Đề tài Quyền tự do kinh doanh trong thành lập doanh nghiệp và quyền tự do ký kết hợp đồng kinh tế trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam

Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, trong đó các doanh nghiệp là hạt nhân, Luật pháp về doanh nghiệp ở Việt Nam đã có bước phát triển mới đáp ứng được đòi hỏi của thực tiễn, tạo ra môi trường pháp lý mới thuận lợi, thông thoáng, an toàn và hấp dẫn hơn đối với người đầu tư. Với sự ra đời của Luật Doanh nghiệp và Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế, năng lực sản xuất của các thành phần kinh tế được giải phóng, quyền của người dân được khẳng định. Đây là điều có ý nghĩa quyết định để phát huy nội lực, khơi dậy tiềm lực sáng tạo, khuyến khích tinh thần kinh doanh trong nhân dân, thúc đẩy toàn dân làm giàu cho đất nước mình. Mặc dù trong quá trình thực hiện cùng với sự phát triển nhanh chóng của đất nước, các văn bản này đã xuất hiện những bất cập, hạn chế. Nhưng khi chúng được khắc phục, hoàn thiện, tôi tin tưởng rằng chúng sẽ phát huy được tính ưu việt vốn có của mình tạo ra môi trường thông thoáng cho kinh doanh, giảm thiểu được rủi ro cho nhà đầu tư, phát huy mạnh mẽ các nguồn nội lực để phát triển đất nước và tăng thêm niềm tin, tính sáng tạo của nhân dân, doanh nghiệp trong thiên niên kỷ mới.

doc70 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1672 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Quyền tự do kinh doanh trong thành lập doanh nghiệp và quyền tự do ký kết hợp đồng kinh tế trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tỏ ra không còn phù hợp với yêu cầu của cơ chế quản lý kinh tế mới. Hội đồng Chính phủ đã ra Nghị định số 54/CP ngày 10/03/1975 ban hành Điều lệ về chế độ hợp đồng kinh tế. Điều lệ này đã tổng kết kinh nghiệm thực tiễn của 15 năm công tác hợp đồng kinh tế, hệ thống lại các quy định đã có, bãi bỏ quy định không còn thích hợp, bổ sung nhiều quy định mới và là Điều lệ chính thức đầu tiên về hợp đồng kinh tế. Thứ tư: Pháp luật hợp đồng kinh tế trong thời kỳ đổi mới cơ chế quản lý kinh tế (từ năm 1989 đến nay): Đại hội Đảng lần thứ VI (12/1986) đã quyết định chủ trương đổi mới cơ chế quản lý kinh tế theo hướng xoá bỏ tập trung quan liêu bao cấp, xây dựng chế độ mới phù hợp với quy luật khách quan và với trình độ phát triển của nền kinh tế. Cơ chế quản lý kinh tế mới coi nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần là một đặc trưng quan trọng, coi trọng việc sử dụng đúng đắn các quan hệ hàng hoá - tiền tệ, bảo đảm quyền tự chủ kinh doanh của doanh nghiệp trong việc tiếp cận nhu cầu của thị trường. Cơ chế quản lý kinh tế mới đòi hỏi phải đổi mới pháp luật hợp đồng kinh tế, đòi hỏi chế độ hợp đồng kinh tế phải quy định có căn cứ khoa học về nội dung và bằng một hình thức văn bản cao hơn các hình thức văn bản hiện hành. Do đó, Pháp lệnh hợp đồng kinh tế do Hội đồng Nhà nước thông qua ngày 25/09/1989 đã ra đời. Pháp lệnh gồm: 5 chương, 45 điều quy định một cách hệ thống chế độ hợp đồng kinh tế với tư tưởng chỉ đạo là tôn trọng quyền tự chủ sản xuất, kinh doanh và đề cao trách nhiệm của các đơn vị kinh tế trong điều kiện nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. II. Khái niệm hợp đồng kinh tế trong nền kinh tế thị trường tại Việt Nam. 1. Khái niệm hợp đồng kinh tế. Khi Đảng và Nhà nước ta quyết định chuyển nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước thì quan điểm về hợp đồng kinh tế như trước kia là còn phù hợp nữa. Và để đáp ứng nhu cầu khách quan của việc điều chỉnh các quan hệ kinh tế, Hội đồng Nhà nước(nay là Uỷ ban thường vụ Quốc hội) đã ban hành Pháp lệnh hợp đồng kinh tế ngày 25/09/1989. Theo Điều 1 của Pháp lệnh, khái niệm hợp đồng kinh tế được ghi nhận như sau : “ Hợp đồng kinh tế là sự thoả thuận bằng văn bản, tài liệu giao dịch giữa các bên ký kết về việc thực hiện công việc sản xuất, trao đổi hàng hoá, dịch vụ, nghiên cứu ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và các thoả thuận khác có mục đích kinh doanh với sự quy định rõ ràng về quyền và nghĩa vụ của mỗi bên để xây dựng và thực hiện kế hoạch của mình ”. Trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung và bao cấp trước đây, hợp đồng kinh tế có những vai trò và chức năng cực kỳ “vĩ đại”. Hợp đồng kinh tế được coi là công cụ cơ bản để quản lý nền kinh tế xã hội chủ nghĩa.Nhưng trong nền kinh tế thị trường, hợp đồng kinh tế không còn là công cụ pháp lý của Nhà nước, không còn là công cụ để xây dựng và thực hiện kế hoạch của Nhà nước như cơ chế tập trung quan liêu bao cấp trước đây nữa. Hợp đồng kinh tế là sự thoả thuận của các chủ thể kinh doanh theo nguyên tắc tự do, tự nguyện. Nhà nước chỉ có thể sử dụng pháp luật để tác động vào các quan hệ kinh tế đảm bảo lợi ích chính đáng của các bên tham gia quan hệ hợp đồng đó và lợi ích chung của toàn xã hội. Như vậy, chỉ có pháp luật về hợp đồng mới là công cụ của Nhà nước chứ không phải là hợp đồng.Nhà nước chỉ có thể áp dụng pháp luật của mình để can thiệp vào các quan hệ hợp đồng của các chủ thể kinh doanh, chứ không thể sử dụng hợp đồng đó để can thệp vào chính quan hệ hợp đồng. Rõ ràng hợp đồng kinh tế là công cụ của các nhà kinh doanh chứ không thể là công cụ của Nhà nước như trước đây. Vậy vai trò của hợp đồng kinh tế trong nền kinh tế thị trường hiện nay đã khác hẳn vai trò của hợp đồng kinh tế trong cơ chế tập trung quan liêu bao cấp trước đây. Nhận thức không đúng về hợp đồng kinh tế sẽ làm giảm đi vai trò to lớn của hợp đồng kinh tế trong nền kinh tế thị trường. 2. Đặc điểm của hợp đồng kinh tế. Từ khái niệm hợp đồng kinh tế ở trên ta rút ra một số đặc điểm sau về hợp đồng kinh tế: Hợp đồng kinh tế là sự thoả thuận giữa các bên ký kết. Quan hệ ý chí ở đây được xác lập một cách tự nguyện bình đẳng. Sự thoả thuận ở đây được thể hiện dưới hình thức văn bản hoặc tài liệu giao dịch theo quy định của pháp luật. Mục đích của hợp đồng phục vụ việc kinh doanh của các bên. Hợp đồng kinh tế là hình thức pháp lý của các quan hệ trao đổi, mua bán hàng hoá, vật tư … nhằm mục đích sản xuất kinh doanh, phục vụ việc xây dựng và thực hiện kế hoạch của chính các bên ký kết hợp đồng . Chủ thể của hợp đồng kinh tế là pháp nhân và cá nhân có đăng ký kinh doanh nhưng ít nhất một bên phải là pháp nhân. 3. Phân biệt Hợp đồng kinh tế và hợp đồng dân sự. Trong điều kiện của nền kinh tế hiện nay, quan hệ tài sản trong hợp đồng kinh tế và trong hợp đồng dân sự không còn có sự khác nhau như trước đây nữa. Chúng đều là quan hệ hàng hoá tiền tệ và đều phản ánh nhu cầu của thị trường. Chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng kinh tế hay hợp đồng dân sự cũng đều là cá nhân và pháp nhân, do đó giữa hợp đồng kinh tế và hợp đồng dân sự không còn ranh giới rõ ràng nữa. Hợp đồng kinh tế hay hợp đồng dân sự đều là sự thoả thuận giữa các chủ thể về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng về quyền, nghĩa vụ và không trái pháp luật. Mặc dù vậy, giữa hợp đồng kinh tế và hợp đồng dân sự vẫn có một số điểm khác biệt sau đây: Một là: Quan hệ tài sản do hợp đồng dân sự điều chỉnh phát sinh trong lĩnh vực tiêu dùng và nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng. Còn quan hệ tài sản do hợp đồng kinh tế điều chỉnh phát sinh trong hoạt động kinh doanh. Như vậy, mục đích của các bên tham gia quan hệ dân sự là nhằm thoả mãn nhu cầu tiêu dùng, còn mục đích của các bên tham gia quan hệ hợp đồng kinh tế là để kinh doanh kiếm lời. Hai là: Chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng kinh tế và dân sự cũng có sự khác nhau.Nhu cầu tiêu dùng thì ai cũng có, cho nên mọi tổ chức, mọi cá nhân có đủ năng lực hành vi pháp lý và năng lực hành vi dân sự đều có thể ký kết hợp đồng dân sự để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của mình. Nhưng hợp đồng kinh tế chỉ được ký kết giữa pháp nhân với pháp nhân và pháp nhân với cá nhân có đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật. Ba là: Hình thức của hợp đồng kinh tế thì phải được ký kết bằng văn bản. Còn hình thức của hợp đồng dân sự thì không bắt buộc phải ký kết bằng văn bản. Hình thức của hợp đồng dân sự có thể được ký kết bằng lời nói, văn bản hoặc hành vi cụ thể khi pháp luật không quy định đối với loại hợp đồng đó phải được ký kết bằng một hình thức nhất