Đề tài Phương hướng thúc đẩy vai trò của tăng trưởng kinh tế xoá đói giảm nghèo ở Việt Nam

Công tác xoá đói giảm nghèo là một vấn đề rất phức tạp đặc biệt là trong điều kiện đất nước còn nhiều khó khăn về kinh tế như hiện nay. Trong thời gian qua, công tác xoá đói giảm nghèo ở nước ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn. Tuy nhiên, kết quả đó vẫn còn rất mong manh, khả năng tái nghèo của các hộ vừa thoát nghèo là rất lớn. Do đó để đạt đước kết quả xoá đói giảm nghèo bền vững và đạt mục tiêu đến năm 2010 nước ta về cơ bản không còn hộ nghèo là một nhiệm vụ không đơn giản. Nó đòi hỏi phảI có sự nỗ lực , phối kết hợp thực hiện của tất cả các ngành, các cấp, các địa phương cơ sở và đặc biệt của bản thân người nghèo. Và một nhân tố không thể thiếu để có thể xoá đói giảm nghèo đó là phảI có một sự tăng trưởng cao về kinh tế.

doc49 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1462 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phương hướng thúc đẩy vai trò của tăng trưởng kinh tế xoá đói giảm nghèo ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
phải chịu chi phí cao cho việc khám, chữa bệnh, kể cả chi phí trực tiếp và chi phí gián tiếp. Do vậy, chi phí chữa bệnh là gánh nặng đối với người nghèo và đẩy họ đến chỗ vay mượn, cầm cố tài sản để có tiền trang trảI chi phí, dẫn đến tình trạng càng có ít cơ hội cho người nghèo thoát khỏi vòng đói nghèo. Trong khi đó khả năng tiếp cận đến các dịch vụ phòng bệnh của người nghèo như : nước sạch, các chương trình y tế… là rất hạn chế làm cho khả năng mắc bệnh của họ càng cao. Tỷ lệ mắc các bệnh thông thường của người nghèo ở Việt Nam còn khá cao. Theo số liệu điều tra mức sống năm 1998, số ngày ốm bình quân của nhóm 20% người nghèo là 3,1 ngày/ năm so với khoảng 2,4 ngày/ năm của nhóm 20% giàu nhất. Việc cải thiện sức khoẻ cho người nghèo là một trong những yếu tố cơ bản để họ tự thoát nghèo. 2.3. Nhóm nguyên nhân do chuyển đổi cơ chế và những xu thế phát triển mới. Việt Nam đã chuyển đổi từ cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Việc chuyển đổi này đã tạo ra những thành tựu to lớn trong phát triển kinh tế của Việt Nam và công tác xoá đói giảm nghèo. Tuy nhiên, cơ chế kinh tế mới cũng khiến cho khoảng cách giàu nghèo trong xã hội ngày càng tăng. Một bộ phận những người có trình độ, nắm bắt được yêu cầu của thị trường đã nhanh chóng vươn lên làm giàu, còn lại rất nhiều người do thiếu kiến thức, thiếu nguồn lực đã không thể thích nghi được với sự thay đổi của cơ chế mới và bị rơi vào cảnh nghèo đói. Trong tương lai sự cách biệt này sẽ càng lớn và cần phải có những biện pháp để đảm bảo rút ngắn được khoảng cách giàu nghèo trong xã hội. II. ý nghĩa của tăng trưởng kinh tế với xoá đói giảm nghèo ở Việt Nam giai đoạn 1993 – 2003. 1. Tình hình tăng trưởng kinh tế của Việt Nam giai đoạn 1993 – 2003. Tình hình tăng trưởng kinh tế của Việt Nam giai đoạn 1993 – 2003 đạt được nhiều thành tựu to lớn. Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân giai đoạn 1991 – 2000 đạt 7,5%, tốc độ tăng GDP năm 2001 là 6,9%; năm 2002 là 7,04% và năm 2003 là 7,24%. Ngành nông nghiệp có tốc độ tăng trưởng khá cao, có tác động quyết định đến công cuộc xoá đói giảm nghèo. Việt Nam từ một nước thiếu ăn, phải nhập khẩu và nhận viện trợ về lương thực từ nước ngoài đã tự túc được lương thực, có dự trữ và xuất khẩu gạo mỗi năm trên 3 triệu tấn. Kim ngạch xuất khẩu hàng nông sản tăng khá, từ hơn 1 tỷ USD năm 1990 lên 4,3 tỷ USD năm 2000. Cùng với nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ cũng phát triển với nhịp độ cao, góp phần quan trọng vào ổn định kinh tế xã hội và xoá đói giảm nghèo. Năng lực sản xuất nhiều loại sản phẩm công nghiệp tăng khá, không những đảm bảo được nhu cầu của người dân về ăn, măc, ở, phương tiện đi lại, học hành, chữa bệnh và nhiều loại hàng tiêu dùng thiết yếu khác, mà còn có khả năng xuất khẩu ngày càng tăng. Ngành dịch vụ cũng ngày càng phát triển đáp ứng được nhu cầu của người dân. 2. ý nghĩa của tăng trưởng kinh tế đến xóa đói giảm nghèo giai đoạn 1993 – 2003. Công cuộc đổi mới của Việt Nam trong gần 20 năm qua đã mang lại những thành tựu hết sức to lớn trong lĩnh vực xoá đói giảm nghèo. Theo tiêu chuẩn quốc tế, năm 1993 Việt Nam vẫn còn 51% dân số sống trong nghèo đói, thì đến năm 1998 tỷ lệ này giảm xuống mức 37% và năm 2002 chỉ còn 29%. Những thành tựu to lớn về xoá đói giảm nghèo của Việt Nam trong thập kỷ qua đã cộng đồng quốc tế đánh giá là một trong những nước giảm tỷ lệ nghèo đói tốt nhất. có nhiều nguyên nhân dẫn tới thành tựu trên song nếu nhìn sâu xa có thể khẳng định rằng tăng trưởng kinh tế đã góp phần rất quan trọng . Nếu xét trong giai đoạn 1993 – 2002, trong khi qui mô sản lượng nền kinh tế tăng lên gấp đôi thì tỷ lệ nghèo đói giảm đi gần một nửa. Tính bình quân hàng năm khi thu nhập bình quân đầu người tăng gần 5,9% thì tỷ lệ giảm nghèo đạt 7%, có nghĩa 1% tăng trưởng đã dẫn đến giảm nghèo hơn 1%. Theo chuẩn nghèo đưa ra ở quyết định số 1143/ 2000/ QĐ - LĐTBXH, vào cuối năm 2003 số hộ nghèo giảm 934.000 hộ ( từ 2.804.000 hộ vào đầu năm 2001 xuống 1.867.000 ), trung bình giảm 310.000 hộ nghèo/ năm. So với đầu năm 2001, tỷ lệ nghèo đói giảm 6,2% ( từ 17,2% xuống còn 14% vào năm 2002 và 11% vào cuối năm 2003 ). Điều đó cho thấy một đặc tính nổi bật trong hình thái tăng trưởng của Việt Nam trong thời gian qua mang bản chất vì người nghèo rất rõ rệt. Bảng3 : Tỷ lệ nghèo đói theo chuẩn nghèo quốc tế các vùng 1998 2002 Tỷ lệ nghèo chung Nghèo LTTP Tỷ lệ nghèo chung Nghèo LTTP Cả nước - Thành thị - Nông thôn Miền núi phía Bắc ĐB sông Hồng Bắc Trung bộ DH miền Trung Tây Nguyên Đông Nam bộ ĐB sông Cửu Long 37.4 9.2 45.5 64.2 29.3 48.1 34.5 52.4 12.2 36.9 15.0 2.5 18.6 32.4 8.5 19.0 15.9 31.5 5.0 11.3 28.9 6.6 35.6 43.9 22.4 44.4 25.2 51.8 10.6 23.4 10.9 1.9 13.6 21.1 5.3 17.5 9.0 29.5 3.0 6.5 ( Nguồn : WorldBank và GSO) Nhìn chung, trong những năm gần đây tỷ lệ giảm nghèo ở Việt Nam đạt được ở mức tương đối cao cho dù tốc độ tăng trưởng kinh tế giai đoạn 1998 – 2002 thấp hơn giai đoạn 1993 – 1997. Giai đoạn 1993 – 1998, tỷ lệ giảm nghèo đạt 19,6% trung bình giảm 2,8% một năm; giai đoạn 1999 – 2002 giảm 8,5% trung bình giảm 2,1% một năm. Những tác động cụ thể của tăng trưởng kinh tế đến công tác xoá đói giảm nghèo : 2.1. Tăng trưởng kinh tế cao trong đó đặc biệt là phát triển nông nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản và kinh tế nông thôn đóng một vai trò quan trọng trong xóa