Đề tài Quan hệ thương mại giữa Việt Nam - Trung Quốc những năm đầu thế kỷ 21 - Thực trạng và triển vọng

Trong bước chuyển giao thế kỷ, tình hình quốc tế và khu vực có những biến chuyển mới, đòi hỏi hai nước Việt -Trung cần tăng cường hơn nữa mối quan hệ giao lưu, hợp tác hữu nghị vì lợi ích của nhân dân mỗi nước, vì hoà bình phát triển trong khu vực và trên thế giới . Hơn nữa, quá trình toàn cầu hoá kinh tế sẽ dẫn tới những khó khăn, thách thức cho những nước đang phát triển . Chúng ta đều nhận thức được rằng, toàn cầu hoá kinh tế là một xu hướng không thể đảo ngược . Toàn cầu hoá kinh tế đối với các nước đang phát triển sẽ có tác dụng mang tính hai mặt : vừa là cơ hội, vừa là thách thức . Biết là sẽ có rất nhiều thách thức nhưng các nước đang phát triển không thể đứng ngoài dòng thác thời đại đó, vì thế cần phải có những biện pháp để phát huy thời cơ đối phó với thử thách, trong đó hợp tác khu vực có một vai trò cực kỳ quan trọng . Các học giả Đông Nam Á, Nga, Mỹ khi được hỏi họ đều có chung một nhận định rằng Việt Nam _ Trung Quốc quan hệ tốt với nhau và cùng thịnh vượng sẽ có lợi thế cho việc duy trì an ninh và ổn định khu vực . Điều đó cho thấy xây dựng mối quan hệ Việt - Trung mà nền tảng là mối quan hệ kinh tế không chỉ đáp ứng nguyện vọng và lợi ích cơ bản lâu dài của nhân dân hai nước mà còn là mong muốn của nhân dân các nước trong khu vực và trên thế giới .

doc37 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1084 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Quan hệ thương mại giữa Việt Nam - Trung Quốc những năm đầu thế kỷ 21 - Thực trạng và triển vọng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n ninh và ổn định khu vực . Điều đó cho thấy xây dựng mối quan hệ Việt - Trung mà nền tảng là mối quan hệ kinh tế không chỉ đáp ứng nguyện vọng và lợi ích cơ bản lâu dài của nhân dân hai nước mà còn là mong muốn của nhân dân các nước trong khu vực và trên thế giới . Phát triển kinh tế, mở rộng giao lưu kinh tế với Trung Quốc góp phần đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, tạo ra một số chuyển biến về đời sống xã hội, giảm bớt tỷ lệ đói nghèo, tăng tỷ lệ hộ trung bình và hộ giàu có nhất là khu vực thị xã, thị trấn, cửa khẩu, thu nhập bình quân đầu người đều tăng, tạo điều kiện giải quyết việc làm cho người lao động, nâng cao dân trí, cơ sở hạ tầng được đầu tư, nâng cấp nhất là khu vực cửa khẩu, đời sống văn hoá tinh thần được cải thiện, bộ mặt nhiều vùng nông thôn được đổi mới . Chính vì vậy, hoạt động mậu dịch Việt -Trung từ đòi hỏi tất yếu của việc trao đổi sản vật trên cơ sở gần gũi về địa lý, văn hoá, tập quán dân tộc đã dần trở thành một hình thức quan hệ kinh tế được củng cố và phát triển theo bề dầy lịch sử đã hơn 1000 năm. Quan hệ lâu đời với Việt Nam hiện được bình thường hoá đã khôi phục nhanh chóng một thị trường truyền thống quan trọng của Trung Quốc . Khu vực biên giới vốn có quan hệ thân thích, là một thế mạnh tuyệt đối để phát triển mang lại hiệu quả cao, như chú ý chiếm lĩnh thị trường . Với lợi thế này khu vực biên giới có thể phát huy vai trò trung chuyển cho các tỉnh sâu trong nội địa . Hơn nữa, mối liên kết giữa sản xuất và mậu dịch luôn bổ sung cho nhau . Trình độ sản xuất, công nghệ Việt Nam thấp hơn Trung Quốc nên dễ tiếp nhận hàng công nghiệp khu vực này . Đồng thời Việt Nam có nguồn nguyên liệu phong phú có thể bổ sung cho nhu cầu các khu công nghiệp phía Nam Trung Quốc . Thông Qua hoạt động thương mại tại các cửa khẩu để tăng kim ngạch xuất khẩu của các địa phương và cả nước, góp phần chuyển dịch cơ cấu sản xuất, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội vùng cửa khẩu cũng như kinh tế cả nước . II/ Thực trạng về vấn đề xuất nhập khẩu giữa việt nam - trung quốc Kể từ khi bình thường hoá hoạt động xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và Trung Quốc đã phát triển theo chiều hướng hoàn thiện hơn, tích cực hơn và đã đạt được những thành tự đáng kể . Trước hết, điều dễ dàng nhận thấy là hoạt động ngoại thương giữa hai nước được thực hiện thông qua nhiều phương thức khác nhau như buôn bán chính ngạch, buôn bán tiểu ngạch, tạm nhập tái xuất, trong đó buôn bán chính ngạch và buôn bán tiểu ngạch là hai phương thức chính . Đa dạng hoá về phương thức trao đổi đã làm cho hoạt động ngoại thương giữa Việt Nam và Trung Quốc có nhiều nết đặc trưng và cũng là lợi thế của hai bên . 1/ Về xuất nhập khẩu chính ngạch Thương mại chính ngạch hai chiều tăng từ 32,23 triệu USD là năm 1991 lên 691,6 triệu USD năm 1995 và 2957 triệu năm 2000 . Như vậy là 5 năm đầu sau khi bình thường hoá quan hệ thương mại chính ngạch tăng lên hơn 20 lần, 5 năm tiếp theo lại tăng gần 6 lần . Trong đó xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc đạt 1.534 triệu USD (xem bảng 1) . Riêng 6 tháng đầu năm 2001, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc đạt 794,1 triệu USD với mức tăng trưởng 30% so với cùng kỳ năm truoc . Thương mại chính ngạch hai chiều có thể tăng thêm 300 triệu USD so với năm trước, đạt trên 3 tỷ USD / năm . Cần nói thêm rằng, thương mại Việt Trung trong thống kê chính thức chưa phản ánh đầy đủ tình hình buôn bán sôi động giữa hai nước vì rất khó đưa vào thống kê hoạt động buôn lậu . Nếu tính đầy đủ các con số này thì tình hình buôn bán hai chiều sẽ tăng lên, đồng thời con số nhập siêu của Việt Nam cũng lớn hơn so với số liệu thống kê . Bảng 1: Thống kê tổng kim ngạch Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc Theo số liệu từ cỏc cụng trỡnh nghiờn cứu của Bộ Thương mại, trong giai đoạn 2006 – 2010 dự bỏo kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc đạt nhịp độ tăng bỡnh quõn 13 – 14% năm. Và kim ngạch Việt Nam nhập khẩu từ Trung Quốc cú thể giảm cũn 13% năm (giai đoạn 2001-2005 là 18 – 20%). Cỏc chuyờn viờn kinh tế nhận định, xu hướng phỏt triển quan hệ thương mại  giữa Việt Nam và Trung Quốc trong những năm tới chi phối bởi những yếu tố như Việt Nam và Trung Quốc cựng bước vào xu thế hội nhập ngày càng sõu rộng. Kinh tế tri thức và xu thế toàn cầu húa cũng đem nhiều cơ hội cho quan hệ thương mại hai nước. Đối với Việt Nam, Trung Quốc là thành viờn chớnh thức của WTO và là thị trường tiềm năng ổn định trong 10 năm qua, cú sức mua lớn đa dạng với 1,3 tỷ dõn. Trong đú, mức thu nhập bỡnh quõn đầu người (tựy địa phương) tại Trung Quốc hiện đạt 250 – 300 USD/năm đến 18.000 – 20.000 USD/năm. Đõy là thuận lợi cơ bản cho hoạt động xuất khẩu của Việt Nam. Riờng đối với Trung Quốc, hiệp định thương mại Việt Nam và Hoa Kỳ cú hiệu lực cũng mở ra nhiều cơ hội, thuận lợi với triển vọng mới. Bảng 2: Dự bỏo xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc 2000 2005 2010 PA I PA II PA I PA II Tổng giỏ trị XNK (triệu USD) 2.966,2 6.901 6.341 12.994 11.680 Tổng giỏ trị NK (triệu USD) 1.432,2 3.541 3.256 6.524 6.000 Tổng giỏ trị XK (triệu USD) 1.534,0 3.360 3.085 6.470 5.680 Cỏc mặt hàng chớnh - Cao su (1000 tấn) 66,4 140,0 120,5 157,9 130,2 - Hải sản (triệu USD) 223,0 435,0 390,0 740,0 640,0 - Hạt điều (1000 tấn) 11,2 17,2 15,7 26,0 29,1 - Hoa quả (triệu USD) 120,4 195,0 170,0 540,0 450,0 - Hạt tiờu (1000 tấn) 3,2 4,8 4,8 7,9 7,9 Ghi chỳ: PAI, PAII(Phương ỏn I, Phương ỏn II) Nguồn: Dự ỏn quy hoạch phỏt triển thương mại tại vựng cửa khẩu biờn giới phớa Bắc Nhiều doanh nghiệp xuất nhập khẩu của Việt Nam đó trưởng thành qua 10 năm buụn bỏn với doanh nghiệp Trung Quốc. Điều đú cho thấy triển vọng quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Trung Quốc thời gian tới là khả quan, nhiều hứa hẹn và sẽ phỏt triển mạnh theo chiều hướng tớch cực. Hàng hoá của Việt Nam nhập khẩu từ Trung Quốc gồm 5 nhóm mặt hàng chính là : - Dây chuyền sản xuất đồng bộ : Dây chuyền sản xuất đường, dây chuyền sản xuất xi măng lò đứng ... - Máy móc, thiết bị : Thiết bị y tế, thiết bị vận tải, máy nông nghiệp... -Nguyên nhiên liệu : Xăng dầu, phân bón, xi măng, sắt thép, vật liệu xây dựng ... - Mặt hàng nông sản : Lương thực, bột mì, Đường, hoa quả ôn đới (lêtáo ..) Hàng tiêu dùng : Sản phẩm điện tử, xe máy, quần áo, đồ chơi trẻ em ... Bảng 3 Một số mặt hàngViệt Nam nhập khẩu từ Trung Quốc năm 2001 STT Tên hàng Tên đơn vị Lượng Trị giá USD 1 Chất dẻo nguyên liệu tấn 6.625 5.047.225 2 Linh kiện điện tử,vi tính USD 21.960.570 3 Máy móc, thiết bị phụ tùng USD 249.362.420 4 NPL dệt may da USD 74.122.246 5 ô tô nguyên chiếc các loại chiếc 337 4.297.67 6 Sắt thép các loại tấn 276.076 54.742.280 7 Tân dược USD 5.588.850 8 Xăng dầu các loại tấn 1.034.914 231.660.560 9 Xe máy dạng CKD bộ 1.955.134 433.227.256 10 Phân bón các loại tấn 427.433 62.316.320 Tổng Giá Trị 1.629.129.924 Nguồn : Cục thống kê hải quan- CNTT-2001 Nhiều năm qua, Chính phủ Trung Quốc đã cung cấp một khối lượng lớn ODA cho Việt Nam bao gồm cả viện trợ không hoàn lại và tín dụng ưu đãi. Hiện nay, một loạt các dự án lớn khác đang được phía Việt Nam triển khai trên cơ sở nguồn vốn vay ưu đãi của Chính phủ Trung Quốc như là nhà máy nhiệt điện Cao Ngạn 710 triệu USD; đường sắt đô thị Hà Nội – Hà Đông 340 triệu USD; nâng cấp hệ thống thông tin tín hiệu 3 tuyến đường sắt phía Bắc và khu đầu mối Hà Nội 64 triệu USD; hiện đại hoá thông tin tín hiệu đường sắt Vinh – Thành phố Hồ Chí Minh 62 triệu USDnay, một loạt các dự án lớn khác đang được phía Việt Nam triển khai trên cơ sở nguồn vốn vay ưu đãi của Chính phủ Trung Quốc như là nhà máy nhiệt điện Cao Ngạn 710 triệu USD; đường sắt đô thị Hà Nội – Hà Đông 340 triệu USD; nâng cấp hệ thống thông tin tín hiệu 3 tuyến đường sắt phía Bắc và khu đầu mối Hà Nội 64 triệu USD; hiện đại hoá thông tin tín hiệu đường sắt Vinh – Thành phố Hồ Chí Minh 62 triệu USD Từ cơ cấu xuất nhập khẩu hàng hoá nêu trên có thể thấy rõ hoạt động ngoại thương đã khai thác được thế mạnh của cả hai bên . Hàng hoá xuất nhập khẩu như trên có tác dụng bổ sung cho nhu cầu tiêu dùng của nhân dân hai nước và cũng phù hợp với đặc thù về trình độ phát triển kinh tế của hai nước . 2.Về xuất nhập khẩu tiểu ngạch Buôn bán biên giới là một bộ phận đáng kể trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và Trung Quốc. Trong 10 năm qua, ở những năm đầu tỷ lệ dao động giữa buôn bán chính ngạch và buôn bán tiểu ngạch thường ở mức 50-60%. Vào thời gian này, xuất nhập khẩu tiểu ngạch không chỉ chiếm tỷ trọng lớn mà còn góp phần đáp ứng nhu cầu trao đổi của cư dân hai nước cải thiện nâng cao đời sống của dân khu vực biên giới, thậm chí một bộ phận dân cư ở các tỉnh biên giới hai nước đã có thêm việc làm, tăng thêm thu nhập, thoát khỏi cảnh đói nghèo của thời kỳ trước khi bình thường hoá . Điều này đã góp phần đáng kể vào việc ổn định và duy trì mối quan hệ giữa hai bên. Buôn bán qua biên giới cũng diễn ra dưới nhiều hình thức như ký kết hợp đồng giữa các doanh nghiệp, đổi hàng trực tiếp giữa các doanh nghiệp và cư dân, buôn bán trung gian ... và thu hút nhiều đối tượng tham gia, từ các công ty nhà nước, công ty cổ phần công ty tư nhân, cư dân vùng biên giới và cư dân ở các tỉnh khác. Việc thanh toán trong buôn bán biên mậu chủ yếu là bằng tiền mặt và bằng đồng nhân dân tệ, nên rất nhiều doanh nghiệp bị chiếm dụng vốn hoặc bị lừa đảo mất hàng và mất tiền với số lượng lớn . Buôn bán biên giới là một bộ phận đáng kể trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và Trung Quốc. Trong 10 năm qua, ở những năm đầu tỷ lệ dao động giữa buôn bán chính ngạch và buôn bán tiểu ngạch thường ở mức 50-60%. Vào thời gian này, xuất nhập khẩu tiểu ngạch không chỉ chiếm tỷ trọng lớn mà còn góp phần đáp ứng nhu cầu trao đổi của cư dân hai nước cải thiện nâng cao đời sống của dân khu vực biên giới, thậm chí một bộ phận dân cư ở các tỉnh biên giới hai nước đã có thêm việc làm, tăng thêm thu nhập, thoát khỏi cảnh đói nghèo của thời kỳ trước khi bình thường hoá . Điều này đã góp phần đáng kể vào việc ổn định và duy trì mối quan hệ giữa hai bên. Buôn bán qua biên giới cũng diễn ra dưới nhiều hình thức như ký kết hợp đồng giữa các doanh nghiệp, đổi hàng trực tiếp giữa các doanh nghiệp và cư dân, buôn bán trung gian ... và thu hút nhiều đối tượng tham gia, từ các công ty nhà nước, công ty cổ phần công ty tư nhân, cư dân vùng biên giới và cư dân ở các tỉnh khác. Việc thanh toán trong buôn bán biên mậu chủ yếu là bằng tiền mặt và bằng đồng nhân dân tệ, nên rất nhiều doanh nghiệp bị chiếm dụng vốn hoặc bị lừa đảo mất hàng và mất tiền với số lượng lớn . Đối với các tỉnh biên giới phía Bắc, trong mười năm qua, tiếp tục thực hiện chính sách mở cửa và đổi mới của Đảng và Nhà nước và đặc biệt từ khi Chính phủ cho phép thực hiện các chính sách ưu đãi phát triển các khu kinh tế cửa khẩu, các tỉnh đã nhanh chóng tiếp cận và triển khai thực hiện, thành lập ban chỉ đạo và giao mại giữa 2 nước để phòng chống nạn buôn lậu. Hiện nay chính phủ hai nước đang lập dự án xây dựng hành lang kinh tế Côn Minh – Lào Cai – Hà Nội – Hải Phòng và Nam Ninh – Lạng Sơn – Hà Nội – Hải Phòng mở ra khả năng tốt thúc đẩy quan hệ kinh tế thương mại hai nước . Trung Quốc và Việt Nam đã thảo luận và đưa ra giải pháp nhằm thúc đẩy quan hệ hai nước trong thời gian tới. Theo đó 2 bên xác định mục tiêu kim ngạch trao đổi thương mại hoá đến 2010 là 15 tỷ USD, tập trung xuất nhập khẩu những mặt hàng lớn đảm bảo mức tăng trưởng kim ngạch mậu dịch 3. Khó