Đề tài Qúa trình xâm lược và đô hộ các nước Châu Á của các đế quốc thực dân phương Tây

PHẦN I. MỞ ĐẦU Bước vào thời cận đại, sau các cuộc phát kiến địa lý của người Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha. Nhiều vùng đất mới trên thế giới được người châu Âu phát hiện trong đó có châu Á là một trong những châu lục phong phú về điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên. Đây là những điều kiện thuận lợi để chủ nghĩa thực dân phương Tây xâm lược. cùng với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản thị trường là nhu cầu cấp thiết và là nơi chủ yếu để cung cấp nguyên vật liệu, thị trường tiêu thụ. Vì vậy mà chủ nghĩa thực dân phương Tây chạy đua, cạnh tranh gay gắt trong việc xâm lược và đặt ách thống trị ở các quốc gia châu Á. Song song với quá trình xâm lược của thực dân phương Tây là phong trào đấu tranh của nhân dân các nước châu Á để bảo vệ độc lập và chủ quyền của dân tộc mình. Tuy nhiên mỗi dân tộc mỗi quốc gia tùy theo điều kiện và hoàn cảnh lịch sử cũng như phong trào đấu tranh của các giai cấp trong xã hội mà việc lựa chọn đường lối đấu tranh, hình thức đấu tranh, giai cấp lãnh đạo trong phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc cho phù hợp và ở mỗi nước cũng có sự khác nhau. Trong khi các nước tư bản phương tây lần lượt xác lập chủ nghĩa Tư Bản, còn ở các nước Châu Á lạc hậu, trì trệ vì sự thống trị của chế độ phong kiến và đã trở thành đối tượng xâm lược của thực dân phương Tây. Sự khác biệt về trình độ phát triển và tốc độ phát triển, sự thiếu chuẩn bị của giai cấp phong kiến là những điều kiện hết sức thuận lợi để các nước Châu Âu lần lượt chiếm các nước Châu Á biến thành thuộc địa và phụ thuộc. Do nội dung đề tài rộng và hạn chế về thời gian chuẩn bị nên em rất mong được sự đóng góp ý kiến của Thầy và các bạn cho đề tài của em hoàn thiện hơn. MỤC LỤC PHẦN I: MỞ ĐẦU 2 PHẦN II: NỘI DUNG 3 A. TỔNG QUÁT VỀ SỰ XÂM LƯỢC CỦA THỰC DÂN PHƯƠNG TÂY 3 B. SỰ ĐÔ HỘ CỦA THỰC DÂN PHƯƠNG TÂY VÀ PHONG TRÀO CHỐNG ĐÔ HỘ CỦA CÁC NƯỚC CHÂU Á 4 I. CHẾ ĐỘ THUỘC ĐỊA CỦA THỰC DÂN PHƯƠNG TÂY 4 II. PHONG TRÀO ĐẤU TRANH CHỐNG ĐÔ HỘ CỦA CÁC NƯỚC CHÂU Á 6 1. ẤN ĐỘ 6 2. TRUNG QUỐC 8 3. NHẬT BẢN 14 4. KHU VỰC ĐÔNG NAM Á 17 6. KHU VỰC TÂY Á 29 III. NHỮNG HẬU QUẢ CỦA CHẾ ĐỘ THUỘC ĐỊA ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC CHÂU Á 33 PHẦN III: KẾT LUẬN 35 TÀI LIỆU THAM KHẢO 36 Sự xâm lược châu Á của thực dân phương Tây và phong trào chống xâm lược của các nước

doc36 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 5752 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Qúa trình xâm lược và đô hộ các nước Châu Á của các đế quốc thực dân phương Tây, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC PHẦN I: MỞ ĐẦU 2 PHẦN II: NỘI DUNG 3 TỔNG QUÁT VỀ SỰ XÂM LƯỢC CỦA THỰC DÂN PHƯƠNG TÂY 3 B. SỰ ĐÔ HỘ CỦA THỰC DÂN PHƯƠNG TÂY VÀ PHONG TRÀO CHỐNG ĐÔ HỘ CỦA CÁC NƯỚC CHÂU Á 4 CHẾ ĐỘ THUỘC ĐỊA CỦA THỰC DÂN PHƯƠNG TÂY 4 II. PHONG TRÀO ĐẤU TRANH CHỐNG ĐÔ HỘ CỦA CÁC NƯỚC CHÂU Á 6 1. ẤN ĐỘ 6 2. TRUNG QUỐC 8 3. NHẬT BẢN 14 4. KHU VỰC ĐÔNG NAM Á 17 6. KHU VỰC TÂY Á 29 III. NHỮNG HẬU QUẢ CỦA CHẾ ĐỘ THUỘC ĐỊA ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC CHÂU Á 33 PHẦN III: KẾT LUẬN 35 TÀI LIỆU THAM KHẢO 36 QÚA TRÌNH XÂM LƯỢC VÀ ĐÔ HỘ CÁC NƯỚC CHÂU Á CỦA CÁC ĐẾ QUỐC THỰC DÂN PHƯƠNG TÂY PHẦN I. MỞ ĐẦU Bước vào thời cận đại, sau các cuộc phát kiến địa lý của người Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha. Nhiều vùng đất mới trên thế giới được người châu Âu phát hiện trong đó có châu Á là một trong những châu lục phong phú về điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên. Đây là những điều kiện thuận lợi để chủ nghĩa thực dân phương Tây xâm lược. cùng với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản thị trường là nhu cầu cấp thiết và là nơi chủ yếu để cung cấp nguyên vật liệu, thị trường tiêu thụ. Vì vậy mà chủ nghĩa thực dân phương Tây chạy đua, cạnh tranh gay gắt trong việc xâm lược và đặt ách thống trị ở các quốc gia châu Á. Song song với quá trình xâm lược của thực dân phương Tây là phong trào đấu tranh của nhân dân các nước châu Á để bảo vệ độc lập và chủ quyền của dân tộc mình. Tuy nhiên mỗi dân tộc mỗi quốc gia tùy theo điều kiện và hoàn cảnh lịch sử cũng như phong trào đấu tranh của các giai cấp trong xã hội mà việc lựa chọn đường lối đấu tranh, hình thức đấu tranh, giai cấp lãnh đạo trong phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc cho phù hợp và ở mỗi nước cũng có sự khác nhau. Trong khi các nước tư bản phương tây lần lượt xác lập chủ nghĩa Tư Bản, còn ở các nước Châu Á lạc hậu, trì trệ vì sự thống trị của chế độ phong kiến và đã trở thành đối tượng xâm lược của thực dân phương Tây. Sự khác biệt về trình độ phát triển và tốc độ phát triển, sự thiếu chuẩn bị của giai cấp phong kiến là những điều kiện hết sức thuận lợi để các nước Châu Âu lần lượt chiếm các nước Châu Á biến thành thuộc địa và phụ thuộc. Do nội dung đề tài rộng và hạn chế về thời gian chuẩn bị nên em rất mong được sự đóng góp ý kiến của Thầy và các bạn cho đề tài của em hoàn thiện hơn. PHẦN II. NỘI DUNG A. TỔNG QUÁT VỀ SỰ XÂM LƯỢC CỦA THỰC DÂN PHƯƠNG TÂY Trước hết là các thương nhân sau khi tìm con đương sang phương Đông, từ những hoạt động buôn bán, truyền đạo bọn thực dân phương tây chuyển sang chính sách xâm lược. Lúc đầu, chung thuê hay dùng vũ khí chiếm được một vùng đất thuận lợi cho việc buôn bán, thường là các địa điểm trên đường giao thông thuỷ, bộ làm thương điếm. Tiếp đó, chúng độc chiếm toàn bộ quyền sử dụng vùng đất thương điếm và nộp cho nhà vua chúa ở địa phương một số thuế, lệ phí nhất định. Đây là thời kỳ thống trị của các công ty thương mại, thế lực không giới hạn ở mặt kinh tế mà còn mở rộng trên các mặt chính trị, quân sự. Chính sách bóc lột của các công ty là tận dụng nguồn tài nguyên, khai thác triệt để nguồn nhân lực rẻ tiền hoặc không mất tiền của địa phương để làm giàu nhanh chóng. Vào buổi đầu tiên của thời cận đại, thuộc địa ở Châu Á, Châu Phi chưa lớn, Bồ Đào Nha là nước Châu Âu đầu tiên xây dựng đế quốc thuộc địa của mình ở các nước Châu Á, Châu Phi vào cuối thế kỷ XV đầu thế kỷ XVI, còn Tây Ban Nha xâm lược thuộc địa chủ yếu ở Châu Mỹ. Nhưng dần dần Bồ Đào Nha bị suy yếu các nước Tư bản ở Châu Âu trỗi dậy (Hà lan, Anh, Pháp) đã canh tranh mạnh mẽ các vùng đất thuộc địa rộng lớn của Bồ Đào Nha lần lượt rơi vào các nước đó. Indonesia là nước đầu tiên ở Châu Á bị thực dân phương Tây đô hộ vào thế kỷ XVI, lúc đầu là Bồ Đào Nha sau đó là Hà Lan rồi đến Anh (1811) nhưng đến năm 1814 Anh trả lại cho Hà Lan. Từ cuối thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XIX, nhất là từ nửa sau thế kỷ XIX các nước tư bản phương Tây đã đẩy mạnh hơn nữa việc xâm chiếm thuộc địa ở các nước Châu Á, Châu Phi. Ở Châu Á, đế quốc anh chiếm Ấn Độ, Mã Lai, Miến Điện; Pháp chiếm ba nươc Đông Dương, Xiêm trở thành nước “đệm” giữa các nước thuộc địa Anh và Pháp và do sự suy tân đất nước dưới triều đại của các vua Rama IV và Rama V vào cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX, nên Xiêm giữ được độc lập về chính trị, song vẫn bị phụ thuộc vào các nước đế quốc trước hết là Anh. Trung quốc là một nước rộng lớn, giàu tài nguyên đông dân nên đã trở thành miếng mồi chia xẻ của nhiều đế quốc thực dân. Vùng Tây Á, tình hình kinh tế, chính trị, xã hội cũng lâm vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng. Mâu thuẫn giữa chế độ phong kiến và nhà thờ Hồi Giáo với quần chúng nhân dân đã đưa đến bùng nổ nhiều cuộc đấu tranh rộng lớn của quần chúng nhân dân. Song do sự cạnh tranh quyết liệt của các đế quốc về vùng đất giàu có này mà các nước đế quốc thực dân phải để các nước độc lập về hình thức. B. SỰ ĐÔ HỘ CỦA THỰC DÂN PHƯƠNG TÂY VÀ PHONG TRÀO CHỐNG ĐÔ HỘ CỦA CÁC NƯỚC CHÂU Á          I.  CHẾ ĐỘ THUỘC ĐỊA CỦA THỰC DÂN PHƯƠNG TÂY       - Thuộc địa là nguồn cung cấp nguyên liệu, nhân công và lương thực rẻ mạt cho chính quốc, là thị trường tiêu thụ sản phẩm công nghiệp của chính quốc một cách chắc chắn và thu lợi nhuận cao, là căn cứ quân sự làm bàn đạp xâm chiếm các nước khác và là nơi xuất cảng tư bản thu nhiều lợi nhuận nhất.       Tuỳ tính chất của mỗi nước tư bản đế quốc mà chính sách khai thác thuộc địa của chúng khác nhau; song về căn bản chúng đều tìm cách chia rẽ, làm suy yếu nhân dân, mua chuộc giai cấp thống trị bản địa, vơ vét tài nguyên đem về chính quốc, thực hiện việc buôn bán không bình đẳng, chúng không mở mang công nghiệp thuộc địa, chúng chỉ xây dựng những ngành công nghiệp chế biến và sản xuất những  mặt hàng tiêu dùng nhằm xuất khẩu thu lãi lớn và phục vụ cho đời sống của bọn thống trị ở thuộc địa. Việc mở mang đường bộ, đường sắt, các bến cảng đều nhằm phục vụ việc khai thác kinh tế hoặc đàn áp các  cuộc đấu tranh của nhân dân.       - Biện pháp bóc lột phổ biến nhất đối với các thuộc địa là tăng cao thuế và đặt ra nhiều loại thuế, mở mang đồn điền, khai thác mọi tài  nguyên, đẩy mạnh bắt lính. Những biện pháp này vừa làm cho nhân dân ngày càng kiệt quệ, vừa gắn chặt họ vào ách thống trị.        - Về chính trị, thực dân phương Tây thực hiện chính sách “chia để trị”, với chính sách này chúng đã chia rẽ các dân tộc, các tôn giáo, gây nên những hận thù chém giết lẫn nhau, tiêu biểu như ở Ấn Độ. Thực dân phương Tây vừa đặt ách thống trị tại các nước thuộc địa, vừa duy trì sự tồn tại chế độ phong kiến, biến giai cấp phong kiến ở bản địa trở thành tay sai cho chúng. Chính vì vậy, ách thống trị lại càng nặng nề hơn đối với nhân dân các nước thuộc địa.        - Về kinh tế, nổi bật là là chính sách cướp đoạt ruộng đất để lập đồn điền, bằng  nhiều biện pháp, như chiếm đoạt ruộng đất của nông dân cả ruộng công và ruộng tư, hoặc ép triều đình nhượng quyền khai khẩn đất hoang cho chúng. Số ruộng đất cướp đoạt được ngày càng tăng lên một cách nhanh chóng. Ví như ở Việt Nam, năm 1890 bọn thực dân Pháp chiếm 10.900 ha ruộng đất trong cả nước, đến năm 1900 con số này lên tới 302.000 ha và năm 1912 là 470.000 ha.        Các đồn điền trồng các loại cây quý hiếm đối với châu Âu, như cao su, chè, cà phê… Phương thức kinh doanh ở các đồn điền vẫn là phát canh thu tô theo lối phong kiến. Nông dân không những bị cướp đoạt ruộng đất mà họ còn phải nộp tô, thuế.        Trong công nghiệp, tập trung vào khai thác mỏ, các công ty  của chính quốc nắm toàn bộ việc khai thác. Ngoài ra, việc sản xuất hàng tiêu dùng như gạch, ngói, xi măng, điện, nước, rượu, đường… cũng được chú trọng.           