đói giảm nghèo. Theo ước tính vào những năm 80, cứ mười người dân Việt Nam thì có bảy người sống trong tình trạng đói nghèo. Sau 15 năm đổi mới và chuyển đổi, nền kinh tế Việt Nam đã có những thay đổi cơ bản về các quan hệ kinh tế – xã hội, đưa đến một giai đoạn phát triển kinh tế và giảm tỷ lệ nghèo đói chưa từng thấy sau hơn bốn mươi thập kỉ của chiến tranh, khó khăn trong phát triển kinh tế. Cơ chế kinh tế mới đã tạo ra những nhân tố mới cho tăng trưởng kinh tế với các kết quả đầy ấn tượng. Cùng với quá trình tăng trưởng kinh tế, Việt Nam đã đạt được những kết quả xuất sắc trong xoá đói giảm nghèo. Chủ trương của chính phủ ưu tiên phát triển nông nghiệp và nông thôn, vùng sâu, vùng xa đã thành công trong việc giải phóng sức sản xuất của dân cư nông thôn và khuyến khích dân cư tự mình phấn đấu cải thiện hoàn cảnh sống của mình. Những thành công trong lĩnh vực này, nhất là về sản xuất lương thực đã góp phần quan trọng vào việc xoá đói giảm nghèo, tăng thu nhập , cải thiện đời sống của dân cư. Nếu như trước 2.2. Nguồn lực cho công tác xoá đói giảm nghèo và tạo việc làm được tăng cường. Mặc dù ngân sách nhà nước còn hạn hẹp, song nhà nước đã đầu tư cho các chương trình quốc gia phục vụ xoá đói giảm nghèo thông qua các chương trình đầu tư cơ sở hạ tầng cho các xã nghèo ( Chương trình 133, 135 ). Từ khi có Chương trình xoá đói giảm nghèo ( 1992 ) đến năm 2000, nhà nước đã đầu tư thông qua các chương trình quốc gia có liên quan đến mục tiêu xoá đói giảm nghèo khoảng 21.000 tỷ đồng. Riêng trong 2 nam 1999 và 2000 gần 9.600 tỷ đồng ( Ngân sách nhà nước đầu tư trực tiếp cho chương trình là 3.000 tỷ đồng; lồng ghép các chương trình, dự án khác trên 800 tỷ đồng; huy động từ cộng đồng trên 300 tỷ đồng; nguồn vốn tín dụng cho vay ưu đãi hộ nghèo trên 5.500 tỷ đồng ). Ngân hàng phục vụ người nghèo đã được thành lập nhằm cung cấp tín dụng ưu đãi cho người nghèo. Nguồn vốn huy động của cộng đồng dân cư, các tổ chức và cá nhân trong nước cũng tăng đáng kể. Tổng nguồn vốn cho người nghèo vay đạt 5.500 tỷ đồng. Ngoài ra, nhà nước còn có hỗ trợ đáng kể cho đời sống đồng bào dân tộc đặc biệt khó khăn với số tiền trên 70 tỷ đồng và cho gần 90.000 hộ vay vốn sản xuất không phải trả lãi. Công tác định canh, định cư, di dân kinh tế mới cũng được nước quan tâm đầu tư và hỗ trợ kinh phí. Trong các năm gần đây ngân sách trung ương đã trích trên 500 tỷ đồng để sắp xếp ổn định cuộc sống cho các gia đình định canh, định cư, di dân xây dựng vùng kinh tế mới. 2.3. Đời sống của dân cư được cải thiện rõ rệt. Mức tiêu dùng bình quân đầu người tính theo giá hiện hành tăng từ 2,6 triệu đồng năm 1995 lên 4,3 triệu đồng năm 2000. Theo kết quả cuộc tổng điều tra mức sống hộ gia đình gia đình năm 2002, thu nhập đầu người trong cả nước giai đoạn 2002 – 2003 là 357.000 đồng/ người/ tháng, tăng 21% so với năm 1999; trong đó khu vực thành thị là 626.000 đồng/ người/ tháng, tăng 21%; khu vực nông thôn là 275.000 đồng/ người/ tháng, tăng 22%. 2.4. Tỷ lệ các xã thiếu hoặc không có cơ sở hạ tầng thiết yếu đã giảm. Trong hai năm ( 1999 và 2000 ) đã đầu tư 6.500 công trình cơ sở hạ tầng ở các xã nghèo ( trong đó ngân sách nhà nước đầu tư trực tiếp cho 1.200 xã năm 1999 và 1870 xã năm 2000. Ngân sách địa phương đầu tư cho 650 xã nghèo khác ), bình quân mỗi xã được xây dựng 2,5 công trình. Ngoài ra, các địa phương đã huy động được trên 17 triệu ngày công lao động của nhân dân tham gia xây dựng các công trình, huy động đóng góp bằng tiền và hiện vật trong nhân dân với giá trị hàng chục tỷ đồng. Đến tháng 4 năm 2001 đã có trên 5.000 nghìn công trình được hoàn thành và đưa vào sử dụng. 2.5. Chính phủ đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách giải quyết việc làm, tạo cơ hội để người lao động có thể chủ động tìm hoặc tự tạo việc làm kết hợp với sự hỗ trợ của nhà nước và của cộng đồng. Chương trình quốc gia giải quyết việc làm được triển khai thực hiện đã đạt được nhiều kết quả. Các trung tâm xúc tiến việc làm, trung tâm dạy nghề, hướng nghiệp của các nghành,các cấp, các đoàn thể quần chúng đã hoạt động tích cực. Chính sách xoá đói giảm nghèo được sự hưởng ứng tích cực của các ngành, các cấp, các tầng lớp nhân dân, các đoàn thể quần chúng, tổ chức xã hội và cả bản thân người lao động; nhiều hoạt động cụ thể đã được triển khai giúp đỡ các hộ đói nghèo giảm bớt khó khăn, từng bước tự vươn lên, thoát khỏi đói nghèo và ổn định cuộc sống. Khu vực nông nghiệp và nông thôn vẫn thu hút nhiều lao động nhất. Bình quân mỗi năm giải quyết việc làm cho khoảng 1,2 – 1,3 triệu lao động, trong đó khu vực kinh tế tư nhân, kinh tế hợp tác và hợp tác xã thu hút khoảng 90%. Trong điều kiện kinh tế còn nhiều khó khăn và ngay trong những năm kinh tế bị giảm sút, Việt Nam đã thực hiện mạnh mẽ hơn các chính sách bảo trợ xã hội, tập trung cho các lĩnh vực xoá đói giảm nghèo, lao động và việc làm, giáo dục, đào tạo, chăm sóc sức khoẻ nhân dân, chăm sóc những người tàn tật, trẻ lang thang cơ nhỡ, ổn định đời sống cho các đối tượng xã hội. Chi ngân sách đầu tư cho giáo dục và đào tạo tăng lên hàng năm : năm 2000 chi cho giáo dục chiếm 15% tổng chi từ ngân sách nhà nước; năm 2001 là 15,6%; 2002 là 15,8% và 2003 là trên 16%. 3. Quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam. 3.1. Xoá đói giảm nghèo là yếu tố cơ bản đảm bảo công bằng xã hội và tăng trưởng bền vững. Xoá đói giảm nghèo không chỉ là công việc trước mắt mà còn là nhiệm vụ lâu dài. Trước mắt là xoá hộ đói, giảm hộ nghèo; lâu dài là xoá sự nghèo, giảm khoảng cách giàu nghèo, phấn đấu xây dựng một xã hội giàu mạnh, dân chủ, văn minh. Xoá đói giảm nghèo không chỉ đơn giản là việc phân phối lại thu nhập một cách thụ động mà phải tạo ra động lực tăng trưởng tại chỗ, chủ động tự vươn lên thoát nghèo. Xoá đói giảm nghèo không đơn thuần là sự trợ giúp một chiều của tăng trưởng kinh tế đối với các đối tượng có nhiều khó khăn mà còn là nhân tố quan trọng tạo ra một mặt bằng tương đối đồng đều cho phát triển, tạo thêm một lực lượng sản xuất dồi dào và đảm bảo sự ổn định cho giai đoạn “ cất cánh’’. Do đó, xoá đói giảm nghèo là một trong những mục tiêu của tăng trưởng (cả trên góc độ xã hội và kinh tế ), đồng thời cũng là một điều kiện cho tăng trưởng nhanh và bền vững. Trên phương diện nào đó, xét về ngắn hạn, khi phân phối một phần đáng kể trong thu nhập xã hội cho chương trình xoá đói giảm nghèo thì nguồn lực dành cho tăng trưởng kinh tế có thể bị ảnh hưởng, song xét một cách toàn diện về dài hạn thì kết quả