Đề tài Phát triển và hoàn thiện ngân hàng nhà nước Việt Nam

Giai đoạn 1 ( Từ năm 1996 đến 2005 ) : Xây dựng nền tảng cơ sở cho chiến lược hội nhập và hội nhập bước đầu vào khu vực AFTA/ASEAN. Giai đoạn 2 ( Từ năm 2006 đến 2010 ) : Hội nhập toàn diện với ASEAN và bước đầu với tổ chức Thương Mại Thế Giới (WTO) . Giai đoạn 3 ( Từ năm 2010 đến 2020 ) : Hôi nhập và mở cửa hoàn toàn với thị trường thế giới . Như vậy, đây là một chiến lược mang tính tất yếu trong dài hạn, không những có nhiều khó khăn mà còn nhiều rủi ro, mạo hiểm, đòi hỏi sự nỗ lực không ngừng. Bên cạnh đó còn cần phải được tiến hành song song với những cải cách kinh tế Vĩ Mô. Kinh nghiệm cho thấy rằng những nước cố gắng tự do hóa tài chính tiền tệ trước khi thực hiện những cải cách khác sẽ để lại nhiều hậu quả. Và do đó, trọng trách đặt trên vai NHTW là rất rất lớn. NHTW với CSTT và các công cụ quản lý Vĩ Mô khác trong tay phải giải quyết một loạt các vấn đề như : +). Nới lỏng và tự do hóa lãi suất . +). Cân bằng thu chi NSNN . +). Quàn lý ngoại tệ và các thủ tục thành lập tổ chức tài chính tín dụng . +). Các chế độ hạn chế trong kinh doanh tài chính, vay vốn, sử dụng lao dộng, đất đai, và các ưu đãi về thuế thiếu bình đẳng giữa các doanh nghiệp trong nền kinh tế . +). Tăng cường sức cạnh tranh của các tổ chức tài chính, tiền tệ, hoạt động trong khuôn khổ pháp lý bình đẳng, phù hợp với cơ chế thị trường .

doc39 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1337 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phát triển và hoàn thiện ngân hàng nhà nước Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam : 1.2.2.1. Chức năng : Luật Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam (NHNNVN) tại các khoản 1, 2 điều 1 quy định : NHNNVN là cơ quan của Chính Phủ và là NHTW của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam . NHNNVN có các chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng, là ngân hàng phát hành tiền, ngân hàng của các tổ chức tín dụng và ngân hàng làm dich vụ tiền tệ cho Chính Phủ . Như vậy, nhìn chung, NHNNVN cũng như các NHTW của các quốc gia khác. Đều có 3 chức năng cơ bản nhằm ổn định giá trị của đồng tiền, góp phần bảo đảm an toàn trong hoạt động của hệ thống ngân hàng và các tổ chức tín dụng, điều tiết vĩ mô nền kinh tế ....Nhưng tuy nhiên, NHNNVN có một điểm khác biệt lớn nhất là ở chỗ thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội theo định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa . 1.2.2.2. Nhiệm vụ, quyền hạn : Để thực hiện các chức năng của mình, NHNNVN có các nhiệm vụ và quyền hạn chủ yếu sau đây : Thứ nhất : Với vị trí là cơ quan của Chính Phủ NHTW có nhiệm vụ và quyền hạn : +). Tham gia xây dựng các chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của nhà nước . +). Xây dựng các dự án CSTT quốc gia để Chính Phủ xem xét trình Quốc Hội quyết định và thực hiện các dự án này, xây dựng chiến lược phát triển hệ thống ngân hàng và các tổ chức tín dụng Việt Nam . +). Xây dựng các dự án luật, pháp lệnh và các dự án khác khác về tiền tệ và hoạt động ngân hàng, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật theo thẩm quyền . +). Quản lý việc vay và trả nợ nước ngoài của các Doanh Nghiệp . +). Chủ trì và lập theo dõi kết quả thực hiện cán cân thanh toán Quốc Tế +). Quản lý hoạt động ngoại hối và hoạt động kinh doanh vàng . +). Ký kết tham gia điều ước quốc tế về tiền tệ và hoạt động ngân hàng . +). Đại diện cho Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam tại các tổ chức tiền tệ và ngân hàng quốc tế khi được Chủ Tịch Nước và Chính Phủ ủy quyền . +). Tổ chức đào tạo và bồi dưỡng nghiệp vụ ngân hàng, nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ ngân hàng . Thứ hai : Với chức năng là cơ quan quản lý nhà nước, NHTW quản lý hệ thống ngân hàng thông qua các quyền và nhiệm vụ sau : +). Cấp, thu hồi giấy phép thành lập, hoạt động của các tổ chức tín dụng và giấy phép hoạt động ngân hàng của các tổ chức khác . Quyết định giải thể, chấp thuận chia tách, hợp nhất, sát nhập các tổ chức tín dụng theo quy định của pháp luật . +). Kiểm tra, thanh tra hoạt động của hệ thống ngân hàng, kiểm soát tín dụng, xử lý vi phạm trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng theo thẩm quyền . Thứ ba : Với chức năng la ngân hàng của các ngân hàng. NHTW có các nhiệm vụ và quyền hạn sau : +). Thông qua công cụ tái cấp vốn dưới hình thức tái chiết khấu và cầm cố thương phiếu và giấy tờ có giá ngắn hạn. NHNNVN tiếp ứng vốn ngắn hạn và phương tiện tái cấp vốn ngắn hạn cùng phương tiện thanh toán cho các tổ chức tín dụng. Ngoài ra NHTW còn thực hiện nghiệp vụ cho vay bắt buộc khi các tổ chức tín dụng tạm thời mất khả năng chi trả . +). NHNN tổ chức và vận hành thị trường tiền tệ gồm thị trường nội tệ liên ngân hàng và thị trường mua bán giấy tờ có giá ngắn hạn. Từ đó NHNN thực hiện nghiệp vụ thị trường mở để thực hiện CSTT Quốc Gia . +). Trong các trường hợp cấp bách, khi một số tổ chức tín dụng lâm vào tình trạng kiểm soát đặc biệt, để đảm bảo khả năng chi trả của các tổ chức tín dụng, NHNN có thể xem xét cho tổ chức tín dụng được vay khoản vay đặc biệt sau khi tổ chức đó sử dụng hết dự trữ bắt buộc, các khoản bảo toàn và bảo hiểm tiền gửi . +). NHNN mở tài khoản và thực hiện các giao dịch cho các tổ chức tín dụng như tổ chức thanh toán không dùng tiền mặt, thanh toán liên ngân hàng, thanh toán bù trừ. Đồng thời, NHNN còn thực hiện việc cung ứng các phương tiện thanh toán cho các tổ chức tín dụng . +). NHNN thu thập thông tin và cung ứng dịch vụ thông tin cho các tổ chức tín dụng về hoạt động kinh tế, tài chính và ngân hàng . Thứ tư : Với vai trò là ngân hàng của nhà nước , NHNNVN có các quyền hạn và nhiệm vụ : +). NHNN làm đại lý và thực hiện các dịch vụ tiền tệ cho KBNN +). NHNN tạm ứng cho Ngân Sách Trung Ương để xử lý thiếu hụt tạm thời quỹ Ngân Sách Nhà Nước (NSNN) theo quyết định của Thủ Tướng Chính Phủ. Khoản tạm ứng này phải được hoàn trả trong năm ngân sách, trừ trường hợp đặc biệt do Thủ Tướng Chính Phủ quy định . +). NHNN quản lý ngoại hối theo quy định của Chính Phủ thông qua việc mua và bán ngoại hối trên thị trường trong nước và mua bán thực hiện các giao dịch ngoại hối trên thị trường quốc tế nhằm thực hiện CSTT Quốc Gia, đảm bảo khả năng thanh toán của đất nước, bảo toàn dự trữ ngoại hối .... Thứ năm : Với tư cách là cơ quan duy nhất thực hiện chức năng phát hành tiền của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, NHNNVN có quyền hạn và nhiệm vụ : +). NHNN thiết kế mệnh giá, kích thước, trọng lượng, hình vẽ, hoa văn và các đặc điểm khác của tiền giấy, tiền kim loại trình Thủ Tướng Chính Phủ phê duyệt . +). NHNN tổ chức thực hiện việc in đúc, bảo quản, vận chuyển, phát hành, tiêu hủy tiền . +). NHNN quy định tiêu chuẩn phân loại tiền rách nát, hư hỏng. Đổi, thu hồi các loại tiền rách nát hư hỏng do quá trình lưu thông, không đổi những đồng tiền rách nát hư hỏng do hành vi phá hoại . +). NHNN thu hồi và rút khỏi lưu thông những loại tiền không còn thích hợp và phát hành các loại tiền khác thay thế . 