Đề tài Quan điểm và các giải pháp thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam trong tiến trình tự do hóa thương mại trong ASEAN

Do đó việc thu hút và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư nước ngoài có ý nghĩa quan trọng là một trong những yếu tố quyết định đến sự tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Trong quá trình thực hiện thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài bên cạnh những thuận lợi thì vẫn còn những khó khăn, việc này đòi hỏi Đảng và Nhà nước ta phải có những biện pháp hết sức cụ thể để đưa con tàu Việt Nam đi đúng hướng phù hợp với xu thế và bắt kịp với sự phát triển chung của toàn thế giới.

doc38 trang | Chia sẻ: ndson | Lượt xem: 1190 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Quan điểm và các giải pháp thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam trong tiến trình tự do hóa thương mại trong ASEAN, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g khi tiếp nhận FDI có xu hướng đẩy các doanh nghiệp trong nước đi đến phá sản ,do các công ty đa quốc gia co tiềm lực tàI chính, kỹ thuật, đôI khi còn được hưởng những ưu đãI hơn cả doanh nghiệp trong nước . Một bộ phận trong xã hội bị tha hoá do bị kích thích về vật chất ,lối sống chạy theo đồng tiền ,coi thường những chuản mực đạo đức trở nên phỏ biến ,tệ nạn xã hội tăng nhanh . Lợi dụng chính sách mở cửa của nhà nước, các thế lực thù địch tìm cách chống phá. Nếu mất cảnh giác những luồng gió độc có thể trà trộn vào không khí đầu tư. Đó là những mặt trái không thể tránh khỏi , gây nhiều thắc mắc , những dư luận xã hội không tốt cho hợp tác đầu tư, nhất là khi có những vấp váp xảy ra . Do đó cần có sự thống nhất của toàn Đảng ,toàn dân , giữa các cấp ,các ngành giữ cho môi trường đầu tư trong sạch, cương quyết bàI trừ tệ nạn xã hội, đề cao cảnh giác với các thế lực thù địch . Chương 2 đặc đIểm fdi hiện nay và tác động của tự do hoá thương mại asean đến quá trình thu hút fdi tại việtnam 1. Quá trình tự do hoá thương mại quốc tế và ASEAN Nền thương mại thế giới trong nhiều thập kỷ qua đã có sự tăng trưởng rất lớn về quy mô trao đổi, phạm vi hoạt động, các hình thức tiến hành và số quốc gia tham gia vào thương mại quốc tế cũng ngày một lớn hơn, theo chiều hướng cởi mở hơn. Tính đến năm 1990, đã có tới 127 quốc gia tham gia vào vòng đàm phá Uruguay so với con số 24 quốc gia hồi sau đại chiến thế giới thứ 2. “Mức thuế quan trung bình đã giảm từ 40% còn 5% trong quan hệ thương mại giữa các quốc gia công nghiệp phát triển, và trong tương lai, mức thuế suất này còn tiếp tục được giảm hơn nữa. Nhờ những thành công của GATT, và nhờ vào những thành công trong hoạt động đầu tư quốc tế mà mức trao đổi thương mại quốc tế đã có sự tăng trưởng nhảy vọt tới13 lần kể từ năm 1950 đến 1990. Như vậy nền thương mại thế giới đang ngày càng có những bước phát triển mạnh mẽ , nó đươc coi là xu thế không thể đảo ngược trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế . Thế kỷ 20 cũng chưng kiến một sự phục hồi nhanh chóng của nền kinh tế thế giới từ sau sự tàn phá khốc liệt của đại chiến thế giới thứ 2, sự phát triển nhanh chóng của khoa học công nghệ và đồng thời đó là sự nổi nên cuả 3 trung tâm kinh tế thế giới đó là Mỹ , Nhật va Tây Âu. Cùng với quá trình đó , thế giới cũng được chưng kiến sự hình thành và phát triển của các loại hình liên kết kinh tế quốc tế như một xu thế tất yếu trong quá trình hội nhập và phát triển của các quốc gia. Xu hướng tự do hóa thương mại bắt nguồn từ qúa trình quốc tế hóa đời sống kinh tế thế giới với những cấp độ toàn cầu hóa và khu vực hóa, lực lượng sản xuất phát triển vượt ra ngoài phạm vi biên giới của mỗi quốc gia, sự phân công lao động quốc tế phát triển cả về bề rộng và bề sâu, vai trò của các Công ty đa quốc gia được tăng cường, hầu hết các quốc gia chuyển sang xây dựng mô hình “kinh tế mở” với việc khai thác ngày càng triệt để lợi thế so sánh của mỗi nước. Thế giới ngày nay là một chỉnh thể thống nhất, trong đó các quốc gia là những đơn vị độc lập, tự chủ nhưng phụ thuộc nhau về kinh tế và khoa học công nghệ. Sự phụ thuộc giữa các quốc gia bắt nguồng từ những yếu tố khách quan : do đIều kiện địa lý ,do sự phân bố không đồng đều tàI nguyên thiên nhiên, do sự phát triển của lực lượng sản xuất, của cuộc cách mạng khoa học công nghệ trên thế giới … Lịch sử thế giới chứng minh rằng không có quốc gia nào có thể phát triển nếu thực hiện chính sách tự cấp tự túc. Ngược lại, những nước có tốc độ tăng trưởng cao đều là các nước dựa vào kinh tế đối ngoại để thúc đẩy kinh tế trong nước phát triển, biết sử dụng những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học công nghệ để hiện đại hóa nền sản xuất, biết khai thác những nguồn lực nước ngoài để phát huy các nguồn lực trong nước. Trước đây, nền kinh tế các nước tuy có kiên hệ là giao lưu nhưng chỉ dụa trên quan hệ là song phương la chính , chưa hợp thành một chỉnh thể toàn cầu . Trong thập kỷ cuối của thế kỷ XX , việc quốc tế hoá đời sống kinh tế bước vào giai đoạn mới . Nền kinh tế các nước không chỉ liên hệ giao lưu lẫn nhau mà còn đan dệt vào nhau ,dung hợp lẫn nhau để hình thành một nền kinh tế toàn cầu trên cơ sỏ phát triển mạnh mẽ cách mạng khoa học công nghệ và vai trò then chốt của các công ty xuyên quốc gia. Qúa trình tự do hóa thương mại được thể hiện rõ nét qua việc hình thành các liên kết kinh tế quốc tế như các khối mậu dịch tự do, đồng minh thuế quan, liên minh kinh tế , liên minh tiền tệ… và các tổ chức kinh tế quốc tế. Hiện nay đã có mấy chục khu vực kinh tế khác nhau về cấp độ, qui mô, nội dung. Tây Âu, Bắc Mũ, Châu á - Thái Bình Dương, Trung Đông, Châu Phi, Mỹ La Tinh đều có các khu vực kinh tế và thương mại tự do. Tiêu biểu như Liên minh Châu Âu (EU), Hiệp định tự do thương mại Bắc Mỹ (NAFTA), Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu á - Thái Bình Dương (APEC)… góp phần vào thúc đẩy sự tăng trưởng của thương mại thế giới, theo thống kê của tổ chức thương mại (WTO), cho đến nay trên thế giới có tới 144 tổ chức kinh tế mang tính chất khu vực. Các tổ chức kinh tế – tài chính quốc tế như Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng thế giới (WB), Tổ chức thương mại thế giới (WTO), Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD)… có vai trò toàncầu, thúc đẩy tự do hóa thương mại phát triển mạnh mẽ. Trong các tổ chứcnày, quan trọng nhất là tổ chức thương mại thế giới được coi là “Liên hiệp quốc về thương mại” với hơn 140 thành viên, chiếm hơn 90% giá trị thương