xoá đói giảm nghèo lại tạo tiền đề cho tăng trưởng nhanh và bền vững. 3.2. Xoá đói giảm nghèo phải dựa trên cơ sở tăng trưởng kinh tế trên diện rộng với chất lượng cao và bền vững, tạo ra những cơ hội thuận lợi để người nghèo và cộng đồng nghèo tiếp cận được các cơ hội phát triển sản xuất, kinh doanh và hưởng thụ được từ thành quả tăng trưởng. Tăng trưởng chất lượng cao là để giảm nhanh mức nghèo đói. Thực tiễn những năm vừa qua đã chứng minh rằng nhờ kinh tế tăng trưởng cao, nhà nước có sức mạnh vật chất để hình thành và triển khai các chương trình hỗ trợ vật chất, tài chính và cho các xã khó khăn khó khăn phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội cơ bản. Người nghèo và cộng đồng nghèo nhờ đó có cơ hội vươn lên thoát khỏi đói nghèo. Tăng trưởng kinh tế là điều quan trọng để xoá đói giảm nghèo trên qui mô rộng; không có tăng trưởng kinh tế mà chỉ thực hiện các chương trình táI phân phối hoặc các biện pháp giảm nghèo truyền thống thì tác dụng không lớn. Tăng trưởng trên diện rộng với chất lượng cao và bền vững, trước hết tập trung chuyển dịch cơ cấu và đa dạng hoá sản xuất nông nghiệp, phát triển ngành nghề, tạo cơ hội nhiều hơn cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa phát triển, nhằm tạo ra nhiều việc làm phi nông nghiệp, tăng thu nhập cho người nghèo… 3.3. Xoá đói giảm nghèo được đặt thành một bộ phận của Chiến lược 10 năm, Kế hoạch 5 năm và hàng năm về phát triển kinh tế – xã hội từ trung ương đến địa cơ sở. Công tác xoá đói giảm nghèo phải được quan tâm ngay từ khi xây dựng chủ trương, kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội dài hạn, trung hạn và hàng năm, coi đó là một nhiệm vụ trọng tâm của kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội của nhà nước đối với công tác xoá đói giảm nghèo. Thông qua kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội, nhà nước chủ động điều tiết hợp lí cácnguồn lực của toàn xã hội vào mục tiêu và hoạt động xoá đói giảm nghèo quốc gia. Nhà nước xây dựng các biện pháp thiết yếu như đầu tư hỗ trợ sản xuất, xây dựng cơ sở hạ tầng, lập các quĩ cứu trợ xã hội,… để giúp đỡ, bảo vệ người nghèo. Duy trì liên tục sự trao đổi, phân phối mang tính thị trường, nhưng không loại người nghèo ra khỏi những nguồn lực và lợi ích của sự thịnh vượng chung về kinh tế. Kinh nghiệm thế giới cho thấy sự thiếu vắng vai trò của nhà nước đặc biệt có hại đối với người nghèo, cộng đồng nghèo, vì người nghèo không tự bảo vệ được các quyền của mình, hơn nữa trong thành quả chung của tăng trưởng kinh tế, nhà nước có vai trò nòng cốt và có trách nhiệm thu hút sự quan tâm, tham gia tích cực của cộng đồng, các tổ chức chính trị, kinh tế, xã hội. 3.4. Xoá đói giảm nghèo không chỉ là nhiệm vụ của nhà nước, toàn xã hội mà trước hết là bổn phận của chính người nghèo phải tự vươn lên để thoát nghèo. Trong khi trách nhiệm của Chính phủ là giúp gỡ bỏ rào cản ngăn cách xã hội và kinh tế để xoá đói giảm nghèo; hiệu quả xoá đói giảm nghèo đạt thấp nếu bản thân người nghèo không tích cực và nỗ lực phấn đấu vươn lên với mức sống cao hơn. Xoá đói giảm nghèo phải được coi là sự nghiệp của bản thân người nghèo, cộng đồng nghèo, bởi vì sự nỗ lực tự vươn lên thoát nghèo chính là động lực, là điều kiện cần cho sự thành công của mục tiêu chống đói nghèo ở các nước. Nhà nước sẽ trợ giúp người nghèo biết cách tự thoát nghèo và tránh tái nghèo khi gặp rủi ro. Bên cạnh sự hỗ trợ về vật chất trực tiếp thì việc tạo việc làm cho người nghèo bằng cách hướng dẫn người nghèo sản xuất, kinh doanh phát triển kinh tế theo điều kiện cụ thể của họ chính là điều kiện xoá đói giảm nghèo thành công nhanh và bền vững. Chương III: Phương hướng thúc đẩy vai trò của tăng trưởng kinh tế xoá đói giảm nghèo ở Việt Nam. I. Mục tiêu tăng trưởng kinh tế và xoá đói giảm nghèo từ nay đến năm 2010. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng ( 4/ 2001) đã quyết định Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 10 năm đầu thế kỉ XXI của Việt Nam là Chiến lược đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Trong đó kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2001 – 2005 là bước mở đầu quan trọng cho việc thực hiện chiến lược. 1. Mục tiêu tổng quát. Mục tiêu tổng quát của chiến lược 10 năm 2001 – 2010 là: Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển; nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần của nhân dân; tạo nền tảng để đén năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nguồn lực con người, năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng, an ninh được tăng cường; thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành về cơ bản; vị thế của nước ta trên trường quốc tế được nâng cao. Theo đó, mục tiêu tổng quát của kế hoạch 5 năm 2001 – 2005 là: Tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững; ổn định và cải thiện đời sống nhân dân. Chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nâng cao rõ rệt hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Mở rộng kinh tế đối ngoại. Tạo chuyển biến mạnh về giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, phát huy nhân tố con người. Tạo nhiều việc làm; cơ bản xoá đói, giảm số hộ nghèo; đẩy lùi các tệ nạn xã hội. Tiếp tục tăng cường kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội; hình thành một bước quan trọng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia. 2. Mục tiêu cụ thể của chiến lược. - Đưa GDP năm 2010 lên ít nhất gấp đôi năm 2000. Nâng cao rõ rệt hiệu quả và sức cạnh tranh của sản phẩm, doanh nghiệp và nền kinh tế; đáp ứng tốt hơn nhu cầu thiết yếu, một phần đáng kể nhu cầu sản xuất và đẩy mạnh xuất khẩu. ổn định kinh tế vĩ mô; cán cân thanh toán quốc tế lành mạnh và tăng dự trữ ngoại tệ; bội chi ngân sách, lạm phát, nợ nước ngoài được kiểm soát trong giới hạn an toàn và tác động tích cực đến tăng trưởng. Tích luỹ nội bộ nền kinh tế đạt trên 30% GDP. Nhịp độ tăng xuất khẩu gấp trên hai 2 lần nhịp độ tăng GDP. Tỷ trọng trong GDP của nông nghiệp 16 – 17%, công nghiệp 40 – 41%, dịch vụ 42 – 43%. Tỷ lệ lao động nông nghiệp còn khoảng 50%. - Nâng lên đáng kể chỉ số phát triển con người ( HDI ) của nước ta. Tốc độ tăng dân số đến năm 2010 còn khoảng 1,1%. Xoá hộ đói, giảm nhanh hộ nghèo. Giải quyết việc làm ở cả thành thị và nông thôn ( thất nghiệp ở thành thị dưới 5%, quĩ thời gian lao động được sử dụng ở nông thôn khoảng 80 – 85% ); nâng tỷ lệ người lao động được đào tạo nghề lên khoảng 40%. Trẻ em đến tuổi đi học đều được