1.3. HOẠT ĐỘNG CHỦ YẾU CỦA NHTW : Thông qua chức năng, quyền hạn, nhiệm vụ của NHNNVN hay NHTW chúng ta có thể hình dung ra các hoạt động của NHTW. Nhưng tuy nhiên hoạt động của NHTW nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam mang tính đặc thù riêng. Nó không đơn thuần chỉ là hoạt động quản lý nhà nước bằng các biện pháp hành chính mà thực hiện chức năng quản lý nhà nước chủ yếu thông qua các chính sách và các công cụ kinh tế vĩ mô, gắn liền với nền kinh tế thị trường hiện đại. Qua đó NHNN vừa kiểm soát có hiệu quả hoạt động tiền tệ và hệ thống ngân hàng vừa có khả năng sinh lời, đảm bảo điều kiện tồn tại và phát triển, đem lại các khoản thu cho NSNN mặc dù mục đích hoạt động của NHNN không phải là lợi nhuận. Từ các quyền hạn và nhiệm vụ đã trình bầy ở phần 1.2.2 ta có thể tiến hành phân chia các hoạt động của NHTW ra thành 7 nhóm chính : (1). Thực hiện CSTT quốc gia . (2). Phát hành tiền giấy và tiền kim loại . (3). Hoạt động tín dụng . (4). Hoạt động thanh toán . (5). Quản lý ngoại hối và hoạt động ngoại hối . (6). Thanh tra tổng kiểm soát của NHNN . (7). Hoạt động thông tin . CHƯƠNG II THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA NHNNVN 2.1. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH NHNNVN : T iền thân của NHNNVN là ngân hàng Đông Dương do Pháp thành lập (1875), nhằm để phục vụ cho cuộc viễn chinh của Pháp ở Đông Dương. Từ sau thành công của CM Tháng 8 (1945), chính quyền dân chủ nhân dân được xây dựng lại. Với chủ trương dành lấy độc lập, tự chủ trên mọi phương diện, Đảng và Nhà Nước ta đã dành nhiều quan tâm cho lĩnh vực tài chính tiền tệ. Quyết tâm xây dựng một nền tài chính tiền tệ độc lập . Nhưng tuy nhiên, do điều kiện kinh tế chính trị của đất nước ta trong giai đoạn này hết sức khó khăn, thực trạng nền kinh tế tài chính thì đổ nát, dân sinh thì nguy ngập với nạn đói và nạn dốt. Chính vì vậy, chúng ta đã không thể thiết lập mới một Ngân Hàng Quốc Gia (NHQG) mà chỉ có thể quốc hữu hóa ngân hàng Đông Dương, nhằm nhanh chóng phục vụ cho đất nước (1946). Ngày 3/2/1947 Chính Phủ ban hành sắc lệnh 14 thiết lập nha tín dụng trực thuộc Bộ Tài Chính. Ngày 6/5/1951, Chủ tịch nước Hồ Chí Minh kí sắc lệnh số 15/SL thành lập NHQGVN. Như vậy, NHNNVN chính thức ra đời theo mô hình một cấp của Xô Viết, có nghĩa là chỉ có một ngân hàng duy nhất song có nhiều nhánh và chỉ đạo trực tuyến từ trên xuống dưới. Ngày 26/3/1988, Theo quyết định số 53 của Hội Đồng Bộ Trưởng 53QĐ/HĐBT, NHQGVN chính thức chuyên thành 2 cấp gồm : (1). NHTW hay NHNNVN (2). Hệ thống các NHTM : +). Ngân Hàng Quốc Doanh . +). Ngân Hàng cổ phần ngoài quốc doanh . +). Ngân Hàng nước ngoài và các ngân hàng khác . 2.2. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA NHNNVN : 2.2.1. Trước năm 1988 : Thứ nhất : Chậm chạp trong bước khởi điểm là quốc hữu hóa ngân hàng Đông Dương của Pháp. Mặc dù theo lý thuyết Xô Viết là phải quốc hữu hóa ngay hệ thống ngân hàng. Chính vì vậy, cho đến cuối năm 1946, khi quốc hữu hóa xong ngân hàng Đông Dương thì thực dân Pháp và chính quyền tay sai đã kịp chạy hết tiền ra nước ngoài. Trong ngân hàng chỉ còn 30000 đồng bảng Đông Dương chờ tiêu hủy vì rách nát . Thứ hai : Hoạt động hết sức hạn chế về mọi mặt do phải đấu tranh tiền tệ với địch, nhằm giữ vững độc lập chủ quyền về tiền tệ . Thứ ba : Rập khuôn một cách máy móc hệ thống ngân hàng một cấp của Xô Viết, thiếu sự nghiên cứu điều chỉnh cho phù hợp với tình hình và đặc điểm của Việt Nam . Thứ tư : Sau chiến tranh quá chậm trễ trong việc tiến hành đổi mới. Cơ chế tài chính kiềm chế cùng với NHQG lạc hậu đầy mâu thuẫn đã làm cho nền kinh tế Việt Nam rơi vào tình trạng trì trệ và khủng hoảng trầm trọng. Thứ năm : Thị trường tài chính không được chú trọng nên không thể phát triển được, NHQG độc quyền đã không phát huy được vai trò gì hơn là một quỹ tiền tệ của chính phủ. Lạm phát đã không được thừa nhận vì quan điểm thiếu khoa học cho rằng : “ Lạm phát chỉ là bạn đường của CNTB, còn trong CNXH không có lạm phát “ . Và cho đến khi phải “ đưa lên bàn để phẫu thuật “ thì lạm phát đã ở mức phi mã và nhanh chóng chuyển sang siêu lạm phát ( Đỉnh cao là năm 1988, lạm phát đạt mức kỉ lục là 548% ). Thứ sáu : Công cụ cơ bản là lãi suất của ngân hàng không những không đáp ứng được vai trò đòn bẩy kích thích kinh tế phát triển, thu hút vốn đầu tư và tiết kiệm, mà còn cơ hội cho việc xô vào vay vốn ngân hàng để đầu cơ găm giữ hàng hóa chờ chênh lệch giá. Bên cạnh đó do lãi suất trần thấp làm cho lãi suất lãi suất thực âm, lãi suất cho vay nhỏ hơn lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay ngắn hạn lớn hơn lãi suất cho vay dài hạn . Tất cả những điều đó làm cho hoạt động của các ngân hàng thua lỗ. Nhà nước lại phải bao cấp bù lỗ bằng cách phát hành tiền. Lạm phát ngày càng tăng và tình hình kinh tế chính trị ngày càng rối ren hơn . 2.2.2. Sau năm 1988 : Sau khi thực hiện cải cách hệ thống ngân hàng vào cuối năm 1988 đầu năm 1989, chúng ta đã thu được những thành công nhất định trong việc thực thi CSTT và hoạt động của NHTW. Lạm phát đã được đẩy lùi và kiềm chế ở mức thấp, hoạt động của hệ thống ngân hàng ngày càng có hiệu quả hơn, đời sống nhân dân được cải thiện. Tuy nhiên vẫn còn rất nhiều hạn chế, yếu kém, đặc biệt là trong giai đoạn toàn cầu hóa nền kinh tế hiện nay : Thứ nhất : Sự yếu kém trong quản lý vĩ mô, buông lỏng trong quản lý vĩ mô của NHTW . Thứ hai : Sự pha tạp các yếu tố thị trường, bao cấp, hành chính trong cơ chế hoạt động ngân hàng.