mại thế giới, đang là tổ chức thúc đẩy các quốc gia phối hợp các chính sách kinh tế , thực hiện tự do hóa thương mại, dịch vụ, đầu tư, tài chính, tiền tệ để tăng cường các quan hệ kinh tế quốc tế. Với việc các nước thamgia ngày càng nhiều vào các tổ chức kinh tế quốc tế, tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế và các tổ chức kinh tế khu vực, toàn cầu gần đây đều có xu hướng muốn đẩy nhanh tốc độ, rút ngắn thời hạn thực hiện các cam kết để đẩy nhanh quá trình tự do hóa kinh tế giữa các nước thành viên đã khiến cho quá trình quốc tế hóa đời sống kinh tế thế giới ngày càng sâu rộng, với tốc độ ngày càng tăng. Đóng góp cho sự phát triển của tự do hóa thương mại và đầu tư trực tiếp nước ngoài, người ta không thể không nói đến vai trò của cuộc cách mạng khoa học công nghệ, vốn là nhân công đã đẩy mạnh sự phát triển của lực lượng sản xuất thế giới. Sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học công nghệ nửa cuối thế kỷ XX đã làm cho khoa học công nghệ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Cơ sở kỹ thuật của các quốc gia, đặc biệt là các quốc gia công nghiệp phát triển, đã có sự thay đổi về chất, nền sản xuất đạt được năng suất lao động cao chưa từng thấy và đã tạo ra một khối lượng của cải khổng lồ với hàm lượng tri thức cao. Khoa học công nghệ đã góp phần tới 50-60% vào tăng trưởng kinh tế , trong đó 60% là do tăng năng suất lao động trên cơ sở những thành tựu khoa học công nghệ. Cuộc cách mạng kỹ thuật đặc biệt là cách mạng về thông tin đã hình thành hệ thống mạng thông tin trên khắp toàn cầu . Việc xây dựng mạng Intểnt và siêu lộ thông tin xuyên quốc gia đã làm cho vô tuyến, đIện thoại , máy tính liên kết thành một khối ,thế giới rộng lớn trở nên nhỏ bé, Các phương tiện vận tảI ,thông tin liên lạc hiện đại phá vỡ bức tường ngăn cách không gian và thời gian giữa các khu vực trên khắp hành tinh , tạo sự xích lại gần nhau giữa các quốc gia , giữa mọi người trên thế giới . Các sản phẩm trở thành sản phẩm mang tính quốc tế của nhiều hãng khác nhau do các quốc gia đều có thể phát huy ưu thế kỹ thuật lao động . Cũng do sự phát triển kỹ thuật thông tin nên người quản lýcó thể nắm được tình hình thị trường ở nhiều nơI trên thế giới và tinh toán cần thiết để tìm ra cơ hội thuận lợi trong việc bố trí sắp xếp nguồn lực sao cho có lợi nhất . Chính do sự phát triển của khoa học công nghệ mà nhu cầu về tự do hoá thương mại trở nên mạnh mẽ hơn và bức thiết hơn. Do sự khác biệt về điều kiện tự nhiên, sự phát triển không đồng đều về kinh tế, khoa học kỹ thuật giữa các quốc gia đòi hỏi họ phải mở rộng phạm vi hợp tác và trao đổi. Điều đó đã khiến cho phân công lao động phát triển. Nhu cầu tiêu dùng ở mỗi quốc gia ngày càng tăng về số lượng, chất lượng và chủng loại nên việc một vài quốc gia đơn lẻ có thể sản xuất hàng hóa để cung ứng cho thị trường trở nên không còn thiết thực. Việc phân công lao động trên bề rộng, giữa các quốc gia sẽ đem lại hiệu quả và lợi nhuận cao hơn, tỷ lệ thuận với nhu cầu của người tiêu dùng. Những chuyển biến quan trọng mà trong đó vai trò của lực lượng sản xuất là một trong những yếu tố quyết định nền sản xuất thế giới đã được cơ cấu lại theo hướng linh hoạt hóa trên cơ sở chu chuyển tư bản xuyên quốc gia được thực hiện dễ dàng và linh hoạt. Điều này đã làm nảy sinh và đẩy mạnh thương mại xuyên quốc gia, khiến cho thương mại thế giới về hàng hóa và dịch vụ tăng vọt, tự do hóa thương mại phát triển ngày càng mạnh mẽ. Phân công lao động quốc tế làm đối tượng và phạm vi tham gia vào việc trao đổi quốc tế được mở rộng, đồng thời lợi thế so sánh của các quốc gia được khai thác triệt để, đã thúc đẩy thương mại hàng hóa và dịch vụ phát triển dẫn đến đòi hỏi bức thiết về tự do hóa thưoưng mại và đầu tư lẫn nhau giữa các quốc gia. Như vậy, qua những phân tích và đánh giá trên có thể nhận thấy một điều rằng, ngày nay, tự do hóa thương mại đang ngày càng phát triển mạnh mẽ. Tự do hóa thương mại vừađem lại lợi ích to lớn cho các quốc gia, vừa tạo ra những thách thức lớn trên con đường hội nhập của các quốc gia vào nền kinh tế thế giới. Chính những cơ hội và thách thức đó đã đẩy các quốc gia lại gần nhau hơn, nó đã thúc dục các quốc gia có những sự tương đồng về địa lý, văn hóa, lợi ích kinh tế … tập hợp lại trong những tổ chức kinh tế khu vực và toàn cầu, hợp tác với nhau để hình thành các liên kết mang tầm khu vực và quốc tế. Các liên kết kinh tế khu vực được hình thành, một mặt tạo điều kiện đẩy nhanh qúa trình quốc tế hóa đời sống kinh tế thế giới trên cơ sở việc giải quyết nhanh những bất đồng tồn tại giữa các quốc gia có nhiều sự tương đồng. Mặt khác, liên kết kinh tế quốc tế trên một giác độ nào đó cũng có thể được coi như là một phản ứng tự nhiên của các quốc gia mà theo đó họ tập hợp lại trong một khối kinh tế lớn hơn để đề kháng lại những tác động được coi là tiêu cực với các quốc gia trước sự bành trướng quá nhanh của xu hướng toàn cầu hóa về kinh tế. Quá trình này, tuy vậy lại đẩy nhanh hơn tự do hóa thương mại trong nội bộ các quốc gia thuộc khối liên kết. Về lâu dài, đó sẽ là cơ sở vững chắc cho tự do hóa thương mại và đầu tư toàn cầu. 2. Những đặc điểm mới của FDI trong sự tác động của tự do hoá thương mại tại Việt Nam Từ những phân tích trên ,có thể thấy nguồn FDI vào Việt Nam trong thời gian tới có thể có những đặc điểm sau đây : Thứ nhất, sẽ có sự chuyển dịch trong cơ chế FDI đổ vào Việt Nam theo sơ đồ phân công sản xuất toàn khu vực. Dưới tác động của AFTA, có thể có những biến động trong cơ cấu FDI mà cụ thể là sự gia tăng lượng FDI vào những ngành mà Việt Nam có lợi thế so với các nước trong khu vực (dệt may, da giầy, chế biến nông lâm sản,…). Đồng thời sẽ là sự giảm sút FDI đổ vào những ngành mà Việt Nam không có lợi thế so với các nước ASEAN khác. ở đây cũng cần lưu ý tớimột số ngành mà lợi thế so sánh của từng nước chưa thể hiện sự vượt trội của bất kỳ quốc gia ASEAN nào - đó là mà lợi thế so sánh hiện còn thể hiện dưới dạng tiềm năng ở từng quốc gia. Nguồn FDI đổ vào những ngành có lợi thế so sánh tiềm năng sẽ phụ thuộc nhiều vào những chính sách, thủ tục và sự thuận lợi mang tính chủ quan mà từng nước ASEAN tạo ra cho các nhà đầu tư. Thứ hai, việc Việt Nam gia nhập khu vực mậu dịch tự do AFTA với sự cắt giảm thuế quan vào năm 2006 sẽ làm cho hàng hóa của các nước trong khối thâm nhập và cạnh tranh gay gắt với nhau hơn. Nếu như Việt Nam không có một môi trường đầu tư có hiệu quả thì sẽ dẫn đến các nhà đầu tư chuyển sang đầu tư tại những nơi thuận lợi hơn rồi chuyển