định. III. Quyền ký kết hợp đồng kinh tế trong nền kinh tế thị trường . Như đã nói ở trên, mỗi một cơ chế kinh tế thì có một kiểu pháp luật hợp đồng kinh tế riêng của mình. Bởi vậy, quyền ký kết hợp đồng kinh tế của Doanh nghiệp ở mỗi thời kỳ là khác nhau. 1. Thời kỳ khôi phục kinh tế và cải tạo xã hội chủ nghĩa nền kinh tế quốc dân (1954- 1959). Vào cuối những năm 50, nền kinh tế nước ta còn là một nền kinh tế nhiều thành phần. Lúc đó, nền kinh tế quốc doanh tuy giữ vai trò chủ đạo, nhưng chưa lớn mạnh, kinh tế tập thể còn nhỏ yếu, kinh tế tư bản Nhà nước còn ở trình độ thấp, kinh tế cá thể trong nông nghiệp và thủ công nghiệp còn rất rộng lớn, kinh tế tư bản tư doanh vẫn còn tồn tại. Để điều chỉnh quan hệ hợp đồng trong hoạt động kinh tế của các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau như vậy, Chính phủ đã ban hành Điều lệ tạm thời về hợp đồng kinh doanh số 735- TTg ngày 10/4/1956. Có thể nói rằng, bản Điều lệ này đã phản ánh và định hướng cho các quan hệ kinh tế thị trường vào những năm đó. Với 4 chương 22 điều, bản Điều lệ đã điều chỉnh có hiệu quả quan hệ hợp đồng kinh doanh giữa các chủ thể kinh doanh. Điều lệ đã đưa ra các nguyên tắc ký kết hợp đồng kinh doanh thể hiện rõ bản chất của hợp đồng và phù hợp với thông lệ quốc tế. Điều 3 Điều lệ viết: "Hợp đồng phải xây dựng trên nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, thật thà, hai bên cùng có lợi và có lợi cho nền kinh tế quốc dân". Các chủ thể được tự nguyện trong giao kết hợp đồng nghĩa là họ không chịu sự áp đặt của bất cứ tổ chức, cá nhân nào. Họ được do tìm bạn hàng, tự do thoả thuận, lựa chọn đối tượng để ký hợp đồng. Các bên được bình đẳng, tức là ngang nhau về quyền lợi và nghĩa vụ đối với bản hợp đồng, đối với pháp luật. Phải thật thà không được lừa dối, dựa vào hợp đồng nhằm kiếm lời không chính đáng cho mình, làm hại cho các bên tham gia ký kết với mình hoặc hại cho lợi ích quốc gia. Theo điều 4 của Điều lệ, chủ thể của hợp đồng rất rộng, phù hợp với cơ chế nhiều thành phần khi đó: "Bản Điều lệ này áp dụng cho tất cả các cơ sở kinh doanh muốn ký kết hợp đồng với nhau, bất cứ là quốc doanh hay tư doanh, bất cứ là người Việt Nam hay ngoại kiều kinh doanh trên đất nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà". 2. Thời kỳ bước đầu xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung (1960- 1974). Đầu năm 1960 khi công cuộc khôi phục và phát triển kinh tế sắp hoàn thành thì cũng là lúc kết cấu thành phần kinh tế nước ta có sự thay đổi căn bản. Kinh tế quốc doanh dần dần nắm vai trò chủ đạo, kinh tế tập thể đã được mở rộng qua phong trào hợp tác xã hoá trong nông nghiệp và thủ công nghiêp, kinh tế tư bản tư doanh đã được thay thế bằng hình thức tư bản nhà nước chủ yếu dưới dạng công tư hợp doanh. Vào thời điểm này, Nhà nước ta đã xác định bước vào xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, một nền kinh tế chỉ còn tồn tại hai thành phần kinh tế chủ yếu là quốc doanh và tập thể được vận hành theo cơ chế kế hoạnh hoá tập trung cao độ. Trong điều kiện đó, Điều lệ tạm thời về hợp đồng kinh doanh không còn thích hợp nữa. Các nguyên tắc hoàn toàn tự do, tự nguyện, bình đẳng, thật thà, hai bên cùng có lợi không còn phù hợp nữa. Sự thay đổi của cơ chế kinh tế dẫn đến sự thay đổi của pháp luật. Do đó, Nhà nước ta đã ban hành Điều lệ tạm thời về chế độ hợp đồng kinh tế kèm theo Nghị định số 04- TTg ngày 04/01/1960.Điều lệ này có 13 điều được chia thành 4 chương nhằm mục đích thông qua việc ký kết hợp đồng kinh tế mà tăng cường quan hệ và trách nhiệm giữa các xí nghiệp quốc doanh và cơ quan nhà nước trong việc bảo đảm thắng lợi kế hoạch Nhà nước và những nguyên tắc của chế độ hạch toán kinh tế. Về nguyên tắc ký kết, điều 2 coi "ký kết hợp đồng kinh tế là một kỷ luật bắt buộc trong quan hệ kinh tế giữa các xí nghiệp quốc doanh, các cơ quan nhà nước". Cơ sở để ký kết là chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước. Các xí nghiệp quốc doanh, các cơ quan Nhà nước chỉ được ký kết trong phạm vi chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước. Hợp đồng kinh tế chỉ được điều chỉnh hay huỷ bỏ khi Nhà nước