chủ nghĩa, phẩm chất chính trị, đạo đức, quá trình hình thành phong cách sư phạm… Thường xuyên gắn hoạt động giáo dục, tự giáo dục NLSP với hoạt động CTĐ, CTCT thực hiện xây dựng nền nếp chính quy… Việc bình xét, phân loại, đánh giá chất lượng Đảng viên, đoàn viên không chỉ dựa vào kết quả học tập là điểm mà còn cần thông qua tính tích cực, tự giác rèn luyện PCNC, NLSP của học viên. Một mặt, quan tâm chăm lo xây dựng các tổ chức trong đơn vị vững mạnh toàn diện; mặt khác, mỗi cán bộ của đơn vị phải thật sự là tấm gương sáng, mô phạm về rèn luyện PCNC, NLSP để học viên noi theo. Ngoài thời gian học tập trung ở giảng đường, học viên có một phần thời gian dành cho sinh hoạt tập thể, tự học và tự rèn luyện ở đơn vị. Quá trình tự học, tự rèn luyện NLSP của học viên cần đặt dưới sự tổ chức, chỉ đạo chặt chẽ của giảng viên và sự quản lý trực tiếp của cán bộ quản lý đơn vị. Cán bộ quản lý ngoài việc duy trì về thời gian còn phải tổ chức các hoạt động giáo dục học viên: sinh hoạt chính quyền, sinh hoạt đảng, đoàn, tổ chức các hoạt động thi đua… Thông qua việc tổ chức có nền nếp các hoạt động này để phát hiện những biểu hiện sai trái, đồng thời nhắc nhở, chấn chỉnh kịp thời. Mặt khác, cần động viên tinh thần, thái độ tích cực của những cá nhân và tập thể có thành tích cao trong học tập và tu dưỡng, rèn luyện NLSP. Năm là, thường xuyên phát huy vai trò to lớn của tập thể học viên đối với sự phát triển NLSP của người học. Xây dựng tập thể học viên vững mạnh toàn diện vừa là mục đích, vừa là phương tiện để giáo dục, phát triển NLSP cho học viên đào tạo CTV tàu. Để xây dựng tập thể học viên vững mạnh toàn diện, cần thường xuyên kiện toàn tổ chức biên chế của các bộ phận đủ về số lượng, có chất lượng cao; lựa chọn những học viên kiêm chức phải thật sự tiêu biểu về mọi mặt, có kết quả học tập cao, gương mẫu trong rèn luyện PCNC, có uy tín với tập thể. Cán bộ quản lý đơn vị cần coi trọng xây dựng bầu không khí tâm lý dân chủ, lành mạnh trong tập thể; hướng mọi hoạt động của học viên vào việc phát huy tính xung kích của tuổi trẻ trong tu dưỡng, rèn luyện NLSP của CTV tàu. Trong xây dựng tập thể vững mạnh để giáo dục, phát triển NLSP cho học viên cần đặc biệt chú trọng xây dựng tình đoàn kết, thái độ chân thành, thẳng thắn giúp đỡ nhau cùng tiến bộ giữa các học viên. Các lực lượng khác, tùy theo chức trách, nhiệm vụ mà chủ động xây dựng kế hoạch đảm bảo cho quá trình đào tạo CTV tàu đạt chất lượng cao. Mọi công tác đảm bảo phải lấy mục đích phục vụ cho quá trình đào tạo của Học viện nói chung, giáo dục, phát triển NLSP cho học viên đào tạo CBCT nói riêng làm hướng ưu tiên quan trọng nhất. Chất lượng giáo dục, phát triển NLSP cho học viên đào tạo CBCT chỉ có thể đạt chất lượng cao khi các lực lượng thường xuyên phát huy tốt vai trò, trách nhiệm của mình; vận hành theo một guồng máy thống nhất dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng ủy, Ban Giám đốc Học viện. 2.5. Xây dựng môi trường sư phạm lành mạnh để giáo dục nhằm phát triển năng lực sư phạm cho học viên Trong GD - ĐT nói chung bao giờ cũng bao gồm các yếu tố cơ bản: người dạy, người học, môi trường sư phạm…Đối với quá trình đào tạo CTV tàu ở HVHQ, việc xây dựng môi trường sư phạm lành mạnh có vai trò rất quan trọng, nó