khăn và tồn tại trong quan hệ thương mại Việt - Trung a, Quan hệ ngoại thương giữa hai nước chưa tương xứng với tiềm năng của mỗi nước Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu (cả chính ngạch và tiểu ngạch ) chỉ chiếm tỷ lệ rất khiêm tốn trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của mỗi nước. Kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam với Trung Quốc chỉ chiếm 5% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam nói chung và chỉ bằng 0,4% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Trung Quốc . Là hai nước láng giềng, có truyền thống trao đổi buôn bán từ lâu đời nhưng Việt Nam mới chỉ là nước xuất khẩu 29 trong tổng số 220 nước xuất khẩu vào Trung Quốc. Còn Trung Quốc cũng chỉ là nước xuất khẩu lớn thứ 6 vào Việt Nam . b. Quan hệ xuất nhập khẩu giữa hai nước trong 10 năm qua phát triển dựa trên sự chênh lệch rất rõ về trình độ . Nhiều mặt hàng xuất khẩu của Trung Quốc có năng lực cạnh tranh do ưu thế về chất lưọng và chủng loại có giá thành thấp hơn giá thành của Việt Nam vì các doanh nghiệp Trung Quốc đủ lực và có chính sách công nghệ tích cực . Hơn nữa, Chính phủ Trung Quốc có nhiều chính sách mạnh mẽ để đẩy mạnh hoạt động ngoại thương đặc biệt là những chính sách phù hợp với thực tế của từng nước đối tác . VD : Đối với Việt Nam Trung Quốc có chính sách đặc biệt khuyến khích các hoạt động xuất nhập khẩu tiểu ngạch qua biên giới (như chính sách tiểu ngạch hoá ) “phi thương mại hoá” giảm 50% thuế đối với hàng nhập khẩu, chính sách thoái thuế đối với hàng xuất khẩu ... Cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam có giá trị thấp và thường bị tác động của giá thị trường thế giới theo xu hướng giảm, trong khi đó, hàng nhập khẩu của Việt Nam từ Trung Quốc lại thường là những mặt hàng có giá trị cao hơn trên thương trường quốc tế . Do hạn chế trong qui định về hạn ngạch nhập khẩu dẫn đến việc hạn chế Trung Quốc nhập khẩu một số mặt hàng mà Việt Nam có ưu thế như gạo . c.Nạn hàng giả, hàng kém chất lượng và buôn lậu qua biên giới đang rất phổ biến . Trốn lậu thuế là hiện tượng phổ biến trong xuất nhập khẩu tiểu ngạch, dẫn đến thất thu cho nhà nước mỗi năm hàng trăm tỷ đồng (thông qua các thủ đoạn như nhập nhiều khai ít, nhập những hàng có mức thuế cao như xe đạp 75%, phụ tùng xe máy khai thành những loại hàng có mức thuế thấp như đồ chơi trẻ em 10%, vật liệu xây dựng 18%..) Gian lận thương mại chạy theo lợi ích cá nhân, cục bộ đã khiến cho nhiều doanh nhiệp Việt Nam tìm cách xuất khẩu (qua biên giới) những mặt hàng bị cấm, những mặt hàng quí hiếm gây xáo trộn thị trường, mất lòng tin, ảnh hưởng đến uy tín và lợi ích quốc gia . d.Quản lý xuất nhập khẩu của cả hai nước, đặc biiệt là của Việt Nam còn nhiều yếu kém + Các văn bản pháp luật diều chỉnh hoạt động xuất nhập khẩu giữa Việt Nam - Trung Quốc chưa đầy đủ, chưa phù hợp . +Quản lý cửa khẩu, hoạt động hải quan còn nhiều khó khăn và tiêu cực. + Gian lận thương mại diễn ra ở nhiều nơi trên dọc tuyến biên giới . e. Khả năng đáp ứng cũng như năng lực cạnh tranh của hàng hoá và của bản thân các doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt Nam còn hạn chế . Lượng hàng hoá Việt Nam xuất sang Trung Quốc còn nhỏ bé, tham chi co mặt hàng cung không đủ cầu . Một số mặt hàng từng được độc chiếm thị trường TQ nay đang phải cạnh tranh với một số đối thủ đáng gờm mới xuất hiện như hạt điều ấn Độ Các doanh nghiệp Việt Nam chưa có chiến lược xuất khẩu cụ thể theo mặt hàng, theo thị trường sang Trung Quốc Các doanh nghiệp Việt Nam còn thiếu thông tin, từ đó dẫn đến nhiều doanh nghiệp thiếu hiểu biết cụ thể về thị hiếu người tiêu dùng, về thị trường và về các doanh nghiệp xuất khẩu của Trung Quốc IV/ Nhận xét, đánh giá chung về quan hệ Việt Nam - Trung Quốc. Những thành tựu trong quan hệ Việt Nam –Trung Quốc thời gian qua cho thấy lãnh đạo hai nước rất quyết tâm đẩy mạnh các hoạt động giao lưu, nhằm góp phần phát triển công cuộc xây dựng kinh tế của mỗi nước đồng thời góp phần củng cố quan hệ hữu nghị toàn diện giữa hai dân tộc . Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu đạt được quan hệ kinh tế thương mại VN-TQ còn gặp rất nhiều khó khăn . 1/Vấn đề đầu tư - liên doanh - hợp tác . Hiện nay đầu tư của Trung Quốc vào Việt Nam so với các nước Đông Nam á còn thấp. Có một số lý do khiến cho đầu tư trực tiếp của Trung Quốc tại Việt Nam ít về dự án đầu tư đặc biệt là tổng kim ngạch đầu tư . Phía Trung Quốc cho rằng: Trung Quốc vẫn còn là nước đang phát triển, đang tiến hành xây dựng “Bốn hiện hoá” trên qui mô lớn nên cần thu hút nhiều đầu tư trực tiếp. Hơn nữa Lĩnh vực mà phía Việt Nam muốn thu hút đầu tư thì ở Trung Quốc lĩnh vực sản xuất kinh doanh đó vẫn cần đầu tư . Nhưng theo em nhận thấy, một trong những nguyên nhân quan trọng khiến cho đầu tư trực tiếp của Trung Quốc vào Việt Nam trong những năm qua còn ít là giới đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Trung Quốc chưa thực sự tin tưởng và coi trọng thị trường đầu tư ở Việt Nam. Thứ hai là trong những năm qua các nhà đầu tư Trung Quốc đến Việt Nam đầu tư trực tiếp hầu như là những doanh nghiệp vừa và nhỏ, tiền vốn có hạn, kỹ thuật và công nghệ sản xuất chưa thật tiên tiến và hiện đại, do đó sức cạnh tranh yếu, sản xuất kinh doanh gặp khó khăn . Thứ ba, Qui mô các dự án đầu tư của Trung Quốc đã thực hiện tại Việt Nam thời gian qua là nhỏ, tính trung bình khoảng 2 triệu USD cho một dự án đầu tư, nhỏ hơn nhiều cho các dự án đầu tư của các nước khác tại Việt Nam . Thứ tư, về hình thức đầu tư, các dự án đầu tư trực tiếp của Trung Quốc tại Việt Nam 10 năm qua đều được triển khai dưới hai hình thức chủ yếu là dự án liên doanh với phía đối tác Việt Nam chiếm đa số và dự án 100% tiền vốn của phía các doanh nghiệp Trung Quốc. Thứ năm, như đã nêu ở trên lĩnh vực sản xuất kinh doanh mà các nhà đầu tư Trung Quốc đầu tư vào tương đối nhiều và đa dạng nhưng phần lớn đều thuộc vào ngành công nghiệp nhẹ, gia công chế biến sản phẩm nông lâm hải sản và sản xuất hàng tiêu dùng, kỹ thuật và công nghệ sản xuất đòi hỏi không cao lắm, sản phẩm chủ yếu tiêu thụ ở trong nước, không cần nhiều tiền vốn đầu tư lại thu hồi vốn nhanh . Tuy nhiên cũng phải nhận định rằng, môi trường đầu tư của Việt Nam chưa thật hấp dẫn và thông thoáng như chế độ giá cả, lệ phí đối với các doanh nghiệp liên doanh cao hơn đối với các doanh nghiệp trong nước ( giá quảng cáo chênh nhau đến 4-5 lần khiến các doanh nghiệp liên doanh gặp khó khăn trong việc quảng bá sản phẩm), cũng có thể là các đối tác liên doanh phía Việt Nam là các doanh nghiệp nhà nước có đặc trưng hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp không phải là các đối tác hấp dẫn các doanh nghiệp TQ... Đó đều là những lý do khiến Việt Nam thu hút chưa nhiều vốn đầu tư . Song nếu như người Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore, Hồng Kông, Nhật Bản ... vẫn vượt trở ngại đầu tư có hiệu quả trong nhiều lĩnh vực tại Việt Nam thì có lẽ việc đầu tư TQ thấp còn lý do hai phía . Một số nhà nghiên cứu đã đưa ra những gợi ý để các cấp, các ngành, chính quyền và các doanh nghiệp hai nước tham khảo. Nên chăng khuyến khích TQ hợp doanh với VN lập các doanh nghiệp khai thác và chế biến nguyên liêụ như sắt, nhôm, thiếc, than ... tại Việt Nam rồi vận chuyển sang tiêu thụ tại TQ, hoặc lập các doanh nghiệp sản xuất đồ gia dụng, máy móc, linh kiện xe máy, gia công nông sản phẩm... để tiêu thụ tại chỗ. 2/ Vấn đề xuất nhập khẩu buôn bán chính ngạch, buôn bán tiểu ngạch Sau khi bình thường hoá quan hệ giữa hai nước, hàng xuất khẩu chủ yếu của VN sang TQ là nông sản và một vài loại khoáng sản. Các sản phẩm xuất khẩu nói chung là nguyên nhiên liệu thô chưa qua chế biến, hàng công nghiệp và chế biến chiếm tỉ lệ nhỏ. TQ nhập khẩu các loại nguyên liệu thô của VN phục vụ sản xuất cho các ngành sản xuất, chế biến trong nước. Sử dụng được giá lao động rẻ, tạo được nhiều công ăn việc làm cho người lao động và sản xuất thành phẩm xuất khẩu với hiệu quả cao. Cơ cấu mặt hàng trao đổi buôn bán giữa hai nước rất đa dạng với nhiều hình thức khác nhau nhưng chủ yếu là buôn bán qua đường nhập khẩu chính thức và buôn bán tiểu ngạch qua biên giới theo đường chính thức hoặc không chính thức. Đối với Việt Nam trong khi cán cân buôn bán chính ngạch luôn nhập siêu thì cán cân tiểu ngạch laị luôn xuất siêu. Phía TQ có một chính sách nhất quán và mềm dẻo khuyến khích buôn bán qua biên giới với biện pháp chủ yếu là đánh thuế hàng xuất nhập khẩu thấp hơn so với đường chính ngạch. Ngược lại, chính phủ VN hiện đang thực hiện chính sách buôn bán chính ngạch và hạn chế buôn bán tiểu ngạch. Hoạt động buôn bán tiểu ngạch bị kiểm soát chặt chẽ bởi nhiều ngành khác nhau. Cho đến nay, cơ cấu hàng VN xuất khẩu sang TQ đã có những biến chuyển bước đầu, tỉ lệ hàng nguyên liệu đã qua chế biến và hàng công nghiệp tiêu dùng đã tăng lên. Một số mặt hàng như cao su, dầu thô, hải sản, hàng rau quả, hạt điều, may mặc, giầy dép, than đá vẫn chiếm tỉ trọng đáng kể trong xuất khẩu của hai nước. TQ là khách hàng số một về cao su với xấp xỉ 40% lượng xuất khẩu, đứng thứ hai về mua than đá VN và là nhà tiêu thụ thuỷ sản thứ tư sau Nhật Bản, Hồng Kông, Mĩ. Còn hàng TQ sang VN là sắt thép, nông nghiệp cơ khí, thiết bị dụng cụ y tế, ngành dệt, phương tiện vận tải, dược liệu, thuốc bảo vệ thực vật, hàng tiêu dùng công nghệ. Cơ cấu hàng hoá của Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc (triệu USD Cơ cấu hàng hoá của Trung Quốc xuất khẩu sang Việt Nam (triệu USD) Tuy nhiên có một thực trạng đáng lưu ý là hàng chế biến với trình độ và chất lượng trung bình hoặc thấp thậm chí có nhiều hàng là sản phẩm thứ cấp do công nghệ địa phương sản xuất. Với tình trạng như vậy song hàng TQ đã xâm nhập dễ dàng cả vào những trung tâm sản xuất hàng tiêu dùng của VN như thành phố Hồ Chí Minh. Chủng loại hàng hoá của TQ rất phong phú, sát thị hiếu. Hàng liên doanh trong nước tung ra sản phẩm gì TQ có ngay sản phẩm đó. Một vấn đề cũng cần lưu ý là hàng qua đường tiểu ngạch chủ yếu là hàng công nghiệp tiêu dùng như xe đạp, phụ tùng, đồ điện, điện tử, quần áo may sẵn...Do giá thành thấp lại được hưởng các chính sách ưu đãi xuất khẩu của TQ nên các loại hàng này có sức cạnh tranh rất mạnh trên thị trường VN gây ra nhiều tác động đến hàng sản xuất trong nước, kể cả khi có những chính sách bảo hộ. Hàng tiểu ngạch cũng là những loại hàng chủ yếu nằm trong luồng hàng nhập lậu và trốn thuế do khối lượng phân tán, phương thức đa dạng khó quản lý. Nói chung các mặt hàng mà phía TQ xuất sang VN trong những năm qua kể cả tiểu ngạch và chính ngạch rất phong phú và đa dạng có đến trên 200 nhóm và mặt hàng cụ thể, gấp đôi số mặt hàng mà VN xuất sang TQ. Mặc dù có những ảnh hưởng tiêu cực như đã nêu ở trên, sức ép của hàng TQ cũng có những ảnh hưởng tích cực đến việc đổi mới công nghệ, đầu tư phát triển của một số ngành của VN. Một số ngành đã phải vươn lên để tồn tại như dệt may, da giầy, xe đạp, bóng đèn, phích nước, bánh kẹo, bột giặt. Để tăng cường thương mại Việt - Trung về mặt xuất khẩu, VN nên xem trọng khía cạnh hợp tác, nhằm vào những mặt hàng ta có lợi thế so sánh, kết hợp hài hoà giữa ngoại thương chính ngạch với mậu dịch tiểu ngạch; xây dựng quan hệ lâu bền và tin cậy lẫn nhau. Với những mặt hàng xuất khẩu số lượng lớn phải có chiến lược phát triển ổn định. Hoàn thiện tuyến giao nhận kho để tăng cường hiệu quả xuất dầu thô và than. Thiết lập cầu hàng không chuyên chở thuỷ sản tươi sống thẳng từ thành phố Hồ Chí Minh sang TQ để tăng nhanh xuất khẩu mặt hàng này. 3/. ảnh hưởng của việc Trung Quốc gia nhập WTO Đối với kinh tế Việt Nam và Quan Hệ Việt – Trung Trải qua cố gắng 15 năm, cuối cùng Trung Quốc đã bước vào cánh cửa lớn của Tổ chức Thương mại thế giới. Là một nước láng giềng của Trung Quốc, tiến hành cải cách sau Trung Quốc, Việt Nam rất quan tâm đến tiến trình gia nhập WTO của Trung Quốc, và ảnh hưởng của nó đối với kinh tế Việt Nam và quan hệ Trung – Việt. Vậy phải đánh giá chính xác vấn đề này như thế nào? Dưới đây xin đưa ra một vài ý kiến của cá nhân. V/. Trung Quốc gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới tạo áp lực và thách thức nhất định đối với Việt Nam. 1. ảnh hưởng đối với thương mại Trung – Việt Sau khi gia nhập WTO, Trung Quốc được hưởng các chính sách ưu đãi mậu dịch đa phương của tổ chức này, nhất là ưu đãi về thuế quan và cắt bỏ hạn ngạch. Điều này sẽ tác động mạnh đến xuất khẩu của các ngành nghề truyền thống, nhất là các ngành tập trung nhiều lao động như ngành dệt, ngành may, giầy da, hoá chất của Trung Quốc; đồng thời Trung Quốc cũng mở rộng thị trường, đẩy mạnh xuất khẩu, đặc biệt là những mặt hàng có hàm lượng kỹ thuật cao còn yếu kém ở các nước phát triển như hàng điện tử. Về lý luận, sự mở rộng xuất khẩu của Trung Quốc tất nhiên sẽ tạo nên áp lực nhất định đối với Việt Nam, nước có cơ cấu hàng hoá xuất khẩu và bố cục thị trường khá giống Trung Quốc. Nhưng chúng ta không thể chỉ đơn giản nhìn vào hai nước đều xuất khẩu giầy dép, quần áo sang thị trường Âu Mỹ đã cho rằng sau khi Trung Quốc được hưởng ưu đãi về mặt thuế quan, tăng cường xuất khẩu sẽ cạnh tranh với hàng hoá Việt Nam . Hiện nay, sự gia tăng của hàng hóa Trung Quốc trong thời gian ngắn