điều chỉnh hay huỷ bỏ chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước. Về chủ thể, theo Điều 7 của Điều lệ thì: "trách nhiệm ký kết hợp đồng là trách nhiệm của Bộ trưởng hoặc Thứ trưởng, Tổng cục trưởng, Chủ tịch hoặc Phó chủ tịch UBND địa phương, Giám đốc hoặc Phó giám đốc các xí nghiệp quốc doanh TW hoặc địa phương. Bộ trưởng hoặc Thứ trưởng, Tổng cục trưởng, Chủ tịch hoặc Phó chủ tịch UBND địa phương ký kết các hợp đồng dài hạn hợp đồng nguyên tắc có quan hệ giữa hai hay nhiều ngành ở TW hoặc địa phương để làm cơ sở cho những cơ quan, xí nghiệp ký kết các hợp đồng kinh tế cụ thể". Như vậy, theo tinh thần của bản Điều lệ này thì quan hệ hợp đồng kinh tế chỉ tồn tại trong khu vực quốc doanh. Hợp đồng được ký kết giữa các xí nghiệp quốc doanh và hợp tác xã không được coi là hợp đồng kinh tế vì các hợp tác xã chưa phải là những đơn vị hạch toán kinh tế, trình độ kế hoạch và trình độ quản lý còn thấp. Đến cuối thập kỷ 60, Đảng và Nhà nước chủ trương bước đầu cải tiến quản lý kinh tế. Pháp luật hợp đồng kinh tế đã có bước phát triển mới với Quyết định số 113/TTg ngày 11/09/1965 và chỉ thị số 17/TTg ngày 20/07/1967 quy định bổ sung và sửa đổi một số vấn đề sau: -Diện ký kết hợp đồng kinh tế được mở rộng đến Hợp tác xã có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật. -Căn cứ để ký kết hợp đồng kinh tế bao gồm cả phương hướng, nhiêm vụ kế hoạnh. -Các đơn vị kinh tế có thể ký kết các hợp đồng kinh tế ngoài kế hoạch Nhà nước. -Các bên có thể thoả thuận tạm thời sửa đổi hợp đồng khi có sự biến động về kinh tế xã hội. Như vậy trong thời kỳ này, hợp đồng kinh tế đã trở thành công cụ pháp lý của việc thực hiện kế hoạch Nhà nước. Do quan niệm kế hoạch Nhà nước là pháp lệnh cho nên việc ký kết và thực hiện hợp đồng kinh tế là kỷ luật của Nhà nước đối với các cơ quan, tổ chức kinh tế. Hợp đồng kinh tế mang đậm nét yếu tố tổ chức-kế hoạch, yếu tố tài sản trong hợp đồng chỉ là thứ yếu. Chế độ hợp đồng kinh tế đáp ứng đòi hỏi của cơ chế quản lý kế hoạch hoá tập trung nền kinh tế quốc dân trong một thời kỳ nhất định. 3.Thời kỳ thực hiện chủ trương cải tiến kinh tế (1975- 1988). Sau 15 năm thực hiện chế độ hợp đồng kinh tế theo Điều lệ tạm thời về chế độ hợp đồng kinh tế ban hành kèm theo Nghị định 04-TTg ngày 04/01/1960, Nhà nước ta đã ban hành Điều lệ về chế độ hợp đồng kinh tế kèm theo Nghị định số 54-CP ngày 10/3/1975. Đây là bản Điều lệ chính thức đầu tiên (trước đó chỉ là các Điều lệ "tạm thời") của Nhà nước ta về chế độ hợp đồng kinh tế gồm 27 điều, không chia thành chương, mục. Về nguyên tắc ký kết, vẫn với quan điểm hướng nền kinh tế theo một kế hoạch tập trung thống nhất và coi hợp đồng kinh tế là một công cụ để thực hiện kế hoạnh cho nên bản Điều lệ đã đề ra nguyên tắc ký kết hợp đồng kinh tế tại Điều 2: "ký kết hợp đồng kinh tế là một kỷ luật Nhà nước". Nhà nước bắt buộc các tổ chức ký kết hợp đồng kinh tế trong mọi hoạt động kinh tế có liên quan với nhau. Tính bắt buộc đó là do tính pháp lệnh của kế hoạch Nhà nước quy định. Để bảo đảm kỷ luật ký kết hợp đồng kinh tế, Nhà nước quy định các trường hợp các tổ chức kinh tế được miễn ký kết hợp đồng kinh tế. Ngoài ra, Nhà nước còn áp dụng các biện pháp, hình thức trách nhiệm pháp lý đối với các tổ chức từ chối hoặc trì hoãn ký kết hợp đồng kinh tế. Về chủ thể, Điều lệ quy định các tổ chức sau đây phải ký kết hợp đồng kinh tế: -Tổ chức quốc doanh; -Các tổ chức công ty hợp doanh; -Các cơ quan quản lý Nhà nước, các đơn vị bộ đội, các tổ chức xã hội (gọi là đơn vị hợp toán); -Hợp tác xã các loại được công nhận theo các Điều lệ hiện hành; -Các tổ chức sản xuất thủ công nghiệp và tiểu công nghiệp được phép kinh doanh và có tài sản ở ngân hàng; Như vậy, chủ thể của hợp đồng kinh tế đã được mở rộng hơn so với Điều lệ tạm thời về chế độ hợp đồng kinh tế kèm theo Nghị định số 04- TTg ngày 04/01/1960 và một số văn bản quy định sửa đổi và bổ sung đã nêu ở trên. Nghiên cứu pháp luật về hợp đồng kinh tế trong thời kỳ này cho thấy Nhà nước đã có những cải tiến mạnh mẽ chế độ hợp đồng kinh tế theo hướng mở rộng quyền tự chủ và chủ động trong hoạt động kinh doanh của các tổ chức kinh tế, kiên quyết xoá bỏ lối quản lý hành chính không phù hợp với các yêu cầu của nguyên tắc hạch toán kinh tế và phương thức kinh doanh xã hội chủ nghĩa. 