hàng vào tiêu thụ ở Việt Nam. Một yếu tố khác có thể tác động không nhỏ đến việc giảm sút đầu tư vào Việt Nam đó chính là ảnh hưởng của khủng hoảng sẽ làm cho các nhà đầu tư của Mỹ và Châu Âu dừng hoạt động lại để xem xét tình hình đầu tư lâu dài. Do khủng hoảng mà một số nhà đầu tư đánh giá khu vực này chứa đựng nhiều yếu tố rủi ro… Do đó mà trong những năm tới đầu tư vào Việt Nam không tránh khỏi những khó khăn chung này. Thứ ba, đầu tư của các nước Châu á vào Việt Nam bị hạn chế bởi những quốc gia như Nhật Bản, Hàn Quốc và các nước ASEAN gặp nhiều khó khăn tại chính quốc gia họ, dẫn đến những nhà đầu tư của những nước ngày phải tạm dừng hoạt động làm ăn cầm chừng, xin rút giấy phép đầu tư. Thứ tư, hiện nay các nước trong khu vực đang trong tình trạng phục hồi nền kinh tế dẫn tới họ sẽ áp dụng nhiều biện pháp ưu đãi để thu hút vốn đầu tư. Chính điều này sẽ ảnh hưởng lớn đến việc thu hút đầu tư nước ngoài tại Việt Nam do phải cạnh tranh với các quốc gia trong khu vực. Bởi Việt Nam có rất nhiều điểm tương đồng về lợi thế và điều kiện so với những nước như: Trung Quốc hoặc những nước trong khu vực Đông Nam á. Trên đây là những yếu tố mang tính chất khách quan tác động vào hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam thời gian tới. Bên cạnh đó, các yếu tố như cơ cấu đầu tư của Việt Nam chưa hợp lý, điển hình là những đối tác trên thế giới có vị thế chưa xứng đáng trong đầu tư trực tiếp vào Việt Nam, lĩnh vực sử dụng vốn đầu tư của Việt Nam chưa hợp lý dẫn đến có nhiều ngành còn nhỏ lẻ, hình thức đầu tư chưa thực sự đa dạng. Sự tác động của tư do hoá thương mại ASEAN đến dòng lưu chuyển FDI vào Việt Nam Việc tham gia vào AFTA sẽ làm tăng lượng vốn đầu tư trực tiệp nước ngoài vào Việt Nam. Đối với các nhà đầu tư ngoài AFTA , Việt Nam có nhiều lợi thế trong thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài . Đồng thời , nguyên tắc xuất xứ hàng hoá của AFTA có yêu cầu thập hơn so với yêu cầu của các khu vực mậu dich tự do khác cho nên tham gia vào AFTA còn tạo điêù kiện để thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Việc đầu tư sản xuất ở các nước trong AFTA và tiêu thụ sản phẩm ở các nước khác sẽ tạo động lực thu hút mạnh hơn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài . Các nhà đầu tư trong AFTA sẽ chú ý nhiều hơn đến viêc di chuyển một số ngành sản xuất sang Việt Nam do các nước này đang mất dần lợi thế và lao động rẻ. Đồng thời Việt Nam đang có mục tiêu tạo nhiều việc làm cho người lao động ,do đó , việc di chuyển các cơ sở sản xuất từ các nước sang Việt Nam sử dụng nhiều lao động rất phù hợp voứi chiến lược phát triển của Việt Nam . Hơn nữa, thế mạnh của các nước trong viêc đầu tư ra nước ngoài không phải ở các ngành công nghiệp có công nghệ cao , thậm chí cũng không phảI ở lĩnh vực công nghệ chế biên quy mô lớn .Các nước này cũng đang cạnh tranh để thu hút vốn đầu tư nước ngoài . Vì vậy , hoạt động đầu tư của các nước trong AFTA sang Viêt Nam sẽ tiếp tục tăng ở các hoạt động dịch vụ , thương mại ,công nghệ chế biến vừa và nhỏ . Ngoài ra, việc tham gia vào AFTA còn tác động đến việc hình thành và phát triển thị trường tài chính –tiền tệ , mở rộng các hoạt động dịch vụ và nâng cao hiệu lực của bộ máy nhà nước. Chương 3 Định hướng và các giảI pháp tăng cường thu hút fdi vào việt nam trong đIêu kiện thực hiện afta 1. Định hướng thu hút FDI vào Việt Nam Để xác định phương hướng cho hoạt động thu hút FDI vào Việt Nam trong thời gian tới, bên cạnh những khó khăn, thuận lợi do tự do hóa thương mại trong ASEAN đem lại, tình hình thế giới cũng cho thấy lượng FDI trên thế giới sẽ có sự suy giảm lớn, đặc biệt khó khăn hơn cho Việt Nam là hầu hết các dự báo đều cho thấy rằng luồng FDI trên thế giới vẫn chưa coi ASEAN nói chung và Việt Nam nói riêng là một điểm đến trên quy mô lớn như ASEAN đã từng được xem xét như vậy từ trước cuộc khủng hoảng năm 1997. Trước tình hình như vậy, việc tìm ra những giải pháp tăng cường thu hút FDI vào Việt Nam đòi hỏi phải phát huy nhiều yếu tố tích cực, hạn chế đến mức tối đa mọi sự cản trở, đồng thời cần phải kêu gọi sự nỗ lực từ nhiều ngành, nhiều cấp, nhiều thành phần trong việc đẩy mạnh thu hút FDI vào Việt Nam trong những năm tới đây. Trong tiến trình tự do hóa thương mại ASEAN, kết hợp với những nhận định về sự di chuyển của dòng FDI trên thế giới, có thể thấy việc thu hút FDI vào Việt Nam sẽ phải được xem xét, ưu tiên phân tách theo 2 nguồn: FDI từ các nước ASEAN và FDI từ các nước ngoài ASEAN để từ đó có các đối sách thích hợp với mỗi nguồn FDI, và cũng trên cơ sở đó tìm ra những quan điểm mới, hiệu quả trong cuộc cạnh tranh thu hút FDI vào Việt Nam không chỉ với các nước ASEAN mà còn đối với cả các nước ngoài ASEAN. Đối với luồng vốn từ ASEAN đổ vào Việt Nam, theo như những phân tích trước, dựa trên thế lợi so sánh sẵn có, Việt Nam có thể định hướng và kêu gọi các nhà đầu tư ASEAN chuyển giao công nghệ và đầu tư vào các lĩnh vực nông nghiệp, chế biến nông lâm, hải sản. Với vị trí địa lý và nguồn lực về lao động, tự nhiên dồi dào, Việt Nam có đủ cơ sở để hướng nguồn FDI trong ASEAN vào Việt Nam, biến Việt Nam trở thành quốc gia cung cấp các sản phẩm nông, lâm nghiệp và hải sản cho khu vực cũng như cho thế giới. Điều này là hoàn toàn có cơ sở bởi vì các nước ASEAN phát triển hơn như Singapore, Malaysia, Thái Lan hiện đang có chiến lược thay đổi cơ cấu sản xuất lớn. Họ muốn tập trung nhiều hơn cho hệ thống tài chính, công nghiệp nặng và các ngành công nghệ cao. Chính vì vậy, Việt Nam có thể định hướng thu hút FDI vào những ngành công nghiệp chế biến và có sử dụng nhiều lao động. Trong tương quan về lợi thế so sánh, hoạt động thương mại và đầu tư của Việt Nam với các quốc gia trong ASEAN, Việt Nam có thể định hướng luồng FDI ngoài ASEAN vào Việt Nam trong một số lĩnh vực như: công nghiệp dệt may – kể cả việc thiết kế mẫu mốt; công nghiệp vật liệu mới – mặc dù là lĩnh vực công nghệ cao, song đây cũng là lĩnh vực mới đối với ASEAN. Hơn nữa, Việt Nam cũng đã có một đội ngũ các nhà khoa học – kỹ thuật cơ bản cũng như ứng dụng được đào tạo khá tốt từ Liên Xô vào Đông Âu trước kia và hiện nay có thể đáp ứng cho ngành công nghiệp chế tạo vật liệu mới. Thành công trong lĩnh vực này, giá trị gia tăng sẽ rất cao, vì vậy chính phủ nên có ưu đãi đặc biệt cho các nhà đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực này. Ngoài ra, các ngành thép, cao su… phục vụ cho công nghiệp sản xuất ôtô, xe máy… cũng có thể tính đến trong định hướng thu hút FDI vào Việt