Đề tài Phương hưóng và giải pháp cho phát triển hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam

Trong giai đoạn bắt đầu trở thành thành viên của tổ chức thương mại thế giới, dựa trên những luật chơi bình đẳng, các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam có rất nhiều cơ hội để thâm nhập vào thị trường của hơn 100 nước thành viên. Với tiềm năng sản xuất của ngành, cùng với những ưu đãi của nhà nước và chính phủ có thể nói hoạt động sản xuất và kinh doanh hàng TCMN đã có đủ điều kiện để phát triển mạnh và trở thành 1 ngành xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Với những lợi thế sẵn có ấy cùng với việc Việt Nam gia nhập WTO đem đến những cơ hội lớn với cả nền kinh tế nói chung và đối với lĩnh vực xuất khẩu hàng TCMN nói riêng. Môi trường kinh doanh ngày càng trở nên thông thoáng và hấp dẫn các nhà đầu tư, do đó nguồn vốn đầu tư vào lĩnh vực sản xuất TCMN cũng tăng lên, điều này giúp cho các doanh nghiệp có khả năng mở rộng khả năng sản xuất, kinh doanh, nâng cao uy tín trên trường quốc tế. Bên cạnh những tác động tích cực, trong giai đoạn mới của nền kinh tế, các doanh nghiệp Việt Nam cũng gặp nhiều thách thức trong lĩnh vực cạnh tranh. Cơ cấu thuế đối với mặt hàng TCMN còn nhiều phức tạp, gây trở ngại lớn đối với việc mở rộng và ổn định thị trường xuất khẩu. Vấn đề đặt ra là cần phải có những biện pháp để phát huy những tác động tích cực và hạn chế tối đa những tác động tiêu cực với sản xuất và kinh doanh hàng TCMN. Đề án cũng đã đề cập tới hệ thống các biện pháp đối với các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh mặt hàng này như: hoàn thiện công tác Marketing, tìm kiếm và mở rộng thị trường xuất khẩu; giải quyết những bất cập, trong doanh nghiệp. Cùng với những giải pháp tù phía nhà nước: Quy hoạch lại ngành sản xuất TCMN để phát triển bền vững, chính sách hỗ trợ tài chính, đẩy mạnh hơn nữa vai trò xúc tiến thương mại của nhà nước, hoàn thiện công tác bảo hộ sở hũư kiểu dáng công nghịêp .

doc28 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1591 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phương hưóng và giải pháp cho phát triển hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lời mở đầu Trên chặng đường hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay Việt Nam có rất nhiều cơ hội để giao lưu, mở rộng và phát triển kinh tế. Để đưa Việt Nam phát triển hơn nữa, sánh vai các cường quốc năm châu trên thế giới thì đảng và nhà nước ta đã có những chiến lược phát triển kinh tế đặc biệt quan tâm tới công nghiệp với hi vọng năm 2020 Việt Nam cơ bản trở thành 1 nước công nghiệp hiện đại. “phát triển nhanh ngành công nghiệp có khả năng phát huy lợi thế cạnh tranh chiếm lĩnh thị trường trong nước và xuất khẩu “ là 1 trong những chiến lược phát triển công nghiệp quan trọng hiện nay. Vừa tận dụng được nguồn lao động dồi dào trong nước có chi phí rẻ, đồng thời hàng thủ công mỹ nghệ chủ yếu sản xuất bằng nguồn lực trong nước, phụ liệu nhập khẩu chiếm tỷ lệ rất nhỏ 3-5% vì thế giá trị thực thu được rất cao 95-97%. Việc Việt Nam gia nhập WTO đem lại rất nhiều tác động khác nhau tới việc xuất khẩu hàng TCMN. Vì vậy cần có những nghiên cứu cụ thể, những lợi thế, hạn chế cạnh tranh của ngành hàng trên từng thị trường xuất khẩu chính. Tìm ra những tác động tích cực cũng như tiêu cực tới hoạt động sản xuất và xuất khẩu hàng TCMN để từ đó có những giải pháp kịp thời và hợp lý. Chính vì nhũng lý do trên mà em chọn đề :”Phương hưóng và giải pháp cho phát triển hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam”, với nội dung được chia làm 3 phần: 1. Tổng quan về hàng thủ công mỹ nghệ 2. Thực trạng sản xuất và xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ 3. Phương hướng và giải pháp Do lần đầu tiên viết đè tài nên không tránh khỏi những sai sót, kính mong thầy sẽ tận tình chỉ bảo giúp đề tài của em được hoàn thiện hơn hữu ích hơn. Em xin chân thành cảm ơn! PHẦN 1: VAI TRÒ CỦA HÀNG THỦ CÔNG MỸ NGHỆ I. KHÁI NIỆM Sản phẩm hàng thủ công mỹ nghệ truyền thống ở Việt Nam rất phong phú và đa dạng. Nhiều sản phẩm đã xuất hiện từ lâu đời, tại nhiều địa phươpng trong cả nước. Thủ công mỹ nghệ có thể được hiểu là mặt hàng có quy trình sản xuất thủ công là chủ yếu và được truyền từ đời này qua đời khác vừa có giá trị về mặt thẩm mỹ vừa thể hiện nét đẹp văn hoá dân tộc. Chính vì thế nên có những mặt hàng thủ công nhưng không phải là mỹ nghệ như: cái cày, cái cuốc… bởi nó chỉ đơn thuần được sản xuất thủ công mà không chứa đựng những tinh hoa nghệ thuật. Người tiêu dùng mua nó không chỉ vì giá trị sử dụng mà còn vì giá trị tinh thần ẩn chứa trong đó. Cho nên khi hàng TCMN của Việt Nam khi xuất khẩu ra nước ngoài mang theo bản sắc dân tộc Việt Nam tới mọi quốc gia trên thế giới. Thương hiệu hành TCMN không chỉ đem lại GDP cho phát triển kinh tế mà còn mang hồn dân tộc Việt Nam tới các dân tộc anh em trên thế giới. II. PHÂN LOẠI Hiện nay ở nước ta sản xuất hàng TCMN truyền thống được tập trung ở các làng nghề, phân bố ở khắp nơi trong cả nước, được tập trung nhiều nhất ở đồng bằng sông hồng.Việc phân loại hàng TCMN chỉ mang tính chất tương đối.Có rất nhiều tiêu thức để phân chia, truớc kia thường chia theo trình độ kỹ thuật, kinh tế hay theo trinh độ kỹ thuật, hay theo chức năng sản phẩm. Ngày nay trong nền kinh tế thị trường nhiều sản phẩm đã được phát triển mạnh. Dựa vào giá trị sử dụng của sản phẩm có thể chia hàng TCMN theo các nhóm: mây tre, cói, lá, thảm gốm sứ, gỗ mỹ nghệ sơn mài thêu sản phẩm đá và kim loại quý III. ĐẶC ĐIỂM Mấy năm gần đây do sự phát triển của khoa học công nghệ nên xuất hiện nhiều sản phẩm TCMN mới nhưng hầu hết đều được hình thành, tồn tại và phát triển từ lâu đởi nước ta. Kinh nghiệm sản xuất đuợc truyền từ đời này qua đời khác và trở thành 1 nghề tồn tại độc lập. Được sản xuất 1 cách tập trung tạo thành các làng nghề, sự ra đời của hàng TCMN lúc đầu là để đáp ứng nhu cầu lao động dư thừa nhàn rỗi giữa các mùa vụ. Sau đó dần dần hình thành các làng nghề.Và hiện nay nước ta co khoảng 2017 làng nghề. - Đặc điểm cơ bản nhất