không thể ảnh hưởng đến kim ngạch hàng hoá tương tự của Việt Nam ở các nước Âu Mỹ. Về lâu dài, với tốc độ tăng trưởng khá cao hiện nay, hai nước sẽ thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu hàng hoá xuất khẩu cũng đang không ngừng điều chỉnh, thời gian tới không thể vẫn ở giai đoạn hàng hoá xuất khẩu cấp thấp và hàng hoá giá trị phụ gia thấp. Do vậy, đối với Trung Quốc và Việt Nam, nên suy nghĩ đến việc hình thành ưu thế hỗ trợ lẫn nhau trong tương lai như thế nào. Còn về thương mại Trung-Việt, hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc không giống so với hàng hoá của các nước phương Tây, do đó sẽ không chịu ảnh hưởng của chúng. Có thể những mặt hàng như cao su, dầu thô, nguyên liệu... của Việt Nam sẽ đẩy mạnh xuất khẩu nhờ Trung Quốc mở rộng thị trường , thúc đẩy hợp tác kinh tế, thương mại Trung - Việt hướng đến phát triển cao hơn, đi đầu trong việc xây dựng Khu mậu dịch tự do Trung Quốc - ASEAN đến năm 2010, cố gắng sớm thành lập khu mậu dịch tự do Trung Quốc - Việt Nam, trước hết tìm một khu vực để hoạt động mậu dịch tự do là vô cùng quan trọng. 2. ảnh hưởng đối với thu hút đầu tư nước ngoài của Việt Nam và đầu tư của Trung Quốc vào Việt Nam Gần đây, Trung Quốc đã tiến hành chính sách ưu đãi đầu tư nước ngoài, không ngừng cải thiện môi trường đầu tư, đãi ngộ thị trường ngày càng lớn, vì vậy thu hút đầu tư nước ngoài liên tục đứng đầu trong các nước đang phát triển; trong khi đó mấy năm gần đây đầu tư nước ngoài của Việt Nam lại giảm. Sau khi Trung Quốc gia nhập WTO tất sẽ phải tuân theo cam kết trong đàm phán, mở cửa rất nhiều lĩnh vực kinh tế có dự báo lợi nhuận tương đối lớn mà trước đây bị hạn chế hoặc không mở cửa như ngân hàng, viễn thông, dịch vụ... hơn nữa dự báo tốt trong tương lai do thị trường rộng lớn và tốc độ tăng trường kinh tế nhanh của Trung Quốc mang lại sẽ thu hút vốn đầu tư lớn vào Trung Quốc. Có thể nói, thu hút đầu tư nước ngoài không có quan hệ với việc gia nhập WTO, vấn đề mấu chốt là ở mức độ thuận lợi và lợi nhuận hoặc là tương lai của nó, mức độ rủi ro và thu hồi vốn của môi trường đầu tư, có điều khác là sau khi Trung Quốc gia nhập WTO thì mức độ mở cửa thị trường sẽ tăng lên, các qui tắc tương ứng sẽ tiếp cận hơn nữa với quốc tế, đây thực chất là đang chuyển một áp lực khách quan thành động lực và ưu thế. Việt Nam nên tích cực nghiên cứu về thu hút đầu tư của mình, cải thiện thủ tục hành chính rườm rà, chủ nghĩa quan liêu, tham ô, tham nhũng, tính tuỳ tiện của chính sách, thực hiện không triệt để, cơ sở hạ tầng còn kém, giá thành kinh doanh cao... hoàn toàn có thể chủ động mở cửa hơn nữa khi chưa gia nhập WTO, cải thiện môi trường đầu tư, như vậy vừa cải thiện tốt môi trường đầu tư vừa có thể giảm bớt tác động khi gia nhập WTO. Việt Nam chỉ cần tăng cường nghiên cứu vấn đề này, làm tốt một số công việc cụ thể, chính xác. Với thị trường không quá lớn như của Việt Nam, việc thu hút đầu tư nước ngoài không nhất thiết phải làm toàn diện, chỉ cần nắm vững mấy điểm này thì có thể kéo theo toàn cục. 3. ảnh hưởng đối với điều chỉnh và cải cách mở cửa Gia nhập WTO đã thúc đẩy cải cách mở cửa toàn diện của Trung Quốc. Có người tổng kết ảnh hưởng này là ảnh hưởng ngắn hạn đối với thương mại, ảnh hưởng trung hạn đối với cơ cấu kinh tế, ảnh hưởng dài hạn đối với thể chế. Đối với Việt Nam đang học tập kinh nghiệm cải cách mở cửa của Trung Quốc ở rất nhiều phương diện, ngoài ảnh hưởng về thương mại, đầu tư còn có vấn đề ở cấp độ sâu xa tương tự như điều chỉnh cơ cấu kinh tế. Trong mục tiêu và xu thế gia nhập WTO chung hiện nay, cải cách mở cửa đã đẩy nhanh tốc độ dưới tác dụng hai chiều bị động và chủ động, phát triển cả độ rộng và chiều sâu. Cải cách mở cửa khá muộn, tiến triển tương đối chậm chạp của Việt Nam sẽ đứng trước áp lực mới, không thể không đẩy nhanh cải cách khiến rất nhiều vấn đề khi cải cách chậm chạp không bộc lộ thì nay sẽ bộc lộ nhanh chóng. VI/. Trung Quốc gia nhập WTO mang đến cơ hội cho Việt Nam áp lực và thách thức của việc Trung Quốc gia nhập WTO sẽ thúc đẩy Việt Nam cải cách mở cửa nhanh chóng, phát triển kinh tế, từ đó tạo cơ hội cho Việt Nam phát triển nhanh trong thế kỷ mới. Đối với mở cửa ở Việt Nam chậm hơn cải cách mở cửa ở Trung Quốc mức độ phát triển của toàn bộ nền kinh tế thấp hơn Trung Quốc, tốc độ tăng trưởng kinh tế những năm gần đây lại thấp hơn Trung Quốc. Bình quân tăng trưởng năm của Việt Nam từ 2000 - 2004 là 7,23% còn của Trung Quốc là 8,7%. Đối với Việt Nam, Việt Nam còn là 1 nước lạc hậu thì phải đẩy nhanh cải cách mở cửa, đẩy nhanh phát triển kinh tế mới. Vì vậy Đảng và Nhà nước đưa ra kế hoạch 5 năm mới và quy hoạch 10 năm của Việt Nam chính là quyết tâm đẩy nhanh phát triển kinh tế trong thế kỷ mới. Điều này cũng là dự báo cho một tương lai tốt đẹp. Sức kéo sau khi gia nhập WTO cùng với sự thúc đẩy của các nhu cầu trong nước và thế giới. Chiến lược khai thác phát triển miền Tây Trung Quốc sẽ thúc đẩy kinh tế Trung Quốc phát triển.Chiến lược này có thể là mấu chốt cho kinh tế Trung Quốc cất cánh trong bối cảnh kinh tế thế giới đang còn nhiều biến động. Thực hiện kế hoạch thành lập Khu mậu dịch tự do Trung Quốc-ASEAN sẽ tạo thuận lợi cho việc hình thành môi trường nhỏ trong khu vực, tạo cơ hội phát triển kinh tế cho Việt Nam. Gia nhập WTO thúc đẩy Trung Quốc điều chỉnh cơ cấu kinh tế, Việt Nam có thể lợi dụng cơ hội này chủ động cùng điều chỉnh với Trung Quốc, đón nhận phát triển mới. Việt Nam đã đặt công cuộc xây dựng 1 đất nước phát triển là một vị trí vô cùng quan trọng, nhưng muốn thành công phải giải phóng tư tưởng hơn nữa, phải có biện pháp cải cách mạnh hơn, hiệu lực hơn mới có thể giải quyết vấn đề này. Về lý luận tất phải có đột phá lớn. Tóm lại, Trung Quốc gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới đã tạo áp lực cũng như động lực, có thách thức cũng như cơ hội cho Việt Nam,đây là động lực chính và là mục tiêu chính của Đảng nhà nước và Nhân dân Việt Nam. Chỉ cần hai nước cùng cố gằng phát triển mối quan hệ thì có thể tạo một cơ hội tốt để phát triển kinh tế Việt Nam và quan hệ thương mại Trung – Việt, làm cho nó phát triển đến mức cao hơn trong tương lai. Chương III: Phương hướng và triển vọng phát triển quan hệ thương mại hai nước I/ Một số dự báo phát triển quan hệ kinh tế thương mại Việt Nam - Trung Quốc trong thời gian tới Mặc dù còn nhiều tồn tại nhưng hoạt động ngoại thương giữa hai nước đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ. Đặc biệt trong cuộc cạnh tranh với hàng Trung Quốc, nhiều sản phẩm của Việt Nam đã được nâng cao về chất lượng, đã cải tiến về mẫu mã và đã có những thị