Nam. Bởi đây là những ngành có thể phát huy thế mạnh của Việt Nam đồng thời có khả năng đem lại giá trị gia tăng cao cho Việt Nam. Mặc dù hiện tại, trình độ sản xuất cũng như cơ sở cho phát triển của ngành công nghiệp ôtô - xe máy của Thái Lan, Malaysia hơn Việt Nam. Song thị trường ASEAN còn lớn, bên cạnh đó Việt Nam còn có thể tính đến thị trường Trung Quốc với những lợi thế về địa lý và hệ thống giao thông. Và trên hết là lộ trình AFTA cho ngành này còn dài, Việt Nam còn có đủ thời gian chuẩn bị để có thể hy vọng là một cực quan trọng trong sản xuất ôtô - xe máy cho thị trường ASEAN. Tuy nhiên để đạt được những thành công như mong muốn thì Việt Nam rất cần có những chính sách và giải pháp thích hợp để không biến những trợ cấp thành gánh nặng, thành sức ỳ và cản trở sự phát triển của ngành công nghiệp này. Trong chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Việt Nam rất quan tâm tới lĩnh vực điện tử – tin học. Cũng giống như ngành công nghiệp ôtô - xe máy, Việt Nam đi sau các nước ASEAN phát triển khác. Tuy nhiên đây là lĩnh vực công nghệ cao, sự thành công phụ thuộc rất nhiều vào những nghiên cứu mới có tính đột phá và yếu tố con người ở đây rất quan trọng. Yếu tố con người (cả khía cạnh quản lý) ở đây đóng một vai trò đặc biệt quan trọng. Xét về khía cạnh này Việt Nam có đầy đủ khả năng để sánh vai với các quốc gia trong khu vực. Thực tế trong năm 2002 Việt Nam đã đạt nhiều giải thưởng trong lĩnh vực này tại các cuộc thi quốc tế và khu vực. Việt Nam có thể tính đếnmột chiến lược hợp tác với các quốc gia phát triển, và có thể với cả các quốc gia đang phát triển nhưng rất thành công trong lĩnh vực này (Trung Quốc, ấn Độ) thì những hy vọng về hiện tượng “sao đổi ngôi” là hoàn toàn có thể tin cậy để các doanh nghiệp Việt Nam vươn lên. Muốn vậy, cần nghiên cứu những chính sách đặc biệt cho thu hút FDI vào lĩnh vực này. Trên cơ sở những định hướng thu hút FDI đã đề cập ở trên, đồng thời với những đánh giá về những tác động của AFTA đối với luồng FDI tại Việt Nam và tình hình thực tế của các luồng đầu tư trên thế giới, nội dung tiếp theo đây của luận án cố gắng đưa ra một số giải pháp nhằm tăng cường thu hút FDI vào Việt Nam trong tiến trình tự do hóa thương mại trong khu vực. Các giải pháp đưa ra thường xuất phát từ những yếu kém tổng thể của môi trường thu hút FDI vào Việt Nam và những tác động của AFTA đối với luồng FDI này. Do vậy, các giải pháp đã được sắp xếp theo hai nhóm: nhóm giải pháp liên quan đến chính sách theo đòi hỏi của AFTA và nhóm giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh thu hút FDI vào Việt Nam trong điều kiện Việt Nam thực hiện AFTA. Trong định hướng thu hút FDI vào Việt Nam, cũng cần xem xét đến những nghị định và tuyên bố gần đây của chính phủ liên quan đến các vấn đề thu hút FDI vào Việt Nam. Ngày 28/8/2001 Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 09/2001/NQ-CP về việc tăng cường thu hút và nâng cao hiệu quả đầu tư nước ngoài thời kỳ 2001-2005. Song song với đó là chỉ thị 19/2001/CT-TTg về thực hiện nghị quyết này. Ngày 17/5/2002 Thủ tướng chính phủ ra quyết định 62/2002/QĐ-TTg ban hành Danh mục các dự án này bao gồm các dự án trọng điểm cần gọi vốn đầu tư nước ngoài cho các lĩnh vực kinh tế để triển khai thực hiện cả trong thời kỳ này và thời kỳ tiếp theo. Đây là những dự án đầu tư trong bước đi ban đầu hướng tới mục tiêu: năm 2020 Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Trong đó, công nghiệp dầu khí có 5 dự án; Công nghiệp khai khoáng có 15 dự án; công nghiệp hóa chất – phân bón có 29 dự án, phần lớn dự án cần vốn đầu tư từ 100 USD trở lên; công nghiệp thép có 5 dự án, mỗi dự án cần đầu tư hàng trăm triệu USD; công nghiệp cơ khí có 29 dự án; công nghiệp điện - điện tử có 12 dự án; công nghiệp giấy có 3 dự án; công nghiệp vật liệu xây dựng có 10 dự án; công nghiệp may 15 dự án; công nghiệp da giầy 2 dự án và một số dự án ở các ngành công nghiệp khác. Chỉ điểm qua từng ấy dự án, phần lớn đều là những dự án có quy mô vốn đầu tư khá lớn, chưa nói tới hàng trăm dự án trong các ngành nông – lâm – thuỷ sản và chế biến thực phẩm, giao thông vận tải, viễn thông, xây dựng, cơ sở hạ tầng, văn hóa – y tế- giáo dục và du lịch dịch vụ … ta đã thấy số vốn FDI cần huy động là rất lớn. Trên thực tế 2 năm 2001, 2002 Việt Nam mới chỉ thu hút được hơn 3,8 tỷ USD vốn đăng ký mới. Đặc biệt đáng quan tâm là chỉ có một con số nhỏ dự án “trung đích” của danh mục đã nêu. Rõ ràng là nhiệm vụ thu hút FDI trong thời gian tới là rất nặng nề. Cuối năm 2002, Bộ kế hoạch và đầu tư đã trình Chính phủ một đề án về đẩy mạnh thu hút FDI thời kỳ 2002-2005. Nội dung chính của đề án đề cập đến việc tăng cường thu hút FDI để Việt Nam trở thành một trong những trung tâm của khu vực về sản xuất điện tử, cơ khí chế tạo và kiến nghị chính phủ xem xét khả năng nới lỏng các điều kiện và mở rộng lĩnh vực thu hút đầu tư, trước hết là mở rộng lĩnh vực được khuyến khích và ưu đãi đầu tư. Ngoài việc đưa ra quan điểm chính thức đối với các lĩnh vực hiện đang tạm dừng hoặc hạn chế cấp giấy phép, Đề án còn cung cấp các giải pháp để thúc đẩy đầu tư nước ngoài tham gia vào thị trường bất động sản, vui chơi giải trí, kinh doanh siêu thị, nới lỏng một số lĩnh vực đầu tư có điều kiện như dự án trồng rừng, du lịch lữ hành, văn hóa, dịch vụ phân phối, mở rộng thêm một số lĩnh vực khuyến khích và đặc biệt khuyến khích đầu tư. Trong hội nghị doanh nghiệp Châu á thường niên lần thứ 13 tại Hà Nội, Thủ tướng Chính phủ Phan Văn Khải cho biết: ưu tiên hàng đầu của Việt Nam là tập trung hoàn thiện hệ thống pháp luật và xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Vai trò của Nhà nước chuyển mạnh từ kiểm soát và cấp phép sang trợ giúp và tạo điều kiện cho doanh nghiệp, tạo lập môi trường kinh doanh bình đẳng, minh bạch và an toàn để các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài đều tìm được cơ hội và thu lợi xứng đáng. Đó là những thông điệp tốt lành cho một cơ chế thông thoáng và thuận lợi cho việc thu hút FDI vào Việt Nam trong bối cảnh cạnh tranh thu hút FDI thời gian tới. 2. Giải pháp nhằm tăng cường thu hút FDI vào Việt Nam trong điều kiện thực hiện AFTA 2.1. Nhóm giải pháp thích ứng với đòi hỏi của AFTA 2.1.1. Cải thiện môi trường pháp luật và thủ tục hành chính Tham gia AFTA cũng có nghĩa là các quốc gia ASEAN phải tạo thuận lợi hóa cho hoạt động thươngmại. Chỉ riêng khía cạnh này thôi thì các quy định về luật pháp và thủ tục hành chính cũng đã phải có sự điều chỉnh cho phù hợp và thống nhất