có tác dụng mạnh mẽ tới quá trình phát triển NLSP của người học; trực tiếp tác động đến việc hình thành, phát triển PCNC của CTV tàu tương lai; góp phần tạo nên động cơ, mục đích, xu hướng nghề nghiệp và cung cấp phương tiện cho hoạt động học tập, rèn luyện tay nghề sư phạm của học viên. Thông qua các mối quan hệ giao tiếp trong môi trường sư phạm sẽ giúp cho trình độ nhận thức, năng lực tư duy, NLSP của từng học viên ngày một nâng cao. Môi trường sư phạm bao gồm các yếu tố của môi trường tự nhiên và môi trường xã hội, các điều kiện tâm lý - tinh thần. Về nhân tố chính trị, tinh thần, môi trường sư phạm ở HVHQ vừa mang những đặc điểm của nhà trường đào tạo, vừa mang những đặc điểm của tổ chức hoạt động quân sự; vừa tồn tại các mối quan hệ mang tính kỷ luật quân đội: cấp trên - cấp dưới, đồng chí - đồng đội, chỉ huy - phục tùng; vừa tồn tại các mối quan hệ xã hội mang tính truyền thống văn hóa dân tộc: chú - cháu, anh - em; đồng thời tồn tại các mối quan hệ sư phạm: thầy - trò, quan hệ giữa người học với nhau… Các mối quan hệ này đan xen và chi phối chủ yếu đến sinh hoạt, học tập và phát triển NLSP của học viên. Đây là đặc điểm nổi bật của môi trường sư phạm quân sự so với các môi trường sư phạm khác trong hệ thống giáo dục quốc dân. Về cơ sở vật chất, đó là hệ thống kết cấu hạ tầng: nhà ở, sân tập thể thao, thao trường bãi tập, giảng đường, các trang thiết bị kỹ thuật phục vụ cho quá trình GD - ĐT… Môi trường sư phạm ở HVHQ là môi trường nhỏ (vi mô) trực tiếp bao quanh và thường xuyên tác động đến việc hình thành, phát triển NLSP của người học viên đào tạo CTV tàu. Hiện nay, việc xây dựng môi trường sư phạm ở HVHQ chịu sự tác động mạnh mẽ của điều kiện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội,…nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của quân đội và nhiệm vụ chính trị của Học viện. Nếu không thật sự quan tâm đến vấn đề này thì sẽ gặp không ít khó khăn trong việc giáo dục, phát triển PCNC cũng như NLSP cho học viên đào tạo CTV tàu. Vì vậy, khi xây dựng môi trường sư phạm cần quan tâm xây dựng, cải tạo tất cả các nhân tố trên trong một chỉnh thể thống nhất nhằm phát huy tốt nhất những ảnh hưởng tích cực của nó đến các hoạt động giáo dục, phát triển NLSP của học viên. Quán triệt quan điểm chỉ đạo Đảng về xây dựng môi trường văn hoá - giáo dục lành mạnh nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển xã hội và nhân cách; để góp phần thiết thực vào việc phát triển NLSP cho học viên đào tạo CTV tàu ở HVHQ; cần tập trung vào một số biện pháp cụ thể cơ bản sau đây: Một là, thường xuyên nâng cao nhận thức về vai trò, tầm quan trọng của môi trường sư phạm đối với sự phát triển NLSP của học viên. Cùng với sự quan tâm chỉ đạo mọi mặt hoạt động của nhà trường; lãnh đạo, chỉ huy các cấp cần coi trọng giáo dục cho mọi cán bộ, học viên, giảng viên, hạ sĩ quan - binh sĩ, công nhân viên nâng cao nhận thức về vai trò, tầm quan trọng của môi trường sư phạm đối với sự hình thành, phát triển NLSP của học viên. Thường xuyên có sự lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát, kịp thời phát hiện và kiên quyết xử lý những tiêu cực làm vẩn đục môi trường sư phạm ở đơn vị mình, nhất là ở đơn vị trực tiếp quản lý học viên. Phải làm cho mọi người nỗ lực, tích cực xây dựng Học viện bằng cách thường xuyên phát huy vai trò, trách nhiệm trong xây dựng môi trường sư phạm lành mạnh để giáo dục, phát tiển NLSP cho học viên. Đây phải được coi là nhiệm vụ vừa mang tính thường xuyên, vừa mang tính lâu dài với nhiều khó khăn, phức tạp cần tập trung sự lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ và thiết thực sát với từng đơn vị cụ thể. Thực tiễn cho thấy ở đâu quan tâm đến việc xây dựng môi trường sư phạm lành mạnh (cả về vật chất và tinh thần), thì ở đó tạo ra được những điều kiện sư phạm tốt nhất cho quá trình giáo dục PCNC của mọi thành viên. Vì vậy, trong giáo dục, phát triển NLSP cho học viên đào tạo CTV tàu cần quán triệt tốt phương châm: phát huy tinh thần tích cực, chủ động, sáng tạo của mọi lực lượng giáo dục, xây dựng NTQS thành một môi trường mẫu mực, trong đó bao hàm các mối quan hệ giáo dục tốt đẹp và đời sống văn hoá lành mạnh. Song song với việc xây dựng cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật giáo dục bảo đảm về chất lượng và số lượng, tạo các điều kiện tối ưu cho sự phát triển hoàn thiện nhân cách của mọi thành viên. Hai là, chăm lo xây dựng các mối quan hệ tốt đẹp trong tập thể học viên gắn với xây dựng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý mẫu mực về mọi mặt. Môi trường sư phạm ở HVHQ là nơi tồn tại rất đa dạng các mối quan hệ sư phạm, quan hệ xã hội, quan hệ giao tiếp…,điều đó cũng nói nên tính phức tạp trong giải quyết các mối quan hệ này. Việc xây dựng, củng cố và phát triển các mối quan hệ, các yếu tố tinh thần trong tập thể học viên đào tạo CTV tàu là nội dung rất quan trọng trong xây dựng môi trường sư phạm lành mạnh để giáo dục, phát triển NLSP cho học viên. Đó là chỗ dựa tinh thần tin cậy để người học củng cố niềm tin, xây dựng tình yêu vào hoaatj động sư phạm của mình. Về vấn đề này, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lê nin khẳng định: Sự phong phú thực sự về tinh thần của cá nhân phụ thuộc vào quan hệ của họ. Điều đó có nghĩa là, sự ảnh hưởng của môi trường sư phạm đối với quá trình phát triển NLSP của mỗi học viên phụ thuộc vào mối quan hệ qua lại của họ và năng lực giải quyết các mối quan hệ ấy. Vì vậy, dựa trên nền tảng của sự thống nhất cao về mục đích phấn đấu, phương hướng hành động, cần quan tâm xây dựng các mối quan hệ tốt đẹp trong tập thể học viên. Trong đó, đặc biệt coi trọng xây dựng mối quan hệ giữa giảng viên với học viên, quan hệ giữa các học viên với nhau và các quan hệ xã hội khác. Việc xây dựng các mối quan hệ phải theo hướng vừa phù hợp với điều lệnh quân đội, vừa phù hợp với đặc thù môi trường sư phạm quân sự. Vì vậy, các lực lượng giáo dục cần phải: thường xuyên quan tâm đến tình cảm của người học nhằm thỏa mãn các nhu cầu trực tiếp học viên…Cần phát huy cao độ vai trò gương mẫu của đội ngũ cán bộ quản lý, giảng viên trong quá trình xây dựng môi trường sư phạm lành mạnh, chính quy mẫu mực và mô phạm. Đội ngũ cán bộ quản lý, giảng viên được xem là lực lượng nòng cốt của Học viện, là nhân tố có ý nghĩa quyết định đến chất lượng giáo dục, phát triển NLSP cho học viên. Do đó, việc xây dựng môi trường sư phạm trước hết cần coi trọng xây dựng đội ngũ giảng viên và cán bộ quản lý học viên có chất lượng cao, có cơ cấu hợp