của nghề TCMN là sản xuất ra sản phẩm chủ yếu dựa vào sự thuần thục, khéo léo của đôi bàn tay, sự tinh tế, sáng tạo trong lao động của người thợ. Đào tạo ra người thợ có tay nghề điêu luyện, khả năng sáng tạo của cá nhân là yếu tố quyết định đối với sự tồn tại và phát triển của nghề TCMN. Có thể nói chính đặc điểm này đã đem lại sự quý hiếm cho các mặt hàng TCMN, khác với các sản phẩm công nghiệp được sản xuất hàng loạt bằng máy móc. Giá trị của hàng TCMN chính là ở lao động thủ công, ở tâm hồn và sự sáng tạo của người thợ được thể hiện trong chính mỗi sản phẩm. - Sử dụng hầu hết nguyên liệu tại chỗ hoặc trong nước chính đặc điểm này đã khiến cho giá trị thực khi xuất khẩu hàng TCMN rất lớn. Khác với dệt may, giầy dép tuy có giá tri kim ngạch xuất khẩu cao nhưng vì phải nhập nguyên vật liệu từ nước ngoài nên giá trị ngoại tệ thực thu lại không cao. - Độc đáo và tiêu biểu của Việt Nam. Đúng vậy 1 sản phẩm hàng TCMN là 1 tác phẩm vừa có giá trị sử dụng vừa có giá trị thẩm mỹ. Các tác phẩm là sự kết hợp giữa phưong pháp thủ công tinh xảo với sự sáng tạo nghệ thuật. Hàng TCMN truyền thống đều mang tính cá biệt và có sắc thái riêng của mỗi làng nghề. Từ nét trạm trổ trên các sản phẩm đồ gỗ, các hoạ tiết trên đồ gốm sứ…tất cả đều mang vóc dáng dân tộc, quê hương và chứa đựng trong nó những ảnh hưởng tinh thần, quan niệm nhân văn, tín ngưỡng tôn giáo của dân tộc. IV. VAI TRÒ CỦA HÀNG THỦ CÔNG MỸ NGHỆ 1 . Phát triển hàng TCMN giúp chuyển dịch theo hướng CNH_HĐH Trong quá trình phát triển, hoạt động sản xuất hàng TCMN đóng góp tích cực tỷ trọng công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và giảm bớt tỷ trọng nông nghiệp chuyển lao động từ sản xuất nông nghiệp sang sản xuất phi nông nghiệp Mặt khác có thể thấy sản xuất hàng TCMN ở các làng nghề cho thu nhập và giá trị sản lượng cao hơn hẳn so với sản xuất nông nghiệp. Do từng bước tiếp cận với nền kinh tế thị trường, năng lực thị trường được nâng lên, người lao động nhanh chóng chuyển sang đầu tư cho các ngành phi nông nghiệp, đặc biệt là những ngành mà sản phẩm có khả năng tiêu thụ ở thị trường trong nước và thế giới.Sản xuất mặt hàng này tạo cơ hội cho hoạt động dịch vụ ở làng nghề mở rộng quy mô. Sản xuất trong các làng nghề là 1 quá trình liên tục đòi hỏi 1 sự thường xuyên cung ứng vật liệu và tiêu thụ sản phẩm, do đó ngành dịch vụ ở nông thôn phát triển mạnh mẽ hơn. Tóm lại phát triển TCMN có tác dụng rõ rệt trong quá trình chuyển dich cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng CNH_HĐH. Đến nay kinh tế ở làng nghề truyền thống chuyên dịch theo hướng 60-80% cho công nghiệp và dịch vụ, 20-40% cho nông nghiệp. 2. Sản xuất hàng TCMN giúp giải quyết việc làm cải thiện đời sống người dân Vấn đề lao động và việc làm là vấn đề nhức nhối và quan trọng ở nước ta hiện nay, là 1 nước có dân số đông diện tích đất canh tác trên đầu người thấp nên tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực nông thôn chiếm tỷ lệ cao. Do đó vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động là hết sức khó khăn, việc mở mang ngành nghề, đầu tư phát triển hàng TCMN là biện pháp tốt nhất để huy động nguồn lao động này bởi hàng TCMN chủ yếu được làm bằng tay không đòi hỏi cao về chuyên môn, trình độ kỹ thuật hay trình độ ngoại ngữ.Theo thống kê tính đến nay cả nước có khoảng 2017 làng nghề thu hút được hơn 1,35 triệu lao động. Hoạt động này không chỉ tạo ra 1 lượng lớn lao động mà còn giải quyết việc làm cho lao động nhàn rỗi sau mỗi vụ sản xuất.Bên cạnh đó sản xuất hàng TCMNcòn thu hút 1 lực lượng lao động đông đảo: người già, trẻ em, người tàn tật tham gia hoạt động sản xuất ở những công đoạn đơn giản. Theo ước tính của hiệp hội làng nghề, những nhóm đối tượng này chiếm đến 30-35% lao động đang làm việc trong lĩnh vực này. Bên cạnh đó tạo thêm công ăn việc làm sẽ làm tăng thu nhập của người lao động góp phần xoá đói giảm nghèo, cải thiện đời sống người dân. Đây cũng là 1 trong những chính sách của đảng và nhà nước về “quốc kế dân sinh”. Ở rất nhiều làng nghề thu nhập sản xuất hàng TCMN chiếm tới 70-80% tổng thu nhập của người dân, cá biệt có những nơi như xã Bát Tràng thu nhập từ gốm sứ và dịch vụ chiếm tới 99% tổng thu nhập toàn xã. Có thể nói phát triển hàng TCMN truyền thống là biện pháp tích cực để tạo việc làm cho mọi lớp lao động, mọi lứa tuổi ở mọi miền trên cả nước. Cho nên đầu tư cho TCMN là việc làm cần thiết. 3. Phát triển hàng thủ công mỹ nghệ chính là giữ gìn bản sắc dân tộc Chắc hẳn ai cũng biết các sản phẩm TCMN không chỉ có giá trị sử dụng mà còn ẩn chứa giá trị nghệ thuật và văn hoá sâu sắc. Mỗi sản phẩm TCMN đã thực sự trở thành nghệ thuật, là kết tinh tài năng, óc sáng tạo củ người thợ dựa trên bề dày văn hoá nghìn năm của dân tộc. Nhiều sản phẩm đã vượt qua giá trị hàng hoá đơn thuần trở thành những bảo vật được coi là biểu tượng đẹp đẽ của truyền thống dân tộc Việt Nam. Đây cũng là 1 đặc trưng quan trọng của sản phẩm TCMN tạo ra sức hấp dẫn riêng đối với du khác nước ngoài. Tìm đến sản phẩm là cách tiếp cận và khám phá văn hoá Việt Nam hay nói cách khác đi đẩy mạnh xuất khẩu TCMN sẽ góp phần giới thiệu và quảng bá văn hoá Việt Nam tới bè bạn quốc tế. 4. Xuất khẩu hàng TCMN góp phần đẩy mạnh XK tăng ngoại tệ cho đất nước. Trong những năm gần đây mặt hàng TCMN đã trở thành mặt hàng chủ lực xuất khẩu ở nước ta. Hàng TCMN của Việt Nam đã có mặt và được ưa chuộng ở 100 nước trên thế giới với 3 thị trường mục tiêu là Nhật Bản, Hoa Kỳ, EU. Trong những năm gần đây thì kim ngạch xuất khẩu mặt hàng nay không ngừng tăng. Nhưng điều đáng chú ý là hiệu quả của việc xuất khẩu TCMN rất cao, thể hiện ở tỷ lệ thu ngoại tệ. Nếu như nhiều mặt hàng xuất khẩu có kim ngạch lớn như dệt may, giày dép nhưng tỷ lệ thu ngoại tệ thực lại rất thấp bởi phải nhập nguồn nguyên liệu để sản xuất. Hàng TCMN sản xuất chủ yếu bằng nguồn nguyên liệu sãn có trong nước, nguyên phụ liệu nhập khẩu chiếm tỷ lệ rất nhỏ,khoảng 3 -5%. Vì vậy giá trị thực thu được từ xuất khẩu cho mặt hàng này trên thực tế rất cao từ 95-97%. Có thể so sánh với 235 triệu USD xuất khẩu