Đồng thời thông tin thiếu minh bạch đã không cho phép đánh giá đúng thực trạng hệ thống ngân hàng . Thứ ba : Việc hoạch định thực thi chính sách tiền tệ còn nhiều lúng túng, cơ chế quản lý ngoại hối thường xuyên thay đổi gây không ít khó khăn cho hoạt động kinh tế đối ngoại. Thị trường tiền tệ, thị trường tài chính phát triển chậm. Lãi suất cứng nhắc do NHTW quy định và áp dụng cho toàn bộ hệ thống ngân hàng . Thứ tư : Vị thế nhỏ bé của NHTW và sự phụ thuộc của NHTW vào Chính Phủ . Chính Phủ can thiệp quá sâu vào hoạt động của NHTW đồng thời NHTW lại can thiệp trực tiếp vào hoạt động của các NHTM. Do đó, tuy hình thức là hệ thống ngân hàng hai cấp nhưng vẫn bị tư tưởng hệ thống ngân hàng một cấp chi phối . Thứ năm : Yêu cầu hết sức cấp thiết về việc huy động vốn phục vụ cho chiến lược Công Nghiệp Hóa - Hiện Đại Hóa (CNH-HĐH) đất nước, tiến trình hội nhập kinh tế thế giới . CHƯƠNG III GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN VÀ HOÀN THIỆN NHTW T rong giai đoạn hiện nay là kỷ nguyên của toàn cầu hóa. Không một quốc gia nào có thể phát triển nếu không hội nhập nền kinh tế của mình với khu vực và trên thế giới. Trong đó, lĩnh vực tài chính tiền tệ là một lĩnh vực quan trọng và phức tạp nhất. Sự biến động tài chính tiền tệ mang tính toàn cầu và cực kì đa dạng. Các thế lực bên ngoài có thể tấn công trực tiếp trên mặt trận tiền tệ, phá vỡ an ninh tài chính quốc gia. Tốc độ và quy mô giao dịch tài chính trong và ngoài nước tăng lên nhiều lần thách thức hệ thống ngân hàng còn nhiều bất cập và lạc hậu. Chính điều đó dẫn đến một tất yếu khách quan là phải đổi mới, phát triển hơn nữa để hoàn thiện NHNNVN -- Trái tim của hệ thống ngân hàng . 3.1. CÁC GIẢI PHÁP TRONG NGẮN HẠN : Từ 2001 đến 2010, mục tiêu tổng quát của chiến lược hội nhập tài chính Việt Nam là : “ Hội nhập phải được thực hiện trên cơ sở giữ vững độc lập, chủ quyền quốc gia, thực hiện hội nhập hiệu quả và an toàn nhằm phát huy nội lực, khai thác tối đa và nội lực hóa các nguồn ngoại lực phục vụ cho mục tiêu phát triển kinh tế “ ( Những vấn đề chung của chiên lược tổng thể Tài Chính Tiền Tệ Việt Nam 2001-2010 – Bộ Tài Chính ) . Mở rộng quan hệ hợp tác tài chính tiền tệ song phương và đa phương giữa Việt Nam với các nước và các tổ chức kinh tế, tài chính quốc tế. Thiết lập đầy đủ hệ thống giám sát tài chính với một hành lang an toàn vừa đảm bảo môi trường thông thoáng cho việc khai thác tối đa các nguồn lực bên ngoài phục vụ cho sự phát triển kinh tế xã hội Việt Nam, vừa có khả năng kiểm soát, phòng ngừa các rủi ro và ngăn chặn các ảnh hưởng xấu từ bên ngoài. Việt Nam sẽ hội nhập chủ động, hiệu quả và an toàn vào khu vực AFTA/ASEAN và mức độ mở cửa thị trường hàng hóa, dịch vụ, tài chính. đầu tư sẽ đạt và ngang bằng với các nước trong khu vực. Về cơ bản sẽ thiết lập được nền tảng thể chế kinh tế và pháp lý để hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế khu vực và thế giới . Trọng điểm của chiến lược hội nhập đó là đổi mới lĩnh vực tài chính tiền tệ. Trong đó đẩy mạnh tốc độ đổi mới, hoàn thiện NHTW là quan trọng nhất. Vi thế, trong ngắn hạn các giải pháp để có thể thực hiện được điều đó bao gồm : 3.1.1. Hiện đại hóa NHTW : Với tốc độ phát triển như vũ bão của Khoa Học Công Nghệ (KHCN), trong giai đoạn hiện nay, một ngân hàng cũ kĩ lạc hậu không thể đảm bảo được yêu cầu phát triển và đặc biệt nếu nó lại là NHTW. Vấn đề hiện đại hóa NHTW phải được tiến hành sớm nhất có thể. Việt Nam nằm trong khu vực Đông Nam Á và tham gia ASEAN. Vì thế chúng ta có thể tham khảo những kinh nghiệm trong vấn đề hiện đại hóa ngân hàng của những nước có hệ thống tài chính tiển tệ phát triển hơn. Tiêu biểu trong số đó là Indonesia ( Xem phụ lục - Khung 7.5 : Hiện Đại Hóa Ngân Hàng : Kinh nghiệm của Indonesia ). Để từ đó rút ra hướng đi chính xác cho mình. Chương trình hiện đại hóa NHNNVN, theo tôi, có thể bao gồm 3 bộ phận : Về công nghệ, về vận hành, và về tài chính. 3.1.1.1. Bộ phận công nghệ của chương trình : Đó là một hệ thống tự động hóa toàn bộ các hoạt động của ngân hàng, áp dụng công nghệ ngân hàng tiên tiến và đặc biệt là áp dụng công nghệ thông tin quản lý. Thông tin phải trở thành công cụ không thể thiếu của NHTW nhằm đưa ra những hoạt động dự báo, ra quyêt định, điều hành vĩ mô, đủ năng lực tiếp cận sâu với thị trường, phát hiện và xử lý kịp thời, đặc biệt là điều hành các công cụ của CSTT và phục vụ đắc lực cho hoạt động giám sát bảo vệ tính ổn định của hệ thống : +). Trước mắt, mạng thông tin NHTW cần được cải thiện ở các thành phố và các tỉnh có các NHTW lớn . +). Ứng dụng công nghệ thông tin ngân hàng vào hệ thống thanh toán quốc gia và các mạng thanh toán của các NHTM. NHTW phải thực hiện dự án hệ thống thanh toán quốc gia giai đoạn I. Với hệ thống này sẽ nâng cao tốc dộ, độ chính xác của hoạt động thanh toán. Tuy nhiên phạm vi ứng dụng còn hạn chế, trong thời gian tới cần có dự án mở rộng hoàn chỉnh . +). Cần sớm đưa thanh toán điện tử vào xử lý tài khoản giao dịch khách hàng và thiết lập hệ thống quản lý điện tử trong hoạt động thị trường của các ngân hàng . +). Phải phát triển hình thức giao dịch mới là Thương Mại Điện Tử. Mặc dù trong điều kiện hiện nay chưa cho phép triển khai rộng, nhưng chúng ta không thể để mất cơ hội đó. Nghĩa là cần phải xúc tiến trước với các khách hàng, nỗ lực chuẩn bị và đáp ứng các yêu cầu của khách hàng . Trong 5 năm vừa qua, bộ phận công nghệ là bộ phận được thực hiện khá nhanh. Nhưng tuy nhiên chúng ta không được nóng vội mà phải có sự nghiên cứu, tìm hiểu kỹ lưỡng. Bởi lẽ hiện đại hóa công nghệ ngân hàng không có nghĩa là chỉ cần nhập công nghệ tiên tiến nhất về là xong mà phải lựa chọn được công nghệ tiến bộ nhưng phải phù hợp với chính sách và điều kiện phát triển của đất nước . 3.1.1.2. Bộ phận về vận hành : Bao gồm những nỗ lực nhằm nâng cao chất lượng hoạt động. Cần phải học tập và nghiên cứu về công nghệ đang được áp dụng để có thể vận hành được tốt nhất công nghệ đó. Đây là vấn đề rất quan trọng, bởi lẽ công nghệ tiên tiến mà không biết sử dụng hoặc sử dụng không có hiệu quả thì cũng như công nghệ lạc hậu. Đồng thời, phải giảm điều tiết quá sâu vào hệ thống ngân hàng và các tổ chức tín dụng. Sửa đổi toàn diện các thủ tục của ngân hàng trong việc quản lý tài sản nợ, tài sản có. Cuối cùng là có thể tiến hành cổ phần hóa, thu hút vốn của tư nhân nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động và tạo nguồn lực vật chất cho việc hiện đại hóa NHTW . 3.1.1.3. Bộ phận về tài chính : Vấn đề tài chính cho đầu tư đổi mới cơ sở hạ tầng, hiện đại hóa công nghệ ngân hàng là vấn dề rất quan trọng. Nó giúp ta giải quyết câu hỏi : Bước đi nào thích hợp để đảm bảo mối quan hệ giữa tăng đầu tư và hiệu quả mang lại. Đây là vấn đề cần xem xét lại từ thực tiễn mấy năm qua, rút ra những kinh nghiệm cần thiết trong lựa chọn những dự án đầu tư đổi mới thích hợp. Đảm bảo hiệu quả trong ngắn hạn và cả các yêu cầu trong dài hạn. Đầu tư cho đổi mới phải có vị trí xứng đáng trong chiến lược sử dụng nguồn tài chính của NHTW. Ngoài ra, cần tiếp tục tìm kiếm nguồn lực trong và ngoài nước để thích ứng kịp thời với yêu cầu phát triển . 