Cùng với chính sách khai thác, bóc lột về kinh tế là hoạt động của ngân hàng với việc cho vay nặng lãi và đặt ra các loại thuế để vơ vét về tài chính. Vì vậy,  số lãi của các ngân hàng tăng lên một cách nhanh chóng.Ví như ngân hàng Đông Dương của Pháp, năm 1815 vốn của  ngân hàng mới chỉ có 8 triệu Phơrăng, năm 1910 lên 48 triệu và đến 1918 đạt 72 triệu Phơrăng. Các loại thuế thì ngày càng nhiều và tăng lên, như các loại thuế thân, thuế nhà, thuế rượu, thuốc phiện, nước… Inđônêxia là một điển hình của sự khai thác và bóc lột thuộc địa của thực dân phương Tây ở Đông Nam Á nói riêng và phương Đông nói chung.         Mặt khác, thuộc địa còn là xuất khẩu, đầu tư lớn, có lợi đối với các nước thực dân nói chung, nên các nước tư bản đã đưa và đây  một số vốn kếch xù. Theo bảng thống kê năm 1938, ở Inđônêxia các nước đầu tư vào với tổng số 1.411 triệu đô la, Malaixia là 372 triệu, Philíppin là 315 triệu…       - Về xã hội- văn hoá, chúng thực hiện chính sách mị dân để lừa bịp nhân dân thuộc địa như mở một số trường học, bệnh viện… nhưng chủ yếu là chúng thực hiện chính sách ngu dân và sự đầu độc người bản xứ bằng rượu và thuốc phiện là công việc thường xuyên và có ý thức của bọn thực dân phương Tây ở tất cả các thuộc địa. Tình hình mà cứ 1.000 làng có đến 1.500 đại lý rượu và thuốc phiện nhưng chỉ có 10 trường học mà Nguyễn Ái Quốc nói về Việt Nam dưới thời Pháp thuộc (Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 1) là tình trạng chung, phổ biến cho các thuộc địa khác.        Chính vì vậy, lúc bấy giờ  người ta nói: “Inđônêxia là cái phao làm cho Hà Lan nổi lên !” và “Malaixia là kho Đôla của đế quốc Anh”. II. PHONG TRÀO ĐẤU TRANH CHỐNG ĐÔ HỘ CỦA CÁC NƯỚC CHÂU Á 1. ẤN ĐỘ 1. Tình hình kinh tế, xã hội Ấn Độ nửa sau thế kỷ XIX. Quá trình thực dân xâm lược Ấn Độ - Từ đầu thế kỉ XVII chế độ phong kiến Ấn Độ suy yếu các nước phương Tây chủ yếu là Anh – Pháp đua nhau xâm lược. - Kết Quả: Đến giữa thế kỷ XIX, thực dân Anh hoàn thành xâm lược và đặt ách thống trị Ấn Độ. 2. Chính sách cai trị của thực dân Anh. - Kinh tế: Đẩy mạnh khai thác, vơ vét tài nguyên thiên nhiên, bóc lột nhân công rẻ mạt, Ấn Độ trở thành thuộc địa quan trọng nhất của thực dân Anh. - Chính trị - xã hội: Cai trị trực tiếp, chia rẽ tôn giáo, chủng tộc, đẳng cấp. - Về văn hóa – Giáo dục: Thi hành chính sách giáo dục ngu dân ,khuyến khích tập quán lạc hậu và hủ tục cổ xưa. - Hậu quả: Kinh tế suy yếu,đời sống nhân dân cực khổ, mâu thuẫn dân tộc, giai cấp nổ ra…. 3. Cuộc khởi nghĩa Xipay (1857 – 1859). - Nguyên nhân: + Ách thống trị tàn bạo thựcdânAnh, tinh thần dân tộc và tín ngưỡng bị xúc phạm. + Binh lính Ấn Độ bất mãn dẫn đến khởi nghĩa. - Diễn biến: + 10-5-1857 binh lính ở Mirut nổi dậy. + Cuộc khởi nghĩa phát triển nhanh chóng giải phóng nhiều vùng rộng lớn ở Bắc, Trung Ấn nghĩa quân đã lập được chính quyền giải phóng một số thành phố lớn (lực lượng tham gia là binh lính, nông dân). + Đến 1859 thực dân Anh đàn áp, dập tắt cuộc khởi nghĩa. -Ý nghĩa: + Nêu cao tinh thần bất khuất chống TD của nhân dân Ấn Độ. Ý thức vươn tới độc lập của nhân dân Ấn Độ. + Mở dầu cho phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc sau này. 3. Đảng Quốc Đại và phong trào dân tộc (1885 – 1908) - Sự thành lập Đảng Quốc Đại. + Cuối 1885 Đảng Quốc dân đại hội (Đảng Quốc đại) thành lập. Từ(1885- 1905)Đảng đấu tranh ôn hòa, bất bạo động, đòi cải cách…. + Do thái dộ thỏa hiệp của những người cầm đầu và chính sách hai mặt của chính quyền Anh, nội bộ Đảng Quốc Đại bị phân hóa thành hai phái:Ôn hòa và phái Cực đoan(cấp tiến) - Phái dân chủ cấp tiến (Tilắc) chủ trương kiên quyết đấu tranh. + Đầu TK XX TD Anh tăng cường chính sách chia để trị, đàn áp Đảng Quốc đại, bắt phái cấp tiến. - Phong trào đấu tranh 1905 – 1908. + Do giai cấp tư sản lãnh đạo, mang đậm ý thức dân tộc. + Lần dầu tiên công nhân Ấn Độ tham gia phong trào (bãi công của công nhân Bombay 1908).6.1908 TD Anh bắt Ti Lắc kết án 6 năm tù ,công nhân BomBay đã tổng bãi công 6 ngày để ủng hộ Ti Lắc. - Cao trào cách mạng 1905-1908 mang đậm ý thức dân tộc đánh dấu sự thức tỉnh của nhân dân Ấn Độ tuy nhiên chính sách chia rẽ của thực dân Anh làm cho phong trào tạm ngừng. 2. TRUNG QUỐC 1. Trung Quốc bị các nước đế quốc xâm lược. Nguyên nhân: - Các nước TB phương Tây phát triển tăng cường tìm kiếm thị trường, thuộc địa. - Trung quốc là nước đông dân, giàu tài nguyên, kinh tế kém phát triển. - Chế độ phong kiến trên đà suy yếu. - Trung Quốc trở thành “miếng mồi” ngon cho các nước đế quốc. Quá trình xâm lược: - Thế kỉ XVIII các nước đế quốc đi đầu là Anh đòi Mãn Thanh “mở cửa” để buôn bán thuốc phiện. - 6 - 1840 Chiến tranh thuốc phiện bùng nổ (6 – 1840 đến 8 - 1842) Anh nhảy vào Trung Quốc. Thực dân phương Tây nổ súng xâm lược Trung Quốc Chính quyền Mãn Thanh phải kí Hiệp ước Nam Kinh 1842 phải chấp nhận các điều khoản thiệt thòi: bồi thường chiến phí (21triệu Bảng) mở cửa…. Đây là mốc mở đầu quá trình biến Trung Quốc từ một nước phong kiến độc lập trở thành một nước thuộc địa nữa phong kiến. - Cuối thế kỷ XIX các nước đế quốc Đức, Pháp, Nga, Nhật chia nhau Trung Quốc. 2. Phong trào đấu tranh của nhân dân Trung Quốc từ giữa thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX. a. Khởi nghĩa Thái Bình Thiên Quốc (1851- 1864) - 1-1-1851 Hồng Tú Toàn lãnh đạo nhân dân nổi dậy khởi nghĩa Kim Điền (Quảng Tây) sau đó lan rộng khắp cả nước. - Quân khởi nghĩa đã xây dựng được chính quyền (Thiên Kinh), thi hành nhiều chính sách tiến bộ. - 19-7-1864 Mãn Thanh tấn công Thiên Kinh đàn áp phong trào. Cuộc khởi nghĩa thất bại. b. Phong trào Duy tân Trước nguy cơ bị xâm lược một số nhân vật tiến bộ thuộc giới sĩ phu Trung Quốc chủ thương tiến hành cải cách để cứu vãn tình thế .