vào năm 2000 gía trị thực thu được từ hàng TCMN tương đương với giá trị xuất khẩu 143 triệu USD hàng dệt may, xấp xỉ 10% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Điều này có thể hiểu là nếu tăng giá trị xuất khẩu lên 1 triệu USD hàng TCMN tương đương với xuất khẩu 4,7 triệu USD. Đó là chưa kể đầu tư đối với hàng TCMN thấp hơn rất nhiều do sản phẩm này không đòi hỏi đầu tư máy móc thiết bị. Sản xuất và xuất khẩu mặt hàng TCMN sẽ phát huy được lợi thế so sánh và tạo lợi thế cạnh tranh. Phát triển mặt hàng này không những có ý nghĩa kinh tế mà góp phần giải quyêt các vấn đề xã hội. Chính vì thế mà TCMN đang là mối quan tâm của các cấp, các ngành, các địa phương. Tuy nhiên thực trạng phát triển ra sao thì chúng ta cấn tìm hiểu và xem xét để từ đó tìm ra đâu là mặt được đâu là mặt chưa được và cùng đưa ra những phương hướng,giải pháp hợp lý. PHẦN 2: THỰC TRẠNG SẢN XUẤT VÀ XUẤT KHẨU HÀNG THỦ CÔNG MỸ NGHỆ I, THỰC TRẠNG SẢN XUẤT 1. Quy mô sản xuất Sản xuất ở các làng nghề vẫn còn nhỏ lẻ, quy mô vốn không nhiều 70% hộ gia đình chỉ có vốn trên dưới 10 triệu đồng. Đối tượng này tập trung chủ yếu tập trung tại các làng nghề sản xuất không đòi hỏi đầu tư nhiều như nghề mây tre đan, thêu ren…Ngược lại cũng có 1 số làng nghề có các hộ gia đình với số vốn đầu tư tương đối lớn, tập trung ở 1 số làng nghề như gốm sứ, đồ gỗ,…và hiện nay thì đang có xu hướng gia tăng các cơ sở sản xuất có quy mô lớn nhưng diễn ra 1 cách chậm chạp. 2. Lao động Hiện nay tại các làng nghề đều sử dụng lao động tại các địa phương tuỳ theo trình đọ phát triển của làng nghề mà lực lượng lao động sẽ vừa làm nông vừa làm nghề thủ công hay chuyển sang hẳn nghề thủ công. Theo thống kê hiên nay cả nước có 1,3 triệu thợ thủ công chuyên nghiệp và khoảng gần 3 triệu người làm thêm nghề thủ công. Trên thực tế vấn đề bất cập đặt ra hiện nay là sản phẩm có chất lượng cao phụ thuộc rất nhiều vào tay nghề người thợ nhưng đội ngũ lao động phổ thông và có tay nghề trung bình lại chiếm con số lớn. Hầu hết thợ này được đào tạo bằng hình thức truyền nghề trong gia đình chỉ có 1 số ít được đào tạo qua trường lớp. Nhận thức được điều này 1 số địa phương đã có sự chú ý tới đào tạo nghề nhưng hiệu quả chưa cao. Như ở Bát Tràng 1 số cá nhân đã đứng ra tổ chức dạy nghề nhưng mới chỉ dừng lại ở việc tạo mẫu. 3. Công nghệ sản xuất Do sự phát triển của khoa học công nghệ nên tại các làng nghề đã có sự đổi mới công nghệ, sử dụng máy móc thiết bị thay thế lao động thủ công ở những công đoạn có thể. Như ở Bát tràng các hộ sản xuất có xu hướng chuyển dần sang dùng lò ga thay thế lò hộp mặc dù chi phí sản xuất cho xây dựng 1 lò ga khoảng 150 triệu đồng > 20-30 triệu đồng khi xây dựng lò than nhưng chi phí sản xuất cuối cùng vẫn rẻ hơn do chi phí lao động và chi phí liên quan khác thấp hơn. Ngoài ra việc sư dụng lò ga còn cải thiện đáng kể tình trạng ô nhiễm môi trường vì đến nay đã có 200 lò nung bằng ga trong tổng 1100 lò đang hoạt động. Tuy nhiên chi phí đầu tư ban đầu quá lớn nên nhiều hộ gia đình không có đủ tiền để mua và chuyến sang sử dụng lò ga. Do đó nhà nước cần có những chính sách hỗ trợ vay vốn cho các doang nghiệp và các hộ gia đình. 4. Nguyên vật liệu Khối lượng nguyên vật liệu cho các làng nghề sử dụng khá lớn. Tuy nhiên công tác quy hoạch vùng nuôi trồng, khai thác và quản lý nguyên vật liệu phục vụ cho sản xuất chưa được quan tâm thực sự. Việc vung ứng nguyên vật liệu cho sản xuất ở các làng nghề chủ yếu do tư thương đảm nhận. Các cơ sở sản xuất tại các làng nghề đang gặp phải khó khăn lớn về nguyên liệu. Hiện nay hầu hết các cơ sở đều phải đi mua nguyên vật liệu từ bên ngoài chỉ có 1 số ít các cơ sở sản xuất tự cung tự cấp. Như ở làng nghề An Tịnh(Tây Ninh), Thái Mỹ (tpHCM), sử dụng tre trúc trồng quanh nhà để sản xuất. Miền Đông Nam Bộ có 248 cơ sở sản xuất(87%) mua nguyên vật liệu từ bên ngoài 90-100%, 22 cơ sở sản xuất(7,7%) mua từ bên ngoài 80-90%, số lượng cơ sở sản xuất mua bên ngoài dưới 80% chiếm tỷ lệ không đáng kể. Thị trường cung ứng nguyên vật liệu cho các làng nghề chủ yếu do tư thương đảm nhận vẫn còn manh mún, nhỏ lẻ và thiếu ổn định chưa đảm bảo cho việc phát triển bền vững của làng nghề trong dài hạn. Rõ ràng ở nước ta chưa quy hoạch được vùng nuôi trồng nguyên vật liệu lớn ổn định cho các làng nghề. Vì vậy cơ quan quản lý làng nghề cần sớm có chiến lược quy hoạch vùng trồng nguyên vật liệu lớn ổn định đảm bảo cho sản xuất diễn ra liên tục. 5. Môi trường Vấn đề nhức nhối nhất ở các làng nghề là tình trạng ô nhiễm môi trường sản xuất và môi trường sinh hoạt. Đối với làng nghề Bát Tràng lượng khói bụi từ hàng ngàn lò nung gốm toả ra làm không khí bị nóng và ô nhiễm. Làng nghề đồ gỗ mỹ nghệ ở Bắc Ninh, Nam Định lại bị ô nhiễm bởi tiếng ồn, bụi của hàng loạt máy cưa xẻ, đục, chạm khảm liên tục, bụi gỗ, chất thải của các loại xe kéo than… Một thực trạng nữa đó là phần lớn các cơ sở sản xuất kinh doanh nghề thủ công truyền thống đặc biệt là hộ kinh doanh đều sử dụng diện tích của chính hộ gia đình mình là nơi sản xuất. Điều này ảnh hưởng rất xấu tới môi trường sống của hộ gia đình. Trong những năm qua hoạt động sản xuất hàng TCMN đã có những bước phát triển nhất định theo hướng áp dụng công nghệ vào 1 số công đoạn sản xuất. Điều đó thể hiện sự chuyên môn hoá bắt đầu xâm nhập vào sản xuất. Tuy nhiên vấn đề còn tồn tại với mặt hàng này là tính chất nhỏ lẻ chủ yếu sản xuất tại các hộ gia đình và việc thiếu nguyên vật liệu, thiếu những nghệ nhân giỏi để tạo ra những sản phẩm có chất lượng cao và hàng loạt các vấn đề khác kéo theo. II, TÌNH HÌNH TIÊU THỤ 1, Thị trường trong nước: Sản phẩm của hàng TCMN rất phong phú và đa dạng. Hiên nay, các sản phẩm của làng nghề đang được tiêu thụ ở cả thị trường trong nước và xuất khẩu( bao gồm cả xuất khẩu tại chỗ). Thị trường trong nước chiếm tỷ trọng nhỏ trong cơ cấu tiêu thụ sản phẩm TCMN.Và thị truờng chính vẫn là ngoại quốc với kim ngạch xuất khẩu ngày 1 tăng đem lại 1 lượng ngoại tệ khá lớn cho nước nhà. 2, Thị trường nước ngoài Bảng 1: xuất khẩu TCMN Việt Nam giai đoạn 2000-2006(đơn vị: 1.000USD) STT