trong toàn khu vực và đơn giản hóa thủ tục cho lưu chuyển hàng hóa trong khu vực. Theo đòi hỏi trên, thì những quy định về luật pháp và thủ tục hành chính cũng sẽ phải điều chỉnh, tạo thuận lợi tối đa cho các hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài. Trong thời gian tới Việt Nam cần tiếp tục xây dựng hệ thống pháp luật hoàn chỉnh đồng bộ rõ ràng vừamang tính ổn định vừa mang tính linh hoạt trong thời gian dài để nhằm tạo thuận lợi cho hoạt động đầu tư cả trong nước cũng như nước ngoài, bổ sung các luật mới như luật về cạnh tranh, bảo hiểm, thị trường chứng khoán… tạo môi trường bình đẳng giữa các nhà đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. Như vậy Việt Nam cần đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính và thủ tục cấp giấy phép đầu tư để tránh phiền hà, nhũng nhiễu, gây khó khăn cho nhà đầu tư. Tạo chủ trương “một cửa, một dấu” chứ không phải là “một cửa, nhiều khóa”. Thêm vào đó cần phải xóa bỏ các ràng buộc các nhà đầu tư về việc phải xác định rõ một địa điểm đầu tư nhất định ngay từ đầu, mà cứ xét duyệt dự án sau đó để nhà đầu tư tự tìm địa điểm xây dựng, triển khai và báo cáo lại. Các cơ quan quản lý Nhà nứoc chỉ nên cần báo cáo lại chứ không nhất thiết phải phê duyệt lại mỗi khi dự án có thay đổi. Như đã phân tích ở trên việc liên doanh của Việt Nam lại chủ yếu với doanh nghiệp Nhà nước và có sự phân biệt đối xử với khu vực tư nhân, do đó cần thiết phải đa dạng hóa và khuyến khích các thành phần kinh tế cùng tham gia hợp tác liên doanh liên kết với các đối tác nước ngoài và tiến tới cho phép các khu vực kinh tế được bình đẳng khi tham gia liên doanh, làm ăn với nước ngoài. Việc hoàn thiện luật pháp và cải cách các thủ tục hành chính được nhấn mạnh – mặc dù đây không còn là một vấn đề mới đối với Việt Nam và các nhà nghiên cứu, song nó có tầm quan trọng bởi: Thứ nhất, nó giải quyết những bất cập trong lĩnh vực này, nhằm tạo ra một môi trường đầu tư hấp dẫn, thông thoáng và thuận lợi tối đa cho các nhà đầu tư. Bởi như đã phân tích, do cạnh tranh trong thu hút FDI thời gian tới là rất lớn, đồng thời với những khó khăn và thách thức lớn trong quá trình tham gia AFTA, nếu chính phủ không có những cải cách mạnh mẽ trong lĩnh vực này thì sẽ cónguy cơ luồng FDI chuyển sang các nước khác trong ASEAN. Kinh nghiệm này ở trong nước thời gian qua đã cho một kiểm chứng rất rõ ràng. Khi mà thị trường trong nước là thống nhất với các doanh nghiệp ở tất cả các tỉnh thành thì địa phong nào trải thảm đỏ cho các nhà đầu tư, địa phương nào đơn giản hóa thủ tục và tạo điều kiện tối đa cho các nhà đầu tư thì địa phương đó sẽ thu hút được nhiều vốn đầu tư hơn. Từ thực tế trong nước cũng sẽ thấy ngay khi hội nhập AFTA thì vấn đề môi trường luật pháp và thủ tục hành chính là quan trọng đến mức nào. Thứ hai, việc cải cách thủ tục hành chính và môi trường luật pháp cũng là một điều kiện cần thiết chuẩn bị cho quá trình hội nhập kinh tế - thương mại trong khu vực, nhằm tạo ra sự đồng nhất và thuận lợi cho các nhà doanh nghiệp Việt Nam cũng như các nhà doanh nghiệp đến từ ASEAN. Trên cơ sở đó, sẽ tăng cường và củng cố thêm các quan hệ thương mại và đầu tư nội bộ ASEAN, phát huy những điểm mạnh về tính thống nhất trong cùng một khu vực mậu dịch tự do. 2.1.2. Hỗ trợ những ngành có tiềm năng phát triển và chịu sức ép của AFTA Theo phân tích trong những nội dung trên, Việt Nam sẽ có một số ngành mà lợi thế so sánh hiện ẫn chỉ ở dạng tiềm năng, song khi thực thi AFTA thì sẽ có nguy cơ chuyển sang các nước khác trong ASEAN theo sơ đồ chuyên môn hóa sản xuất trong khu vực dưới tác động của AFTA. Đặc biệt Việt Nam phải hết sức chú trọng tới một số ngành mà hiện Chính phủ đang rất mong muốn phát triển trong chương trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước như một số ngành: điện tử tin học; thép; ngành cơ khí… Những ngành này, nếu Chính phủ không có những giải pháp hỗ trợ tích cực và hiệu quả thì sẽ rất khó có thê thu hút thêm FDI để phát triển. Bởi thời gian được bảo hộ của những ngànhnày không còn nhiều. Lợi thế duy nhất của Việt Nam trong những ngành này hiện nay dường như vẫn chỉ là lực lượng lao động rồi rào, rẻ và tiếp thu nhanh công nghệ mới. Song các nước trong khu vực, đặc biệt là ASEAN 4 đã đi trước Việt Nam trong những ngành này và hiện nay họ đang có ưu thế về tài chính, khả năng quản lý, và đặc biệt là công nghệ sản xuất. Ví dụ: trong ngành điện tử tin học, hiện Việt Nam chủ yếu là thực hiện các công đoạn lắp ráp. Trong khi đó, các nước ASEAN 4 đã tiến hành sản xuất được khá nhiều linh kiện cho ngành này. Như vậy, rõ ràng là họ có ưu thế hơn Việt Nam trong việc hướng các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư sang nước họ để tiếp tục đẩy mạnh sản xuất linh kiện tiến tới sản xuất toàn bộ các sản phẩm này tại đất nước họ. Và nếu điều kiện này thực sự xảy ra thì Việt Nam kể như đã mất cơ hội để phát triển toàn diện một ngành sản xuất quan trọng đối với đất nước không chỉ về mặt hiệu quả kinh tế mà ngành này đem lại, mà còn là những vấn đề về công nghệ, an ninh,… Cũng với những lập luận như vậy, thì e rằng Việt Nam nếu cố gắng như hiện nay, may ra cũng chỉ được tiếp tục thực hiện các công việc lắp ráp sản phẩm. Bởi vậy, ngay từ bây giờ, Chính phủ cần nhanh chóng có những giai pháp mạnh mẽ hơn nữa nhằm thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vào việc xây dựng những cơ sở ban đầu cho những ngành này, đồng thời biến nhưng lợi thế tiềm năng thành hiện thực để có thể tiếp tục thu hút FDI vào những ngành này ngay cả sau khi đã kết thúc lịch trình thực hiện CEPT. Muốn vậy, cần thiết phải huy động nỗ lực của nhiều ngành, nhiều cấp để cùng hỗ trợ về chính sách, tài chính, tổ chức và cả việc xúc tiến đầu tư, … để nhanh chóng phát triển những ngành mà nguy cơ Việt Nam sẽ để mất trong sơ đồ phân bổ sản xuất trong khu vực các nước ASEAN. Đối với một số ngành sản xuát sản phẩm thuộc lĩnh vực công nghệ cao, giá rẻ, Việt Nam có thể tính tới những chính sách mạnh dạn trong việc khuyến khích các nhà đầu tư Trung Quốc đầu tư sang Việt Nam. Bởi hiện nay Trung Quốc đang rất có lợi thế trong việc sản xuất những sản phẩm này. Mặt khác, xét về mặt địa lý, giao thông, Việt Nam hoàn toàn có thể trở thành một trung tâm sản xuất mang tính “bàn đạp” để các nhà đầu tư Trung Quốc thâm nhập thị trường ASEAN khi mà quá trình tự do hóa thương mại ASEAN – Trung Quốc còn có một đội trễ nhất định so với AFTA. Tuy nhiên, để chớp được thời cơ thì vấn đề là các chính sách phải được thực hiện