Đó là cuộc vận động Duy Tân do Khang Hữu Vi và Lương Khải Siêu lãnh đạo được sự đồng tình ủng hộ của vua Quang Tự nhưng phong trào nhanh chóng thất bại. c. Phong trào Nghĩa Hòa đoàn - 1899 bùng nổ ở Sơn Đông và nhanh chóng lan rộng đến Bắc Kinh. - 1900 liên quân 8 nước tấn công đàn áp phong trào và tiến vào Trung Quốc. - Mãn Thanh kí điều ước Tân Sửu (1901) với đế quốc. Trung Quốc trở thành nước nửa thuộc địa, nửa phong kiến. 3. Tôn Trung Sơn và Cách mạng Tân Hợi (1911). a. Tôn Trung Sơn và Trung Quốc Đồng Minh Hội - Tôn Trung Sơn: Tôn trung sơn tên thật là Tôn Văn tự là Dật Tiên xuất thân trong một gia đình ở Quảng Đông. Thời thiếu niên ông theo người anh họ sang Haoai (Mỹ) buôn bàn và học tiểu học, trung học ở đó. Năm 1883 ông về nước theo học y khoa đại học Hông kông. Từ năm 1902 – 1905, ông đã từng đi nhiều nước trên thế giới, qua Hà nội (Việt nam), Nhật bản, Mỹ và nhiều nước châu Âu. Năm 1905, tại Tokyo (Nhật bản), ông thành lập Trung Quốc đồng minh hội. Trên tờ Dân báo, cơ quan ngôn luận của Trung quốc đồng minh hội, ông đã công bố Chủ nghĩa Tam Dân (Dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc). T«n Trung S¬n (1866 - 1925) - 8-1905 Tôn Trung Sơn tập hợp giai cấp tư sản Trung Quốc thành lập Trung Quốc Đồng minh hội – chính đảng của giai cấp tư sản ra đời. - Cương lĩnh của Trung Quốc Đồng minh hội dựa vào chủ nghĩa “Tam dân” của Tôn Trung Sơn. - Mục tiêu là đánh đổ Mãn Thanh, thành lập Dân quốc, bình đẳng cho dân cày. b. Cách mạng Tân Hợi. - Nguyên nhân: + Nhân dân Trung Quốc mâu thuẫn với đế quốc phong kiến. Chính quyền nhà Thanh trao quyền kiểm soát đường sắt cho Đế Quốc, bán rẻ quyền lợi dân tộc phong trào giữa đường bùng nổ. Nhân cơ hội đó Đồng Minh Hội phát động đấu tranh. - Diễn Biến: + 10-10-1911 Khởi nghĩa ở Vũ Xương và nhanh chóng lan rộng khắp miền Trung, Nam Trung Quốc. + 29-12-1911 Tôn Trung Sơn được bầu làm đại tổng thống. Quốc dân đại hội họp ở Nam Kinh thành lập Trung Hoa Dân quốc. Trước thắng lợi của cách mạng, tư sản thương lượng với nhà Thanh (Viên Thế Khải). + 12-2-1912 Vua Thanh (Phổ Nghi) thoái vị. Tôn Trung Sơn buộc phải từ chức. + 6-3-1912 Viên Thế Khải nhậm chức Đại Tổng thống Trung Hoa Dân quốc. Kết quả cuộc cách mạng chấm dứt. - Tính chất, ý nghĩa của Cách mạng Tân Hợi: Tính chất: Cách mạng manh tính chất là cuộc cách mạng dân chủ tư sản không triệt để. Ý nghĩa: + Chấm dứt chế độ Phong kiến lỗi thời mở đường cho Chủ nghĩa Tư Bản phát triển. + Cách mạng đã ảnh hưởng đến phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc các nước ở Châu Á. 3. NHẬT BẢN a. Nhật Bản từ nửa đầu thế kỉ XIX đến trước năm 1868. Đầu thế kỉ XIX chế độ Mạc phủ ở Nhật Bản đứng đầu là Tướng quân (Sô-gun) làm vào khủng hoảng suy yếu. Về kinh tế: - Nông nghiệp: Vẫn dựa trên quan hệ sản xuất phong kiến lạc hậu. Địa chủ bóc lột nhân dân lao động rất nặng nề. Tình trạng mất mùa đói kém liên tiếp xảy ra. - Công nghiệp: Ở các thành thị, hải cảng, kinh tế hàng hoá phát triển, công trường thủ công xuất hiện ngày càng nhiều. - Những mầm mống kinh tế tư sản chủ nghĩa phát triển nhanh chóng. Về xã hội: - Tầng lớp tư sản thương nghiệp ra đời từ lâu, tầng lớp tư sản công nghiệp hình thành và ngày càng giàu có. - Các nhà công thương lại không có quyền lực về chính trị. - Giai cấp tư sản vẫn còn yếu, không đủ sức xoá bỏ chế độ phong kiến, nông dân là đối tượng bóc lột chủ yếu của giai cấp phong kiến, còn thị dân thì không chỉ bị phong kiến khống chế mà còn bị các nhà buôn và bọn cho vay lãi bóc lột. Về chính trị: - Đến giữa thế kỉ XIX, Nhật Bản vẫn là quốc gia phong kiến. Nhà vua được tôn là Thiên hoàng, có vị tối cao nhưng quyền hành chủ yếu thuộc về Tướng quân. - Giữa lúc mâu thuẫn giai cấp trong nước ngày càng gay gắt, chế độ Mạc Phủ khủng hoảng nghiêm trọng thì các nước tư bản phương Tây, trước tiên là Mĩ, dùng áp lực quân sự đòi Nhật Bản phải “mở cửa”. - Như vậy, đến giữa thế kỉ XIX, Nhật Bản đã lâm vào một cuộc khủng hoảng trầm trọng, đứng trước sự lựa chọn: hoặc tiếp tục con đường trì trệ, bảo thủ để các nước đế quốc xâu xé; hoặc canh tân, cải cách xoá bỏ chế độ phong kiến, đưa Nhật Bản hoà nhập với nền kinh tế phương Tây.  b. Cuộc Duy tân Minh Trị Nguyên nhân: - Những hiệp ước bất bình mà Mạc phủ kí kết với nước ngoài làm cho tầng lớp xã hội phản ứng mạnh mẽ - Phong trào đấu tranh chống (Sô gun)  nổ ra sôi nổi vào những năm 60 của thế kỉ XX đã làm sụp đổ chế độ Mạc phủ. - Tháng 01/1868 Sô-gun bị lật đổ. Thiên hoàng Minh Trị (Meiji) trở lại nắm quyền và thực hiện một loạt cải cách. Nội dung cải cách Minh Trị: - Tháng 1-1868, sau khi lên ngôi, Thiên hoàng Minh Trị (May-gi) đã thực hiện một loạt cải cách tiến bộ nhằm đưa Nhật Bản thoát khỏi tình trạng phong kiến lạc hâu. Về chính trị: - Nhật hoàng tuyên bố thủ tiêu chế độ Mạc phủ, lập chính