sản phẩm 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 1 mây,tre, cói,lá, thảm 92.500 103.100 113.200 141.000 171.700 180.200 191.600 2 tốc độ tăng (%) 11,5 9,6 24,5 21,7 4,9 5,7 3 gốm,sứ 108.393 117.082 123.480 135.860 154.600 255.300 274.300 4 tốc độ tăng (%) 8 5,5 10 9 65,1 7,4 5 Sơn mài, mỹ nghệ 36.219 34.043 50.996 59.612 89.673 6 tốc độ tăng (%) -6 50 17 50 7 Thêu 50.463 54.735 52.673 60.615 65.374 8 tốc độ tăng (%) 8 -4 15 8 9 sản phẩm đá và kim loại quý 132.000 164.530 10 tốc độ tăng (%) 24,6 11 Tông giá trị 287.600 308.900 340.400 397.300 515.800 569.000 630.400 12 tốc độ tăng (%) 7,6 10,2 16,7 29,8 12 10,8 Nguồn Niên giám thống kê Bảng 1 cho thấy kim ngạch xuất khẩu 1 số mặt hàng chủ lực của ngành TCMN nói riêng cũng như kim ngạch xuất khẩu nói chung của ngành hàng này từ năm 2000 đến nay đều có những bước tăng trưởng ( ngoại trừ hàng sơn mài mỹ nghệ và thêu là có sự biến động thất thường). Song nếu nhìn vào tốc độ tăng trưởng năm sau so với năm trước thì sự tăng trưởng trên không mang tính ổn định, thậm chí còn có bước tụt lùi rõ rệt. Nguyên nhân là do ngành TCMN Việt Nam chưa xây dựng được 1 chiến lược phát triển thực sự khoa học và phù hợp với điều kiện thực tế của đất nước. Về cơ cấu: Hàng TCMN xuất khẩu hiện nay tập trung vào 4 nhóm sản phẩm chính là: mây tre, cói lá, và thảm các loại; đồ gốm sứ thêu ren và dệt; sản phẩm từ đá và kim loạ quý. 4 nhóm này đã chiếm hơn 90% kim ngạch xuất khẩu của ngành hàng. Tuy nhiên nhìn vào bảng trên có thể thấy mặt hàng gốm sứ đang được nhận định là có khả năng phát triển nhanh song tốc độ tăng trưỏng chưa thực sự ổn định. Các sản phẩm từ mây tre, cói, lá và thẩm các loại thì đang giảm ngay cả mặt hàng thêu ren và dệt cũng không ổn định và phụ thuộc vào rất nhiều thị trường. Mặt hàng đá và kim loại quý tuy mới hình thành nhưng cũng đã phát triển mạnh trong mấy năm gần đây. Hiện tại hàng TCMN nước ta có mặt ở gần 100 nước và vùng lãnh thổ, trong đó có những thị trưòng có sức mua lớn và ổ định như: Nhật Bản, EU, Hoa Kỳ.Dẫn đầu kim ngạch xuất khẩu là gốm, sứ mỹ nghệ(100 triêu USD), mây tre đan(70 triệu), đồ gỗ mỹ nghệ (20 triệu USD), thêu ren thổ cẩm(20 triệu),thảm các loại(15 triệu). Nhìn chung thị trường của hàng TCMN đã thay đổi rất nhiều trong vài thập kỷ gần đây. Trước đây hàng TCMN của nước ta được xuất khẩu chủ yếu sang các nước thuộc Liên Xô cũ, Đông Âu và các nước láng giềng Thái Lan, Lào, Camphuchia thị hiện nay được bán ở hầu hết các nước trên thế giới, với 3 thị trường mục tiêu: Thị trường EU Liên minh EU đang là thị trường có tầm quan trọng nhất. Năm 2005 trong những thị trường xuất khẩu chính của hàng TCMN thì có tới 7 nước của EU chiếm 42% tương đương với khoảng 24 triệu USD và gấp 4 lần lượng xuất khẩu sang Nhật hay Hoa kỳ. Sản phẩm đồ gỗ đang thâm nhập rất tốt vào vào thị trường EU - thị trường tiêu thụ đồ gỗ lớn nhất. Hàng gốm sứ mỹ nghệ cũng là nhóm hàng đang được tiêu thụ mạnh trong thị trường này. Thông qua hội chợ Frankfrut hàng năm tại Đức 1 số doanh nghiệp ta đã thành công trong việc nắm bắt nhu cầu khách hàng, ký được nhiều hợp đồng xuất khẩu hàng gốm, sứ mỹ nghệ. Đặc biệt hàng gốm sứ Việt Nam được nhiều khách hàng ưa chuộng, nhiều thương nhân chuyển từ đặt hàng các nước khác tập trung sang Việt Nam và hứa hẹn đầu tư mở rộng sản xuất tăng sản lượng hàng cung ứng cho thị trường này lên 2-3 lần. Các mặt hàng mây, tre, các sản phẩm bàn ghế trang trí nội thất bằng nguyên liệu song mây, hàng thêu ren cũng được thị trường này ưa chuộng. Việt Nam đã thực hiện xuất khẩu 1 khối lượng đáng kể các mặt hàng mây tre sang Tây Âu; thảm, cói, đệm sang Hà Lan, Tây Ban Nha,Italy; hàng thêu ren sang Pháp, Thụy Sỹ, Áo, Đức. Trong khu vực thị trường này hầu hết các nước đều nhập khẩu hàng TCMN của nước ta, trong đó có 1 số thị trường nhập khẩu với khối lượng tuơng đối lớn.Thực tế cho thấy nhu cầu của thị trường là rất lớn nhưng chúng ta lại không đáp ứng được do các cơ sở sản xuất hiện nay còn nhỏ lẻ, phân tán. Thị trường Mỹ Những năm gần đây Hoa kỳ có nhu cầu nhập khẩu khoảng 1,3 tỷ USD/năm hàng TCMN.Năm 2006 kim ngạch xuất khẩu đạt 76,4 triệu USD. Các đơn hàng nhập khẩu của Mỹ thường rất lớn vì đây là thị trường rất lớn và có chi phí kinh doanh rất đắt nên chỉ có làm ăn lớn mới có thể tồn tại được. Trong khi đó, sản xuất hàng TCMN của Việt Nam còn nhỏ lẻ, manh mún, các cơ sở sản xuất thưòng là các công ty TNHH nhỏ, hợp tác xã chủ yêú là các hộ gia đình nên rất khó khăn trong việc đáp ứng các đơn hàng có số lượng tương đối và thời gian giao hàng nhanh. Ngoài ra sự hợp tác yếu kém giữa các doanh nghiệp cũng là 1 trở ngại đáng kể đối với việc liên kết, sản xuất, chia sẻ các đơn hàng. Hơn nữa hàng TCMN của nước ta mẫu mã chưa phong phú, chưa quan tâm tới nghiên cúư thị trường mà chủ yếu dựa và mẫu mã được đặt trước hoặc mẫu mã truyền thống. Thị trường Nhật Bản Nhật Bản là thị trường gần và có nhu cầu rất lớn về nhiều loại hàng TCMN của nước ta, nếu xét về thị trường từng nước thì Nhật bản là thị trường xuất khẩu lớn thứ 2 sau Pháp. Theo thống kê của tổng cục hải quan Việt Nam năm 2006 Việt Nam xuất khẩu sang Nhật khoảng 70,14 triệu USD trong đó 30,8 triệu USD hàng gốm sứ. Trong các mặt hàng TCMN Việt Nam xuất khẩu vào Nhật thì hàng gốm sứ, đồ gỗ nội thất và mây tre đan là mặt hàng chính, kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này chiếm 50-85% kim ngach xuất khẩu TCMN hàng năm của nước ta sang Nhật Bản. Mặc dù có nhiều lợi thế so sánh trong việc xuất khẩu nhưng cũng không ít những khó khăn. Tỷ trọng xuất khẩu hàng TCMN của Việt Nam tại thị trường Nhật Bản nói chung còn nhỏ bé so với tiềm lực thực tế chủ yếu là do chất lượng hàng hoá và khả năng tiếp cạn thị trưòng còn yếu. III. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG SẢN XUẤT VÀ XUẤT KHẨU 1. Những thành tựu đạt được Trong mấy năm vừa qua ngành hàng thủ công mỹ nghệ đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ, năm 2006 kim ngạch xuất khẩu đạt 630,4 triệu USD, năm 2007 đạt 750 triệu USD và mục tiêu năm 2010 đạt 1,5 tỷ USD. Ngành công nghiệp “không khói” này có rất nhiều thế mạnh mà nhiều nước trong khối ASEN không có, chính vì vậy mà giá trị ngoại tệ thu đuợc hàng năm từ kim ngạch xuất khẩu là rất lớn chiếm 95-97%. Sự kiên gần đây nhất là việc sát nhập Bộ Công Nghiệp và Bộ Công Thương tạo nên sự gắn bó chặt chẽ giữa sản xuất và giao thương. Chính điều này sẽ là nền tảng tốt cho phát triển của mặt hàng này. Cùng với sự kiện Việt Nam gia nhập WTO nên có thêm nhiều cơ hội để giao luư học hỏi và tiếp cận với các thị trường mới. Trong những năm gần đây chúng ta đã tổt chức được nhiều các cuộc hội chợ, triển lãm ở trong và ngoài nước. Bên cạnh đó ở nước ta đã bắt đầu hình thành loại hình du lịch làng nghề (loại hình du lịch văn hoá có chất lượng cao) 2. Hạn chế và nguyên nhân tồn tại Bên cạnh những thành tựu đạt được thì việc sản xuất và tiêu thụ hàng TCMN còn tồn tại 1 số hạn chế. Đây chính là nguyên nhân làm cho tốc độ tăng trưởng mặt hàng này sụt giảm trong mấy năm gần đây và có nguy cơ bị vỡ kế hoạch 2.1 Trước hết là về nguồn nguyên vật liệu, các địa phương khai thác bừa bãi, thiếu quy hoạch đầu tư phát triển nguồn nguyên liệu dẫn đến tình trạng nguồn: gỗ, tre, giang, mây.. dần cạn kiệt. Hệ qủa là các doanh ngiệp phải nhập khẩu 50% từ Lào, Camphuchia, Indonexia. Giá của các nguyên liệu mât tre tăng tù 7000 đến 1700d/cây chỉ trong vòng 2 năm gần đây. Nhìn chung tình trạng cạn kiệt nguyên vật liệu thô là nguy cơ chung với nhà sản xuất Việt Nam. Trong khi đó các ngành phụ trợ của nước ta hiện nay chưa phát triển, các nhà xuất khẩu phải thường xuyên nhập khẩu nguyên phụ liệu từ nước ngoài, vd như: sọi sơn mài PU và chất nhuộm để thực hiện khâu hoàn thiện sản phẩm, vải có chất lượng cho sản xuất hàng thêu ren hầu như phải nhập khẩu hoàn toàn làm cho chi phí nguyên vật liệu chiếm 60% chi phí sản xuất. Sự mất chủ động trong cung ứng nguyên vật liệu làm giảm khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. 2.2 Doanh nghiệp yếu trong thăm dò thị trường Các doanh nghiệp sản xuất hàng TCMN hầu như không xuất khẩu trực tiếp nên không năm được nhu cầu khách hàng. Mặt hàng này đã có mặt ở hơn 100 quốc gia và vùng lãnh thổ nhưng lại không ổn định cả về số lượng và chất lượng. Đã như doanh nghiệp lại không nhận thức được sự quan trọng của vai trò và việc thiết kế sang tạo mẫu mã sản phẩm. Khi quan sát 10 cơ sở sản xuất tại Đồng Nai thì có tới 8 cơ sở không có khâu thiết kế trong quá trình sản xuất, trong khi mẫu mã là 1 trong những tiêu chí quan trọng để đánh giá chất lượng sản phẩm. Thực tế đã cho thấy rất rõ năm 2002, hàng TCMN được người tiêu dùng Nhật Bản rất ưa chuộng nhưng đến nay sức hấp dẫn của mặt hàng này đã giảm nhiều do không có sự thay đổi về mẫu mã. Với người Nhật, yêu cầu của mặt hàng phải thay đổi nhanh sao cho phù hợp với các mùa trong năm. Bởi vậy dòng đời của sản phẩm rất ngắn đòi hỏi cá doanh nghiệp xuất khẩu hàng TCMN phải nhanh nhạy đáp ứng nhu cầu đó. Việt Nam có tiềm năng rất lớn để phát triển hàng TCMN nhưng thành qủa đạt được thì còn quá nhỏ. Một bất cấp đang diễn ra là các doanh nghiệp vẫn sản xuất theo lối truyền thống chưa có sự am hiểu thị trường, thị hiếu tiêu dùng, chưa tạo được théo quen kinh doanh theo lối hiện đại. Đây chính là nguyên nhân của hàng loạt các vụ tranh chấp bản quyền, vi phạm bản quyền mẫu mã thương hiệu. Nhiều doanh nghiệp vẫn chưa ý thức được tầm quan trọng của việc đăng ký bản quyền cho sản phẩm mới và vai trò của việc bảo hộ thương hiệu về mặt pháp lý. Mặt khác thủ tục đăng ký bản quyền cho sản phẩm TCMN còn nhiều điều gây khó khăn cho doanh nghiệp. Để có được bản quyền cho sản phẩm của mình doanh nghiệp phải tốn khá nhiều thời gian vào quá trình đăng ký làm thủ tục và chờ đợi. Luật sở hữu trí tuệ đã có nhưng với cách làm việc như hiện nay đã gián tiếp đẩy các doanh nghiệp vào tình trạng tranh chấp vi phạm bản quyền, hạn chế sự phát triển của ngành TCMN. 2.3 Nghèo nàn về kiểu dáng và mẫu mã Một bất cập rất lớn đang là vấn đề nan giải của hàng TCMN đó chính là tình trạng ăn cắp, sao chép mẫ mã, bản quyền. Tình trạng này hiện nay diễn ra khá phổ biến trong các cơ sở sản xuất, doanh nghiệp. Chính kiểu làm ăn này đã dẫn đến tình trạng các doanh nghiệp tự hại nhau trong kinh doanh xuất klhẩu. Trong mấy năm gần đây mặt hàng gốm sứ liên tục giảm xuống do cạnh tranh không lành mạnh và đánh mất bản quyền trong mẫu thiết kế gốm. Đây là 1 bằng chứng thiết thực cho thấy duy trì lối kinh doanh như hiện nay thì chính các doanh nghiệp lại tự hại nhau. Hiện nay khoảng 90% sản phẩm hàng TCMN xuất khẩu đều được sản xuất theo mẫu thiết kế của nước ngoài đặt hàng. Điều này giải quyết tốt đầu ra cho sản phẩm trong hiện tại nhưng về lâu dài sẽ làm “ thui chột“ các ý tưởng sáng tạo của người nghệ nhân và các thợ nghề mà hiệu quả lại thấp. Một sản phẩm có mẫu mã đẹp, thiết kế kiểu dáng độc đáo có thể đem lại gấp 4 lần giá trị so với mẫu mã thông thường. Hội nhập WTO với sự có mặt của các nhà sản xuất có vốn đầu tư nước ngoài, nếu ta cứ đua với họ về vốn và công nghệ thì chắc chăn nắm phần thua và khi đó cạnh tranh bằng giá rẻ sẽ không hiệu quả nữa. Đã đến lúc các doanh nghiệp TCMN Việt Nam cần phải vươn lên khai thác lợi thế cạnh tranh bằng trí tuệ và sự sáng tạo. Cũng vì mẫu mã chưa hấp dẫn, sản phẩm chưa có thương hiệu thực sự và do chất lượng kém nên giá “bèo” dẫn đến giá trị xuất khẩu hàng TCMN chưa bao giờ đạt tới 1 tỷ USD, mặc dù Việt Nam có rất nhiều tiềm năng để phát triển ngành này. Tại sao TCMN của nước ta tại thị trường Nhật lại sụt giảm nhanh đến vậy cũng bởi mặt hàng của ta chưa đáp ứng được yêu cầu của ngưòi Nhật, họ luôn quan niệm rằng: “hàng rẻ là chất lượng kém”, họ sẵn sàng trả giá cao cho những sản phẩm chất lượng tốt. 2.4 Bên cạnh đó còn tồn tại hàng loạt các nguyên nhân khác như: Ngành thủ công mỹ nghệ vẫn nằm ngoài chương trình đầu tư khoa học – công nghệ của nhà nước. Phía bên cung(các nhà khoa học, mỹ thuật) rất cần tới các nhà sản xuất để đưa các công trình nghiên cứu thành các sản phẩm thương mại; ngược lại các nhà sản xuất cũng cần tới các nhà khoa học, mỹ thuật đưa các sáng tác, mẫu mã mới cho sản phẩm. Nhưng