phần nhất định ở Trung Quốc. Nhiều hàng hoá trước đây chưa có thị trường xuất khẩu thì nay đã xuất được sang Trung Quốc . Nhiều doanh nghiệp xuất nhập khẩu của Việt Nam nay đã trưởng thành qua buôn bán với các doanh nghiệp Trung Quốc . Tình hình này cho thấy triển vọng quan hệ thương mại giữa hai nước trong thời gian tới sẽ rất khả quan, nhiều hứa hẹn và sẽ phát triển ngày càng mạnh mẽ theo chiều hướng tích cực hơn. Các chuyên gia thương mại của Việt Nam đưa ra số liệu: Trong giai đoạn 2001-2005, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc sẽ đạt nhịp độ tăng bình quân 15-17%/năm và dự báo trong giai đoạn 2006 - 2010 là 13 -14%/năm . Dự báo kim ngạch buôn bán hai chiều của Việt Nam và Trung Quốc khoảng 10 tỷ USD vào năm 2010. Trong khi đó kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam từ Trung Quốc sẽ đạt nhịp độ tăng bình quân cao hơn từ 18-20%/năm và giai đoạn tiếp sau đó 2006 - 2010 có thể giảm còn 13%/năm . Kim ngạch xuất nhập khẩu của các tỉnh biên giới phía bắc trong giai đoạn 2000-2005vẫn chủ yếu dựa vào các loại quặng thô khai than đá và một số nông sản như chè, gạo, quế, tinh dầu, ... Dự báo kim ngạch giai đoạn sau năm 2006-2010 tổng kim ngạch xuất khẩu sẽ được bổ sung bằng các loại mặt hàng xuất khẩu khác như một số sản phẩm luyện kim các loại nông sản mới qui hoạch như hoa hồi cà phê và một số sản phẩm khác. Dự báo kim ngạch nhập khẩu của các tỉnh biên giới phía Bắc trong giai đoạn từ nay đến năm 2010 sẽ tăng mạnh ở nhóm hàng nguyên, vật liệu và cuối cùng là nhóm hàng tiêu dùng nhưng vẫn chiếm tỷ trọng khá cao trong cơ cấu kim ngạch nhập khẩu của các tỉnh này trong giai đoạn dự báo. Tỷ lệ kim ngạch nhập khẩu cũng tương tự như xuất khẩu . Cơ cấu hàng xuất nhập khẩu sẽ có những thay đổi theo hướng phát huy được thế mạnh của mỗi bên và thu được hiệu quả cao trong việc bổ sung cho nhu cầu của mình và đối tác . Việt Nam có nhiều tiềm năng về khí hậu, tài nguyên đất đai và kỹ năng lao động của con người ngày càng được nâng cao, sẽ thay đổi dần tình trạng xuất khẩu sang Trung Quốc chủ yếu bằng các nguyên liệu thô hiện nay như: cao su, chè, cà phê, hải sản than đá, dầu thôi và sẽ tăng cường xuất khẩu các mặt hàng đã qua chế biến với trình độ công nghệ ngày càng hiện đại hơn và chất lượng ngày càng cao hơn. Khả năng đó thể hiện ở một số mặt hàng truyền thống như nông lâm hải sản, dầu thô, than đá... và các mặt hàng mới trỗi dậy như hàng may mặc, giầy dép, xà phòng, bánh kẹo ...Theo dự đoán của các chuyên gia thương mại, cho đến năm 2010, hàng năm Việt Nam xuất khẩu chừng 4 triệu tấn gạo, trong đó khoảng 7% xuất vào thị trường Trung Quốc. Mỗi năm Trung Quốc cần đến 500 ngàn tấn cao su thiên nhiên mà Việt Nam có thể xuất khẩu 200 ngàn tấn trong đó xuất khẩu vào Trung Quốc 50% tức là 100 ngàn tấn điều đó cho thấy điều kiện cho ngành cao su phát triển là rất rộng lớn song điểm yếu mà ngành này cần vượt qua là khối lượng sản phẩm cao su đã qua chế biến còn thấp nên hiệu quả kém. Các mặt hàng đặc sản nhiệt đới khác như hạt điều cà phê... cũng là thế mạnh của Việt Nam cũng là những mặt hàng mà Trung Quốc có nhu cầu lớn.Với sản lượng và kim ngạch xuất khẩu hạt điều lớn thứ 3 thế giới chỉ sau ấn Độ và Braxin. Trong năm 2005 Việt Nam sẽ xuất khẩu 80 ngàn tấn với kim ngạch 400 triệu USD, mục tiêu năm 2010 đạt 120 ngàn tấn với kim ngạch 600 triệu USD trong đó sẽ xuất sang Trung Quốc các năm tương ứng là 30 ngàn tấn trị giá 150 USD và 70 ngàn tấn trị giá 200 triệu USD. Theo một nghiên cứu gần đây dự báo nhu cầu chất uống của người dân Trung Quốc có xu hướng chuyển sang dùng nhiều cà phê do đó cà phê có thể sẽ là một mặt hàng xuất khẩu sang Trung Quốc mạnh mẽ hơn từ 65 ngàn tấn trong năm 2005 đến 80 ngàn tấn vào năm 2010 chiếm 10% tổng xuất khẩu cả nước về mặt hàng này. Việt Nam cũng sẽ xuất sang Trung Quốc một sản lượng dầu và than đá trị giá 10 % kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này đạt 200 triệu USD trong năm 2005 và 400 triệu USD vào năm 2010 . Trung Quốc không phải là nước thiếu than đá xong tập trung chủ yếu ở phía Bắc, vận chuyển xuống phía Nam rất khó khăn đặc biệt trong mùa mưa. Vì vậy, Việt Nam với trữ lượng hàng trăm triệu tấn than bùn và hàng tỷ tấn than gầy là nguồn cung cấp quan trọng cho các nhà máy ở phía nam Trung Quốc. Dự kiến đến năm 2010 mỗi năm Việt Nam có thể xuất sang Trung Quốc 500 nghìn tấn than trị giá khoảng 200 ngàn USD xấp xỉ 17% tổng mức xuất khẩu ngành than. Về nhập khẩu, các cơ quan ngành thương mại Việt Nam đã hướng dẫn ưu tiên nhập có chọn lọc trang thiết bị máy móc các mặt hàng trong nước chưa sản xuất được, sản xuất chưa đủ cho nhu cầu hoặc nhập khẩu thì có hiệu quả hơn như vật liệu xây dựng, hoá chất, phôi thép, chất dẻo, linh kiện điện tử, dược liệu, vải vóc.. Bên cạnh đó Việt Nam – Trung Quốc cần xây dựng chiến lược giao lưu và hợp tác kinh tế lâu dài và ổn định tích cực có biện pháp mở rộng thị trường buôn bán trao đổi hàng hoá sâu vào nội địa đẩy mạnh hợp tác du lịch và vận tải hàng hoá, hành khách quá cảnh củng cố phát triển cơ sở hạ tầng mạng lưới y tế giáo dục ở xã bản mặt khác hai bên thiết lập trật tự thực hiện một cách có hiểu qủa cuộc đấu tranh chống các tệ nạn xã hội nhất là buôn lậu giữ vững an ninh chính trị trật tự an toàn xã hội bảo đảm ổn định để cùng phát triển. Thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xã hội năm 2001-2005 và phương hướng nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 2005-2010 khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài phải phát triển ổn định hơn đạt kết quả cao hơn đặc biệt là về chất lượng so với thời kỳ trước để đẩy nhanh công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Cụ thể hơn hoạt động đầu tư nước ngoài trong thời kỳ 2005-2010 phải đạt được các mục tiêu: Khuyến khích mạnh mẽ việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các ngành công nghiệp sản xuất, hàng xuất khẩu, công nghiệp chế biến, công nghiệp phục vụ phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn, các dự án ứng dụng công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, dầu khí, điện tử, vật liệu mới, viễn thông sản xuất phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội và các ngành mà Việt Nam có nhiều lợi thế cạnh tranh gắn với công nghệ hiện đại tạo thêm nhiều việc làm góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Tiếp tục thu hút đâu tư trực tiếp nước ngoài vào những địa bàn có lợi thế để phát huy vai trò của các vùng động lực tạo điều kiện liên kết phát triển các vùng khác trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh. Khuyến khích và dành các ưu