phủ mới, thực hiện bình đẳng ban bố quyền tự do. - Ban hành Hiến pháp 1889 Về kinh tế: - Thống nhất tiền tệ, thống nhất thị trường, xoá bỏ sự độc quyền ruộng đất của giai cấp phong kiến. - Tăng cường phát triển  kinh tế tư bản chủ nghĩa ở nông thôn. - Xây dựng cơ sở hạ tầng, đường sá, cầu cống, phục vụ giao thông liên lạc. Về quân sự: - Được tổ chức huấn luyện theo kiểu phương Tây. - Chế độ nghĩa vụ quân sự thay cho chế độ trưng binh. - Chú trọng đóng tàu  chiến, sản xuất vũ khí đạn dược. Về giáo dục: - Thi hành chính sách giáo dục bắt buộc. - Chú trọng nội dung  khoa học - kỹ thuật  trong chương trình giảng dạy. Cử những học sinh giỏi đi du học phương Tây… Tính chất – ý nghĩa: - Cải cách Minh Trị mang tính chất của một cuộc cách mạng tư sản. - Nhật thoát khỏi số phận bị các nước tư bản phương Tây xâm lược - Mở đường cho chủ nghĩa tư bản phát triển ở Nhật. c. Nhật Bản chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. - Trong 30 năm cuối thế kỉ XIX  (sau chiến tranh Trung - Nhật 1894 - 1895), kinh tế Nhật Bản phát triển mạnh mẽ. - Quá trình tập trung trong công nghiệp, thương nghiệp với ngân hành đã đưa đến sự ra đời những công ty độc quyền, Mít-xưi, Mit-su-bi-si chi phối đời sống kinh tế, chính trị Nhật Bản. - Đầu thế kỉ XX, Nhật thi hành chính sách xâm lược và bành trướng:           + Năm 1874 Nhật xâm lược Đài Loan.           + Năm 1894 – 1895 Nhật gây chiến với Trung Quốc để tranh giành Triều Tiên, uy hiếp Bắc Kinh, chiếm cửa biển Lữ Thuận, nhà Thanh phải nhượng Đài Loan và Liêu Đông cho Nhật           + Năm 1904-1905 Nhật gây chiến với Nga buộc Nga phải nhường cửa biển Lữ Thuận, đảo Xa-kha-lin, thừa nhận Nhật Bản chiếm đóng Triều Tiên. - Năm 1914, Nhật dùng vũ lực mở rộng ảnh hưởng ở Trung Quốc và chiếm Sơn Đông. Nhật trở thành đế quốc hung mạnh nhất châu Á. - Cùng với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản là sự bần cùng hoá của quần chúng nhân dân lao động. - Chủ nghĩa đế quốc Nhật được gọi là “Chủ nghĩa đế quốc phong kiến quân phiệt, hiếu chiến” . 4. KHU VỰC ĐÔNG NAM Á Đông Nam Á có vị trí chiến lược quan trọng - Giàu tài nguyên thiên nhiên, có nền văn hóa lâu đời. a. Quá trình xâm lược của chủ nghĩa thực dân vào các nước Đông Nam Á. Nguyên nhân: Các nước tư bản cần thị trường, thuộc địa nên đẩy mạnh xâm lược thuộc địa. - Đông Nam Á có vị trí chiến lược quan trọng. - Giàu tài nguyên thiên nhiên, có nền văn hóa lâu đời. - Chế độ phong kiến  khủng hoảng . Kinh tế kém phát triển. - Khủng hoảng triền miên  về chính trị , kinh tế, xã hội.          Quá trình xâm lược: Tên các nước Đông Nam Á Thực dân Xâm lược Thời gian hoàn thành xâm lược In-đô-nê-xi-a Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Hà Lan - Giữa XIX Hà Lan hoàn thành xâm chiếm và lập ách thống trị. Phi-lip-pin Tây Ban Nha, Mĩ - Giữa thế kỉ XVI Tây Ban Nha thống trị. - Năm 1898 Mĩ chiến tranh với Tây Ban Nha, hất cẳng Tây Ban Nha khỏi Phi-lip-pin. - Năm 1899-1902 Mĩ chiến tranh  xâm lược  Philíppin, biến quần đảo, này thành thuộc điạ của Mĩ. Miến Điện Anh - Năm 1885 Anh thôn tính Miến Điện. Ma-lai-xi-a  Anh - Đầu thế kỉ XIX Mã - lai trở thành thuộc địa của Anh. Việt Nam -Lào - Cam-pu-chia Pháp - Cuối thế kỉ XIX, Pháp hoàn thành xâm lược 3 nước Đông Dương. Xiêm (Thái Lan) Anh - Pháp tranh chấp - Xiêm vẫn giữ được độc lập. Lược đồ Đông Nam Á cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX Phong trào chống thực dân xâm lược của các nước Đông Nam Á. c.1. Phong trào chống thực dân Hà Lan của nhân dân In-đô-nê-xi-a. Chính sách thống trị thực dân Hà Lan đã làm bùng nổ nhiều cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. - 1825-1830:Cuộc khởi nghĩa A – chê: Do hoàng tử Di-pô-nê-gô-rô  vương quốc Yogyacata lãnh đạo, được đông đảo nhân dân trên đảo Giava và các đảo khác đi theo,  là cuộc nổi dậy lớn nhất của người Inđônêxia hồi đầu thế kỉ XIX. - Cuộc khởi nghĩa nông dân do Sa-min lãnh đạo năm 1890 - Các tổ chức chính trị của công nhân ra đời như: Hiệp hội công nhân đường sắt (1905), Hiệp hội công nhân xe lửa (1908). Tháng 12/1914, Liên minh xã hội dân chủ Inđônêxia ra đời nhằm tuyên truyền  chủ nghĩa Mác trong công nhân đặt cơ sở cho Đảng Cộng sản ra đời (5/1920). Giai cấp tư sản dân tộc, tầng lớp trí thức tiếp thu tư tưởng dân chủ tư sản châu Âu, đóng vai trò nhất định trong phong trào yêu nước ở Inđônêxia đầu thế kỉ XX. Vì vậy phong trào yêu nước mang màu sắc mới theo khuynh hướng dân chủ tư sản với sự tham gia của công nhân và tư sản. Pangeran Diponegoro  lãnh đạo phong trào cách mạng ở Indonesia 1825-1830 Khởi nghĩa A - chê c.2. Phong trào chống thực dân ở Phi-lip-pin. - Nguyên nhân: - Thực dân Tây Ban Nha đặt ách  thống trị  trên 300 năm ở Philíppin, khai thác bóc lột triệt để tài nguyên và sức lao động . - Mâu thuẫn giữa nhân dân Phili ppin  và thực dân Tây Ban Nha ngày càng gay gắt dẫn đến  phong trào đấu tranh bùng nổ. - Phong trào đấu tranh: - Năm 1872 có khởi nghĩa ở Ca-vi-tô, nghĩa quân làm chủ Ca-vi-tô được 3 ngày thì thất bại. - Vào những năm 90 của thế kỉ XIX, ở Philíppin xuất hiện 2 xu hướng chính trong phong trào giải phóng dân tộc. Nội dung Xu hướng cải cách Xu hướng bạo động Lãnh đạo - Hô-xê-Ri-dan -Bô-ni-pha-xi-ô Lực lượng tham gia “Liên minh Philíppin”, bao gồm trí thức yêu