rồi cả 2 bên vẫn chua gặp được nhau, nhà khoa học thì vẫn thiếu đất dụng võ còn các nhà sản xuất, doanh nghiệp thì vẫn không có mẫu mã mới để cải tạo cho sản phẩm của mình. Trước những khó khăn đang gặp phải thì nhà nước đã không bàng quan nhưng các biện pháp, chính sách nhà nước đưa ra còn thiếu đồng bộ và chưa đầy đủ. Các hiệp hội làng nghề vẫn chưa thực sự là cầu nối hữu hiệu giữa doanh nghiệp và nhà nước. Trước thực trạng đó( tiềm năng thì lớn nhưng thành quả đạt được lại quá nhỏ); nhà nước, doanh nghiệp, các ban ngành, địa phương và các tổ chức hiệp hội làng nghề cần phải có những biện pháp khắc phục những yếu lém đồn thời phát huy những thế mạnh sẵn có. PHẦN 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP I, PHƯƠNG HƯỚNG Trong định hướng phát triển ngành thương mại từ nay tới 2010 nhóm hàng TCMN xuất khẩu chiếm vị trí rất quan trọng. Theo đó mục tiêu đề ra cho kim ngạch xuất khẩu hàng TCMN năm 2008 đạt 997 triệu USD(tăng 21,5%); năm 2009 đạt 1,214 tỷ USD(tăng 21,7%); năm 2010 đạt 1,5 tỷ USD với cơ cấu nhóm hàng như sau: Nhóm hàng dự kién năm 2010 Kim ngạch xuất khẩu (triệu USD) tỷ trọng Mây, tre, cói, lá 450 30% gốm sứ 660 44% Đá, kim loại quý 390 26% Để thực hiện được mục tiêu trên, ngành hàng TCMN đang từng bước định hướng phát triển trong hoạt động sản xuất kinh doanh: Không ngừng cải tiến, đổi mới mẫu mã, nâng cao chất lượng sản phẩm, có thể xem xét việc mời các khách hàng lớn, khách hàng tiêu biểu và tiềm năng đóng góp ý kiến trong quá trình thiết kế sản phẩm mới và các dịch vụ bán hàng. Đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại, mở được nhiều thị trường mới theo phương pháp đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ thị trường và quan hệ buôn bán. Quan tâm có định hướng chiến lược, chính sách và biện pháp khai thác thị trường có dung lượng lớn, có nhu cầu thường xuyên và phong phú về chủng loại mà Việt Nam có khả năng phát triển. Đồng thời tích cực tìm kiếm thị trương mới như: Trung Đông, Châu Phi, Nam Mỹ.. II. GIẢI PHÁP 1. Giải pháp tù phía doanh nghiệp 1.1 Phát triển nguồn nhân lực trong công ty Ưu tiên phát triển nguồn lực trong công ty. Căn cứ vào đề nghị của các đơn vị, doanh nghiệp sẽ tiến hành xét tuyển công nhân và chuyển về các đơn vị đó làm việc. Các đơn vị đó phải có trách nhiệm đào tạo, hướng dẫn và bố trí công việc cho nhân viên. Doanh nghiệp sẽ tổ chức đào tạo nhằm nâng cao năng lực chuyên môn cũng như lãnh đạo của các cán bộ, nhân viên sao cho phù hợp với năng lực của rừng người. Bên cạnh đó các doanh nghiệp có thể liên kết với các truờng dạy nghề, các nhà mỹ thuật để bổ sung lượng lao động có tay nghề cao vào trong doanh nghiệp; cũng có thể cử 1 số người sang nước ngoài để học hỏi sau đó về truyền đạt lại cho các thành viên khác. Công việc này do bộ phận nhân sự quyết định tuyển ai, chọn ai và sa thải ai. 1.2 Nghiên cứu, mở rộng thị trường Các doanh nghiệp cần mạnh dạn xâm nhập, nghiên cứu thị trường để tìm kiếm những mặt hành mới có khả năng xuất khẩu cao bằng cách tham gia các hội chợ triển lãm, đi khảo sát thị trường, gặp gỡ trực tiếp các đối tác. Ngoài ra mỗi doanh nghiệp nên hướng tới mở các văn phòng đại diện tại các thảc thị trường có tiềm năng lớn. Doanh nghiệp phải tiếp tục đổi mới hình thức tiếp thị, tăng cường hoạt động: đa dạng hoá sản phẩm, xác lập chính sách giá cả hợp lý và linh hoạt, mở rộng hình thức bán buôn, bán lẻ ở các địa phương, quảng bá sản phẩm, xây dựng thương hiệu sản phẩm, giới thiệu sản phẩm và hình ảnh đặc trưng của làng nghề thông qua các hội trợ triển lãm trong nước và quốc tế về hàng TCMN, xây dựng các trang thông tin, điện tử và từng bước mở rộng hình thức thương mại điện tử bằng cách giao dịch trên sàn giao dịch. Và đăng ký làm thành viên của 1 số trung tâm xúc tién thương mại quốc tế. 1.3 Liên kết các doanh nghiệp sản xuất với các tổ chức khác Các doanh nghiệp chủ động mở rộng quan hệ hợp tác kinh doanh giữa doanh nghiệp sản xuất với doanh nghiệp thương mại, công ty xuất nhập khẩu hàng TCMN trong nước với doanh nghiệp xuất khẩu của nước ngoài hoặc chủ động xuất khẩu trực tiếp theo hợp đồng với nước ngoài theo phưong thức xuất khẩu tại chỗ. Bên cạnh đó có thể phối hợp với các dịch vụ du lich để thu hút khách hàng trong và ngoài nước tới thăm các cơ sảo sản xuất, các hội chợ triển lãm, làm cho số lượng các đơn đặt hàng tăng lên Mỗi doanh nghiệp cần tìm cho mình các nhà cung cấp nguyên liệu ổn định cả về số lượng và chất lượng. Nếu như các doanh nghiệp có quy mô lớn có thể đầu tư vùng nuôi trổng nguyên vật liệu để tránh bị động trong thu mua nguyên liệu. 1.4 Xây dựng thương hiệu Các hộ gia đình, các doanh nghịêp nhỏ, các hợp tác xã có thể liên kết với nhau tạo thành 1 doanh nghiệp có quy mô lớn hơn. Khi đó sẽ khắc phục được tình trạng sản xuất nhỏ lẻ,manh mún và nhât là trong điều kiện hiện nay khi khách hàng của chúng ta là những khách hàng lớn và tầm cỡ như EU,Hoa Kỳ.. Mỗi doanh nghiệp cần có chiến lược xây dựng thương hiệu riêng cho mình để nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm vói các đối thủ nước ngoài trên thị trường quốc tế. Muốn có 1 thương hiệu nổi tiếng thì yếu tố trước tiên cần có đó là chất lượng sản phẩm phải thực sự tốt, làm việc có uy tín(đảm bảo giao hàng đúng số lưọng, chất lượng, thời gian, và các yêu cầu khác được đưa ra trong hợp đồng), và phải có 1 chiến lược Marketing thực sự hiệu qủa( nghiên cứu thị trường, nhu cầu khách hàng, và có chiến lược quảng bá sản phẩm rầm rộ trên những thị trường mà doanh nghiệp đang hoạt động) . Chất lượng sản phẩm hoàn hảo và phong cách làm viêc theo lối tư duy hiện đại là vấn đề then chốt khảng đinh thương hiệu cố thật sự mạng hay không. Vậy cần phải có những giải pháp để nâng cao chất lượng, mẫu mã sản phẩm như: có chất lượng nguyên vật liệu tổt, quy trình công nghệ hiện đại, đội ngũ lao động lành nghề và những nghệ nhân tài ba giàu óc sáng tạo… 1.5 Xây dựng văn hoá doanh nghiệp Mỗi doanh nghiệp phải ý thức được văn hóa doanh nghiệp chính là nguồn động viên tinh thần của người lao động không ngừng sáng tạo và cũng là mục tiêu vươn tới của mỗi đơn vị. Vì vậy mỗi thành viên phải thể hiện tác phong lề lối, phong cách làm việc nghiêm túc. Khi ngưòi lao động đã ý thức được văn hoá doanh nghiệp thì nhà quản lý sẽ tuyên truyền sâu rộng tới mỗi thành viên để họ nắm rõ mục tiêu chung và từ đó cố gắng làm việc hết mình để thực hiện mục tiêu chung ấy. Tạo ra 1 bầu không khí hài hoà trong doanh nghiệp, thiết lập 1 thành 1 thể thống nhất, tạo sự liên kết giữa các cấp, các phòng ban trong doanh nghiệp. 