nhanh và thật mạnh dạn. Bởi một số nước ASEAN phát triển hơn đang có xu hướng đẩy nhanh quá trình tự do hóa thương mại với việc thực hiện mở cửa thị trường theo các hiệp định song phương bên cạnh các hiệp định đa phương – thường có thời gian và tốc độ mở cửa chậm hơn. Trên thực tế thì Việt Nam vì là nước kém phát triển trong khối nên hay đòi hỏi thời gian mở cửa thị trường chậm hơn các nước khác. Và nếu như các hiệp định song phương hay đa phương hẹp (ASEAN + Trung Quốc) được thực hiện trước thì Việt Nam sẽ mất cơ hội thu hút FDI phục vụ cho việc tăng cường phát triển những ngành sản xuất phù hợp với chiến lược công nghiệp hóa của đất nước. 2.2 Nhóm giải pháp tăng cường cạnh tranh thu hút FDI Trong các nội dung trước ,luân án đã phan tích và khẳng định,hội nhập AFTA, Việt Nam sẽ có nhiều khó khăn trong cạnh tranh thu hút FDI so với các nước ASEAN phát triển khác , đặc biệt là sự thu hút FDI vào kĩnh vực công nghiệp chủ chốt . Vì vậy , đẻ đẩy mạnh thu hút FDI trong thời gian tới , khi Việt Nam đã chính thức hội nhập hoàn toàn với AFTA, thì rất cần đẩy mạnh một số giảI pháp tăng cường cạnh tranh thu hút FDI vào Việt Nam. 2.2.1 Cải cách thị trường tài chính Để thu hút nhanh chóng và sử dụng có hiệu quả cả vốn trong nước và vốn nước ngoài thì một điều cần thiết là phải tạo ra được một thị trường vốn ổn định, một hệ thống ngân hàng hoàn chỉnh. Muốn vậy, Nhà nước phải nhanh chóng phát huy vai trò của thị trường chứng khoán, lành mạnh hóa hệ thống tài chính góp phần chu chuyển vốn từ nước ngoài vào trong nước và ngược lại được thuận tiện. Như vậy, Nhà nước cần phải soạn thảo và đưa ra luật thị trường chứng khoán, đào tạo con người có đủ khả năng và trình độ hoạt động tốt trên thị trường và hệ thống tài chính, nhanh chóng có biện pháp đẩy nhanh cổ phần hóa các doanh nghiệp. Ngoài ra Chính phủ không nên để hình thức đầu tư của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động chỉ trên cơ sở công ty trách nhiệm hữu hạn mà nên để các công ty này tự lựa chọn hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn mà nên để các công ty này tự lựa chọn hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn hay theo hình thức công ty cổ phần. Như vậy vừa tạo điều kiện tốt cho thị trường chứng khoán ra đời, vừa tăng thêm vốn bổ sung của các doanh nghiệp và các nhà đầu tư nước ngoài khi tham gia đóng gops cổ phần, đồng thời tạo thuận lợi và mở rộng thêm một kênh nữa cho thu hút FDI. Bởi nếu tỷ lệ sở hữu vốn của nhà đầu tư nước ngoài bị khống chế khi mua cổ phần thì thứ nhất nó sẽ hạn chế nguồn đầu tư của họ, và thứ hai là hình thức này chỉ được coi là đầu tư gián tiếp. Còn nếu tỷ lệ sở hữu vốn của họ trong các Công ty cổ phần đạt mức khống chế thì họ sẽ trở thành nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài và quyền lợi, trách nhiệm của họ có thể được thi hành theo luật đầu tư trực tiếo nước ngoài. Như vậy, mức độ ổn định của đồng vốn có thể sẽ cao hơn, đồng thời đây cũng là một giải pháp biến các doanh nghiệp có vốn đầu tư trong nước trở thành một doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài một cách nhanh chóng. Như vậy thì dòng FDI đổ vào trong nước lại có nhiều thuận tiện hơn, ít thủ tục rườm rà hơn do họ được đầu tư qua kênh thị trường chứng khoán – một kênh đầu tư có nhiều triển vọng thuận lợi, nhanh chóng hơn cách làm “truyền thống”. Bởi các nhà đầu tư sẽ không phải bận tâm nhiều đến các thủ tục thành lập Công ty, thuê đất, giải phóng mặt bằng,… những thủ tục mà hiện được coi là gây lãng phí khá nhiều tiền bạc và thời gian của các nhà đầu tư. Không những thế nó còn ảnh hưởng đến hình ảnh về môi trường đầu tư của Việt Nam và gây ức chế cho các nhà đầu tư. Điều này chắc chắn sẽ không có lợi cho Việt Nam nếu tiếp tục kéo dài. Về mặt tài chính Việt Nam cần có biện pháp để các nhà đầu tư tiếp cận một cách dễ dàng với nguồn ngoại hối hơn vì ngoại hối chính là dòng máu nuôi sống hoạt động đầu tư mà một khi khó khăn trong việc tiếp cận sẽ làm cho dự án không thể hoạt động trong thời gian lâu dài được. Thêm vào đó là cần xóa bỏ những quy định về việc trả lương cho lao động Việt Nam bằng ngoại tệ điều đó sẽ làm cho nhà đầu tư giảm được chi phí, khuyến khích đầu tư vào các ngành nghề sử dụng nhiều lao động. Từ khủng hoảng kinh tế khu vực đã cho thấy cần phải thực hiện một chính sách về tỷ giá hối đoái sao cho có hiệu quả. 2.2.2. Hoàn thiện hơn các loại hình dịch vụ tư vấn đầu tư Các nhà đầu tư vẫn phàn nàn về chi phí kinh doanh ở Việt Nam cao, tiến độ hoạt động trong khu công nghiệp – khu chế xuất còn quá thấp. Do vậy, Nhà nước nên xem xét và giải quyết những thắc mắc của nhà đầu tư. Thêm vào đó Nhà nước nên giảm một số lệ phí cũng như tiền thuê đất, mặt nước, mặt biển, để tăng việc sử dụng diện tích trong các khu công nghiệp – khu chế xuất để giảm giá thành sản phẩm cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư trong nước và nước ngoài. Theo kinh nghiệm của một số nước trong khu vực như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan… về các dịch vụ tư vấn đầu tư thiết nghĩ Việt Nam nên hoàn thiện các loại hình dịch vụ này để tham gia tư vấn cho các nhà đầu tư nước ngoài cũng như trong nước biết các thông tin về đầu tư như: lĩnh vực nào Nhà nước cho phép đầu tư, lĩnh vực nào hạn chế và lĩnh vực nào không cho phép đầu tư. Ngoài ra, còn cung cấp cho các nhà đầu tư biết hiện tại lĩnh vực nào đang có lợi nhuận, hoặc các thông tin khác về tài chính, thuế, phí… kinh nghiệm cho thấy các loại hình dịch vụ này ở các nước làm ăn rất hiệu quả, thúc đẩy hoạt động thu hút đầu tư, cũng như hiệu quả của những đồng vốn bỏ ra. Bên cạnh việc cung cấp thông tin cho các nhà đầu tư thì dịch vụ tư vấn cần được tổ chức để tăng cường phục vụ thông tin cho các bên hợp doanh cho Nhà nước để từ đó giảm tối thiểu mức thiệt hại do việc nâng giá công nghệ nâng giá đất… làm được như vậy sẽ tránh được phần nào tình trạng “lỗ giả, lãi thật” hiện nay của một bộ phận các doanh nghiệp liên doanh. Mặt khác, các dịch vụ này cũng sẽ giúp giảm được chi phí cho các nhà đầu tư, thông qua đó cũng tăng thêm tính hấp dẫn trong thu hút FDI của Việt Nam. 2.2.3. Tạo thuận lợi cho quá trình chuyển quyền sở hữu doanh nghiệp Theo báo cáo về hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, đặc biệt đối với các doanh nghiệp liên doanh, có rất nhiều doanh nghiệp liên doanh bị thua lỗ nặng, hoạt động theo kiểu hợp doanh không có hiệu quả. Vì thế, Nhà nước nên cho phép các doanh nghiệp này chuyển sang thành các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài để tránh hai bên gìm nhau dẫn đến vốn đầu tư vào không hiệu quả. Thậm chí, nếu có thể, cần nhanh chóng hoàn thiện các quy định pháp lý cho việc cổ phần hóa các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Hiện nay, trên thế giới hiện tượng xáp nhập, chia tách, mua bán các công ty là hoạt động bình thường diễn ra trong nền kinh tế thị trường. Nhờ có những hoạt động mua bán, chuyển quyền sở hữu này thông qua sự hoạt động hoàn thiện của thị trường tài chính mằ các nhà đầu tư có thể dễ dàng chuyển nguồn vốn của họ sang lĩnh vực mà họ đã lựa chọn. Nếu Việt Nam không tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư trong việc chuyển quyền sở hữu doanh nghiệp thì ngoài những khó khăn do trục trặc trong quan hệ đối tác giữa các bên trong liên doanh, sự khó khăn trong chuyển quyền sở hữu vốn sẽ tạo tâm lý không yên tâm và thoải mái cho các nhà đầu tư khi đem vốn vào Việt Nam. Điều này sẽ dẫn đến những hệ quả là môi trường đầu tư ở Việt Nam sẽ trở nên kém hấp dẫn hơn, kém an toàn hơn. Trong điều kiện của tự do hóa thương mại và đầu tư trong ASEAN, những khó khăn như trên sẽ là một bất lợi đối với Việt Nam trong cạnh tranh thu hút FDI đối với các quốc gia trong khu vực. Do vậy, việc thuận lợi hóa cho các nhà đầu tư chuyển quyền sở hữu vốn cần thực hiện nhanh chóng. Theo tôi điều này không quá khó và không nên chậm trễ. 2..2.4. Nâng cấp các trục giao thông xuyên quốc gia và châu lục Ngay nay, cơ sở hạ tầng của Việt Nam bị đánh giá là tồi tàn, yếu kém. Một số nơi cơ sở hạ tầng được nâng cấp thì sinh ra nhiều khoản phí dẫn đến các nhà đầu tư cảm thấy “nản lòng” không muốn đầu tư. Việc đầu tư cho lĩnh vực cơ sở hạ tầng là cần thiết cho hoạt động thu hút đầu tư nhưng lại đòi hỏi một lượng vốn lớn mà chỉ có Nhà nước mới làm được. Do đó, Nhà nước cần phải tập trung xây dựng và tăng cường việc cho phép bên nước ngoài sử dụng các hình thức BOT, BTO, BT.. để ngày càn hoàn thiện và xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng mới giúp ích cho hoạt động thu hút đầu tư nước ngoài. Đặc biệt trong điều kiện tự do hóa thương mại, nếu Việt Nam phát huy lợi thế vị trí địa lý trung tâm, đồng thời với việc nâng cấp các tuyến đường giao thông quan trọng nối thông với các nước trong khu vực thì sẽ là một tiền đề tốt để các nhà đầu tư nước ngoài lựa chọn Việt Nam như một cứ điểm sản xuất và hoàn thiện sản phẩm cuối cùng. Nếu làm được việc này thì Việt Nam không chỉ là quốc gia cung cấp sản phẩm cuối cùng cho các quốc gia ASEAN mà còn cho cả các tỉnh phía nam Trung Quốc nữa. Như vậy rõ ràng Việt Nam lúc này đã trở thànhmột cầu nối cho hàng hóa của ASEAN xuất sang Trung Quốc. Điều này lại một lần nữa nâng cao vị thế của Việt Nam trong lợi thế thu hút FDI. Bởi các nhà đầu tư nước ngoài, không chỉ tính đến một thị trường ASEAN với 500 triệu dân, mà còn cộng thêm với cả hàng triệu dân vùng Vân Nam Trung Quốc. Rõ ràng giao thông với các tuyến đường xuyên lục địa sẽ phát huy vai trò địa lý trung tâm của Việt Nam trong khu vực, và nếu Việt Nam tận dụng được điều đó cho thu hút FDI trong sơ đồ cơ cấu chuyên môn hóa khu vực với việc thu hút những ngành công nghiệp hoàn thiện sản phẩm cuối cùng và chế tạo thì Việt Nam sẽ có thể vươn lên như là một trung tâm kinh tế trong khu vực. 2..2.5. Đài tạo nguồn nhân lực Nguồn nhân lực là một yếu tố hết sức quan trọng trong điều kiện Việt Nam thực hiện hội nhập khu vực và tiến hành thu hút FDI. Nguồn lao động rẻ của Việt Nam nếu thực sự khống chế được mức lương thấp so với các quốc gia trong khu vực thì cũng chỉ nên xem đó chỉ là những lợi thế trước mắt. Những lợi thế này sẽ nhanh chóng mất đi khi kinh tế Việt Nam phát triển. Mặt khác, các doanh nghiệp FDI đổ vào Việt Nam, đặc biệt là lĩnh vực sản xuất công nghiệp và công nghệ cao thì nguồn nhân lực được đào tạo tốt và có tay nghề mới là điều quan trọng. Nếu thiếu đội ngũ lao động được đào tạo nghề thì việc phát triển các khu công nghiệp quy mô lớn của Việt Nam sẽ gặp nhiều khó khăn. Đặc biệt quan trọng hơn, Việt Nam vốn được xem là có ít lợi thế so với các quốc gia ASEAN, đặc biệt là các quốc gia ASEAN phát triển hơn trong việc thu hút FDI vào những ngành sản xuất công nghiệp, thì những khó khăn về nguồn lao động được đào tạo sẽ cản trở lớn đến việc nâng cao tính cạnh tranh trong thu hút FDI vào Việt Nam. Giải quyết vấn đề này, Nhà nước cần tổ chức thêm nhiều loại hình đào tạo khác nhau để có khả năng đào tạo được một đội ngũ cán bộ có trình độ cao, có đạo đức kinh doanh gửi vào các doanh nghiệp để tham gia liên doanh với đối tác nước ngoài. Mặt khác, vấn đề lao động kỹ thuật cũng là một thách thức cho Việt Nam. Để giảm bớt chi phí đào tạo cũng như những khó khăn cho các nhà đầu tư nước ngoài, chính phủ nên tìm giải pháp hỗ trợ cho đào tạo nghề, nhằm cung cấp kịp thời nguồn lao động kỹ thuật, chi phí thấp cho các doanh nghiệp. Có như vậy, mới tăng thêm tính hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài đến với Việt Nam. Cũng cần phải lưu ý thêm rằng, đào tạo nguồn lao động có trình độ cao – sự nghiệp trồng người là một công việc có tính lâu dài, liên tục và kết quả chỉ đến sau một quá trình đầu tư cho giáo dục, đào tạo trong nhiều năm. Do vậy, các chương trình đào tạo cần có sự chuẩn bị tốt về nội dung, cơ sở vật chất phục vụ đào tạo và cần phải được thực hiện khẩn trương nếu Việt Nam không muốn để mất thêm thời gian hơn nữa cho việc thúc đẩy thu hút FDI, tránh nguy cơ tụt hậu xa hơn đối với các quốc gia trong khu vực. 2.2.6. Tăng cường hướng dẫn các doanh nghiệp tìm đối tác Việc thu hút đầu tư và hiệu quả đầu tư còn phụ thuộc rất lớn vào khả năng của các doanh nghiệp cũng như hiêụ quả của từng dự án cụ thể. Sự yếu kém của các doanh nghiệp Việt Nam là nguyên nhân giảm hiệu quả đầu tư cũng như hạn chế vai trò của phía Việt Nam trong hoạt động đầu tư. Chính vì vậy, từng doanh nghiệp cần có những giải pháp riêng ở tầm vi mô. Đồng thời chính phủ cần có sự trợ giúp các doanh nghiệp tìm kiếm các đối tác một cách an toàn và thuận lợi. Trên giác độ của các doanh nghiệp, để có thể tìm được những đối tác tốt và sẵn sàng đầu tư thì vấn đề đặt ra là các doanh nghiệp phải tự thể hiện mình như là một đối tác trong nước đáng tin cậy. Một vấn đề cần thiết là làm thế nào để tăng tiềm lực của các doanh nghiệp Việt Nam. Cho đến nay, trong quá trình cải cách, Việt Nam đã chú ý đến vấn đề này, tuy vậy vẫn còn không ít những khó khăn đặt ra như: chủ trương thành lập các tổng Công ty để tăng tiềm lực thực tế của doanh nghiệp Việt Nam