nước, địa chủ, tư sản tiến bộ, một số hộ nghèo “Liên hiệp những người con yêu quý của nhân dân” tập hợp chủ yếu là nông dân, dân nghèo thành thị Hình thức đấu tranh Đấu tranh ôn hòa Khởi nghĩa, vũ trang tiêu biểu là  cuộc khởi nghĩa tháng 8/1896 Chủ trương đấu tranh Tuyên truyền, khơi dậy ý thức dân tộc, đòi quyền bình đẳng với người Tây Ban Nha. Đấu tranh lật đổ ách thống trị của Tây Ban Nha, xây dựng quốc gia độc lập. Kết quả - ý nghĩa Tuy thất bại nhưng Liên minh đã thức tỉnh, tinh thần dân tộc, chuẩn bị tư tưởng cho cao, tráo cách mạng sau này Khởi nghĩa tháng 8/1896 đã  giải phóng nhiều vùng, thành lập được chính quyền nhân dân, tiến tới thành lập nền cộng hòa. - Phong trào đấu tranh chống Mĩ:    + Năm 1898 Mĩ gây chiến với Tây Ban Nha hất cẳng Tây Ban Nha và chiếm Philíppin. + Nhân dân Philíppin anh dũng chống Mĩ đến  năm 1902 thất bại. Philíppin trở thành thuộc địa của Mĩ. BONIFACIO ( Philippin ) JOSE RIZAL- Hô-xê Ri-dan (Philippin) c.3. Phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp của nhân dân Campuchia. - Bối cảnh Cam-pu-chia giữa thế kỉ XIX: - Trước khi bị Pháp xâm lược triều đình phong kiến Nô-rô-đôm suy yếu phải thần phục Thái Lan. - Năm 1863 Cam-pu-chia chấp nhận sự bảo hộ của Pháp. Năm 1884 Pháp gạt Xiêm, biến Cam-pu-chia thành thuộc địa của Pháp. - Ách thống trị của Pháp làm cho nhân dân Cam-pu-chia bất bình vùng dậy đấu tranh. - Phong trào đấu tranh chống Pháp của nhân dân Cam-pu-chia: Tên phong trào khởi nghĩa Thời gian Địa bàn hoạt động Kết quả Khởi nghĩa Si-vô-tha 1861-1892  Tấn công U-đong và Phnôm Pênh Thất bại Khởi nghĩa A-cha Xoa 1863-1866 Các tỉnh giáp biên giới Việt Nam, nhân dân Châu đốc (Hà Tiên) ủng hộ A-cha-xoa chống Pháp Thất bại Khởi nghĩa Pu-côm-bô 1866-1867 Lập căn cứ ở Tây Ninh (Việt Nam) sau đó tấn công về Cam-pu-chia kiểm soát Pa-man tấn công U-đong Thất bại - Nổ ra liên tục, có cuộc khởi nghĩa kéo dài tới 30 năm. - Các cuộc đấu tranh thu hút được đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia, - Có sự ủng hộ của nhân dân Việt Nam, đặc biệt là trong cuộc khởi nghĩa của Pu-côm-bô được coi là biểu tượng về liên minh chiến đấu của nhân dân hai nước Việt Nam - Cam-pu-chia trong cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp. c.4. Phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp của nhân dân Lào đầu thế kỷ XX. - Bối cảnh lịch sử: -  Giữa thế kỉ XIX chế độ phong kiến suy yếu Lào phải thuần phục Thái Lan. - Năm  1893 bị thực dân Pháp xâm lược. Tên khởi nghĩa Thời gian Địa bàn hoạt động     Kết quả Khởi nghĩa Pha-ca-đuốc 1901-1903 Xa-va-na-khet, Đường 9, Biên giới Việt - Lào Thất bại Khởi nghĩa  Ong Kẹo và Com-ma-đam 1901-1937  Cao nguyên Bô-lô-ven Thất bại Khởi nghĩa Châu Pa-chay 1918-1922 Bắc Lào, Tây Bắc Việt Nam Thất bại - Nhận xét: - Phong trào đấu tranh của nhân dân Lào, và Cam-pu-chia cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX diễn ra liên tục, sôi nổi nhưng còn mang tính tự phát. - Hình thức đấu tranh chủ yếu là khởi nghĩa vũ trang. - Lãnh đạo là các sĩ phu yêu nước và nông dân    - Kết quả: - Các cuộc đấu tranh đều thất bại do tự phát thiếu đường lối đúng đắn, thiếu tổ chức vững vàng. - Thể hiện tinh thần yêu nước và tinh thần đoàn kết của nhân dân 3 nước Đông Dương. c.5. Xiêm (Thái Lan ) giữa thế kỷ XIX – đầu thế kỉ XX. - Bối cảnh lịch sử: - Năm 1752 triệu đại Ra-ma theo đuổi chính sách đóng cửa. - Giữa thế kỉ XIX đứng trước sự đe doạ xâm lược của phương Tây, Ra-ma IV (Mông-kút ở ngôi từ 1851-1868) đã thực hiện mở cửa buôn bán với nước ngoài. - Ra-ma V (Chu-la-long-con ở ngôi từ 1868 - 1910) đã thực hiện nhiều chính sách cải cách. Chu-la-long-con –Ra-ma V - Nội dung cải cách: Kinh tế: + Nông nghiệp: để tăng nhanh lượng gạo xuất khẩu nhà nước giảm nhẹ thuế ruộng, xóa bỏ chế độ lao dịch. + Công thương nghiệp: khuyến khích tư nhân bỏ vốn kinh doanh, xây dựng nhà máy, mở hiệu buôn, ngân hàng Chính trị: + Cải cách theo khuôn mẫu Phương Tây . + Đứng đầu nhà nước vẫn là vua. + Giúp việc có hội đồng nhà nước (nghị viện) . + Chính phủ có 12 bộ trưởng. Quân đội: Tòa án, trường học được cải cách theo khuôn mẫu phương Tây. Về xã hội: Xóa bỏ chế độ nô lệ, giải phóng người lao động. Đối ngoại: + Thực hiện chính sách ngoại giao mềm dẻo. + Lợi dụng vị trí nước đệm . + Lợi dụng mâu thuẫn giữa 2 thế lực Anh - Pháp đã lựa chiều có lợi để giữ chủ quyền đất nước. - Tính chất: + Thái Lan phát triển theo hướng tư bản chủ nghĩa và giữ được chủ quyền độc lập. + Tính chất một cuộc cách mạng tư sản không triệt để. Trong bối cảnh chung của Châu Á, Thái Lan đã thực hiện đường lối cải cách, chính nhờ đó mà Thái Lan thoát khỏi thân phận thuộc địa giữ được độc lập. 6. KHU VỰC TÂY Á Vùng đất màu mỡ Lưỡng Hà Châu nằm giữa hai con sông Euphrates và Tigris là nơi hình thành một số nền văn minh cổ đại trên thế giới như Sumer, Babylon, Assyria. Sau một thời gian dài là một bộ phận của Ba Tư, nó đã bị người Ả Rập xâm chiếm vào năm 637 và năm 762 Khalif đã được chuyển tới thành phố mới Bagdad (gần Babylon cổ). Thành phố này là trung tâm của thế giới Ả Rập cho đến khi bị sáp nhập vào Đế chế Ottoman năm 1534. Thời kỳ Ottoman Selim I - vị vua chinh phục Trung Đông cho đế quốc Ottoman Tới đầu thế kỷ 15, đế quốc Ottoman trỗi dậy tại vùng Tây Nam