1.6 Một số giải pháp khác Doanh nghiệp cần nâng cao điều kiện cơ sở vật chất như: nhà xưởng, kho tàng, bến bãi đảm bảo cho việc thu gom, vận chuyển và cất giữ hàng hóa không ảnh hưởng tới chất lượng sản phẩm trong điều kiện khí hậu nóng ẩm, khắc nghiệt ở Việt Nam.. Kiểm tra hàng hoá trước khi xuất kho đem ra tiêu thị trên thị trường. Cần có mối quan hệ tốt với các cơ quan hữu quan, các ngành liên quan và các tổ chức kinh tế, các trung tâm cung cấp thông tin thị trường nhằm thực hiện tốt công tác sản xuất và kinh doanh. 2. Giải pháp từ phía nhà nước 2.1 Quy hoạch lại ngành sản xuất thủ công mỹ nghệ để phát triển bền vững Thực trạng các cơ sở sản xuất nằm chen lấn giữa các khu vực dân cư tại hầu hết các vùng sản xuất hàng TCMN của cả nước đang là 1 tồn tại gây tác hại rất lớn đến kế hoạch phát triển của ngành vì các cơ sở không thể đầu tư mở rộng theo hướng công nghiệp hoàn chỉnh và áp dụng công nghệ mới vào những nhà xưởng chật hẹp, manh mún. Và rồi kéo theo nó là tác hại làm ô nhiễm môi trường vì khói lò đốt, bụi, chất thải…, bên cạnh đó việc khai thác đât nguyên liệu một cách bừa bãi sẽ gây tác hại rất lớn cho môi trường sau này. Phát triển ngành công nghiệp phụ trợ là 1 giải pháp quan trọng nhằm nâng cao khả nưng cạnh tranh của ngành, nhưng giải pháp này khó có thể triển khai trên hiện trạng thiếu tập trung và quy hoạch như hiện nay của ngành TCMN nói riêng và của từng địa phương nói chung. Do đó giải pháp này được đề xuất theo 2 hướng: Thứ nhất, xây dựng các cụm công nghiệp làng nghề để phục vụ xuất khẩu một cách hiệu quả tại các vùng sản xuất TCMN lớn, các cụm công nghiệp này được quy hoạc gần các vùng cung cấp nguyên liệu, xa khu dân cư và có diện tích lớn cho phép tập trung di dời các cơ sở sản xuất hiện nay còn đang chen lẫn rải rảc trong khu dân cư mà không phải tốn kém nhiều cho chi phí đền bù giải toả Tại các cụm công nghiệp làng nghề nói trên, đòi hỏi chính quyền địa phương cần mạnh dạn hỗ trợ để hình thành các liên kết chuỗi, trong đó các cơ sở sản xuất vệ tinh xung quanh 1 công ty chuyên xuất khẩu TCMN có khả năng quản lý thực sự về tài chính và marketing.Bên cạnh đó việc xây dựng liên kết chuỗi trong cụm công nghiệp làng nghề còn cho phép áp dụng phương pháp quản lý chất lượng toàn diện theo tiêu chuẩn ISO 9000, ISO 14000, SA 8000… đáp ứng các yêu cầu lớn của thị trường. Để tạo sức hút các doanh nghiệp vào các cụm công nghiệp làng nghề, nhà nước cũng cần có những biện pháp hỗ trợ về thủ tục uư đãi đầu tư, miễn giảm tiền thuê đất, miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế nhập khẩu thiết bị phục vụ đổi mới công nghệ và chính sách hỗ trợ vốn bằng các hình thức bảo lãnh tín dụng hoặc giảm lãi vay, hỗ trợ chi phí đào tạo…khiến doanh nghiệp yên tâm sản xuất thực hiện chiến lược quy hoạch đã đề ra của địa phương. Thứ hai, xây dựng các làng nghề truyền thống nhằm mục đích chính là đẩy mạnh giao lưu văn hoá, giới thiệu truyền thống dân tộc Việt Nam với các dân tộc khác. Tại các làng nghề truyền thống này sẽ được xây dựng và quy hoạch lại thành những điểm tham quan du lịch. Để thu hút khách du lịch, làng nghề truyền thống nên tổ chức các hoạt động như biểu diễn công đoạn sản xuất bằng nhiều phương pháp thủ công giúp khách tham quan hiểu thêm những giá trị đặc sắc của sản phẩm mỹ nghệ Việt Nam, đồng thời tổ chức các phiên chợ và các cửa hàng lưu niệm để khách hàng mua sắm và giới thiệu các sản phẩm của làng nghề đến nhiều nơi trên thế giới 2.2 Chính sách hỗ trợ tài chính Phần lớn các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh hàng TCMN đề gặp khó khăn trong việc tiếp cận vốn vay vì tài sản thế chấp không đủ lớn và thủ tục phức tạp…do đó không đủ vốn để phát triển sản xuất. Chính phủ cần có sự quan tâm hơn nữa cho các doanh nghiệp vay vốn thực hiện các dự án đầu tư mở rộng sản xuất từng bước xoá bỏ dần tình trạng sản xuất nhỏ lẻ, manh mún, lạc hậu của các doanh nghiệp. Chính phủ cần có chế độ hỗ trợ đối với hoạt động đầu tư nâng cao trình độ quản lý của doanh nghiệp cũng như nâng cao tay nghề cho công nhân hoặc đầu tư vào các hoạt động nghiên cứu _ phát triển sản phẩm mới, công nghệ mới…Đối với các khoản chi phí cho việc quảng bá sản phẩm như tham gia hội chợ triển lãm, chiết khấu cho người mô giới, in ấn tài liệu… cần phải được cho phép doanh nghiệp hạch toán đầy đủ vào chi phí sản xuất thay vì khống chế mức 10% trên chi phí như hiện nay sẽ trói buộc các doanh nghiệp không thực hiện được các chiến lược tiếp thị, mở rộng thị trường. 2.3 Đẩy mạnh hơn nữa vai trò xúc tiến thương mại của nhà nước Theo 1 số chuyên gia, có rất ít khách hàng biết đến TCMN Việt Nam thông qua sự giới thiệu của các cơ quan chuyên trách, chính phủ. Do vậy, chính phủ cần có sự đầu tư nhiều hơn về tài chính cho các cơ quan xúc tiến thuơng mại của Việt Nam tại nước ngoài để giúp họ có đủ kinh phí và nhân lực để thực hiện nhiệm vụ làm đầu mối giới thiệu hàng hoá Việt Nam ra nước ngoài thông qua các hoạt động như: xây dựng các nhà trưng bày sản phẩm, quảng bá nhiều hơn nữa trên các tạp chí, các ấn phẩm, thực hiện các chuyến đi tìm hiểu tiềm năng của khách hàng, thị hiếu của thị trường, các chiến lược cạnh tranh của các đối thủ.. sau đó chuyển về cho các doanh nghiệp trong nước để xây dựng chiến lựơc sản phẩm, chiến lược thị trường, chiến lược khuyếch trương sản phẩm thích hợp. 2.4 Hoàn thiện công tác bảo hộ sở hũư kiểu dáng công nghiệp Vấn đề bảo vệ sở hữu độc quỳên về mẫu mã trong ngành sản xuất TCMN hiện nay hầu như không được quan tâm đúng mức, mẫu mã sản phẩm mới bị sao chép rất dễ dàng giữa các doanh nghiệp với nhau hoặc do khách hàng đem từ nơi này