3.1.2. Xác định mối quan hệ giữa NHTW và các cơ quan có liên quan : 3.1.2.1. Mối quan hệ giữa NHTW và Chính Phủ : Như đã trình bầy ở phần cơ sở lý luận, cho đến nay trên thế giới có 2 mô hình tổ chức và quản lý của NHTW : NHTW trực thuộc Chính Phủ và NHTW trực thuộc Quốc Hội.Với NHTW trực thuộc Quốc Hội sẽ được độc lập với Chính Phủ và do đó sẽ được quyền chủ động trong việc thực thi CSTT. Chẳng hạn như FED (NH dự trữ liên bang Hoa Kỳ) trực thuộc Quốc Hội và hoàn toàn độc lập với Chính Phủ. Hội Đồng Quản Trị gồm 7 thành viên, nhiệm kì 14 năm. Tổng thống chỉ được phép bổ nhiệm hoặc miễn nhiệm 2/7 thành viên. Do đó về mặt quyết định là chưa quá bán. Điều đó làm cho FED hầu như độc lập hoàn toàn với Chính Phủ, với tổng thống và điều hành có hiệu quả nền Tài Chính Tiền Tệ của nước Mỹ. Đối với Việt Nam, NHNNVN là NHTW trực thuộc Chính Phủ , là cơ quan của Chính Phủ, làm nhiệm vụ hoạch định chính sách và quản lý vĩ mô toàn bộ hệ thống ngân hàng. Tuy vậy thực trạng NHNNVN trong giai đoạn vừa qua là sự can thiệp quá sâu của Chính Phủ. Chính Phủ can thiệp vào NHTW kể cả trong việc hoạch định và thực thi CSTT. Về mặt cơ cấu tổ chức : Thống đốc NHNNVN tương đương với một bộ trưởng. Hội Đồng Thống Đốc có 11 người ngoài ra còn có thêm một người được Thủ Tướng Chính Phủ cử vào Hội Đồng Thống Đốc với mục đích giám sát hoạt động của NHTW. Như vậy, vị thế của NHTW hết sức nhỏ bé, chỉ như một công cụ dễ bị Chính Phủ lạm dụng cho việc phát hành tiền. Hơn thế nữa sự kết hợp giữa NHTW và Chính Phủ còn nhiều bất cập. Nhất là khi hai bên hành động ngược ý nhau . Trong thời gian tới, vấn đề cấp thiết phải quyết để hoàn thiện NHTW là cần phải xác định một cách đúng đắn vị thế NHNNVN là một cơ cấu độc lập với Chính Phủ. Chịu trách nhiệm trước Quốc Hội về hoạt động của hệ thống ngân hàng Việt Nam. Nắm trong tay công cụ quan trọng nhất để quản lý nền kinh tế Vĩ Mô là CSTT. NHNNVN được quyền xây dựng và vận động CSTT một cách độc lập, phù hợp và đồng bộ với đường lối chính sách, tạo điều kiện cho phát triển kinh tế đất nước theo định hướng XHCN . 3.1.2.2 Mối quan hệ giữa NHTW với NHTM và các tổ chức tín dụng : Thứ nhất : Về mô hình tổ chức : Phải phân biệt rõ ràng ranh giới giữa NHTW và NHTM, NHTM và các tổ chức tín dụng, các tổ chức trung gian tài chính phi ngân hàng . Thứ hai : Về mô hình quản lý : Phải thay đổi một cách triệt để phương thức quản lý của NHNN với NHTM và các tổ chức tín dụng. Nếu như trước kia có lúc NHNN vẫn can thiệp quá sâu vào hoạt động kinh doanh của các NHTM và các tổ chức tín dụng bằng nhiều cách như : Quy định lãi suất cứng ; Giới hạn lãi suất trần, lãi suất sàn ; Thực hiện tín dụng chỉ đạo ; Hay sâu hơn nữa là thành lập một hệ thông các văn phòng đại diện của NHNN tại các ngân hàng chuyên doanh ở nhiều quận huyện để kiểm soát, quản lý và tổ chức thanh toán. Thì trong giai đoạn hiện nay, nhất thiết phải giải quyết mối quan hệ quản lý đó bằng cách : (1). Phải đảm bảo quyền tự chủ tài chính, tự chủ kinh doanh, và tôn trọng tính tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động kinh doanh của các NHTM. Cấm mọi sự can thiệp hành chính vào hoạt động của các tổ chức ngân hàng . (2). Phai tôn trọng yếu tố thị trường trong hoạt động ngân hàng. Phải tạo điều kiện cho các NHTM và các tổ chức tín dụng tài chính khác hoạt động bình đẳng theo định hướng XHCN . (3). Chuyển phương thức quản lý hành chính trực tiếp sang quản lý bằng cơ chế, chính sách và các công cụ kinh tế Vĩ Mô. Trong tương lai chuyển dần các công cụ và biện pháp trực tiếp sang gián tiếp . 3.1.3. Nâng cao hiệu quả vận hành CSTT ( Điều hành nền Kinh Tế Tài Chính Tiền Tệ ) của NHTW : CSTT là hoạt động cơ bản và chủ yếu nhất của NHTW, có thể nói CSTT là linh hồn xuyên suốt mọi hoạt động của NHTW. Các hoạt động khác của NHTW đều nhằm thực thi CSTT đạt được những mục tiêu của nó. Chính vì vậy, nâng cao hiệu quả vận hành CSTT cũng chính là nâng cao hiệu quả hoạt động của NHTW. Đó cũng là một tất yếu khách quan không thể thiếu trong quá trình hoàn thiện NHNNVN . Trước hết, để có thể vận hành CSTT một cách có hiệu quả cần phải xác định được một mục tiêu đúng đắn, cần phải định hướng được trong thời gian tới (2001-2010), mục tiêu của CSTT là gì, hoạt động của CSTT nhằm mục đích gì ? 3.1.3.1. Mục tiêu của CSTT : Nhìn tổng quát và có chiến lược lâu dài thì các mục tiêu của CSTT có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, hỗ trợ và thúc đẩy nhau phát triển. Điều đó cho thấy rằng, trong quá trình thực thi CSTT không thể tuyệt đối hóa một mục tiêu nào, không thể giải quyết độc lập một mục tiêu nào trên tầm vĩ mô. Thực tiễn các nước phát triển theo cơ chế thị trường cho thấy, trong giai đoạn đầu của quá trình CNH-HĐH cần phải kiên trì và nhất quán với mục tiêu ổn định vững chắc sức mua, gắn liền với củng cố, nâng cao địa vị uy tín của đồng bản địa. Đối với Việt Nam cũng vậy, mục tiêu tổng quát của chặng đường 10 năm chính là đưa VNĐ thành một đồng tiền mạnh và có uy tín trong khu vực. Trên cơ sở đó thực hiện chuyển đổi tự do vào cuối giai đoạn 2001-2010 . Trên cơ sở mục tiêu tổng quát đó, Bộ Tài Chính đưa ra 3 mục tiêu cơ bản như sau : (1). Duy trì sự ổn định giá trị của VNĐ mà trọng tâm là kiềm chế lạm phát ở mức thấp hơn nhịp độ tăng trưởng kinh tế, ổn định ở mức 6 - 7% / năm, góp phần phát triển kinh tế cao và bền vững . (2). Đảm bảo sự phù hợp giữa tổng phương tiện thanh toán và nhu cầu của nền kinh tế, phát triển hệ thống thanh toán, mở rộng phạm vi thanh toán không dùng tiền mặt. Duy trì cán cân thanh toán lành mạnh và nằm trong phạm vi an toàn . (3). Duy trì hành lang an toàn về tài chính, đảm bảo an ninh tiền tệ trong mở cửa, hội nhập . 