Á. Năm 1453, sultan Ottoman là Mehmed II mang quân đi đánh Đông La Mã, chiếm được kinh thành Constantinopolis. Đế quốc Ottoman lần đầu tiên từ thời cai trị của các khalip nhà Abbas từ thế kỷ thứ 10 đã thống nhất cả vùng, và họ giữ quyền kiểm soát nó trong 400 năm. Từ năm 1700 đến 1918 Trung Đông ngày càng rơi vào vùng ảnh hưởng của Châu Âu. Trong thế kỷ 19 Hy Lạp, Serbia, Romania và Bulgaria giành lại độc lập, và trong các cuộc chiến tranh Balkan giai đoạn 1912-1913 Đế chế Ottoman bị hất khỏi toàn bộ Châu Âu, ngoại trừ thành phố Constantinopolis và vùng nội địa của nó. Tới thế kỷ 19 Đế chế Ottoman bị Nga hoàng Nikolai I gọi là "Âu châu bệnh phu", dần rơi vào tầm kiểm soát tài chính của các nước đế quốc châu Âu. Sự thống trị nhanh chóng chuyển sang chinh phục. Thực dân Pháp sáp nhập Algérie năm 1830 và Tunisia năm 1878. Đế quốc Anh chiếm Ai Cập năm 1882, dù nó vẫn nằm dưới chủ quyền danh nghĩa của Ottoman. Người Anh cũng thiết lập sự kiểm soát hiệu quả trên Vịnh Ba Tư, và Pháp đã mở rộng ảnh hưởng của họ tới Liban và Syria. Năm 1912 Ý chiếm Libya và quần đảo Dodecanese, ngay ngoài khơi vùng đất trung tâm của Đế chế Ottoman là Tiểu Á. Cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, giới lãnh đạo Trung Đông đã tìm cách hiện đại hóa đất nước của mình để cạnh tranh một cách hiệu quả hơn với các cường quốc châu Âu. Những ông vua có tư tưởng cải cách như Muhammad Ali Pasha tại Ai Cập, sultan Abdul Hamid II và các tác giả của cuộc cách mạng năm 1906 tại Ba Tư tìm cách áp dụng các công thức phương tây vào thể chế chính phủ, luật pháp dân sự, giáo dục phi tôn giáo và phát triển công nghiệp vào đất nước họ. Trên khắp vùng các tuyến đường sắt, đường thông tin được xây dựng, trường học và trường đại học được mở cửa, một tầng lớp sĩ quan, luật sư, giáo viên, hành chính viên mới xuất hiện, thách thức các tầng lớp lãnh đạo truyền thống và các học giả Hồi giáo. Năm 1914 liên minh của Enver Bey với Đức khiến nhóm Những người Thổ trẻ phạm một bước sai lầm nghiêm trọng khi gia nhập cùng đế quốc Áo - Hung và Đức vào Chiến tranh thế giới thứ nhất, chống lại Anh và Pháp. Người Anh coi Ottoman là mắt xích yếu trong liên minh đối thủ, và tập trung vào việc đánh bại họ trước nhất. Khi một cuộc tấn công trực tiếp tại Gallipoli năm 1915 mang lại thất bại thảm hại cho họ, họ quay sang xúi giục những tổ chức cách mạng bên trong chính Đế chế Ottoman, lợi dụng sự suy yếu của chủ nghĩa quốc gia Hồi giáo. Những người Ả rập từng nhiều hay ít hài lòng với thời gian cai trị 400 năm của Ottoman, cho tới khi nhóm Những người Thổ trẻ "Thổ hoá" họ và thay đổi hệ thống chính phủ truyền thống của họ. Người Anh thành lập một liên minh với Sherif Hussein ibn Ali, người thừa kế chức vụ cai quản Mecca (và được những người Hồi giáo tin là con cháu của Nhà tiên tri Muhammad), người đã lãnh đạo một cuộc Nổi dậy Ả Rập chống lại quyền cai trị của Ottoman, sau khi nhận được lời hứa sẽ trao cho người Ả rập quyền độc lập. Khi Đế chế Ottoman tan rã, người Ả rập tuyên bố thành lập một nhà nước độc lập tại Damascus, nhưng nhà nước này quá yếu ớt, cả về quân sự và kinh tế, để chống chọi lâu dài với các cường quốc Châu Âu, và Anh cùng Pháp nhanh chóng thiết lập quyền kiểm soát và tái sắp xếp khu vực Trung Đông theo ý muốn của họ. a. Syria Vì Đế chế Ottoman chiến đấu bên cạnh Đức trong Thế chiến I, những kế hoạch của các cường quốc Đồng minh nhằm làm tan rã lãnh thổ to lớn của Ottoman khi ấy đã có thể thực hiện. Hai nhà ngoại giao của Đồng minh (François Georges-Picot người Pháp và Mark Sykes người Anh) bí mật đồng thuận, từ lâu trước cuộc chiến, cách phân chia Đế chế Ottoman thành nhiều vùng ảnh hưởng. Thoả thuận Sykes-Picot năm 1916 đặt ra số phận của Tây Nam Á hiện đại trong thế kỷ tiếp sau; trao cho Pháp vùng phía bắc (Syria, với sau này là Liban), và Anh Quốc phía nam (Jordan, Iraq và sau này, sau những cuộc tái đàm phán năm 1917, Palestine - 'để đảm bảo việc vận chuyển quân hàng ngày từ Haifa tới Baghdad' - thoả thuận n° 7). Hai lãnh thổ chỉ bị chia cắt bởi một dải biên giới hẹp từ Jordan tới Iran. Nhưng những khám phá đầu tiên về dầu mỏ trong vùng Mosul chỉ ngay trước khi cuộc chiến chấm dứt dẫn tới một cuộc đàm phán khác với người Pháp năm 1918 để nhượng vùng này vào 'Khu vực B', hay vùng ảnh hưởng của Anh. Các biên giới giữa 'Vùng A' và 'Vùng B' đã không thay đổi từ năm 1918 cho đến nay. Từ năm 1920, hai bên đã được công nhận quốc tế theo uỷ quyền của Hội quốc liên bởi hai quốc gia thống trị: Pháp và Anh. b. Iraq Trong thế kỷ 16 Iraq trở thành một phần của Đế chế Ottoman. Thời cai trị của Ottoman trên toàn bộ lãnh thổ Iraq kéo dài tới tận Chiến tranh thế giới thứ nhất khi Ottoman đứng về phía Đức và Liên minh trung tâm. Các lực lượng Anh xâm chiếm nước này và thua một trận lớn trước quân đội Thổ Nhĩ Kỳ trong cuộc Phong toả Kut (1915–16). Các lực lượng Anh được tái lập lại và Chiếm Baghdad năm 1917. Một thỏa hiệp đình chiến được ký năm 1918. Iraq được người Pháp và Anh tách ra khỏi Đế chế Ottoman theo Hiệp ước Sykes-Picot. Năm 1915, quân đội Anh xâm chiếm Iraq và thiết lập chế độ thuộc địa theo sự phân chia của Hội Quốc Liên, Ngày 11 tháng 11 1920 nó trở thành một quốc gia thuộc Liên đoàn các quốc gia ủy trị dưới quyền kiểm soát của Anh với