lý; thường xuyên phát huy tính gương mẫu trong mọi mặt hoạt động. Nhân cách của giảng viên, của cán bộ quản lý, sự phấn đấu vươn lên hoàn thiện PCNC của họ có ảnh hưởng to lớn đến việc xây dựng môi trường sư phạm lành mạnh, tác động mạnh mẽ đến sự phát triển NLSP của từng học viên và tập thể học viên đào tạo CTV tàu. Bởi vậy, hơn lúc nào hết, mỗi nhà giáo phải trở thành tấm gương cụ thể đối với thế hệ trẻ như là một công cụ của hoạt động giáo dục. Khi các lực lượng sư phạm thể hiện sự gương mẫu và tính mô phạm trong hoạt động giáo dục, phát triển NLSP, thì chính họ là những tấm gương sáng để học viên hàng ngày học tập, noi theo. Việc xây dựng và giải quyết các mối quan hệ trong Học viện cũng như ở đơn vị học viên phải bảo đảm sự hài hoà giữa yêu cầu, quy định của kỷ luật quân đội với những giá trị truyền thống văn hóa, đạo đức dân tộc và đạo lý “tôn sư trọng đạo” của con người Việt Nam, nhằm tạo ra bầu không khí tâm lý vui tươi, lành mạnh, dân chủ cởi mở, tin cậy và thương yêu nhau. Xây dựng các tiêu chuẩn, chế độ rèn luyện cụ thể cho đối tượng đào tạo trên cơ sở đó để phân loại, đánh giá về rèn luyện NLSP theo từng tháng, học kỳ, năm học, khóa học. Thường xuyên tuyên truyền, phổ biến những tấm gương học viên giỏi, những kinh nghiệm học tập, rèn luyện NLSP tốt của các cá nhân điển hình tiên tiến. Coi trọng xây dựng môi trường văn hóa ở đơn vị học viên cũng như trong toàn Học viện. Thường xuyên đưa học viên vào hoạt động thực tiễn, tích cực rèn luyện họ trong những hoàn cảnh khó khăn, phức tạp. Tăng cường quản lý giáo dục học viên thông qua hoạt động của các tập thể: tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể; tổ chức và phát huy vai trò tự quản của học viên. Ba là, kết hợp xây dựng các tập thể vững mạnh toàn diện với tổ chức, duy trì các hoạt động mang tính khoa học và tính giáo dục cao đối với học viên. Trong xây dựng môi trường sư phạm lành mạnh, cần chăm lo xây dựng đơn vị và các tổ chức trong đơn vị mà trọng tâm là xây dựng các tổ, lớp chuyên ngành thành những tập thể vững mạnh toàn diện, kết hợp với xây dựng các tổ đảng, chi bộ trong sạch vững mạnh; hoạt động theo đúng chức năng nhiệm vụ, thực sự trở thành phương tiện giáo dục học viên có hiệu quả cao. Phát hiện, bồi dưỡng và nhân rộng những điển hình tiên tiến trong huấn luyện, tu dưỡng rèn luyện NLSP. Việc duy trì có nền nếp các chế độ quy định giúp cho học viên tạo thói quen giờ nào việc nấy, xây dựng cho họ ý thức tổ chức, kỷ luật sư phạm, tác phong làm việc khoa học, hiệu quả cao. Trên cơ sở định hướng của quan điểm chỉ đạo: “Xây dựng nhà trường chính quy, từng bước hiện đại, phù hợp với yêu cầu của khoa học giáo dục và sự phát triển của các lực lượng vũ trang. Nhà trường phải đi trước và làm mẫu cho đơn vị trong xây dựng chính quy”[19, tr.6] đòi hỏi các chế độ hoạt động giáo dục, đào tạo phải được duy trì chặt chẽ, thường xuyên. Mọi hoạt động sư phạm phải được kế hoạch hoá cụ thể, sát đối tượng, đề ra mục đích, phương pháp và hình thức tổ chức thực hiện rõ ràng, phù hợp. Tăng cường giáo dục ý thức, trách nhiệm của học viên trong việc tham gia các hoạt động, nhất là các hoạt động sư phạm có tác dụng phát triển PCNC của người học. Tuỳ từng thời điểm, từng nhiệm vụ cụ thể mà tổ chức và phát động các phong