3.1.3.2. Nâng cao hiệu quả sử dụng các công cụ trong CSTT : CSTT của NHTW được vận hành thông qua các công cụ : Nghiệp vụ thị trường mở ; Chính sách chiết khấu ; Tỷ lệ dự trữ bắt buộc ; Kiểm soát hạn mức tín dụng ; Quản lý lãi suất của các NHTM. Việt Nam hiện nay đang trong giai đoạn phát triển nhanh và ổn định, do vậy Chính sách kiểm soát hạn mức tín dụng và Quản lý lãi suất của các NHTM trong giai đoạn hiện nay là không còn thích hợp. Bởi lẽ 2 chính sách trên chỉ được NHTW sử dụng khi các công cụ truyền thống kém hiệu quả, nền kinh tế tài chính tiền tệ có nhiều bất ổn. Đông thời việc sử dụng 2 chính sách đó sẽ phát sinh nhiều hậu quả nặng nề như : +). Giảm tính cạnh tranh trên thị trường tiền tệ . +). Lãi suất thị trường tăng, cứng nhắc và phát sinh các thị trường tài chính ngầm ngoài sự kiểm soát của NHTW . +). Lệch lạc cơ cấu đầu tư của NHTM và gây khó khăn về vốn cho các doanh nghiệp nhỏ . Chính vì thế, phù hợp với tình hình Việt Nam giai đoạn hiện nay, tôi chỉ đề cập đến 3 công cụ đầu tiên. Trong đó tập trung vào nghiệp vụ Thị Trường Mở - một công cụ có thể nói là tốt nhât và ít để lại hậu quả nhất của NHTW . (1). NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ : Nghiệp vụ Thị Trường Mở là việc NHTW tiến hành mua và bán các chứng khoán có giá, mà chủ yếu là tín phiếu KBNN, trái phiếu Chính Phủ. Nhằm thay đổi lượng tiền cung ứng. Với nghiệp vụ Thị Trường Mở, NHTW có thể kiểm soát hoàn toàn lượng nghiệp vụ thị trường tự do, điều chỉnh cung tiền một cách linh hoạt, chính xác đồng thời ít tốn kém về chi phí và thời gian . Các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động Thị Trường Mở - Công cụ quan trọng nhất trong giai đoạn hiện nay gồm : Thứ nhất : Phải mở rộng phương thức phát hành trái phiếu Chính Phủ để huy động được tối đa các nguồn lực trong xã hội. Điều này được thực hiện bằng cách phát triển trái phiếu Chính Phủ trên cả thị trường sơ cấp và thứ cấp, số lượng trái phiếu được tung ra thị trường một cách hợp lý và thường xuyên. Trong đó đặc biệt chú ý đến phương thức phát hành hiện đại theo hình thức bán buôn để thúc đẩy giao dịch trên thị trường thứ cấp. Việc hình thành và phát triển thị trường thứ cấp phải chú ý cả ở thị trường tập trung và phi tập trung . Thứ hai : Phải xây dựng chiến lược quản lý nợ tốt. Nhằm nâng cao hiệu quả và tính thanh khoản của trái phiếu chính phủ, lịch phát hành trái phiếu Chính Phủ phải được công bố rõ ràng, tạo ra chuẩn mực thị trường bằng cách tái phát hành một cách có hệ thống trái phiếu có cùng ngày đáo hạn . Thứ ba : Phải đa dạng hóa các thời hạn của trái phiếu Chính Phủ, bên cạnh những trái phiếu có thời hạn 3 năm, 5 năm thì cần có những loại 10 năm hoặc thậm chí 30 năm. Nhằm phục vụ tốt cho cả hai mục đích : Ôn định tiền tệ, lạm phát trong ngắn hạn và Phát triển kinh tế bền vững trong dài hạn . Thứ tư : Xác định lãi suất một cách khoa học, gắn liền với các công cụ lãi suất khác cũng như căn cứ vào tình hình kinh tế để lãi suất trái phiếu Chính Phủ là lãi suất chuẩn trên thị trường và có tác động tích cực tới nền kinh tế . ĐỒ THỊ : Diễn biến lãi suất bình quân của các loại tín phiếu KBNN, trái phiếu Chính Phủ : 0 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 10% 15% 20% 0% 25% 30% Lãi Suất Năm 5% : Trái phiếu bán lẻ kì hạn 2 năm : Trái phiếu đấu thầu kì hạn 1 năm Qua đồ thị đó ta có thể thấy rằng lãi suât trái phiếu Chính Phủ có xu hướng giảm dần, mang tính thị trường ngày càng cao và phù hợp với tình hình kinh tế xã hội. Cần phải tiếp tục phát triển hình thức đấu thầu trái phiếu trong thời gian tới để lãi suất trái phiếu Chính Phủ đóng vai trò là lãi suất chuẩn trên thị trường và phù hợp hơn với lãi suất các nước trong khu vực . Thứ năm : Thiết lập thị trường chứng khoán để đẩy mạnh hoạt động thị trường mở. Bởi lẽ thị trường chứng khoán là một thành tố hết sức quan trọng đối với các nền kinh tế đang phát triển và là vấn đề rất bức xúc của Việt Nam. Trong giai đoạn hiện nay, để giải quyết được các mục tiêu kinh tế xã hội đến năm 2010 thì nhu cần phải có một lượng cung về vốn rất lớn. Do vậy cần thiết phải thành lập thị trường chứng khoán để khai thông các nguồn vốn, tập trung nguồn lực tài chính phục vụ cho công cuộc phát triển kinh tế. Trong thị trường chứng khoán thì thị trường trái phiếu Chính Phủ là một bộ phận cấu thành trọng yếu, thị trường trái phiếu Chính Phủ có số lượng phát hành va giao dịch lớn. Đồng thời trái phiếu Chính Phủ có độ rủi ro thấp và lãi suất được coi là chuẩn (benchmark) trên thị trường. Vì thế, vai trò của thị trường trái phiếu Chính Phủ đối với sự phát triển của thị trường chứng khoán là rất lớn, đặc biệt là trong giai đoạn mới thành lập. Ngược lại, sự ra đời của thị trường chứng khoán sẽ có tác động rất tích cực đối với thị trường trái phiếu Chính Phủ. Nó tạo điều kiện cho việc giao dịch trái phiếu Chính Phủ được dễ dàng, góp phần nâng cao khả năng huy động trái phiếu, đặc biệt là trái phiếu trung hạn và dài hạn, mặt khác nó còn mở rộng thêm một số phương thức phát hành trái phiếu Chính Phủ hiện đại như : Bảo lãnh phát hành ; Đấu thầu trái phiếu Chính Phủ qua thị trường chứng khoán tập trung . Thứ sáu : Tạo lập các khuôn khổ pháp lý cho thị trường trái phiếu Chính Phủ gồm : +). Xây dựng các đạo luật về huy động vốn cho NSNN và đầu tư phát triển . +). Thiết lập các khuôn khổ pháp lý về thị trường chứng khoán và giao dịch chứng khoán . (2). CHÍNH SÁCH CHIẾT KHẤU (CSCK) VÀ TÁI CHIẾT KHẤU (TCK) : CSCK và TCK là một công cụ khá quan trọng trong việc thực thi CSTT của NHTW. Với chính sách này NHTW sẽ đóng vai trò là người cho vay cuối cùng của nền kinh tế để tránh những cơn sụp đổ về tài chính trong hệ thống ngân hàng. Trong giai đoạn này, chính sách này được gọi là chính sách truyền thống cổ điển vì hiệu quả thấp và chi phí cao. Mặt khác NHTW thường bị động trong việc điều tiết lượng tiền cung ứng. Bởi vì NHTW chỉ có thể điều tiết CSCK và TCK chứ không thể buộc các NHTM phải tiến hành vay ở NHTW. Chính vì vậy, thời gian tới NHTW cần phải nới lỏng CSCK va TCK, tạo điều kiện cho các NHTM tăng khả năng kinh doanh, tăng tốc độ luân chuyển vốn, đáp ứng được nhu cầu về vốn cho sự nghiệp CNH-HĐH đất nước . (3). CHÍNH SÁCH TỶ LỆ DỰ TRỮ BẮT BUỘC : Tỷ lệ dự trữ bắt buộc là một công cụ rất mạnh trong việc điều hành CSTT. Bởi lẽ chỉ cần thay đổi 1 lượng nhỏ tỷ lệ dự trữ bắt buộc cũng sẽ ảnh hưởng rất lớn đến lượng tiền gửi mới được tạo ra. Cụ thể là sẽ ảnh hưởng theo hệ số nhân tiền tệ ( Hệ số nhân tiền tệ = 1 : ( Tỷ lệ dự trữ bắt buộc ) - ( theo thuyêt tạo tiền của các NHTM ). Chính vì thế việc hoạch định, sử dụng chính sách dự trữ bắt buộc cần phải hết sức thận trọng trong từng hoàn cảnh cụ thể. Với chính sách phát triển kinh tế như hiện nay, công cụ dự trữ bắt buộc đóng vai trò thứ yếu bởi lẽ nó phức tạp, kém linh hoạt và để lại nhiều hậu quả. Đặc biệt là ảnh hưởng đến lợi nhuận của các NHTM. Do đó hướng giải quyết là phải giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc xuống từng bước, nhưng vẫn phải đảm bảo độ an toàn trong hoạt động kinh doanh của hệ thông ngân hàng . 