đến trường; hoàn thành phổ cập trung học cơ sở trong cả nước. Người có bệnh được chữa trị; giảm tỷ lệ trẻ em ( dưới 5 tuổi ) suy dinh dưỡng xuống khoảng 20%; tăng tuổi thọ trung bình lên 71 tuổi. Chất lượng đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần được nâng lên rõ rệt trong môi trường xã hội an toàn, lành mạnh; môi trường tự nhiên được bảo vệ và cải thiện. - Năng lực nội sinh về khoa học và công nghệ đủ khả năng ứng dụng các công nghệ hiện đại, tiếp cận trình độ thế giới và tự phát triển trên một số lĩnh vực, nhất là công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ tự động hoá. - Kết cấu hạ tầng đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh và có bước đi trước. Hệ thống giao thông đảm bảo lưu thông an toàn, thông suốt quanh năm và hiện đại hoá một bước. Mạng lưới giao thông nông thôn được mở rộng và nâng cấp. Hệ thống đê xung yếu được củng cố vững chắc; hệ thống thuỷ nông phát triển và phần lớn được kiên cố hoá. Hầu hết các xã được sử dụng đIện, điện thoại và các dịch vụ bưu chính – viễn thông cơ bản, có trạm xá, trường học kiên cố, nơi sinh hoạt văn hoá, thể thao. Bảo đảm về cơ bản cơ sở vật chất cho học sinh phổ thông học cả ngày tại trường. Có đủ giường bệnh cho bệnh nhân. - Vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước được tăng cường, chi phối các lĩnh vực then chốt của nền kinh tế; doanh nghiệp nhà nước được đổi mới, phát triển, sản xuất, kinh doanh có hiệu quả. Kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đều phát triển mạnh và lâu dài.Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành về cơ bản và vận hành thông suốt có hiệu quả. II. Các chỉ tiêu về tăng trưởng kinh tế và xoá đói giảm nghèo đến năm 2005 và 2010. 1. Các chỉ tiêu về tăng trưởng kinh tế. - Đưa GDP năm 2005 lên gấp đôi năm 1995 và năm 2010 lên ít nhất gấp đôi năm 2000, trong đó thời kì 2001 – 2010 giá trị tăng thêm của nông, lâm, ngư nghiệp tăng bình quân đạt 4 – 4,5%, công nghiệp và xây dựng tăng bình quân 10 – 10,5%, các hoạt động dịch vụ tăng bình quân đạt 7 – 8%; trong đó giá trị tăng thêm thời kì 2001 – 2005 tương ứng là 4%; 10,4%; 6,8%. - Bảo đảm tích lũy nội bộ nền kinh tế đạt trên 30% GDP, huy động ít 840 nghìn tỷ đồng ( khoảng 60 tỷ USD ) cho đầu tư phát triển thời kì 2001 – 2005. - Tỷ trọng trong GDP của nông nghiệp là 20 – 21% vào năm 2005 và 16 – 17% vào năm 2010; công nghiệp 38 – 39% vào năm 2005 và 40 – 41% vào năm 2010; dịch vụ 41 – 42% vào năm 2005 và 42 – 43% vào năm 2010. - Tỷ trọng lao động trong công nghiệp trong tổng số lao động tăng lên 20 – 21% vào năm 2005 và 23 – 24% vào năm 2010. Tăng tỷ trọng lao độngdịch vụ lên 22 – 23% vào năm 2005 và 26 – 27% vào năm 2010. 2. Các chỉ tiêu về xoá đói giảm nghèo và đáp ứng các dịch vụ công cộng cho người nghèo. 2.1. Các chỉ tiêu về xoá đói giảm nghèo. Mục tiêu xoá đói giảm nghèo thể hiện xuyên suốt trong Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội đến năm 2010, Kế hoạch 5 năm 2001 – 2005 là: Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, đến năm 2010, về cơ bản không còn hộ nghèo, thường xuyên củng cố thành quả xoá đói giảm nghèo. Việc thực hiện các mục tiêu các mục tiêu xoá đói giảm nghèo được triển khai bằng một số chương trình cụ thể trong thời kì 2001 – 2005: Chương trình 135 – Phát triển kinh tế – xã hội các xã đặc biệt khó khăn; Chương trình 143 – Xoá đói giảm nghèo cho các tỉnh miền núi phía Bắc. Chương trình giảm nghèo toàn diện do chính phủ phê duyệt vào tháng 5/2002. Các mục tiêu chủ yếu được tổng hợp từ các chương trình trên như sau : Bảng4: Các mục tiêu chủ yếu của các chương trình XĐGN ( ĐV : % ) Mục tiêu 2005 2010 1. Tỷ lệ hộ nghèo 2. Tăng thu nhập bình quân của nhóm nghèo nhất ( so với năm 2000 ) 3. Tỷ lệ xã nghèo được cung cấp cơ sở hạ tầng 4. Tỷ lệ hộ nghèo được cung cấp dịch vụ xã hội cơ bản. 10 140 80 75 0 190 100 90 Theo chuẩn nghèo quốc tế thì mục tiêu của Việt Nam đến năm 2010 là giảm 2/5 tỷ lệ nghèo và giảm 3/4 tỷ lệ nghèo về lương thực, thực phẩm so với năm 2000. 2.2. Chỉ tiêu về đáp ứng các dịch vụ công cộng cơ bản cho người nghèo. 2.2.1. Đảm bảo công trình hạ tầng thiết yếu cho người nghèo, cộng đồng nghèo và xã nghèo. Tiếp tục cải tạo, nâng cấp, mở rộng và xây dựng mới các công trình hạ tầng thiết yếu ( thủy lợi nhỏ, trường học, trạm y tế xã, đường giao thông, điện chiếu sáng, nước sinh hoạt, chợ, các điểm bưu điện văn hoá xã, nhà hội họp… ) bảo đảm đến năm 2005 cung cấp cho 80% xã nghèo và đến 2010 cho 100% xã nghèo có các cơ sở hạ tầng thiết yếu. Đến năm 2005 mở rộng điện lưới quốc gia đến trung tâm 900 xã nghèo, bảo đảm 90% số xã có điện. Bảo đảm có đường ô tô về tới trung tâm xã.Phấn đấu 80% đường xã có kết cấu mặt đường phù hợp, trong đó 30% mặt đường được rải nhựa hoặc ximăng. Đến năm 2005, phấn đấu 80% dân số thành thị, đặc biệt là những khu vực xa đường giao thông chính, và 60% dân cư nông thôn được sử dụng nước sạch với số lượng 50 lít/ người/ ngày, 50% gia đình có hố xí hợp vệ sinh. Chú trọng các công trình nước sạch và vệ sinh môi trường cho các nhà trẻ, trường học, mẫu giáo, trạm xá ở nông thôn. Đến năm 2010, 85% dân số được sử dụng nước hợp vệ sinh với số lượng 60 lít/ người/ ngày, 75% gia đình có hố xí hợp vệ sinh. Chú trọng đến các công trình nước sạch cho các gia đình nghèo, đặc biệt là những người ở xa trung tâm xã, xa trục đường chính được tiếp cận nước sạch. 2.2.2. Nâng cao chất lượng giáo dục. Củng cố, duy trì và phát huy thành quả phổ cập giáo dục tiểu học và xoá mù chữ, đặc biệt ở các tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa. Thực hịên phổ cập trung học cơ sở trong cả nước. Tăng tỷ lệ trẻ em dưới 3 tuổi đến nhà trẻ từ 12% năm 2000 lên 15% năm 2005 và 18% năm 2010. Đối với trẻ em từ 3 – 5 tuổi tăng tỷ lệ đến trường, lớp mẫu giáo từ 50% năm 2000 lên 58% năm 2005 và 67% năm 2010. Tăng tỷ lệ học sinh đi học trong độ tuổi lên 97% vào năm 2005 và lên 99% vào năm 2010. Tăng tỷ lệ học sinh học xong tiểu học lên 85 – 95% vào năm 2010. Phổ cập giáo dục trung học cơ sở ở các thành phố, khu đô thị và một số nơi khác vào năm 2005 và toàn quốc vào năm 2010. Tăng tỷ lệ học sinh trung học cơ sở trong độ tuổi lên 80% vào năm 2005 và 90% vào năm 2010. Tăng tỷ lệ học sinh trung học phổ thông trong độ tuổi lên 45% vào năm 2005 và 50% và năm 2010. Phấn đấu đến năm 2010, phần lớn các trường tiểu học và phổ thông cơ sở có đủ đIều kiện cho học sinh học tập và hoạt động hai buổi tại trường. Phấn đấu xoá mù chữ cho 95% số phụ nữ bị mù chữ ở độ tuổi dưới 40 tuổi vào năm 2005 và 100% vào năm 2010. Thu hút học sinh trong độ tuổi vào các trường trung học chuyên nghiệp đạt 10% vào năm 2005, 15% năm 2010; thu hút học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông vào các trường dạy nghề từ 6% năm 2000 lên 10% năm 2005 và 15% năm 2010. Cải thiện chất lượng giáo dục ở mọi cấp học và cho mọi đối tượng, đặc biệt chú ý đến các học sinh nghèo. Nâng cao chất lượng giáo dục cho tất cả mọi người, đặc biệt cho người nghèo. 2.3. Tạo việc làm. Giải quyết thêm việc làm cho khoảng 1,4 – 1,5 triệu lao động/ năm. Nâng tỷ lệ lao động nữ trong tổng số việc làm mới lên 40% vào năm 2005 và 50% vào năm 2010. Nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo lên 30% vào năm 2005 và 40% vào năm 2010. Nâng thời gian sử dụng lao động ở nông thôn lên 80% vào năm 2005 và 85% vào năm 2010, trong đó tỷ lệ sử dụng thời gian lao động của nữ là 75% vào năm 2005 và 80% vào năm 2010. 2.4. Giảm khả năng dễ bị tổn thương và phát triển mạng lưới an sinh xã hội trợ giúp cho các đối tượng yếu thế và người nghèo. Cải thiện đáng kể tình trạng thu nhập của người nghèo, nâng cao chất lượng và khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản và dịch vụ sản xuất cũng như các nguồn lực khác của người nghèo, đặc biệt là phụ nữ nghèo. Mở rộng hệ thống an ninh xã hội chính thức cho mọi người. Cải cách chính sách và cơ chế bảo hiểm xã hội. Khuyến khích phát triển sự tham gia của cộng đồng, hộ gia đình vào các hình thức bảo hiểm tự nguyện. Tăng cường bảo vệ trẻ em và vị thành niên, giải quyết triệt để tình trạng trẻ em lao động sớm, trẻ em lang thang, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khác, nhất là trẻ em của những gia đình nghèo do phụ nữ làm chủ hộ. Bảo vệ những người có hoàn cảnh đặc biệt ( người tàn tật, người bị nhiễm chất độc màu da cam, người già cô đơn, đối tượng chính sách và các đối tượng khác ). Xây dựng chiến lược phòng chống và giảm nhẹ thiên tai. Đến năm 2010 giảm 1/2 số người bị tái nghèo do thiên tai và các rủi ro khác. 2.5. Giảm tỷ lệ sinh, tỷ lệ tử vong và suy dinh dưỡng của trẻ em. Duy trì vững chắc xu thế giảm tỷ lệ sinh để đạt mức sinh thay thế bình quân trong cả nước chậm nhất vào năm 2005; vùng sâu, vùng xa và vùng nghèo chậm nhất vào năm 2010. Đến năm 2005 giảm tỷ lệ tử vong của trẻ dưới 1 tuổi xuống 30‰ và đến năm 2010 xuống dưới 25‰; giảm tỷ suất tử vong của trẻ em dưới 5 tuổi xuống 36‰ năm 2005 và dưới 32‰ năm 2010. Giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng của trẻ em dưới 5 tuổi xuống dưới 25% năm 2005 và dưới 20% vào năm 2010. Giảm tỷ lệ trẻ sinh thiếu cân ( dưới 2.500 gram ) xuống còn 7% năm 2005 và 5% năm 2010. II. Những vấn đề đang đặt ra với công tác xoá đói giảm nghèo ở Việt Nam trong giai đoạn tiếp theo. Thứ nhất, trong tiến trình mở cửa và hội nhập, nền kinh tế Việt Nam đang gặp nhiều khó khăn, thách thức do phải cạnh tranh gay gắt trên thị trường quốc tế, trong khi chất lượng sản phẩm của nền kinh tế còn thấp, hiệu quả chưa cao, sức cạnh tranh kém, nhất là giá cả hàng nông sản không ổn định và có xu hướng cánh kéo giá giữa hàng nông sản và hàng công nghiệp tăng lên. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến thu nhập của nông dân, đặc biệt là những người có thu nhập thấp, khiến họ không thể vươn lên thoát nghèo. Thứ hai, Việt Nam là nước nông nghiệp nhưng đất đai sản xuất nông nghiệp lại bị hạn chế, trong khi đó tiến trình đô thị hoá ngày càng tăng làm cho quĩ đất nông nghiệp bị thu hẹp. Trong khi đó số lao động dư thừa, thiếu việc làm ngày càng tăng lên, thời gian nông nhàn còn lớn, thường chiếm 30 – 40% quĩ thời gian lao động nông thôn. Tỷ lệ lao động qua đào tạo còn thấp.Khả năng tạo việc làm và nâng cao năng suất lao động xã hội còn hạn chế trong khi đó dân số và nguồn lực vẫn tiếp tục gia tăng với tốc độ cao gây sức ép lớn về việc làm kể cả ở nông thôn và thành thị. Thứ ba, xu hướng gia tăng chênh lệch về mức sống giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng vẫn còn lớn, đòi hỏi phải kết hợp hài hoà phát triển giữa các vùng để có tốc độ tăng trưởng cao, vừa đầu tư hỗ trợ nhiều hơn cho các vùng còn nhiều khó khăn. Như vậy, vừa phải xây dựng cơ cấu kinh tế có hiệu quả và nâng cao sức cạnh tranh, vừa phải hoàn chỉnh một bước cơ bản hệ thống kết cấu hạ tầng, đầu tư thích đáng cho các vùng kinh tế trọng điểm, đồng thời vừa phải giải quyết các vấn đề xã hội bức xúc, toạ việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp, xoá đói giảm nghèo. Việc đưa ra phương án tối ưu cho cơ cấu đầu tư có mục tiêu vừa thúc đẩy tăng trưởng, vừa xoá đói giảm nghèo là một vấn đề lớn đang đặt ra cho các nhà hoạch định chính sách. Thứ tư, nguồn vốn trong nước còn quá hạn hẹp, lại vừa phải đầu tư lớn cho tăng trưởng kinh tế, vừa đầu tư cho xoá đói giảm nghèo, trong khi đó việc khai thác các nguồn lực chưa được nhiều và chưa có hiệu quả. Các nguồn lực cho công tác xoá đói giảm nghèo tuy tăng lên theo thời gian nhưng vẫn còn rất hạn chế, chưa thể đáp ứng được yêu cầu của các địa phương. Do đó, đòi hỏi phải thật sự tiết kiệm và nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực huy động được cho công cuộc xoá đói giảm nghèo. Địa bàn trọng điểm để thực hiện xoá đói giảm nghèo hiện nay là những vùng cao, vùng sâu, vùng có khó khăn, kết cấu hạ tầng thiếu và lạc hậu, suất đầu tư cao, khó thu hút vốn đầu tư từ khu vực tư nhân. Đây thực sự là một thách thức lớn cho công tác xoá đói giảm nghèo trong những năm tới. Thứ năm, người nghèo còn gặp nhiều hạn chế trong việc tiếp cận và hưởng thụ các dịch vụ xã hội cơ bản và lợi ích của tăng trưởng đem lại. Trong hoàn cảnh nước ta, một nước nông nghiệp còn phụ thuộc rất nhiều vào thiên nhiên, thiên tai liên tiếp xảy ra, mùa màng thất bát, trong lúc tiềm lực của người nghèo hầu như rất mong manh, thiếu ăn, thiếu mặc, thể chất gầy yếu… Do vậy, nguy cơ dễ bị tổn thương của người nghèo trước những rủi ro trong cuộc sống rất lớn. Làm thế nào để hạn chế bớt những rủi ro cho người nghèo cũng là một vấn đề đang đặt ra rất nan giải. Thứ sáu, nhận thức về trách nhiệm đối với công tác xoá đói giảm nghèo ở một số bộ, ngành, địa phương cơ sở thiếu nhất quán nên điều hành, phối – kết hợp còn lúng túng, chậm chạp. Một bộ phận người nghèo chưa nhận thức đúng trách nhiêm của chính mình, thiếu quyết tâm vuơn lên để vượt qua nghèo đói. Điều này đang đặt ra cho công tác giáo dục, đào tạo, tuyên truyền thêm nhiều trọng trách. Thứ bảy, công tác điều tra, khảo sát để nắm chắc số lượng