4. Thời kỳ đổi mới cơ chế quản lý kinh tế (từ năm 1989 đến nay). Thực hiện đường lối đổi mới cơ chế kinh tế của Đảng và Nhà nước, đất nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước thì các quan hệ kinh tế giữa các đơn vị kinh tế mang nội dung mới về chất. Trong điều kiện đó, Điều lệ về chế độ hợp đồng kinh tế ban hành kèm theo Nghị định 54- CP ngày 10/03/1975 của Hội đồng Chính phủ và các văn bản pháp luật khác về hợp đồng kinh tế không còn phù hợp nữa. Nhà nước đã ban hành Pháp lệnh hợp đồng kinh tế ngày 25/09/1989, Nghị định số 17- HĐBT ngày 16/01/1990 và nhiều văn bản khác để điều chỉnh các quan hệ hợp đồng theo quan điểm đổi mới. Trong nền kinh tế thị trường việc ký kết hợp đồng kinh tế về nguyên tắc không còn là kỷ luật Nhà nước, không còn là nghĩa vụ của các tổ chức, cơ quan và các đơn vị kinh tế nữa mà là công việc "riêng" của các chủ thể kinh doanh. Đó là quyền tự do hợp đồng, một trong những nội dung quan trọng của quyền tự do kinh doanh. Các nhà kinh doanh tham gia ký kết hợp đồng kinh tế không phải vì lợi ích của Nhà nước mà vì lợi ích của chính họ, vì nhiu cầu của hoạt động kinh doanh. Điểm đổi mới cơ bản và quan trọng nhất của chế độ hợp đồng kinh tế trong thời kỳ này là đổi mới bản chất của hợp đồng kinh tế. Thể hiện ở các quy định về chủ thể và các nguyên tắc ký kết của hợp đồng kinh tế. 4.1 Các nguyên tắc ký kết hợp đồng kinh tế trong nền kinh tế thị trường. Để đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng của các bên tham gia quan hệ hợp đồng, bảo vệ lợi ích của xã hội, việc ký kết hợp đồng kinh tế phải tuân theo những nguyên tắc nhất định do pháp luật về hợp đồng kinh tế quy định. Đó là những tư tưởng chỉ đạo được ghi nhận trong Pháp lệnh hợp đồng kinh tế. Khi ký kết hợp đồng kinh tế các bên phải tuân thủ một cách triệt để. Nếu các bên không tuân thủ, hợp đồng kinh tế do các bên ký kết sẽ bị vô hiệu. Điều đó thể hiện sự can thiệp của Nhà nước vào những quan hệ hợp đồng kinh tế cụ thể. Nhưng Nhà nước chỉ can thiệp nếu các bên ký kết hợp đồng vi phạm những nguyên tắc ký kết hợp đồng mà pháp luật đã quy định tại Điều 3 Pháp lệnh hợp đồng kinh tế: "Hợp đồng kinh tế được ký kết theo nguyên tắc tự nguyện, cùng có lợi, bình đẳng về quyền và nghĩa vụ, trực tiếp chịu trách nhiệm tài sản, và không trái pháp luật". 4.1.1 Nguyên tắc tự nguyện. Hợp đồng kinh tế cũng như hợp đồng dân sự là sự thoả thuận của các bên tham gia ký kết, do đó việc ký kết hợp đồng kinh tế phải dựa trên cơ sở tự do ý chí của các bên. Điều đó có nghĩa là các bên tham gia quan hệ hợp đồng có quyền cùng nhau bày tỏ ý chí của mình. Việc bày tỏ ý chí đó hoàn toàn tự nguyện, là ý muốn thực sự của các bên nhằm mục đích nhất định chứ không phải do sự áp đặt, ép buộc của bất kỳ tổ chức hay cá nhân nào. Quan hệ hợp đồng kinh tế chỉ hình thành và có giá trị nếu các bên thống nhất ý chí với nhau một cách tự nguyện. Việc ký kết hay không ký kết một hợp đồng cụ thể nào đó là do người kinh doanh quyết định, vì đó là quyền chứ không phải là nghĩa vụ. Điều 4 Pháp lệnh hợp đồng kinh tế đã quy định : "Ký kết hợp đồng kinh tế là quyền của các đơn vị kinh tế". Quyền tự do hợp đồng bao gồm những nội dung chính thức sau : -Tự do lựa chọn bạn hàng. -Tự do thoả thuận các điều khoản trong hợp đồng (tức là tự do thoả thuận về đối tượng của hợp đồng, về số lượng, chất lượng, thời gian giao nhận hàng hoá, giá cả, tự do thoả thuận các biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng …). -Tự do lựa chọn thời điểm giao kết hợp đồng. Trong nền kinh tế thị trường, về nguyên tắc Nhà nước không thể can thiệp trực tiếp vào quan hệ hợp đồng kinh tế như trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung và bao cấp trước đây. Vì trong nền kinh tế thị trường, mỗi đơn vị kinh tế là một người kinh doanh độc lập, họ hoàn toàn chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Họ phải hạch toán kinh doanh thực sự, lấy thu bù chi, đảm bảo có lãi, lời hưởng, lỗ chịu. Nhà nước không "bao