3.1.3.3. Nâng cao quyền hạn và nhiệm vụ của NHTW trong việc điều hành nền kinh tế Vĩ Mô : Dưới đây là một số những đề xuất về việc nâng cao quyền hạn và nhiệm vụ của NHTW trong việc thực thi CSTT, cũng như trong các hoạt động điều tiết quản lý khác. Tạo điều kiện cho NHTW phát huy hết khả năng của minh vận hành hiệu quả nền kinh tế vĩ mô : (1). Cho phép NHTW chủ động trong việc điều tiết lượng tiền cung ứng cho lưu thông tiền tệ. Đảm bảo cơ sở pháp lý để NHTW thực thi đầy đủ vai trò, chức năng, trách nhiệm vốn có của mình. (2). Thực hiện cấu trúc lại hệ thống NHTW theo vùng, địa bàn kinh tế, loại bỏ sự can thiệp của chính quyền địa phương vào hoạt động của các chi nhánh NHTW, đảm bảo tính thống nhất trong toàn bộ hệ thống . (3). Nghiên cứu phương án tách chức năng quản lý, giám sát nhà nước đối với hoạt động, kinh doanh tiền tệ, dịch vụ ngân hàng, tài chính ra khỏi NHTW. Đảm bao sự can thiệp của nhà nước, chính phủ vào lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng phải tuân thủ luật pháp hiện hành, tôn trọng quy luật kinh tế . (4). Tôn trọng cơ chế thị trường trong chính sách lãi suất, cơ chế quản lý ngoại hối, chính sách huy động và sử dụng các nguồn vốn ngoài nước. Tiếp tục định hướng thu hẹp khoảng cách chênh lệch giữa các loại tỉ giá, ổn định cơ chế quản lý ngoại hối và chính sách tài chính đối ngoại nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế phát triển . (5). Chú trọng nâng cao năng lực phân tích, dự báo diễn biến tài chính tiền tệ và hiệu quả khi điều chỉnh chính sách giải pháp . (6). Tiếp tục hoàn chỉnh chính sách cung ứng tiền tệ, kiểm soát được M1, M2, M3 nhất là M2. Mặt khác phải tính đến các yếu tố mở rộng hay thu hẹp của các chính sách tài chính tiền tệ khác nhằm đảm bảo sự cân bằng tương đối trên thị trường tiền tệ . (7). Chuẩn bị các điều kiện kinh tế, pháp lý, và kỹ thuật để chuyển sang sử dụng và điều chỉnh lãi suất cơ bản thay cho các biện pháp mang tính hành chính, áp đặt hiện nay, xóa bỏ việc quy định lãi suất trần, thị trường hóa đầu ra, đầu vào trong hoạt động tín dụng, thực hiện đầy đủ quyền tự quyết định lãi suất huy động, cho vay căn cứ vào tình hình thị trường, thời điểm huy động và đối tượng cho vay . 3.1.4. Kiện toàn lại nền tảng pháp lý của NHTW : Nền tảng pháp lý, khuôn khổ pháp lý là một thành tố cực kì quan trọng và là điều kiện tiên quyết để thực hiện các giải pháp nhằm hoàn thiện NHTW. Đặc biệt nó có ý nghĩa rất lớn ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, khi chúng ta đang chuyển đổi nền kinh tế từ kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Việc kiện toàn lại khung pháp lý của NHTW trong thời gian tới cần tập trung vào những vấn đề sau : Thứ nhất : Tính hoàn chỉnh, đồng bộ trong các văn bản pháp luật của NHNNVN và hệ thống NHTM và các tổ chức tín dụng. Luật pháp thị trường tài chính, luật pháp gắn với thanh tra, giám sát, luật pháp quản lý ngoại hối . Thứ hai : Đảm bảo hiệu lực pháp lý cao đối với cả hai phía : Cơ quan quản lý, giám sát luật và Người chấp hành. Đảm bảo mọi quan hệ thực hiện theo luật pháp. Thứ ba : Đảm bảo sự độc lập, tự chủ cho các ngân hàng, tổ chức tín dụng trong kinh doanh, ngăn ngừa có hiệu quả bất kì sự can thiệp, nhiễu sự phi luật pháp từ phía cơ quan quản lý, giám sát nhà nước . Thứ tư : Khẩn trương tiến hành cải cách hành chính trong công tác tài chính và hoạt động ngân hàng. Trong đó, tập trung vào việc xây dựng hệ thống pháp luật tài chính, tiền tệ đồng bộ và ổn định. Hiện đại hóa công nghệ và quy trình quản lý tài chính tiền tệ. Thứ năm : Luật pháp phải hướng tới sự phù hợp, tương đồng với quốc tế phục vụ cho hội nhập mở cửa tài chính. Nếu luật pháp không hoàn chỉnh, đầy đủ thì hoạt động kinh doanh tiền tệ, tín dụng, ngân hàng sẽ rối loạn và không quản lý nổi. Ngược lại, nếu xây dựng và hoàn thiện được vấn đề luật pháp của NHTW thì sẽ tạo điều kiện cho hoạt động của NHTW và từ đó tạo điều kiện cho toàn bộ hệ thống ngân hàng phát triển vững chắc . 3.1.5. Thanh tra, giám sát ngân hàng và lĩnh vực tài chính tiền tệ một cách có hiệu quả : “ Thanh tra ngân hàng có hiệu quả “ là một cụm từ quốc tê hóa, từ ý tưởng của Ủy ban BASLE khi nêu lên 25 nguyên tắc tổ chức và hoat động của thanh tra ngân hàng. Đây là một lĩnh vực hết sức quan trọng mà không một quốc gia nào xem nhẹ. Đối với Việt Nam, thanh tra giám sát ngân hàng và lĩnh vực tài chính tiền tệ là mặt trọng tâm, cơ bản trong quản lý nhà nước, là chìa khóa đảm bảo an ninh tài chính trong phát triển. Đồng thời là công cụ quan trọng ngăn chặn tham nhũng, vi phạm trật tự kỉ cương tài chính trong lĩnh vực ngân hàng. Xây dựng một hệ thống thanh tra đủ khả năng thích ứng, đủ mạnh để giữ cho hệ thống ngân hàng phát triển bền vững là một công việc vô cùng cấp bách của các thế hệ hiện tại và cả trong tương lai . Trước mắt, cần tăng cường quyền hạn thanh tra, giám sát lớn hơn cho NHTW. Nghiên cứu chính sách chung để chỉ đạo toàn bộ hệ thống thanh tra, tập trung về một đầu mối, tránh phân tán, chồng chéo. Đổi mới phương pháp thanh tra hợp lý hơn là từ trên xuống dưới. Về lâu dài, cùng với việc kiện toàn công tác kế toán, kiểm toán, công khai hóa, tạo dựng cơ sở dữ liệu, thông tin cần phải tách toàn bộ công tác quản lý giám sát nhà nước ra khỏi NHTW. Xây dựng hệ thống giám sát tập trung có quy chế độc lập cao, giám sát toàn bộ hoạt động tài chính của Chính Phủ, Bộ Tài Chính, Hệ thống ngân hàng. Bên cạnh đó, cần phải tập trung vào vấn đề con người. Bởi lẽ, thanh tra viên chính là yếu tố quan trọng của thành công và hiệu quả. Ở các nước, thanh tra ngân hàng là một nghề nghiệp được xã hội kính trọng, đông thời thu nhập của họ cũng tương đương với cấp phó tổng giám đốc một NHTM. Có như vậy thì cán bộ thanh tra ngân hàng mới có thể yên tâm với nghề nghiệp của mình. Hơn nữa, những thanh tra viên phải là người có trình độ tương xứng với vị trí của mình. Như ở Malaisia, các cấp thanh tra viên được mở rộng bằng nhiều nấc thang, bao gồm từ cấp 1 (PBV) cho đến cấp 5 (PBES). Điều đó tạo điều kiện cho thanh tra viên liên tục học tập không ngừng nâng cao trình độ của mình trong suốt cuộc đời. Như vậy, cách thức của các nước đã làm là những bài học quý cho chúng ta. Chúng ta cần có những định hướng đúng ngay từ trong ngắn hạn để trong dài hạn chúng ta sẽ không gặp phải những lúng túng trong cơ cấu tổ chức hệ thống, trong đào tạo và bố trí cán bộ, trong chuẩn hóa các tiêu chuẩn, trong chính sách đãi ngộ thanh tra viên và trong việc giữ lại những cán bộ giỏi, cán bộ tâm huyết với nghề nghiệp thanh tra ngân hàng . Đề cập đến vấn đề xây dựng hệ thống thanh tra ngân hàng hiệu quả lại có liên quan đến hàng loạt những khâu quan trọng khác. Trong đó, nổi lên là vấn đề chi phí để xây dựng hệ thống. Cần phải thấy được rằng, chi phí đó là rất lớn, không phải chỉ ở nước ta mà các nước khác cũng vậy. Nhưng dù có lớn thì chúng ta cũng phải làm ngay. Bởi lẽ, theo một tài liệu của Ủy ban BASLE đã tổng kết rằng : “ Thanh tra ngân hàng muốn có hiệu quả thì rất tốn kém, nhưng nếu thanh tra ngân hàng yếu kém thì càng tốn nhiều hơn. Nếu chi cho thanh tra ngân hàng hàng triệu, hàng chục triệu, thì chi cho các vấn đề của hệ thống tài chính gây ra bởi thiếu sự thanh tra giám sát có hiệu quả thì có thể lên tới hàng trăm hoặc thậm chí hàng ngàn triệu “ . 