sang nơi khác để đặt hàng.. mà không gặp phải 1 khiếu nại của người chủ hay xử phạt của các cơ quan pháp luật. Nguyên nhân là do hầu như các doanh nghiệp không thực hiện đăng ký sở hữu. Để khắc phục tình trạng trên và hỗ trợ cho giải pháp không ngừng đổi mới sản phẩm động thời đáp ứng đòi hỏi của quá trình hội nhập quốc tế. Chính phủ cần hoàn thiện hơn nữa các công tác này theo hướng mở rộng các phạm vi bảo vệ quyền sở hũư trí tuệ phù hợp với luật quốc tế, đơn giản hoá các thủ tục đăng ký quyền sở hũư trí tuệ và xử phạt nghiêm những trường hợp vi phạm ngay khi có khiếu nại của người chủ tác quyền, thông báo rộng rãi cho các đơn vị, cá nhân vi phạm để giáo dục và ngăn ngừa những vụ việc khác. Điều này càng có ý nghĩa quan trọng hơn khi Việt Nam gia nhập WTO và đòi hỏi thực hiện tốt những cam kết của mình khi gia nhập đó là bảo vệ quyền sở huưc trí tuệ. 2.5 Xây dựng chính sách hỗ trợ để doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài theo chiến lược liên kết, liên doanh vớí nhà nhập khẩu Chính phủ cần ban hành chính sách khuyến khích, hướng dẫn và trợ giúp về vốn đối với những doanh nghiệp xuất khẩu hàng TCMN có thực lực và giàu kinh nghiệm tham gia vào nhièu hình thức liên kết, liên doanh với nhà nhập khẩu nước ngoài như liên doanh góp vốn, hợp đồng chuyển nhượng…để những doanh nghiệp này làm dầu tàu trong chiến lược xâm nhập và mở rộng thị trường cho ngành hàng TCMN Việt Nam. KẾT LUẬN Trong giai đoạn bắt đầu trở thành thành viên của tổ chức thương mại thế giới, dựa trên những luật chơi bình đẳng, các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam có rất nhiều cơ hội để thâm nhập vào thị trường của hơn 100 nước thành viên. Với tiềm năng sản xuất của ngành, cùng với những ưu đãi của nhà nước và chính phủ có thể nói hoạt động sản xuất và kinh doanh hàng TCMN đã có đủ điều kiện để phát triển mạnh và trở thành 1 ngành xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Với những lợi thế sẵn có ấy cùng với việc Việt Nam gia nhập WTO đem đến những cơ hội lớn với cả nền kinh tế nói chung và đối với lĩnh vực xuất khẩu hàng TCMN nói riêng. Môi trường kinh doanh ngày càng trở nên thông thoáng và hấp dẫn các nhà đầu tư, do đó nguồn vốn đầu tư vào lĩnh vực sản xuất TCMN cũng tăng lên, điều này giúp cho các doanh nghiệp có khả năng mở rộng khả năng sản xuất, kinh doanh, nâng cao uy tín trên trường quốc tế. Bên cạnh những tác động tích cực, trong giai đoạn mới của nền kinh tế, các doanh nghiệp Việt Nam cũng gặp nhiều thách thức trong lĩnh vực cạnh tranh. Cơ cấu thuế đối với mặt hàng TCMN còn nhiều phức tạp, gây trở ngại lớn đối với việc mở rộng và ổn định thị trường xuất khẩu. Vấn đề đặt ra là cần phải có những biện pháp để phát huy những tác động tích cực và hạn chế tối đa những tác động tiêu cực với sản xuất và kinh doanh hàng TCMN. Đề án cũng đã đề cập tới hệ thống các biện pháp đối với các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh mặt hàng này như: hoàn thiện công tác Marketing, tìm kiếm và mở rộng thị trường xuất khẩu; giải quyết những bất cập, trong doanh nghiệp. Cùng với những giải pháp tù phía nhà nước: Quy hoạch lại ngành sản xuất TCMN để phát triển bền vững, chính sách hỗ trợ tài chính, đẩy mạnh hơn nữa vai trò xúc tiến thương mại của nhà nước, hoàn thiện công tác bảo hộ sở hũư kiểu dáng công nghịêp…. MỤC LỤC trang LỜI MỞ ĐẦU NỘI DUNG 1 PHẦN 1: TỔNG QUAN VỀ HÀNG THỦ CÔNG MỸ NGHỆ 2 I, Khái niệm 2 II, Phân loại 2 III,Đặc điểm 3 IV, Vai trò 4 PHẦN 2: THỰC TRẠNG SẢN XUẤT VÀ TIÊU THỤ I,Thực trạng sản xuất 7 II, Tình hình tiêu thụ 9 1, Trong nước 9 2, Xuất khẩu 9 III, Đánh giá 1, Thành tựu đạt được 13 2, Hạn chế và nguyên nhân tồn tại 14 PHẦN 3: PHƯƠNG HƯỚNG I, Phương hướng 17 II, Giải pháp 18 1, Giải pháp từ phía doanh nghiệp 18 2, Giải pháp từ phía nhà nước 21 KẾT LUẬN 25 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1, Thương hiệu hàng thủ công mỹ nghệ truyền thống NXB lao động – xã hội(2006) 2, Tạp chí Thương Mại (số20/2007) Đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ (Hoàng Lan) 3, Tạp chí Thương Mại( số 11/2007) Nguyên vật liệu cho làng nghề miền Đông Nam Bộ( Ths. Nguyễn Đình Hoà) 4, Tạp chí công nghiệp( kỳ 1/ tháng 6/2007) - Cần hỗ trợ phát triển thủ công mỹ nghệ ( Vũ Huy Thiều) - Một số định hướng và giải pháp phát triển làng nghề (PGS.TS Phan Đăng Tuất) - Làng nghề Hà Tây thực trạng và giải pháp phát triển bền vững(TS. Nguyễn Xuân Chính) - Mô hình hợp tác xã kiểu mới( TS. Nguyễn Mạnh Hùng) 5, www.hatayhandicraft.org - Hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam đang ở đẳng cấp nào (05/10/2006) 6, www.vneconomy.vn - Hiệp hội xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ ra mắt (10/05/2007) - Cải tiến xúc tiến xuất khẩu thủ công mỹ nghệ(17/12/2006) - Có “thương” chưa có “hiệu” (05/03/2007) 7, www.vysa.jp - Thực trạng xuất khẩu xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ sang Nhật Bản(08/05/2005) 8, www.dddn.com.vn - Hàng thủ công mỹ nghệ: gian nan xuất ngoại ( 03/08/2007) 9, www.nhatban.net - Ba thị trường mục tiêu cho xuất hàng thủ công mỹ nghệ(07/06/2007) 10, www.dongduonggroup.com - 7 giải pháp tăng kim ngạch xuất khẩu - Rộng đường cho thủ công mỹ nghệ 11, www.vietrade.gov.vn - Đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ sang thị trường Mỹ 12, www.vinanet.com.vn - Các giải pháp xuất khẩu thủ công mỹ nghệ Việt Nam từ nay đến 2010 13, www.dalktra.com.vn - Cơ hội và những khó khăn cho hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam(17/09/2007) - Thủ công mỹ nghệ nhóm sản phẩm tiềm năng đạt kim ngạch xuất cao(21/05/2007) - Xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ chưa được đầu tư xứng đáng(05/10/2007) - Định hướng hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam đến 2010(30/05/2007) 14, www.smenet.com.vn - Thủ công mỹ nghệ Việt Nam - Thực trạng và giải pháp 15, www.sggp.org.vn - Hàng thủ công mỹ nghệ nhiều nguy cơ bị vỡ kế hoạch(21/06/2007) 16, www.doanhnghiep24g.com.vn - Hàng thủ công mỹ nghệ chỉ “copy” mẫu (09/07/2007)

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc24991.doc