cấp" cho họ nên không được can thiệp sâu vào hoạt động kinh doanh của họ. Người kinh doanh được quyền tự do giao kết hợp đồng kinh tế để đáp ứng nhu cầu kinh doanh. Quyền tự do ký kết hợp đồng kinh tế chỉ bị giới hạn bởi các điều kiện sau đây : -Việc ký kết hợp đồng kinh tế phải phục vụ cho hoạt động kinh doanh đã đăng ký. -Các bên không được lợi dụng quyền tự do ký kết hợp đồng kinh tế để hoạt động trái pháp luật. -Việc ký kết hợp đồng kinh tế theo chỉ tiêu kế hoạch pháp lệnh là bắt buộc, tức là các đơn vị kinh tế được Nhà nước giao cho chỉ tiêu kế hoạch pháp lệnh thì có nghĩa vụ ký kết hợp đồng kinh tế để thực hiện chỉ tiêu kế hoạch pháp lệnh đó. Có thể coi nghĩa vụ ký kết hợp đồng kinh tế của các đơn vị kinh tế được Nhà nước giao chỉ tiêu kế hoạch pháp lệnh (các doanh nghiệp Nhà nước) là một trường hợp ngoại lệ, vì việc ký kết hợp đồng kinh tế theo chỉ tiêu pháp lệnh không tuân theo quy tắc tự nguyện. Đây là một nét đặc thù trong pháp luật về hợp đồng kinh tế ở nước ta phù hợp với nền kinh tế thị trường với vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh. Các đơn vị kinh tế quốc doanh còn có thể được Nhà nước giao chỉ tiêu kế hoạch pháp lệnh và có nghĩa vụ ký kết hợp đồng kinh tế để thực hiện chỉ tiêu kế hoạch pháp lệnh đó. Nhà nước với tư cách là chủ sở hữu của các doanh nghiệp Nhà nước nên có quyền can thiệp trực tiếp vào quan hệ hợp đồng kinh tế giữa các doanh nghiệp Nhà nước với nhau. Mục đích của sự can thiệp đó là nhằm đảm bảo sự phát triển cân đối, toàn diện của nền kinh tế quốc dân, đáp ứng nhu cầu chung, nhu cầu cần thiết của toàn xã hội. Việc ký kết và thực hiện hợp đồng kinh tế theo chỉ tiêu kế hoạch pháp lệnh được quy định trong một văn bản pháp luật riêng. Đó là Quyết định số 18-HĐBT ngày 16/01/1990 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) về việc ký kết và thực hiện hợp đồng kinh tế theo chỉ tiêu kế hoạch pháp lệnh. Có thể nói, quan hệ hợp đồng kinh tế giữa các đơn vị kinh tế được giao chỉ tiêu pháp lệnh là quan hệ "nội bộ" trong khu vực kinh tế quốc doanh. Vì chỉ có doanh nghiệp Nhà nước mới được Nhà nước giao chỉ tiêu pháp lệnh. Quan hệ đó chịu sự chi phối mạnh mẽ bởi chỉ tiêu pháp lệnh tức là bởi ý chí của Nhà nước nên quan hệ đó không phải là quan hệ hợp đồng theo đúng nghĩa cua nó. Sở dĩ có hiện tượng như vậy, vì Nhà nước vẫn là chủ sở hữu duy nhất tài sản, vốn kinh doanh của các doanh nghiệp Nhà nước. 4.1.2.Nguyên tắc cùng có lợi. Trong nền kinh tế thị trường mỗi người kinh doanh là một đơn vị sản xuất, sản xuất hàng hoá độc lập. Các bên tham gia vào quan hệ hợp đồng kinh tế xuất phát từ lợi ích riêng của mình. Do đó, trong mọi quan hệ hợp đồng kinh tế phải đảm bảo đồng thời lợi ích cho các bên. Các bên phải biết tôn trọng lợi ích của nhau. Không để cho lợi ích của bên kia lấn át lợi ích của mình và ngược lại, cũng không vì lợi ích của mình mà lấn át lợi ích của bạn hàng. Điều đó đòi hỏi các bên trong quá trình đàm phán ký kết hợp đồng kinh tế phải biết mình, biết người. Các bên phải cùng nhau bàn bạc để thoả thuận với nhau những điều khoản hợp đồng có lợi nhất cho cả hai bên, không được lừa dối chèn ép bạn hàng. Các bên ký kết hợp đồng cùng có lợi không có nghĩa là các bên có lợi ích như nhau hay bằng nhau mà mỗi bên có lợi ích riêng của mình. Lợi ích của các bên gắn liền với mục đích riêng của các bên trong quan hệ hợp đồng. 4.1.3.Nguyên tắc bình đẳng về quyền và nghĩa vụ. Quan hệ hợp đồng kinh tế là quan hệ giữa các chủ thể bình đẳng với nhau. Các chủ thể có quyền và nghĩa vụ ngang nhau trong quá trình ký kết cũng như thực hiện hợp đồng. Điều kiện căn bản để hình thành hợp đồng như chúng ta đã biết là có sự thống nhất ý chí của các bên, tức là có sự tồn tại của một thoả thuận. Hợp đồng thể hiện ý chí của các bên. Do đó, trong quan hệ hợp đồng kinh tế bên nào cũng có quyền và nghĩa vụ. Quyền và nghĩa vụ của các chủ thể bao giờ cũng tương xứng với nhau. Quyền của bên này là nghĩa vụ của bên kia và ngược lại. Không một hợp đồng kinh tế nào chỉ một bên có quyền hoặc chỉ một bên có nghĩa vụ. Sự bình đẳng về quyền và nghĩa vụ của các bên thể hiện trong quá trình đàm phán ký kết hợp