3.2. CÁC GIẢI PHÁP TRONG DÀI HẠN : 3.2.1. Kiện toàn bộ máy hành chính, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ : Kiện toàn bộ máy hành chính, nâng cao chât lượng đội ngũ cán bộ rõ ràng là công việc cần phải làm ngay, nhưng cần phải nhận thức được rằng đó không thể là công việc có thể hoàn thành trong chốc lát. Đây là công việc của dài hạn. Việc đề ra các chính sách, các quy định nhằm xây dựng lại bộ máy hành chính, tinh giảm biên chế hay nâng cao trình độ nhân viên có liên quan mật thiết đến vấn đề con người. Và chính vì thế, nó trở thành một mục tiêu rất phức tạp, buộc phải giải quyết trong dài hạn, đòi hỏi nhiều nỗ lực và nỗ lực liên tục. Điều đó hoàn toàn dễ hiểu, con người với sức ỳ vốn có của nó luôn luôn thay đổi chậm hơn hoàn cảnh khách quan. Những thói quen, sở thích, quan niệm, tác phong làm việc thật không dễ gì thay đổi. Chúng ta có thể đề ra ngay các chủ trương các biện pháp, nhưng vấn đề quan trọng là thực hiện những chủ trương, biện pháp đó như thế nào, có hiệu quả không hay đó chỉ là hình thức, đề ra rồi để đó ? Vì vậy, kiện toàn bộ máy hành chính cũng tương tự. Khi chúng ta thay đổi những cái gì thuộc về truyền thống vốn có của một tổ chức tất yếu sẽ gặp phải những trở ngại những khó khăn. Nhưng với sự nghiên cứu kĩ lưỡng, đề ra các phương án giải quyết hợp lý cả những vấn đề trước cải tổ, trong quá trình cải tổ và cả sau cải tổ thì tất yếu sẽ đạt được thành công. Một bộ máy hành chính gọn nhẹ sẽ tạo điều kiện cho hoạt động của NHTW được nhạy bén linh hoạt, tránh sự ôm đồm, chồng chéo nhiệm vụ và quyền hạn. Điều này đã được chứng thực qua công trình nghiên cứu về sự thất bại của hệ thống ngân hàng năm 1988 ở Mỹ đã kết luận rằng chính bộ máy quản lý cồng kềnh và không hiệu quả là một yếu tố quan trọng trong số 90% các trường hợp được phân tích. Ngoài ra, để có thể thành công trong công tác quản lý, NHTW còn phải đặc biệt chú ý đến công tác cán bộ. Đây có thể coi là nguyên nhân, mấu chốt của thành công hay thất bại trong mọi hoạt động, đặc biệt là ở các lĩnh vực nhạy cảm như quản lý hoạt động thị trường tài chính tiền tệ. Hiện nay đây không chỉ là yêu cầu cấp bách của NHTW mà còn là yêu cầu của các cơ quan hữu quan khác như Bộ Tài Chính, Ủy Ban Chứng Khoán Nhà Nước ... Tuy nhiên, cần phải xem xét vấn đề trên phương diện thực tế. Để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ cần phải có thời gian và chi phí không nhỏ. Đào tạo phải kỹ lưỡng và thuần thục chứ không phải nâng cao chât lượng đội ngũ cán bộ chỉ là giải quyết vấn đề bằng cấp. Nếu như vậy thì sẽ không những không đem lại hiệu quả mà còn phản tác dụng, gây ra tình trạng đối phó. Trong điều kiện hiện nay và những năm tới, việc kiện toàn, đào tạo đội ngũ cán bộ cần phải được thực hiện theo hướng sau đây : Thứ nhất : Quy hoạch, nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ chuyên môn hiện có tại các cơ quan quản lý nhà nước như : NHNNVN, Bộ Tài Chính, Ủy Ban Chứng Khoán Nhà Nước . Thứ hai : Không ngừng mở rộng và nâng cao chất lượng đào tạo nghiệp vụ về các công cụ trong CSTT như : Thị Trường Mở, Thị Trường Ngoại Hối, Thị Trường Trái Phiếu Chính Phủ ... Bên cạnh đó đi đôi với năng lực chuyên môn phải nâng cao tinh thần trách nhiệm trong công việc. Đồng thời nâng cao hiểu biết về công tác quản lý kinh tế trong nền kinh tế thị trường, kết hợp đào tạo mới, đào tạo lại trong và ngoài nước, đặc biệt chú trọng đến đào tạo ở các trường đại học ... Thứ ba : Tranh thủ sự ủng hộ của các nước có thị trường chứng khoán phát triển, trao đổi kiến thức kinh nghiệm và chuyên gia để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ của Việt Nam . 3.2.2. Hướng tới thị trường mở, tự do hóa lãi suất - Xu hướng phát triển tất yếu trong tương lai : Trong vài ba thập kỉ qua, Chính Phủ các nước đang phát triển chẳng hạn như Việt Nam đã thực hiện việc kiểm soát hệ thống ngân hàng, tài chính, tiền tệ và coi sự kiểm soát đó như là một công cụ quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế của họ. Hầu hết các quốc gia đang phát triển đều tin rằng nếu không có sự can thiệp của Chính Phủ thì hệ thống ngân hàng tài chính sẽ không thể trở thành một đối tác hợp tác trong nỗ lực phát triển. Nhưng thực tế không hoàn toàn như vậy. Khi nền kinh tế của các nước phát triển ổn định với các thị trường tài chính tương đối phát triển thì nên để cho các lực lượng thị trường tác động lên các vấn đề tài chính tiền tệ. Ở những nước không đáp ứng được những điều này thì mới cần thiết có sự can thiệp kiểm soát của Chính Phủ. Việc kiểm soát này sẽ cản trở sự phát triển tài chính, trừ khi nó đủ linh hoạt để tính đến tác động của lạm phát và các sức ép của thị trường. Trong thập kỷ qua, nhiều nước đang phát triển đã có những bước tiến tới tự do hóa tài chính. Khoảng 12 nước đã tự do hóa hoàn toàn lãi suất, ở nhiều nước khác, lãi suất được quản lý linh hoạt hơn so với trước đây. Nhiều nước đã cắt giảm chương trình tín dụng chỉ định của mình, một số nước đã xóa bỏ hoàn toàn chương trình này. Sự cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng được khuyến khich tăng cao bằng cách cơ cấu lai hệ thông ngân hàng một cách rộng rãi. Ở một số quốc gia Châu Au, tự do hóa tài chính tương đối toàn diện trong khi ở một số quốc gia khác tại Châu Mỹ La Tinh như Achentina, Uruguay... sau khi thực hiện tự do hóa tài chính đã không kiểm soát nổi, và đành phải kết thúc quá trình tự do hóa đó. Chẳng hạn như tại Achentina, Chính Phủ Achentina đã phải tái thiết lập việc kiểm soát, Tại Uruguay thì hiện tượng các ngân hàng bị phá sản lan rộng và Chính Phủ buộc phải khôi phục lại hinh thức tín dụng chỉ định, kiểm soát tỷ lệ lãi suất. Còn ở Châu Á, nơi điều kiện kinh tế Vĩ Mô ổn định hơn và công cuộc cải cách được triển khai từ từ hơn thì không cần áp dụng lại chế độ kiểm soát. Trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ như hiện nay, sự phát triển của lĩnh vực ngân hàng, tài chính, tiền tệ Việt Nam phải hội nhập với quỹ đạo vận động của tài chính, tiền tệ quốc tế là một tất yếu. Căn cứ vào tình hình phát triển kinh tế của Việt Nam và xu hướng phát triển trong tương lai ( Xem phụ lục : “ Kinh tế Việt Nam tầm nhìn 2020 “ ) có thể phân