đãi tối đa cho đầu tư trực tiếp nước ngoài vào những vùng và địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn và đẩy mạnh đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng ở các địa bàn này bằng các nguồn vốn khác để tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài. Tập trung thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các khu công nghiệp tập trung đã hình thành theo quy hoạch được phê duyệt. Sự ra đời của hành lang kinh tế động lực Côn Minh – Lào Cai – Hà Nội – Hải Phòng và Nam Ninh – Lạng Sơn – Hà Nội – Hải Phòng, cổng thông tin và sàn giao dịch thương mại điện tử Việt – Trung đã minh chứng cho sự nỗ lực không ngừng để phát triển kinh tế hai nước. Do vậy cần tạo mọi thuận lợi để doanh nghiệp Việt Nam có thể tiếp cận và nhanh chóng nắm bắt cơ hội, tăng lượng hàng xuất khẩu sang Trung Quốc. Việt Nam và Trung Quốc đã công bố kế hoạch xây dựng khu hậu cần quốc tế nằm trên khu vực đường biên giới với Việt Nam nhằm thúc đẩy thương mại giữa Việt Nam – Trung Quốc với các nước trên Thế giới. Khuyến khích các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài từ tất cả các nước và vùng lãnh thổ đầu tư vào VN nhất là các nhà đầu tư nước ngoài có tiềm năng lớn vào tài chính và nắm công nghệ nguồn từ các nước công nghiệp phát triển tiếp tục thu hút các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài ở khu vực. Có kế hoạch vận động các tập đoàn công ty lớn đầu tư vào VN đồng thời chú ý đến các công ty có quy mô vừa và nhỏ nhưng công nghệ hiện đại. Các doanh nghiệp Trung Quốc không muốn chậm chân trong xu thế quan tâm tới Việt Nam, nhằm khai thác lợi thế địa kinh tế cũng như cơ hội của một nền kinh tế đang trên đà tăng tốc của giới đầu tư quốc tế. Sự phân tầng khá rõ rệt của thị trường Trung Quốc, không chỉ về thị trường tiêu dùng, mà cả thị trường công nghệ, khiến khả năng lựa chọn công nghệ không thua kém “hàng hiệu” từ Tây Âu, nhưng với giá cả hợp lý hơn của các doanh nghiệp Việt Nam được mở rộng. Các công nghệ trong ngành nhiệt điện, khai khoáng, nhựa, thiết bị lạnh, điện tửở các trung tâm công nghiệp lớn của Trung Quốc như Thượng Hải, Thâm Quyếnđều được xếp ở mức cạnh tranh lớn trên Thế giới. Đây là điểm cần lưu ý trong chiến lược thu hút vốn đầu tư của Việt Nam bởi vì việc lựa chọn công nghệ phù hợp với chi phí hợp lý giải pháp cần thiết nhằm bảo đảm cho nền kinh tế và doanh nghiệp có khả năng thu hồi vốn nhanh, năng lực cạnh tranh và nhất là cạnh tranh về giá được tốt hơn. Tuy nhiên, sự tăng trưởng nhanh của Trung Quốc đang tạo nên xu hướng thay đổi công nghệ, chuyển các công nghệ tiêu hao năng lượng lớn, gây ảnh hưởng môi trườngra nước ngoài. Điều này là tất yếu trong quá trình phát triển. II/ Một số ý kiến đề xuất nhằm phát triển quan hệ VN - TQ 1. Kiến nghị đối với nhà nước Chính phủ Việt Nam và Trung Quốc cần phải có sự thảo luận để đi đến thống nhất một danh mục hàng hoá trao đổi góp phần định hướng cho doanh nghiệp hai bên đàm phán và ký kết hợp đồng ngoại thương. Để có thể thực hiện hiểu quả các chính sách xuất nhập khẩu giữa hai nước Việt Nam cần phải có sự quản lý nhà nước về thương mại và xúc tiến thương mại. Hoạt động thương mại nhằm tới mục tiêu là hiệu quả thông qua chỉ tiêu lợi nhuận. Muốn có lợi nhuận thì hàng hoá phải có sức cạnh tranh. Cạnh tranh trước hết về chất lượng chi phí sản xuất và biếu hiện cuối cùng là giá cả hàng hoá. Đó là cốt lõi của xúc tiến thương mại. Quản lý nhà nước có vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển thương mại. Đường lối của Đảng ta nêu rõ: “Xây dựng nền kinh tế thị trường. có sự quản lý của nhà nước theo định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa”. Quản lý nhà nước về thương mại là cách thức bảo đảm đạt tới sự hài hoà các lợi ích giải quyết những mâu thuẫn mang tính chất nội bộ trong hoạt động thương mại. Nhà nước thực hiện quản lý xã hội cũng như quản lý từng lĩnh vực cụ thể phải bằng pháp luật. Nhà nước từng bước rà soát bổ sung và hoàn chỉnh các chính sách cơ chế và những biện pháp về quản lý hoạt động xuất nhập khẩu giữa hai nước cho phù hợp với tình hình và nhiệm vụ trong thời kỳ mới. Những gì không còn tác dụng cần kiên quyết loại bỏ và kịp thời bổ xung những chính sách cơ chế mới thúc đẩy sự phát triển bền vững của hoạt động xuất nhập khẩu Việt Nam – Trung Quốc. Nhà nước cần hoàn thiện công tác quản lý đối với mặt hàng xuất khẩu. Một là, giảm các loại phí tổn hành chính ( bãi bỏ hẳn các loại giấy phép tinh giảm chế độ kiểm tra về thuế ) liên quan đến hoạt động sản xuất và xuất khẩu. Hai là, nhanh chóng xác lập cơ chế yểm trợ xuất khẩu, thu thập và phổ biến thông tin về thị trương, lập mạng lưới theo dõi và điều tra cung cầu tại những thi trường Trung Quoc. 2. Kiến nghị đối với doanh nghiệp : a>Giải pháp về thị trường Các doanh nghiệp phải tăng cường nghiên cứu thị trường nắm vững các thông tin về hệ thống luật pháp và các đặc tính tiêu dùng của từng khu vực cụ thể. Trung Quốc là thị trường xuất khẩu đầy hứa hẹn với số dân trên 1.3 tỷ người. Hiện nay các doanh nghiệp Việt Nam đã có và duy trì được những mối quan hệ nhất định với các bạn hàng Trung Quốc cao. Các doanh nghiệp có ý thức mạnh mẽ về nhãn hiệu sản phẩm tạo hình tượng quốc tế, làm lành mạnh mạng lưới tiêu thụ, mở rộng thị trường quốc tế, làm tốt dịch vụ hậu mãi nhằm giành được sự tín nhiệm trên thị trường, bám sát chuyển biến của thế giới nhanh nhạy nắm bắt cơ hội kinh doanh có sự cân nhắc về tình thế đầu tư mở rộng mạng lưới sản xuất và xuất khẩu ra nước ngoài. Bên cạnh đó cần chuẩn bị cho mình một đội ngũ nhân lực có chuyên môn sâu về lĩnh vực xuất khẩu. Đội ngũ này sẽ giúp doanh nghiệp tăng cường khả năng tìm kiếm bạn hàng và tránh thua lỗ trong ký kết hợp đồng. Các doanh nghiệp Việt Nam cần phân tích, đánh giá những thuận lợi khó khăn trong tổ chức hoạt động thị trường khu vực, thực hiện các chính sách về thương mại của Đảng và Nhà nước đối với từng khu vực cụ thể. Đặc biệt thường xuyên có sự đánh giá dung lượng thị trường về các loại hàng hoá, sức mua thị hiếu và nhu cầu trong mỗi thời kỳ để có biện pháp thích hợp điều hành quan hệ cung cầu một cách có lợi nhất cho hoạt động thương mại. b> Tăng cường tìm hiểu về thị trương TQ: kinh Có một tư duy tế rất phổ biến đó là cần sản xuất và bán những gì thị trường cần chứ không phải những gì mình có. Đối với các doanh nghiệp Việt Nam nhất là doanh nghiệp nhà nước hơn lúc nào hết là phải đối mặt trực tiếp với thị trường sản xuất theo yêu cầu thị trường. Muốn vậy các doanh nghiệp một mặt phải tích cực đổi mới công nghệ và quản lý, phấn đấu hạ giá thành nâng cao sức cạnh tranh. Các doanh