đồng kinh tế. Các bên đều có quyền đưa ra yêu cầu của mình và đều có quyền chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu của bên kia, không bên nào có quyền ép buộc bên nào. Quan hệ hợp đồng kinh tế chỉ hình thành khi các bên thống nhất với nhau về các điều khoản hợp đồng. Trong điều kiện của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, các chủ thể tham gia hợp đồng kinh tế rất đa dạng, việc ghi nhận nguyên tắc bình đẳng về quyền và nghĩa vụ của các đương sự trong quan hệ hợp đồng kinh tế có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc đảm bảo quyền bình đẳng về mặt pháp lý giữa các thành phần kinh tế trong hoạt động kinh doanh, tăng cường quan hệ hợp tác làm ăn giữa các đơn vị kinh tế của các thành phần kinh tế, khuyến khích sự phát triển và đa dạng hoá các quan hệ kinh tế trong nền kinh tế thị trường. 4.1.4.Nguyên tắc trực tiếp chịu trách nhiệm tài sản. Trực tiếp chịu trách nhiệm tài sản có nghĩa là các bên tham gia quan hệ hợp đồng kinh tế phải tự mình gánh vác trách nhiệm tài sản, gồm phạt vi phạm hợp đồng và bồi thường thiệt hại khi có hành vi vi phạm hợp đồng kinh tế, trừ trường hợp người bảo lãnh đứng ra chịu trách nhiệm thay. Các cơ quan cấp trên, các tổ chức kinh tế khác không thể đứng ra chịu trách nhiệm tài sản thay cho bên vi phạm. 4.1.5.Nguyên tắc không trái pháp luật. Như ở phần trên chúng ta đã biết, các bên tham gia ký kết hợp đồng kinh tế có quyền tự do thoả thuận các điều khoản của hợp đồng. Pháp luật hợp đồng kinh tế tôn trọng ý chí của các bên. Điều đó không có nghĩa là các bên muốn thoả thuận với nhau như thế nào cũng được. Ý chí của các bên chỉ được tôn trọng nếu ý chí đó phù hợp với pháp luật. Có nghĩa là, các bên có quyền thoả thuận, nhưng mọi thoả thuận trong hợp đồng không được vi phạm các điều cấm của pháp luật mà phải phù hợp với các quy định của pháp luật. Các bên không được lợi dụng quyền tự do ký kết hợp đồng để hoạt động trái pháp luật gây thiệt hại cho xã hội và các chủ thể khác. Nếu các bên thoả thuận trái với pháp luật thì các thoả thuận đó sẽ vô hiệu và có thể làm cho hợp đồng đó vô hiệu. Chẳng hạn, các bên thoả thuận với nhau về sản xuất hàng giả, chuyên chở hàng cấm thì rõ ràng sự thoả thuận này không có giá trị. Điều này thể hiện sự can thiệp của Nhà nước vào quan hệ hợp đồng nói chung và quan hệ hợp đồng của các nhà kinh doanh nói riêng. Các nhà kinh doanh có quyền tự do kinh doanh, tự do hợp đồng nhưng phải trong khuôn khổ của pháp luật. Quyền tự do nào cũng có giới hạn của nó, không thể tự do tuyệt đối. Nguyên tắc này có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ kỷ cương của Nhà nước trong hoạt động kinh doanh, bảo vệ lợi ích chung của toàn xã hội. 4.2. Chủ thể của hợp đồng kinh tế và thẩm quyền ký kết hợp đồng kinh tế. 4.2.1.Chủ thể của hợp đồng kinh tế Chủ thể của hợp đồng kinh tế là các bên tham gia ký kết hợp đồng kinh tế Điều 2 Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế quy định: "Hợp đồng kinh tế được ký kết giữa các bên sau đây: Pháp nhân với pháp nhân; Pháp nhân với cá nhân có đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật". Mặc dù pháp nhân và cá nhân có đăng ký kinh đoanh đều có thể là chủ thể của hợp đồng kinh tế, nhưng ít nhất phải có một bên là pháp nhân còn bên kia có thể là cá nhân hoặc pháp nhân có đăng ký kinh doanh. Hợp đồng được ký kết giữa hai cá nhân có đăng ký kinh doanh nhằm mục đích kinh doanh không được coi là hợp đồng kinh tế, vì không có một bên là pháp nhân. Ngay cả trường hợp hai doanh nghiệp tư nhân ký hợp đồng với nhau để thực hiện hoạt động kinh doanh cũng vẫn không được coi là hợp đồng kinh tế, vì doanh nghiệp tư nhân cũng không có tư cách pháp nhân. Điều 42 Pháp lệnh hợp đồng kinh tế còn công nhận cả một số cá nhân không có đăng ký kinh doanh (tức là không phải chủ thể kinh doanh) cũng có thể trở thành chủ thể của hợp đồng kinh tế: "Các quy định của pháp lệnh này có thể được áp dụng trong việc ký kết và thực hiện hợp đồng giữa các pháp nhân với người làm công tác khoa học-kỹ thuật, nghệ nhân, hộ kinh tế gia đình, hộ nông dân, ngư dân cá thể". Ngoài ra, các tổ chức cá nhân nước ngoài tại