trào thi đua hướng vào những nhiệm vụ có tính chất trọng tâm, trọng điểm. Nhà giáo dục cần đa dạng hoá các hình thức hoạt động để tạo sức hấp dẫn, lôi cuốn học viên. Tổ chức các hoạt động mang ý nghĩa tuyên truyền, đồng thời phải mang ý nghĩa giáo dục sâu sắc, tránh hình thức, gò ép. Các hoạt động thi đua, diễn đàn cần tổ chức sôi nổi, gắn với nội dung nâng cao nhận thức và rèn luyện NLSP cho học viên, phù hợp với đặc điểm tâm lý của tuổi trẻ. Bốn là, không ngừng quan tâm đảm bảo các điều kiện vật chất, phương tiện kỹ thuật hiện đại cho quá trình giáo dục học viên. Quan tâm đầu tư đảm bảo những điều kiện về vật chất, phương tiện kỹ thuật dạy học hiện đại là nội dung có ý nghĩa quan trọng trong việc tạo nên môi trường sư phạm tốt đẹp để giáo dục học viên; nó góp phần trực tiếp tác động đến giáo dục, phát triển NLSP cho người học. Điều kiện vật chất đầy đủ sẽ mang lại những thuận lợi to lớn giúp cho điều kiện tinh thần của học viên được củng cố và phát triển. Quan tâm đầu tư cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật cho giáo dục, phát triển NLSP của học viên đồng thời phải gắn với chăm lo xây dựng cảnh quan, môi trường xanh, sạch, đẹp, chính quy, phù hợp với các hoạt động của nhà trường. Bảo đảm ngày càng tốt hơn các phương tiện, trang thiết bị kỹ thuật phục vụ ăn, ở, sinh hoạt, học tập và rèn luyện nghiệp vụ của học viên là biện pháp góp phần nâng cao hiệu quả giáo dục, phát triển NLSP cho học viên. Từng bước ứng dụng các trang, thiết bị hiện đại vào quá trình dạy học kết hợp với cải tiến trang bị hiện có bảo đảm tính mĩ thuật, kỹ thuật và tính sư phạm trong giáo dục. Tổ chức bồi dưỡng cho giáo viên, cán bộ quản lý và học viên sử dụng, khai thác các phương tiện kỹ thuật dạy học. Tận dụng các nguồn kinh phí để xây dựng cơ sở hạ tầng của đơn vị ngày càng khang trang, sạch đẹp. Việc xây dựng các công trình: nhà văn hoá, bãi tập, sân chơi thể thao, khu vui chơi...phải bảo đảm yếu tố thẩm mỹ, an toàn và thuận lợi cho học viên tham gia hoạt động. Thường xuyên giữ gìn, cải tạo môi trường tự nhiên xung quanh đơn vị đóng quân, không tách biệt môi trường sư phạm trong NTQS với những tác động của môi trường xã hội. Thường xuyên quan tâm tạo điều kiện cho học viên được tham quan tiếp xúc với thực tế hoạt động sư phạm của các nhà trường trong và ngoài quân đội để họ có thêm kiến thức thực tiễn cho mình và phấn đấu vươn lên đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của việc nâng cao chất lượng GD - ĐT trong các nhà trường quân đội hiện nay.Tổ chức trang trọng các ngày lễ: ngày Nhà giáo Việt Nam (20 - 11), ngày khai giảng, bế giảng khóa học, lễ tổng kết năm học, lễ tuyên dương những giảng viên được tặng thưởng các danh hiệu vinh dự… có ý nghĩa giáo dục cao. Xây dựng, bổ sung hoàn chỉnh hệ thống chế độ, chính sách đối với giáo viên các nhà trường quân đội, cụ thể là: tổ chức thực hiện tốt các chính sách, chế độ đang có hiệu lực, đồng thời nghiên cứu sửa đổi, bổ sung các chính sách, chế độ mới cho phù hợp tình hình cụ thể. Nghiên cứu xây dựng và ban hành quy trình, tiêu chuẩn tuyển dụng giáo viên các học viện, nhà trường quân đội; nghiên cứu sửa đổi, bổ sung hoàn thiện tiêu chuẩn chức danh và chế độ công tác của giáo viên. Như vậy, môi trường sư phạm có ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành, phát triển PCNC nói chung và NLSP của học viên đào tạo CTV tàu nói riêng. Việc gắn quá trình xây dựng môi trường sư phạm lành mạnh với giáo dục, phát triển NLSP cho học viên là đòi hỏi tất yếu, khách quan, cần phải được quan tâm chỉ đạo sâu sát về mọi mặt. Quá trình xây dựng môi trường sư phạm ở HVHQ hiện nay cần: “Thường xuyên coi trọng xây dựng môi trường văn hóa sư phạm trong lớp, trong hệ; giữ tốt mối quan hệ thầy - trò, cán bộ quản lý - học viên, giữ học viên với học viên và giữa các ngành học. Bằng mọi biện pháp phải tạo nên các tổ ấm sư phạm và nâng cao vai trò của nó trong giữ gìn, nuôi dưỡng, phát triển các giá trị tốt đẹp”[58, tr.9]. Giáo dục, phát triển NLSP cho học viên đào tạo CTV tàu là quá trình lâu dài, khó khăn, phức tạp; đòi hỏi sự kiên trì, nỗ lực tích cực cao của các lực lượng. Quá trình đó cần có sự tác động thường xuyên, liên tục tới các mặt nhận thức, tình cảm, ý chí và hành vi của học viên; cần phải căn cứ vào lôgíc của quá trình giáo dục và đặc điểm của đối tượng để có những tác động giáo dục phù hợp. Các biện pháp được đề xuất trên đây là một chỉnh thể thống nhất, luôn tác động hỗ trợ lẫn nhau nhằm rèn luyện, phát triển NLSP cho học viên ngày càng vững chắc. Vì vậy, trong quá trình giáo dục cần tiến hành một cách tích cực, chủ động, đảm bảo tính đồng bộ để đạt được hiệu quả cao. 2.6. Xây dựng mối quan hệ giữa nhà trường với đơn vị tàu nhằm ngày càng phát triển, hoàn thiện năng lực sư phạm Với tư cách là một quá trình – như nhiều quá trình xã hội khác, NLHĐSP; có sự khởi đầu, vận động, phát triển và kết thúc, bao giờ cũng diển ra trong một không gian và thời gian nhất định, bao giờ cũng gắn rất chặt với quá trình sống của các chủ thể thực thi nó. Điều đó nói lên rằng, NLHĐSP không phải là hình thành và phát triển tự phát mà là quá trình diễn có tổ chức chặt chẽ, có chương trình kế hoạch, nội dung và phương thức hoạt động huấn luyện, giáo dục. Tính tổ chức chặt chẽ của NLHĐSP còn được thể hiện sự kế tiếp nhau của các giai đoạn. Toàn bộ quá trình SPQS hoặc diễn ra trong các nhà trường quân sự, hoặc ở các quân binh chủng và đơn vị cơ sở; quy mô rộng hay hẹp, thời gian dài ngắn khác nhau là tùy theo yêu cầu của mục tiêu giáo dục – đào tạo của nghề nghiệp và chức trách quân nhân. Sản phẩm của quá trình SPQS được đánh giá về mặt chất lượng và hiệu quả gắn liền tất yếu với thực tiễn hoạt động quân sự. Tính quy luật này chỉ rõ: Mối quan hệ biện chứng giữa hai vấn đề lý luận và thực tiễn, giữa học và hành. Quá trình SPQS luôn luôn phụ thuộc và chịu sự chi phối một cách khách quan của những điều kiện hoạt động quân sự phong phú và đa dạng trong đó quá trình xây dựng và sẳn sàng chiến đấu là điều kiện thường xuyên, trực tiếp quy định toàn bộ huấn luyện giáo dục. Quy luật này còn đòi hỏi các quá trình bộ phận, các thành tố của quá trình SPQS để hướng vào chuẩn bị con người và các đơn vị cho nhiệm vụ chiến đấu, tạo tiền đề khách quan để từng cá nhân và tập thể đủ sức vượt qua những thử thách lớn nhất, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Hiệu quả của việc phát triển NLSP chỉ đạt được khi tất cả các quá trình, các thành tố của quá trình SPQS quán triệt sâu sắc đường lối chính trị quân sự của Đảng, phù hợp với yêu cầu của khoa học quân sự Mác – Lênin và sát với tình hình thực tiển của đất nước, Quân đội, với đặc điểm của chiến tranh tương lai, phải thấu suốt mọi nguyên lý giáo dục: Lý luận gắn với thực tiển, học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, nhà trường gắn liền với xã hội và đơn vị. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn việc giáo dục, phát triển NLSP cho học viên đào tạo đào tạo CBCT tàu ở HVHQ hiện nay, chúng tôi nhận thấy để nâng cao chất lượng này cần thực hiện tốt các biện pháp cơ bản là: - Kết hợp chặt chẽ giữa nâng cao trình độ kiến thức mọi mặt với bồi dưỡng tình cảm, xây dựng niềm tin sư phạm cho học viên trong quá trình dạy học - Thông qua tổ chức các hoạt động sư phạm để giáo dục, rèn luyện thói quen hành vi, phát triển năng lực sư phạm cho học viên - Nâng cao chất lượng tự giáo dục của học viên để phát triển năng lực sư phạm cho cán bộ chính trị tương lai - Phát huy vai trò, trách nhiệm của các lực lượng trong quá trình giáo dục nhằm phát triển năng lực cho học viên - Xây dựng môi trường sư phạm lành mạnh để giáo dục nhằm phát triển năng lực sư phạm cho học viên - Xây dựng mối quan hệ giữa nhà trường với đơn vị tàu nhằm ngày càng phát triển, hoàn thiện năng lực sư phạm Các biện pháp cơ bản trên đây có mối quan hệ biện chứng, tác động và thâm nhập vào nhau tạo thành thể thống nhất; trong quá trình thực hiện không được xem nhẹ biện pháp nào. Nếu được kết hợp đồng bộ, chặt chẽ thì chắc chắn sẽ góp phần nâng cao chất lượng phát triển NLSP cho học viên đào tạo CBCT tàu ở HVHQ hiện nay. Phản đối quan điểm của một số ít người cho rằng chỉ cần chú trọng rèn luyện tri thức về khoa học chuyên môn, có tri thức khoa học là làm được CTV, không cần quan tâm đến giáo dục, phát triển NLSP. Để hiện thực hóa các biện pháp trên đây và nâng cao chất lượng phát triển NLSP cho học viên đào tạo CBCT tàu ở HVHQ hiện nay chúng tôi xin kiến nghị: 1. Cần tiếp tục nghiên cứu phát triển lý luận giáo dục PCNC nói chung, phát triển NLSP cho học viên đào tạo CBCT tàu nói riêng; cũng như con đường, biện pháp giáo dục, phát triển NLSP cho học viên đào tạo CBCT tàu. 2. Nghiên cứu xây dựng mô hình chuẩn xác về phẩm chất và năng lực của người cán bộ, trong đó có CBCT tàu theo hướng chuẩn hóa về trình độ học vấn, sư phạm theo quy chuẩn quốc gia; chuẩn hóa về chức vụ theo quy chuẩn của Bộ Quốc phòng, xây dựng các phẩm chất đặc thù của người CBCT trong quân đội. 3. Thường xuyên đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp, hình thức tổ chức đào tạo giáo viên, nhất là giáo viên khoa KHXH - NV theo hướng tăng năng lực, kỹ năng thực hành và đề cao giáo dục, phát triển NLSP. Kết hợp chặt chẽ giữa tuyển chọn, đào tạo với sàng lọc trong quá trình đào tạo. 4. Cần có những chính sách ưu tiên hấp dẫn hơn đối với những cán bộ quân đội đảm nhiệm vai trò trong lĩnh vực HĐSP. Những năm gần đây quân đội đã có nhiều chính sách ưu tiên, ưu đãi giáo viên các cấp; tuy nhiên, nếu có chính sách tốt hơn, đặc biệt chính sách trong khâu sử dụng, quy hoạch cán bộ phù hợp với điều kiện bản thân, gia đình và tình hình nhiệm vụ của quân đội thì chắc chắn sẽ khả quan hơn.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docde_tai_chuan_548.doc
Tài liệu liên quan