người nghèo, hộ nghèo, xã nghèo, xây dựng kế hoạch còn nhiều bất cập, chưa được đầu tư nguồn lực đúng mức để thực hiện. ở một số địa phương, chưa biết cách tạo cơ hội để cho mọi người dân và cộng đồng tham gia xây dựng phương án kế hoạch cụ thể thực hiện và quản lí các nguồn lực xoá đói giảm nghèo. Thứ tám, vai trò quản lí của cán bộ xã, vai trò hỗ trợ, tư vấn của các tổ chức đoàn thể xã hội trong việc thông hiểu các thủ tục giải ngân từ các nguồn vốn của ngân hàng phục vụ người nghèo còn rất mờ nhạt. Mặc dù cơ chế cho vay đối với người nghèo được áp dụng không cần thế chấp tài sản, phương thức giải ngân sử dụng cơ chế tín chấp qua các tổ chức tương trợ. Nhưng do trình độ học vấn, chuyên môn nghiệp vụ ở những tổ này còn rất thấp nên hiệu quả của các biện pháp hỗ trợ người nghèo qua cơ chế vay vốn vẫn còn rất hạn chế. III.Những giải pháp chủ yếu để thúc đẩy vai trò của tăng trưởng kinh tế với xoá đói giảm nghèo. Có rất nhiều giải pháp để thúc đẩy vai trò của tăng trưởng kinh tế với xoá đói giảm nghèo, giúp cho người nghèo được hưởng những thành quả từ tăng trưởng kinh tế mang lại. Tuy nhiên, đối với Việt Nam hiện nay cần phải chú trọng vào một số giải pháp chính thiết thực với người nghèo như sau: 1. Đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế đặc biệt là phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn để xoá đói giảm nghèo trên diện rộng. Hiện nay, Việt Nam vẫn xếp ở nhóm nước nghèo nhất thế giới. Vì vậy muốn đưa nước ta thoát khỏi cảnh nghèo nàn, lạc hậu, rút ngắn được khoảng cách với các nước trong khu vực và trên thế giới thì cần phải có một tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Việt Nam hiện có trên 77% dân cư sống ở nông thôn, 70% thu nhập và đời sống của cư dân nông thôn dựa vào nông nghiệp, 90% người nghèo sống ở nông thôn. Do đó việc phát triển nông nghiệp và nông thôn là giải pháp cơ bản để có thể xoá được đói, giảm được nghèo. Các giải pháp cơ bản để phát triển kinh tế nông nghiệp và nông thôn trong thời gian tới là: phát triển khoa học công nghệ; chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông thôn; tổ chức và xây dựng các thể chế mới với sự tham gia của nông dân trong sản xuất, chế biến và tiếp thị; tăng đầu tư cho ngành nông nghiệp đặc biệt là cơ sở hạ tầng nông thôn; phát triển nguồn nhân lực; cải cách chính sách về đất, chính sách tín dụng hướng vào phục vụ cho người nghèo nhằm đảm bảo các mục tiêu tăng năng suất, giảm giá thành, tăng khả năng cạnh tranh của hàng hoá nông nghiệp trên thị trường trong nước và nước ngoài; đa dạng hoá sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, tăng khả năng chế biến để nâng cao chất lượng sản phẩm, đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu; tạo nhiều công ăn việc làm và thu nhập ở nông thôn bằng phát triển công nghiệp nông thôn, phát triển dịch vụ và ngành nghề phi nông nghiệp. Các giải pháp cơ bản là: 1.1. Tập trung thâm canh, áp dụng khoa học công nghệ để nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp: Tiến hành điều chỉnh lại qui hoach đất đai, tập trung thâm canh tăng năng suất, bảo đảm sản xuất nông sản phù hợp nhu cầu và khả năng của thị trường. Xây dựng các vùng sản xuất lúa, ngô hàng hoá, tập trung thâm canh có chất lượng cao để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng và xuất khẩu. Tăng cường các biện pháp nâng cao giá trị và hiệu quả xuất khẩu gạo. Xây dựng các vùng sản xuất hàng hoá tập trung chuyên canh các loại cây công nghiệp, cây ăn quả. Tăng cường hướng dẫn kĩ thuật, cung cáp giống mới và tạo điều kiện về tín dụng cho người dân phát triển sản xuất. 1.2. Đa dạng hoá sản xuất nông nghiệp và phát triển ngành nghề nông thôn. Tiếp tục khuyến khích phát triển ngành nghề nông thôn theo quyết định 132/ 2000/ QĐ- TTg của thủ tướng Chính phủ nhằm tạo thêm công ăn, việc làm, tăngthu nhập bằng công nghiệp nông thôn, phát triển các dịch vụ và các nghề phi nông nghiệp như : chế biến, bảo quản nông sản, sản xuất vật liệu xây dựng, hàng mây tre đan, gốm sứ, thuỷ tinh, dệt may, thủ công mỹ nghệ. Hiện đại hoá công nghiệp chế biến, nâng cao chất lượng hàng hoá nông nghiệp, lâm nghiệp và ngư nghiệp, nhờ đó tăng giá trị hàng hoá và khả năng cạnh tranh của sản phẩm Việt Nam. 1.3. Mở rộng khả năng tiếp cận dịch vụ tài chính, tín dụng ở nông thôn, cải cách và đổi mới hệ thống tài chính tín dụng nông thôn, hình thành thị trường tín dụng bền vững, tạo điều kiện đầu tư vốn thuận lợi để hiện đại hoá và đa dạng hoá sản phẩm nông nghiệp. Bảo đảm cho các hộ nghèo có thể gửi – vay được thuận lợi. Thực hiện chính sách tín dụng phù hợp với các đối tượng chính sách, tạo điều kiện cho người nghèo, người yếu thế, người bị rủi ro được vay vốn tín dụng với lãI suất hợp lí, kịp thời và đúng thời vụ để phát triển sản xuất. Trước mắt, vẫn áp dụng chính sách lãi suất thấp cho người nghèo, về lâu dài sẽ chuyển dần sang tăng khả năng tiếp cận của người nghèo với hệ thống tín dụng chính thức thông qua đơn giản hoá thủ tục gắn với đào tạo hơn là áp dụng các chế độ ưu đãi về lãi suất như hiện nay. 2. Nâng cao chất lượng dịch vụ y tế, kế hoạch hoá gia đình, tăng khả năng tiếp cận và giảm gánh nặng chi phí y tế cho người nghèo. 2.1. Tăng cường củng cố và hoàn thiện mạng lưới y tế cơ sở: Tăng khả năng tiếp cận của người nghèo, đặc biệt là phụ nữ nghèo và trẻ em đến các dịch vụ y tế cơ bản; đảm bảo công bằng trong tiếp cận và sử dụng các dịch vụ y tế. Đổi mới phương thức hoạt động của Ban chăm sóc sức khoẻ ở cơ sở. Phát huy khả năng của y tế các lực lượng vũ trang trong việc kết hợp quân – dân y để chăm sóc sức khoẻ nhân dân ở cơ sở đặc biệt là khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa, hải đảo, vùng biên giới. Quản lí và phát huy tốt vai trò của lực lượng y tế ngoài công lập. Tăng cường cán bộ y tế cho các vùng nghèo. Mở rộng các hình thức đào tạo và bồi dưỡng để phát triển đội ngũ cán bộ y tế cơ sở, ưu tiên đào tạo cán bộ dân tộc ít người tại chỗ cho miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn… xây dựng các chính sách đãi ngộ thích hợp về lương, bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, phụ cấp tiền trực, ưu đãi trong đào tạo… để khuyến khích cán bộ y tế làm việc cho khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng còn thiếu. 