nghiệp Việt Nam phải hợp tác với bạn hàng Trung Quốc để học hỏi kinh nghiệm. Lúc đó doanh nghiệp cần áp dụng công nghệ tiếp thị và quảng cáo mạnh hơn nữa cho những mặt hàng tuy mới nhưng hiện đang được khách hàng Trung Quốc ưa thích. Hiện nay chất lượng sản phẩm luôn là vấn đề đặt ra với các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam. Đầu tư vào công nghệ là một vấn đề chiến lược. Vốn để đầu tư luôn là vấn đề lớn đối với các doanh nghiệp. Nếu không tăng đầu tư cho đổi mới công nghệ thì doanh thu lại không tăng và dẫn đến vốn đầu tư cho công nghệ lại càng giảm và cứ thế sẽ tạo nên một cái vòng luẩn quẩn. Do vậy, doanh nghiệp cần có chính sách đầu tư đủ mạnh có tính đột phá để đổi mới công nghệ, nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh của cán bộ, sử dụng nguồn lực một cách có hiểu quả và nâng cao chất lượng hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc. c>Nâng cao trình độ kinh tế ngoại thương của Việt Nam cho ngang bằng với Trung Quốc: Đội ngũ nhân viên trong các doanh nghiệp của Việt Nam cần được nâng cao cả về trình độ nghiệp vụ ngoại thương nói chung và trình độ nghiệp vụ hoạt động buôn bán qua biên giới với các đối tác Trung Quốc. Đồng thời cũng phải nâng cao trình độ ngoại ngữ của những người làm công tác ngoại thương để tránh tình trạng đọc hợp đồng bằng tiếng nước ngoài do bên đối tác soạn thảo mà không biết gì cả. Bên cạnh đó Việt Nam cũng phải có biện pháp khơi dậy lòng tự hào dân tộc, biết trân trọng những giá trị văn hoá tinh thần truyền thống của đất nước đối với mỗi cán bộ ngoại thương. Có như vậy thì mới mong khắc phục được những hiện tượng tiêu cực của cán bộ ngoaị thương hiện nay, đồng thời lại tạo ra được thiện cảm đối với đối tác Trung Quốc và được họ tôn trọng hơn đối xử công bằng hơn trong hoạt động buôn bán giữa hai bên. Doanh nghiệp xây dựng kế hoạch và chiến lược xuất khẩu ngắn hạn trung hạn và dài hạn cho từng mặt hàng và từng khu vực cụ thể của Trung Quốc: Các doanh nghiệp Việt Nam chuẩn bị để trong thời gian không xa xuất khẩu sang Trung Quốc một số mặt hàng mới như các sản phẩm của công nghệ thông tin và công nghệ phần mềm các dịch vụ tư vấn có hàm lượng trí tuệ cao. Do vậy các doanh nghiệp phải có sự nghiên cứu đúng mức để có một chiến lược xuất khẩu hàng hoá phù hợp tận dụng dược những thế mạnh hiện có của doanh nghiệp đồng thời khai thác thị trường mới, tránh sự cạnh tranh trực tiếp với hàng hoá cùng chủng loại cùng thị trường với Trung Quốc mà phía bạn có ưu thế rõ rệt. Sử dụng chuyên gia tư vấn Trung Quốc. Đây là cách mà nhiều quốc gia đã áp dụng thành công đặc biệt đối với các quốc gia đang phát triển vì nó giúp các doanh nghiệp đáp ứng được các yêu cầu về chất lượng và thị hiếu tiêu dùng của người dân Trung Quốc một cách tốt nhất. Với tình trạng của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay thì rất cần áp dụng biện pháp này. Các chuyên gia sẽ tư vấn về chất lượng sản phẩm và đưa ra giải pháp về công nghệ để đạt được chất lượng theo yêu cầu đặt ra. Đặc biệt, khi ký kết hợp đồng xuất nhập khẩu đối với những khách hàng Trung Quốc mà mình chưa có quan hệ làm ăn lâu dài (phải kiểm tra tư cách pháp nhân của doanh nghiệp, của người đại diện kiểm tra kỹ từng điều khoản của hợp đồng...) các doanh nghiệp Việt Nam thực hiện các chính sách xã hội của Đảng và Nhà nước là nhiệm vụ quan trọng đựơc chủ yếu giao cho các doanh nghiệp nhà nước thực hiện. Những doanh nghiệp này trong kinh doanh thương mại không những tính toán hiệu quả kinh tế thu lợi nhuận mà còn phải tính toán hiệu quả xã hội phi lợi nhuận. Các doanh nghiệp Việt Nam cần đẩy mạnh xuất khẩu hàng sang thị trường Trung Quốc đặc biệt là các tỉnh miền Tây mới có trên 4000 trên dân thu nhập bình quân tính theo đầu người gần bằng Việt Nam nơi mà Trung Quốc đang đẩy mạnh “ chiến lược Đại khai phá miền Tây”. Đây sẽ là cơ hội lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam Trải qua hàng ngàn năm lịch sử có nhiều thăng trầm trong quan hệ láng going, đến thế kỷ thứ 21 này chúng ta có cơ hội đồng thời thách thức nhằm xây dựng mối quan hệ giao hảo, hợp tác hai bên cùng có lợi, cùng phát triển với cường quốc Trung Hoa đang trỗi dậy. Chỉ có một chiến lược dài hạn mới giúp doanh nghiệp xác định rõ mục tiêu, biết được tiến bộ đã đạt được và cần phải làm gì tiếp theo để đạt được hiệu quả cao trong hoạt động xuất nhập khẩu với đối tác Trung Quốc. Kết luận Quan hệ hữu nghị Việt Nam – Trung Quốc có cơ sở vững chắc phù hợp với lợi ích trước mắt và lâu dài của nhân dân hai nứơc đó là nguyên nhân căn bản dẫn tới những thành tựu và cũng là nhân tố căn bản bảo đảm cho sự phát triển của quan hệ hai nước trong thời gian tới. Chúng ta không những có thêm những kinh nghiệm trong việc phát triển quan hệ giao lưu và hợp tác mà còn đã xác định được nguyên tắc và cụ thể hoá những nguyên tắc đó để phát triển quan hệ giữa hai nước trong thế kỷ mới. Bối cảnh quốc tế trong nhiều thế kỷ mới cũng đòi hỏi nhân dân hai nước Việt Nam – Trung Quốc thắt chặt hơn nữa tình cảm hữu nghị và quan hệ hợp tác giữa hai nước. Đó là những nhân tố thuận lợi căn bản để quan hệ Việt Nam – Trung Quốc tiếp tục phát triển trong thời gian tới . Mặt khác, chúng ta cũng cần thấy rõ những vấn đề tồn tại hiện nay tìm ra cách giải quyết thoả đáng khắc phục những chướng ngại bảo đảm cho quan hệ Việt Nam – Trung Quốc tiếp tục phát triển tốt đẹp. Trong thời gian tới hai nước sẽ cố gắng làm hết sức mình với những biện pháp cụ thể để phát triển hơn nữa quan hệ thương mại giữa hai nước. Viet Nam tin tưởng rằng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam và Đảng Cộng Sản Trung Quốc với những thành tích đã đạt được và trong khuôn khổ quan hệ mới được xác lập, chúng ta có cơ sở để tin tưởng sâu sắc rằng mối quan hệ Việt Nam – Trung Quốc sẽ mãi mãi xanh tươi và đời đời bền vững góp phần vào thắng lợi của công cuộc đổi mới ở Việt Nam và công cuộc cải cách mở cửa của Trung Quốc đưa hai dân tộc Việt Nam – Trung Quốc bước vào thế kỷ 21 với tầm cao mới. Dù đã cố gắng rất nhiều trong thời gian thực tập và hoàn thành khoá luận. Nhưng do thời gian, tài liệu thu thập hạn chế nên bài viết còn chưa đề cập đầy đủ được các vấn đề có liên quan. Rất mong nhận được sự chỉ bảo đóng góp ý kiến của các thầy các cô giáo và các bạn. Danh mục tài liệu tham khảo 1.Quan hệ Việt Nam – Trung Quốc: Nhìn lại 10 năm và triển vọng, Nxb Khoa học xã hội – 2002 2.www.dangcongsan.com.vn 3.www.chinadaily.com.cn 4.www.nguoilaodong.online 5.Thời báo Kinh tế Việt Nam các số năm 2006, 2007 Mục lục

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc7326.doc
Tài liệu liên quan