cái tên "Quốc gia Iraq".Chế độ này bị kết thúc bằng sự độc lập của Iraq năm 1932. c. Iran Từ năm 1220, Ba Tư bị Đế quốc Mông Cổ dưới quyền Thành Cát Tư Hãn, tiếp đó là Timur xâm chiếm. Quốc gia Hồi giáo Shi'a Ba Tư đầu tiên được thành lập năm 1501 dưới Triều đại Safavid. Ba Tư dần trở thành nơi tranh giành của các cường quốc thuộc địa như Đế quốc Nga và Đế chế Anh. d. Isarel Sự thành lập chủ nghĩa phục quốc Do Thái dẫn tới Aliyah thứ hai (1904–1914) với số người Do Thái lên tới khoảng 40.000. Năm 1917, Bộ trưởng ngoại giao Anh Arthur J. Balfour đưa ra Tuyên bố Balfour "ủng hộ việc thành lập tại vùng đất Do Thái cũ đã bị người Palestine chiếm một nhà nước quê hương cho những người dân Do Thái". Năm 1920, vùng này được giao cho Hội Quốc Liên và được quản lý bởi Anh.         III. NHỮNG HẬU QUẢ CỦA CHẾ ĐỘ THUỘC ĐỊA ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC CHẤU Á Sự thống trị của chủ nghĩa thực dân phương Tây không nhằm mục đích “khai hoá”, đem lại “văn minh” cho các nước thuộc địa nói chung và nhân dân châu Á nói riêng. Ngược lại, sự xâm lược và thống trị đó là  một trong những nguyên nhân dẫn đến sự lạc hậu về kinh tế và văn hoá của các nước thuộc địa trong thời kỳ cận đại.        Kết quả của sự thống trị, bóc lột của bọn thực dân là đem lại lợi nhuận khỏng lồ cho chúng và sự khốn khổ không kể xiét của nhân dân lao động và hậu quả nghiêm trọng  đối với sự phát triển xã hội của các nước thuộc địa.        Tội ác của chúng thật là lớn! Nguyễn Ái Quốc với “Bản án chế độ thực dân Pháp” đã tố cáo tội ác không chỉ của thực dân Pháp mà của tất cả bọn thực dân: “…chế độ thực dân là ăn cướp… là hiếp dâm và giết người” (Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 2, tr. 106).        - Về mặt chính trị, xã hội: Người châu Âu có mặt ở châu Á từ thế kỷ XVI, trước tiên là thu mua hương liệu, khai thác tài nguyên, lập các trung tâm buôn bán, rồi tiến đến xâm chiếm đất đai, lập thuộc địa, thủ tiêu nền độc lập của các dân tộc vốn đã có chủ quyền và nền văn hoá khá cao.        Những cuộc xâm chiếm và thống trị như vậy, đã gây nên những vụ xung đột, chia rẽ các dân tộc, tôn giáo, tranh chấp biên giới giữa các nước với nhau. Các tệ nạn xã hội ngày càng gia tăng.       Tình trạng mù chữ của nhân dân chiếm tỉ lệ cao ở các nước thuộc địa, như ở Inđônexia có 70 triệu dân mà chỉ có 6,5 % người biết chữ vào  những năm 1930, hoặc ở Việt Nam cũng trên 90 % dân số mù chữ trong thời kỳ thống trị của thực sân Pháp…        - Về kinh tế: Chúng tiến hành vơ vét, khai thác, đầu tư đối với các thuộc địa. Các nước tư bản cũng đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật ở một mức độ nhất định để tận lực khai thác tài nguyên. Chính vì thế khi khủng hoảng kinh tế thì tác hại của nó khá lớn, kinh tế bị phá sản, số người thất nghiệp tăng, nạn chết đối xuất hiện nặng nề.       Về công nghiệp, các nước thực dân để lại cho các nước thuộc địa một di sản nghèo nàn, lạc hậu và què quặt. Đến khi giành được độc lập, khu vực công nghiệp của các nước chiếm một con số rất nhỏ, ví như ở Malaixia khu công nghiệp chiếm 6,3 dân số lao động, khoảng 50 % số này lao động ở các mỏ thiếc và đồn điền cao su, số còn lại làm trong các xí nghiệp công nghiệp nhẹ.         Trong nông  nghiệp, vẫn duy trì sản xuất nhỏ, tiểu nông, kỹ thuật canh tác lạc hậu. Chính vì vậy, năng suất lao động thấp, nông dân bị mất đất phải thuê ruộng và nộp địa tô hoặc phải đi làm thuê cho địa chủ, thực dân. Đời sống của nhân dân vô cùng khổ cực. C. KẾT LUẬN Như vậy, gần 4 thế kỷ từ khi đặt thương điếm đầu tiên vào thế kỷ XVI, các nước đế quốc thực dân phương Tây đã hoàn thành việc xâm lược, chi phối nền độc lập của hầu hết các nước Châu Á (trừ Nhật Bản và Thái Lan). Sử dụng vũ khí là chủ yếu, kết hợp với nhiều thủ đoạn đe doạ, mua chuộc thực dân phương Tây đã đặt ách đô hộ ở các nước Châu Á và biến vua quan phong kiến thành nhũng kẻ tay sai cho chúng. Các nước Châu Á dần dần trở thành thuộc địa, nửa phong kiến. Có người nói đến tác dụng tích cực của chế độ thực dân đối với các nước thuộc địa; văn minh châu Âu được truyền bá, công nghiệp, giao thông… được xây dựng nhiều hơn trước. Nhưng sự thực vì cần đào tạo một tầng lớp tay sai và phải cung cấp kíến thức nhất định cho người làm thuê nên bọn thực dân phải mở trường học. Vì cần hành quân để đàn áp các cuộc khởi nghĩa của nhân dân đấu tranh giải phóng dân tộc và để đẩy mạnh khai thác tài nguyên, tăng cường bóc lột, chúng phải xây dựng đường sá. Vì để phục vụ cho đời sống của bọn thực dân và tay sai, chúng đã xây dựng công nghiệp nhẹ… xét cho cùng, những công trình đó đều là những thành quả của nhân dân lao động. Cho nên, không vì thế mà “quy” công ơn “khai hoá” cho bọn thực dân, đế quốc đối với thuộc địa. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Vũ Dương Ninh, Nguyễn Văn Hồng - Lịch sử thế giới cận đại – NXB Giáo dục, Hà Nội 1998. 2. Nguyễn Văn Hồng, Vũ Dương Ninh, Võ Mai Bạch Tuyết. Bộ giáo trình Lịch sử thế giới cận đại, NXB Đại học và Trung học Chuyên nghiệp, Hà Nội 1984 – 1987. 3. Trường Đại học Sư phạm I Hà Nội. Bộ giáo trình Lịch sử cận đại thế giới, NXB Giáo dục, Hà Nội 1960… 4. Internet, …

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docbai_kiem_tra_9759.doc
Tài liệu liên quan