2.2. Xây dựng và ban các chính sách ưu tiên chăm sóc sức khoẻ nhân dân miền núi, vùng sâu, vùng xa, đặc biệt quan tâm tới đồng bào dân tộc ít người và người nghèo. Đặc biệt cần có chính sách chăm sóc sức khoẻ của phụ nữ, trẻ em, người già cô đơn, không nơi nương tựa. Đẩy mạnh việc ứng dụng y dược học cổ truyền trong chăm sóc sức khoẻ nhân dân. Khuyến khích các bài thuốc nam, thuốc lá dân tộc để giảm bớt gánh nặng chi phí cho người nghèo. 2.3. Nâng cao chất lượng dịch vụ y tế công, đặc biệt ở tuyến cơ sở, ở miền núi, vùng sâu, vùng xa. áp dụng chuẩn quốc gia về y tế xã. Quy hoạch tốt mạng lưới khám chữa bệnh, phân tuyến chuyên môn. Nâng cao năng lực chuyên môn và y đức cho cán bộ y tế. Tăng cường các hoạt động giám sát và hỗ trợ của kỹ thuật của y tế tuyến trên đối với tuyến cơ sở, đảm bảo cho tuyến cơ sở có đủ khả năng phát hiện và điều trị kịp thời các bệnh theo tuyến kỹ thuật, góp phần giảm tình trạng quá tải của các bệnh viện tuyến trên và nâng cao hiệu quả chăm sóc sức khoẻ. 2.4. Tiếp tục đẩy mạnh công tác y tế dự phòng, nâng cao sức khoẻ, giảm gánh nặng bệnh tật và tử vong. Tiếp tục triển khai tốt và mở rộng các chương trình mục tiêu quốc gia về y tế để khống chế các bệnh xã hội, bệnh dịch nguy hiểm và các bệnh thường gặp ở người nghèo, vùng nghèo như : sốt rét, bướu cổ, lao, phong, tâm thần… Có các biện pháp hữu hiệu để ngăn chặn sự lây lan của dịch bệnh này. Có biện pháp đề phòng và nhanh chóng khắc phục hậu quả về sức khoẻ do thiên tai, thảm hoạ gây ra. Tiếp tục lồng ghép các chương trình mục tiêu quốc gia về y tế với xoá đói giảm nghèo. Tăng cường các hoạt động truyền thông giáo dục sức khoẻ, hạn chế các tập tục lạc hậu và các lối sống có hại cho sức khoẻ. Tăng tỷ lệ gia đình sử dụng nước sạch và hố xí hợp vệ sinh. Đẩy mạnh xã hội hoá công tác y tế, huy động cộng đồng tích cực tham gia các hoạt động vệ sinh, phòng bệnh, rèn luyện thân thể, tạo ra phong trào “ toàn dân vì sức khoẻ ’’. 2.5. Tăng cường nguồn tài chính cho y tế: Trong những năm tới, nhà nước tiếp tục thực hiện chính sách tăng đầu tư cho y tế, trong đó chú trọng ưu tiên kinh phí để thực hiện các chính sách chăm sóc sức khoẻ cho người dân vùng núi, vùng khó khăn, vùng có tỷ lệ người nghèo cao, vùng dân tộc ít người… Tăng kinh phí để phát triển mạng lưới y tế cơ sở. Tăng cường trang thiết bị y tế thích hợp cho y tế cơ sở, đảm bảo cung cấp đủ trang thiết bị cho y tế cơ sở theo danh mục trang thiết bị do bộ y tế ban hành. Xây dựng cơ chế tài chính đảm bảo kinh phí cho hoạt động thường xuyên của trung tâm y tế huyện và trạm y tế xã, phường, đặc biệt là ở vùng núi,vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn, vùng đồng bào dân tộc ít người. Tăng cường phát triển các hình thức chi trả trước cho chăm sóc sức khoẻ; mở rộng bảo hiểm y tế nông thôn, tiến đến bảo hiểm y tế bắt buộc toàn dân. Có các chính sách, giải pháp thích hợp và hiệu quả để giảm gánh nặng chi phí cho người nghèo khi phải đi khám và điều trị bệnh. Nhà nước bảo đảm có đủ ngân sách cần thiết để thực hiện tốt chính sách hỗ trợ người nghèo như : miễn giảm phí dịch vụ khám chữa bệnh, mua thẻ bảo hiểm y tế cho người nghèo, người già cô đơn không nơi nương tựa, người tàn tật; thực hiện tốt chính sách miễn viện phí đối với đồng bào dân tộc ít người và trẻ em dưới 6 tuổi. Nhà nước cấp miễn phí các loại thuốc thông thường để điều trị các bệnh xã hội và các văcxin cơ bản phòng bệnh cho trẻ em. Nhà nước thực hiện chính sách trợ cấp có mục tiêu dịch vụ phòng bệnh, phòng chống dịch ở miền núi. 2.6. Tổ chức thực hiện tốt Chiến lược dân số Việt Nam giai đoạn 2001 – 2010. Coi việc thực hiện kế hoạch hoá gia đình và giảm tỷ lệ sinh là một trong những biện pháp quan trọng nhằm xoá đói giảm nghèo. Chú trọng công tác truyền thông về kế hoạch hoá gia đình cho các cặp vợ chồng ở độ tuổi có mức sinh cao, đặc biệt là nam giới. Sử dụng đa dạng và có hiệu quả các kênh truyền thông và các hình thức thông tin giáo dục truyền thông khác, tiếp cận mọi đối tượng để nâng cao nhận thức và cam kết thực hiện kế hoạch hoá gia đình, duy trì qui mô gia đình hợp lí. Từng bước nâng cao chất lượng dân số, chất lượng cuộc sống của các tầng lớp dân cư, lồng ghép các mục tiêu phát triển dân số vào các kế hoạch phát triển. 3. Xây dựng nền giáo dục công bằng hơn, chất lượng cao hơn cho mọi người. Tiếp tục nâng cao các biện pháp nhằm tạo điều kiện công bằng hơn trong giáo dục, chú trọng đến việc nâng cao chất lượng trong giáo dục cho người nghèo và các nhóm yếu thế trong xã hội ( bao gồm cả trẻ em gái ) là một trong những trọng tâm của quá trình phát triển và mang tính chất quyết định đối với công cuộc xoá đói giảm nghèo. Tiếp tục hoàn thiện thể chế chính sách công bằng trong giáo dục, đặc biệt trong việc tiếp cận giáo dục tiểu học và trung học cơ sở cho con em các hộ gia đình sinh sống trong các vùng nông thôn, các vùng nghèo, đồng bào các dân tộc ít người; bảo đảm bình đẳng giới và tăng cường khả năng tiếp cận giáo dục của trẻ em gái. Tiếp tục đầu tư thích đáng cho hệ thống giáo dục của các xã nghèo, vùng nghèo. Tăng cường cơ sở vật chất bao gồm xây mới và xây lại các phòng học tranh, tre, nứa, lá. Cung cấp đầy đủ trang thiết bị giảng dạy và học tập cho các trường tiểu học và trung học cơ sở. Quan tâm xây dựng trường kiên cố, bán kiên cố cho các vùng thường xảy ra thiên tai. Duy trì và mở rộng hệ thống trường nội trú cho vùng sâu, vùng cao, vùng xa, hình thành hệ thống trường nội trú xã, xây dựng và củng cố mô hình trường khu vực ( tuyến huyện ) để khuyến khích các hộ gia đình nghèo gửi con đi học. Nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo của các xã nghèo, vùng nghèo, bảo đảm cho trẻ em vùng nghèo có điều kiện thuận lợi tiếp cận nền giáo dục tiểu học chất lượng cao. Xây dựng chính sách đặc biệt cho người làm công tác giáo dục ở các vùng khó khăn như hoàn thiện chế độ tiền lương, phụ cấp cho giáo viên, ưu tiên đào tạo và các chế độ đãi ngộ khác. Xây dựng cơ chế miễn giảm, hỗ trợ trọn gói cho trẻ em các hộ gia đình nghèo trong lĩnh vực giáo dục tiểu học bao gồm: tiền học phí, tiền sách giáo khoa, tiền xây dựng trường, tiền ăn, ở, đi lại… Có nhiều biện pháp hỗ trợ kịp thời cho các gia đình có con em học tiểu học tại các vùng bị rủi ro ( mất mùa, thiên tai… ) để giảm bớt khó khăn cho các gia đình và hạn chế tình trạng con em bỏ học. Từng bước quan tâm đến học sinh nghèo ở các cấp học cao hơn. Tăng cường nguồn tài chính cho giáo dục và đào tạo. Nâng tỷ lệ chi ngân sách Nhà nước cho giáo dục, đào tạo từ 15% năm 2000 lên ít nhất 18% năm 2005 và 20% năm 2010. Ngân sách nhà nước tập trung nhiều hơn cho các bậc giáo dục phổ cập, cho vùng nông thôn, miền núi, cho đào tạo trình độ cao, cho những ngành khó thu hút đầu