quá trình hội nhập tài chính tiền tệ Việt Nam ra thành 3 giai đoạn : Giai đoạn 1 ( Từ năm 1996 đến 2005 ) : Xây dựng nền tảng cơ sở cho chiến lược hội nhập và hội nhập bước đầu vào khu vực AFTA/ASEAN. Giai đoạn 2 ( Từ năm 2006 đến 2010 ) : Hội nhập toàn diện với ASEAN và bước đầu với tổ chức Thương Mại Thế Giới (WTO) . Giai đoạn 3 ( Từ năm 2010 đến 2020 ) : Hôi nhập và mở cửa hoàn toàn với thị trường thế giới . Như vậy, đây là một chiến lược mang tính tất yếu trong dài hạn, không những có nhiều khó khăn mà còn nhiều rủi ro, mạo hiểm, đòi hỏi sự nỗ lực không ngừng. Bên cạnh đó còn cần phải được tiến hành song song với những cải cách kinh tế Vĩ Mô. Kinh nghiệm cho thấy rằng những nước cố gắng tự do hóa tài chính tiền tệ trước khi thực hiện những cải cách khác sẽ để lại nhiều hậu quả. Và do đó, trọng trách đặt trên vai NHTW là rất rất lớn. NHTW với CSTT và các công cụ quản lý Vĩ Mô khác trong tay phải giải quyết một loạt các vấn đề như : +). Nới lỏng và tự do hóa lãi suất . +). Cân bằng thu chi NSNN . +). Quàn lý ngoại tệ và các thủ tục thành lập tổ chức tài chính tín dụng . +). Các chế độ hạn chế trong kinh doanh tài chính, vay vốn, sử dụng lao dộng, đất đai, và các ưu đãi về thuế thiếu bình đẳng giữa các doanh nghiệp trong nền kinh tế . +). Tăng cường sức cạnh tranh của các tổ chức tài chính, tiền tệ, hoạt động trong khuôn khổ pháp lý bình đẳng, phù hợp với cơ chế thị trường . +). Nhanh chóng thiết lập thể chế giám sát tài chính đối với hoạt động của nền kinh tế xã hội nhằm phát hiện, ngăn chặn và phòng ngừa các rủi ro, đảm bảo an ninh tài chính quốc gia . +). Chủ động nghiên cứu, đề xuất các biện pháp cắt giảm thuế quan và nới lỏng hàng rào phi thuế quan . +). Đề ra các giải pháp thu hút vốn cho chiến lược CNH-HĐH đất nước . Chính vi thế, vấn đề hoàn thiện NHTW là một tất yếu khách quan trong giai đoạn hiện nay. Chỉ có hoàn thiện NHTW, chúng ta mới giả quyết thành công chiến lược đưa Việt Nam hội nhập với nền kinh tế thê giới và trở thành một nước công nghiệp phát triển . PHẦN KẾT LUẬN V iệt Nam, đất nước có tiềm năng to lớn về nhiều mặt. Con người Việt Nam anh dũng trong chiến tranh, nay lại cần cù, sáng tạo trong xây dựng kinh tế. Tuy nhiên, Việt Nam trong giai đoạn hiện nay đang phải đối mặt với những khó khăn và thử thách to lớn. Đặc biệt là ở lĩnh vực tài chính tiền tệ trong quá trình chuyển từ kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa. Để Việt Nam có thể trở thành “ Điểm đến của thiên niên kỷ mới “ vấn đề đặt ra trước tiên là phải giải quyết được chiến lược hội nhập kinh tế của Việt Nam với khu vực và trên thế giới. Trong đó trọng tâm là “ Phát triển và hoàn thiện NHTW “. Thực hiện thành công trọng tâm đó, có thể nói sẽ đem lại sức sống cho trái tim của cả nền kinh tế tiền tệ hiện đại. Đáp ứng vấn đề vô cùng cấp thiết đó bằng bản đề án của minh, tôi đã hoàn thành được những mục tiêu và nhiệm vụ đặt ra là : (1). Trình bầy những vấn đề tổng quan về NHTW và phân tích được chức năng, quyền hạn, nhiệm vụ cũng như các hoạt động của NHTW . (2). Đánh giá thực trạng hoạt động của NHTW qua cac giai đoạn và có nhấn mạnh đến thực trạng trong thời kì đổi mới . (3). Đưa ra được những giải pháp bao gồm : Giải pháp ngắn hạn và Giải pháp dài hạn trong đó nhấn mạnh vào những giải pháp trong ngắn hạn . Xuất phát từ những phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội của nước ta, từ khả năng tiềm tàng trong nước và xu hướng phát triển kinh tế thê giới trong giai đoạn hiện nay, những nghiên cứu của đề án hi vọng sẽ là một đóng góp nhỏ cho công cuộc phát triển và hoàn thiện NHTW. Tuy nhiên, nền kinh tế tài chính tiền tệ là một lĩnh vực hết sức phong phú cả về lý luận và thực tiễn. Do vậy trong tương lai chắc chắn còn nhiều khía cạnh, lĩnh vực đê mở rộng đề tài, tiếp tục nghiên cứu nhằm không ngừng hoàn thiện và phát triển NHTW - Trái tim của hệ thống ngân hàng Việt Nam . Danh mục tài liệu tham khảo (1). Bộ Tài Chính, Tổ Nghiên Cứu Chiến Lược Tài Chính, 2000, Chiến Lược Tài Chính Tiền Tệ Việt Nam 2001-2010 . (2). Dự án VIE/94/03, Bộ Tư Pháp, Báo cáo chuyên đề về các lĩnh vực của khung pháp luật kinh tế tại Việt Nam . (3). E .Wayne Nafziger, 1998, Kinh Tế Học của các nước đang phát triển, NXB Thống Kê . (4). Ngân hàng thế giới, Washinton, D.C, 1998, Các hệ thống tài chính và sự phát triển, NXB Giao Thông Vận Tải . (5). TS. Nguyễn Hữu Tài (Chủ Biên), 2002, Giáo Trình Lý Thuyết Tài Chính - Tiền Tệ, NXB Thống Kê . (6). Viện Phát Triển Quốc Tế HARVARD, 1994, Việt Nam cải cách kinh tế theo hướng rồng bay, NXB Chính Trị Quốc Gia . MỤC LỤC Trang PHẦN MỞ ĐẦU 1 PHẦN NỘI DUNG 2 Chương I : Một số vấn đề cơ bản về Ngân Hàng Trung Ương 2 1.1. Khái niệm về NHTW 2 1.1.1. Quan điểm của Việt Nam 2 1.1.2. Quan điểm trên thế giới 2 1.2. Chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của NHTW 3 1.2.1. Các chức năng chung của NHTW 4 1.2.1.1. Phát hành giấy bạc ngân hàng và điều tiết lượng tiền cung ứng 4 1.2.1.2. NHTW là ngân hàng của các ngân hàng 4 1.2.1.3. NHTW là ngân hàng của nhà nước 5 1.2.2. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam 6 1.2.2.1. Chức năng 6 1.2.2.2. Nhiệm vụ, quyền hạn 6 1.3. Hoạt động chủ yếu của NHTW 9 Chương II : Thực trạng hoạt động của NHNNVN 11 2.1. Lịch sử hình thành NHNNVN 11 2.2. Thực trạng hoạt động của NHNNVN 11 2.2.1. Trước năm 1988 12 2.2.2. Sau năm 1988 13 Chương III : Giải pháp phát triển và hoàn thiện NHTW 15 3.1.Các giải pháp trong ngắn hạn 15 3.1.1. Hiện đại hóa NHTW 16 3.1.1.1. Bộ phận công nghệ của chương trình 16 3.1.1.2 Bộ phận vận hành của chương trình 17 3.1.1.3. Bộ phận tài chính của chương trình 18 3.1.2. Xác định mối quan hệ giữa NHTW và các cơ quan có liên quan 18 3.1.2.1. Mối quan hệ giữa NHTW và Chính Phủ 18 3.1.2.2. Mối quan hệ giữa NHTW với NHTM và các tổ chức tín dụng 19 3.1.3. Nâng cao hiệu quả vận hành CSTT ( Điều hành nền Kinh Tế Tài Chính Tiền Tệ ) của NHTW 20 3.1.3.1. Mục tiêu của CSTT 20 3.1.3.2. Nâng cao hiệu quả sử dụng các công cụ trong CSTT 21 3.1.3.3. Nâng cao quyền hạn và nhiệm vụ của NHTW trong việc điều hành nền kinh tế Vĩ Mô 26 3.1.4. Kiện toàn lại nền tảng pháp lý của NHTW 27 3.1.5. Thanh tra, giám sát ngân hàng và lĩnh vực tài chính tiền tệ một cách có hiệu quả 28 3.2. Các giải pháp trong dài hạn 29 3.2.1. Kiện toàn bộ máy hành chính, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ 29 3.2.2. Hướng tới thị trường mở, tự do hóa lãi suất - Xu hướng phát triển tất yếu trong tương lai 31 PHẦN KẾT LUẬN 35

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc28044.doc
Tài liệu liên quan