nhưng rõ ràng tổng Công ty không phải là một phương thức màu nhiệm. Bởi lẽ đó mới chỉ là sự tập hợp lại của một hệ thống doanh nghiệp Nhà nước có vốn chưa phải là mạnh, mà vốn này chủ yếu do Nhà nước “rót” xuống nó chưa chứng minh được hiệu ủa hoạt động thực sự của các tổng Công ty này. Mặt khác, cơ chế quản lý và vấn đề chịu trách nhiệm, liên quan đến quyền và lợi ích của người quản lý tổng Công ty còn chưa rõ ràng và không đủ cao, do vậy khó có thể mong đợi một kết quả hoạt động hiệu quả có tính đột biến đối với các Tổng Công ty này. Công việc đầu tiên là các doanh nghiệp Việt Nam cần chuẩn bị sẵn cho mình một đội ngũ lao động am hiểu về các hoạt động của hợp tác kinh doanh quốc tế. Sẵn sàng và có đầy đủ tự tin cũng như năng lực trong hợp tác với các đối tác nước ngoài. Thứ hai, các doanh nghiệp khi tiếp xúc và tìm đối tác, kêu gọi đầu tư thì cần chuẩn bị và nghiên cứu sẵn các phương án hợp tác cũng như xây dựng các dựán để kêu gọi đầu tư và tìm đối tác. Có như vậy, các doanh nghiệp mới có thể tạo được lòng tin từ phía các đối tác cũng như đẩy nhanh tiến độ hợp tác và góp vốn của các nhà đầu tư nước ngoài. Đặc biệt trong điều kiện hội nhập AFTA và cạnh tranh trong thu hút FDI, chiếm lợi thế trong quá trình phân bố sản xuất trên toàn khu vực ASEAN thì bất kỳ một nỗ lực nào, dù là nhỏ nhất cũng đều là đáng quý, đó có thể sẽ là những điểm mấu chốt, những đòn quyết định để các doanh nghiệp Việt Nam có thể lôi kéo đối tác về phía mình và tăng thêm lượng vốn FDI đổ vào Việt Nam. Thứ ba, trong điều kiện hội nhập AFTA, khi mà các điều kiện về kinh doanh và đầu tư được tạo thuận lợi, thì ngoài việc chú ý, cạnh tranh trong thu hút các nguồn vốn đầu tư trực tiếp từ ngoài khu vực đổ vào trong nước thì ans đề đặt ra đối với các doanh nghiệp là phải cócác phương án tìm hiểu và hợp tácnhằm thu hút thêm các nguồn vốn đầu tư từ chính các doanh nghiệp trong ASEAN đổ vào Việt Nam. Bởi thời gian qua cho thấy, chính các doanh nghiệp ASEAN mới là những doanh nghiệp có nhiều dự án và vốn đầu tư đổ vào Việt Nam nhiêù nhất. Một vài năm gần đây, do những khó khăn nhất thời của khủng hoảng tài chính - kinh tế trong khu vực gây ra nên nguồn FDI từ khu vực này đổ vào Việt Nam có phần giảm sút. Song trong tương lai thì nguồn FDI từ khu vực này vẫn sẽ là quan trọng đối với Việt Nam. Mặt khác, khi hợp tác với các doanh nghiệp trong khu vực, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ có nhiều cơ hội thành công hơn, bởi nhờ những thuận lợi ở tầm vĩ mô được tạo ra nhờ quá trình hội nhập trong khu vực đem lại, thì các chi phí cần có cho việc xúc tiến hợp tác như chi phí giao thông, liên lạc,… cũng sẽ rẻ hơn so với việc tìm kiếm đối tác tại những thị trường xa xôi. Một lợi thế nữa cũng có thể kể đến đó là các doanh nghiệp ASEAN dễ hội nhập với môi trường kinh doanh tại Việt Nam hơn nhờ sự gần gũi về văn hóa – xã hội, đây cũng có thể được xem như một yếu tố thuận lợi để các doanh nghiệp Việt Nam tính đến trong việc tìm kiếm đối tác thu hút FDI. Thứ tư, các doanh nghiệp Việt Nam có thể liên doanh, hợp tác cùng với các tập đoàn lớn của ASEAN để cùng đàm phán phân chia việc lựa chọn các địa điểm đầu tư sản xuất trong sơ đồ phân bố chuyên môn hóa trong khu vực. Thông qua đó, các doanh nghiệp Việt Nam có thể cùng chia sẻ “miếng bánh” FDI với các doanh nghiệp khác trong ASEAN. Ví dụ: trong công nghiệp chế tạo ôtô, Việt Nam khong nhất thiết phải đầu tư phát triển bằng được các công đoạn từ A đến Z cho sản xuất ôtô. Đây là một vấn đề cực kỳ khó khăn bởi dù ít hay nhiều Việt Nam cũng đi sau các quốc gia ASEAN phát triển khác như Thái Lan, Malaysia, … Do vậy, các doanh nghiệp Việt Nam có thể sẽ tập trung nguồn lực, chuyên sâu vào sản xuất một số chi tiết cho ôtô, biến ngành công nghiệp ôtô trở thành một ngành công nghiệp mang tầm cỡ ASEAN chứ không chỉ là ở tầm quốc gia. Có như vậy, mới phát huy hết tác dụng của tự do hóa thương mại trong khu vực và nâng cao hiệu quả của đầu tư, sản xuất trong những ngành mà đòi hỏi cả vốn đầu tư cũng như thị trường đều lớn. Kết luận Thu hút vốn đầu tư nước ngoài đang trở thành biện pháp quan trọng trong quan hệ kinh tế thế giới, là nhân tố quan trọng hàng đầu của nhiều nước nhằm phát huy lợi thế của mỗi quốc gia. Nhu cầu đầu tư càng trở nên bức thiết trong điều kiện tiến bộ khoa học kỹ thuật và phân công lao động quốc tế hiện nay. Sẽ không có sự hoàn chỉnh nếu không có sự đầu tư tư bảm và công nghệ giữa các nước trong khu vực và thế giới. Đối với các nước đang phát triển đó có Việt Nam thì đầu tư nước ngoài là nhân tố quan trọng trong tăng trưởng kinh tế. Việt Nam tiến hành xây dựng CNXH xuất phát từ điểm rất thấp, nền kinh tế trong tình trạng lạc hậu, thu nhập quốc dân theo đầu người vào dạng thấp nhất thế giới. Do đó việc thu hút và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư nước ngoài có ý nghĩa quan trọng là một trong những yếu tố quyết định đến sự tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Trong quá trình thực hiện thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài bên cạnh những thuận lợi thì vẫn còn những khó khăn, việc này đòi hỏi Đảng và Nhà nước ta phải có những biện pháp hết sức cụ thể để đưa con tàu Việt Nam đi đúng hướng phù hợp với xu thế và bắt kịp với sự phát triển chung của toàn thế giới. tài liệu tham khảo Vụ quản lý các dự án, Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Adam Smith (1997) của cải của các dân tộc. NXB Giáo dục Thuý Anh (2000) tự do hóa thương mại và những vấn đề đặt ra. Tạp chí Thông tin lý luận số 8 /2000 Bộ Kế hoạch và đầu tự Vụ quản lý dự án Tổng hợp đầu tư nước ngoài ngày 7/1/2003. Chỉ thị 19/2001/CT-TTg về thực hiện nghị quyết 9/01/NQ-CP Tập san đặc biệt thời báo kinh tế 2002 – 2003. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2000). Định hướng phát triển kinh tế xã hội 5 năm (2001-2005) Hà Nội. Tạp chí Thông tin Kinh tế – Xã hội tháng 1/2004. Tạp chí Kinh tế và dự báo số10/2004 Tạp chí nghiên cứu kinh tế số 315 tháng 8/2004. Tạp chí Châu Mỹ ngày nay 3/1998 Đầu tư trựctiếp của các Công ty xuyên quốc gia ở các nước đang phát triển HVQHQT – CTQG96. Công ty xuyên Quốc gia của các nền kinh tế chuyên nghiệp mới ở Châu á. Hoàng Thị Bích Lan CTQG 2002. Quan hệ kinh tế Đại học Luật Hỏi đáp kinh tế ASEAN Trần Thanh Hải NXB TG Hà Nội 2000 Hội nhập AFTA Liên kết kinh tế ASEAN Tạp chí Cộng sản số 31/2003. Thực trạng Liên kết kinh tế ASEAN Tạp chí cộng sản số 34/2003.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docR0082.doc
Tài liệu liên quan