tư ngoài ngân sách nhà nước. Tranh thủ nguồn vốn vay với lãi suất ưu đãi từ Ngân hàng thế giới, Ngân hàng phát triển Châu á, các tổ chức quốc tế và các nước khác. Khuyến khích sự tham gia của khu vực tư nhân trong lĩnh vực đào tạo, đặc biệt là đào tạo nghề; khuyến khích các hình thức đầu tư, mở rộng thị trường lao động để tăng cơ hội về việc làm, việc làm có năng suất cao cho người nghèo và vung nghèo. Thực hiện chế độ ưu đãi về sử dụng đất đai, vay vốn ưu đãI để đầu tư xây dựng các cơ sở giáo dục. 4. Phát triển cơ sở hạ tầng để tạo cơ hội cho các xã nghèo, vùng nghèo, người nghèo tiếp cận các dịch vụ công. Tiếp tục phát triển kết cấu hạ tầng cho ( giao thông, bưu điện, điện …) tạo khả năng thuận lợi cho phát triển kinh tế – xã hội : 4.1. Phát triển và sử dụng điện cho các xã nghèo. Đối với các xã nghèo ở vị trí địa lý có khả năng nối lưới, Nhà nước hỗ trợ vốn đầu tư để xây dựng mới đường dây tải điện để nối điện lưới quốc gia theo cơ chế : Nhà nước đầu tư đường dây điện cao thế, máy biến áp trung thế và công tơ tổng. Phần còn lại huy động nhân dân cùng góp vốn xây dựng. Đối với những xã không có khả năng nối lưới ( khoảng 200 xã trong tổng số xã nghèo hiện nay ), Nhà nước hỗ trợ vốn hoặc cho vay tín dụng ưu đãi với lãi suất bằng không để nhân dân tự làm các công trình cấp đIện tại chỗ như : thuỷ điện nhỏ; máy phát điện gia đình, liên gia đình sử dụng các loại hình năng lượng khác ( năng lượng mặt trời, gió tự nhiên… ). Đối với các hộ gia đình thuộc diện đặc biệt khó khăn, Nhà nước hỗ trợ thêm một phần kinh phí để nối điện từ nguồn chung vào đến nhà và lắp đặt đường dây điện trong nhà. Nhà nước hỗ trợ đào tạo, tập huấn cán bộ, nhân viên làm nhiệm vụ quản lý và vận hành, duy tu bảo dưỡng hệ thống phân phối điện một cách có hiệu quả, trước mắt ưu tiên cho vùng sâu, vùng xa, vùng có địa hình phức tạp. Nhà nước chỉ đạo giá diện sinh hoạt cho người nghèo để đảm bảo không quá cao so với giá điện sinh hoạt định mức ở các đô thị. 4.2. Phát triển thuỷ lợi nhỏ cho các xã nghèo. Đối với các xã nghèo thuộc chương trình 135 chưa có công trình thuỷ lợi tưới hoặc đã bị xuống cấp, Nhà nước dùng vốn ngân sách hỗ trợ đầu tư xây dựng và cải tạo, nâng cấp. Đối với các địa bàn vùng cao đặc biệt khó khăn không có ruộng nước, Nhà nước hỗ trợ kinh phí để làm ruộng bậc thang, nhằm giúp người nghèo có điều kiện sản xuất lương thực tại chỗ, hoặc trồng rừng. Đối với những xã nghèo nằm gần các công trình thuỷ lợi lớn, Nhà nước đầu tư xây dựng hệ thống kênh dẫn từ công trình lớn, tạo nguồn nước, hỗ trợ vật tư cùng nhân dân xây dựng hệ thống kênh nội đồng. Tiếp tục tập trung đầu tư phát triển thuỷ lợi nhỏ cho các xã nghèo, vùng nghèo. Thực tiễn phát triển các công trình thuỷ lợi ở các xã nghèo vừa qua cho thấy nhân dân đóng góp khoảng 20 – 40% vốn đầu tư cho mỗi công trình mới, còn duy tu bảo dưỡng khoảng từ 20 – 30% tổng chi phí; cần nghiên cứu, mở rộng việc áp dụng cơ chế này trong giai đoạn tới. Đối với những nơi chưa có nguồn nước để phục vụ thuỷ lợi tuyến xã, đặc biệt các xã vùng sâu, vùng xa, Nhà nước tăng thêm kinh phí tạo nguồn. 4.3. Phát triển đường giao thông : Để phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng giao thông như mục tiêu đề ra cần tiếp tục triển khai chủ trương Nhà nước và nhân dân cùng làm để xây mới, nâng cấp đường giao thông và thay thế các cầu khỉ tạo thuận lợi cho dân cư sản xuất và sinh hoạt. Bảo đảm có đường ô tô đến trung tâm xã, cụm xã; riêng đối với các tỉnh miền núi, nơi có địa hình khó khăn, giai đoạn đầu mở đường cho xe cơ giới hai bánh hoặc xe có ngựa thồ, sau đó mở rộng tiếp cho xe ô tô. Đến năm 2005, bảo đảm 30% mặt đường được bê tông hoá, 70% đường giao thông nông thôn đI lại quanh năm; xoá bỏ 80% cầu khỉ khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Từng bước sử dụng phương tiện vận tải công cộng; phục vụ vận chuyển hàng hoá và hành khách khu vực nông thôn, khu vực đói nghèo. Đối với các xã vùng sâu, vùng xa và nơi thành lập khu công nghiệp nông thôn, Nhà nước có chính sách đặc biệt để xây dựng các tuyến đường nối với đoạn giao thông chính, nâng cấp các tuyến đường đã xuống cấp. Đối với cải tạo nâng cấp và mở rộng đường nội xã, vốn chủ yếu do dân đóng góp, Nhà nước hỗ trợ dưới dạng vật tư thiết yếu như xi măng, sắt, thép. Ưu tiên đầu tư vào cải tạo, nâng cấp, mở rộng cho các tuyến đường chưa thông xe bốn mùa. Đối với cải tạo, nâng cấp đường liên xã, nối xã với huyện và các trục giao thông chính ở các xã nghèo, Nhà nước hỗ trợ phần lớn vật tư thiêt yếu, chi phí máy thi công, san ủi, phần còn lại huy động nguồn vốn tại địa phương. Nâng cấp các tuyến vận tải thuỷ nội địa chủ yếu, đặc biệt ở đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long, đảm bảo phương tiện đi lại 24/24 giờ. Kết luận Công tác xoá đói giảm nghèo là một vấn đề rất phức tạp đặc biệt là trong điều kiện đất nước còn nhiều khó khăn về kinh tế như hiện nay. Trong thời gian qua, công tác xoá đói giảm nghèo ở nước ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn. Tuy nhiên, kết quả đó vẫn còn rất mong manh, khả năng tái nghèo của các hộ vừa thoát nghèo là rất lớn. Do đó để đạt đước kết quả xoá đói giảm nghèo bền vững và đạt mục tiêu đến năm 2010 nước ta về cơ bản không còn hộ nghèo là một nhiệm vụ không đơn giản. Nó đòi hỏi phảI có sự nỗ lực , phối kết hợp thực hiện của tất cả các ngành, các cấp, các địa phương cơ sở và đặc biệt của bản thân người nghèo. Và một nhân tố không thể thiếu để có thể xoá đói giảm nghèo đó là phảI có một sự tăng trưởng cao về kinh tế. Danh mục các tàI liệu tham khảo 1. Chiến lược – Kế hoạch – Chương trình đầu tư phát triển kinh tế – xã hội Việt Nam dến năm 2010. TS. Dương Mạnh Hùng, NXB Thống kê, 2004. 2. Mối quan hệ giữa chuyển dịch cơ cấu kinh tế với xoá đói giảm nghèo và bất bình đẳng. Tạp chí Kinh tế & Dự báo, số tháng 2/ 2004. 3. Nghèo đói và xoá đói giảm nghèo ở Việt Nam. TS. Lê Xuân Bá - TS .Chu Tiến Quang – TS . Nguyễn Hữu Tiến – TS . Lê Xuân Đình, NXB Nông nghiệp, Hà Nội, 2001 4. Qui hoạch ngành và các chương trình quốc gia ở Việt Nam đến và sau năm 2000. TS . Nguyễn Mạnh Hùng, NXB Thống kê, Hà Nội, 1997. 5. Tăng trưởng với vấn đề công bằng xã hội và xoá đói giảm nghèo. GS – TS. Vũ Thị Ngọc Phùng, NXB Chính trị quốc gia, 1999. 6. Việt Nam tăng trưởng và xoá đói giảm nghèo, Báo cáo thường niên 2002-2003, Hà Nội, 2003. 7. Văn kiện đại hội Đảng IX, NXB chính trị quốc gia.2001 mục lục.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33768.doc
Tài liệu liên quan