Việt nam cũng có thể trở thành chủ thể của hợp đồng kinh tế như quy định tại Điều 43 Pháp lệnh hợp đồng kinh tế: "Các quy định của Pháp lệnh này được áp dụng trong việc ký kết và thực hiện hợp đồng giữa pháp nhân Việt nam với các tổ chức, cá nhân nước ngoài tại Việt nam". Như vậy, phạm vi chủ thể của hợp đồng kinh tế là rất rộng nhưng pháp lệnh hợp đồng kinh tế lại chỉ công nhận một hợp đồng là hợp đồng kinh tế khi có ít nhất một bên tham gia là pháp nhân, do đó phạm vi của hợp đồng kinh tế đã bị thu hẹp lại. Dẫn đến một số hợp đồng đã bị loại ra khỏi phạm vi điều chỉnh của hợp đồng kinh tế mà bản chất của những hợp đồng này là hợp đồng kinh tế. 4.2.2. Thẩm quyền ký kết hợp đồng kinh tế. Một vấn đề liên quan đến chủ thể ký kết hợp đồng kinh tế là đại diện ký kết hợp đồng kinh tế. Ở đây muốn nói ai là người có thẩm quyền ký kết hợp đồng kinh tế. Thông thường các doanh nghiệp ít quan tâm đến vấn đề về thẩm quyền ký kết hợp đồng kinh tế bởi vì nhiều khi tham gia ký kết hợp đồng các bên đã biết nhau và các bên thường tin tưởng rằng họ đang đàm phán với những người có thẩm quyền cần thiết trong việc ký kết, thực hiện hợp đồng. Đôi khi, các bên thấy rằng họ không nên đặt vấn đề tìm hiểu về thẩm quyền của phía đối tác, vì dường như làm như vậy là không lịch sự, không tôn trọng nếu đòi hỏi bạn hàng những chứng cứ xác nhận thẩm quyền của họ. Nhưng nếu hợp đồng kinh tế ký kết với người không đúng thẩm quyền thì hợp đồng kinh tế đó sẽ vô hiệu. Theo Điều 9 Pháp lệnh về hợp đồng kinh tế quy định: "Người ký kết hợp đồng kinh tế phải là đại diện hợp pháp của pháp nhân hoặc người đứng tên đăng ký kinh doanh. Đại diện hợp pháp của pháp nhân hoặc người đứng tên đăng ký kinh doanh có thể uỷ quyền bằng văn bản cho người khác thay mình ký kết hợp đồng kinh tế. Người được uỷ quyền chỉ được ký hợp đồng kinh tế trong phạm vi được uỷ quyền và không được uỷ quyền lại cho người thứ ba". Và theo Khoản 1 Điều 5 Nghị định số 17- HĐBT ngày 16/01/1990 của Hội đồng bộ trưởng Quy định chi tiết pháp lệnh hợp đồng kinh tế thì: "Mỗi bên tham gia ký kết hợp đồng kinh tế chỉ cần một đại diện để ký kết hợp đồng kinh tế." Đại diện hợp pháp gồm có: đại diện theo pháp luật và đại diện theo uỷ quyền. Thứ nhất: Đại diện theo pháp luật. Khoản 2 Điều 5 Nghị định số 17- HĐBT ngày 16/01/1990 của Hội đồng bộ trưởng Quy định chi tiết pháp lệnh hợp đồng kinh tế quy định: "Đại diện hợp pháp của pháp nhân là người được bổ nhiệm hoặc được bầu vào chức vụ đứng đầu pháp nhân đó và đương giữ chức vụ đó". Người đại diện hợp pháp của pháp nhân chỉ được ký kết hợp đồng kinh tế trong phạm vi thẩm quyền đại diện do pháp luật hoặc điều lệ pháp nhân quy định. Như vậy, người đứng đầu pháp nhân là người đại diện đương nhiên theo pháp luật của pháp nhân, người phó không phải là người đại diện hợp pháp của pháp nhân, do đó khi tham gia ký kết hợp đồng kinh tế người phó cũng phải được sự uỷ quyền của người đứng đầu pháp nhân. Đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp tư nhân là chủ doanh nghiệp tư nhân. Trong trường hợp chủ doanh nghiệp không trực tiếp làm giám đốc doanh nghiệp, mà thuê người khác làm giám đốc thì giám đốc doanh nghiệp là đại diện cho doanh nghiệp theo hợp đồng trách nhiệm giữa chủ doanh nghiệp với người được thuê làm giám đốc và theo quy định của pháp luật hiện hành. Nếu là các cá nhân có đăng ký kinh doanh theo quy đình của pháp luật tham gia quan hệ hợp đồng kinh tế thì người ký kết hợp đồng kinh tế phải là người đứng tên xin giấy phép kinh doanh, được cấp giấy phép kinh doanh tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Trong tất cả các trường hợp, không bắt buộc kế toán trưởng phải cùng ký vào hợp đồng. Trên thực tế có một số doanh nghiệp quy định kế toán trưởng phải ký vào hợp đồng kinh tế để đảm bảo tính khả thi, việc quy định này là quyền của người đứng đầu pháp nhân và không trái pháp luật. Trong trường hợp một bên ký kết hợp đồng kinh tế là người làm công tác khoa học kỹ thuật, nghệ nhân thì người ký kết hợp đồng kinh tế phải là người trực tiếp thực hiện công việc trong hợp đồng. Nếu có nhiều người cùng làm thì người ký vào hợp đồng kinh tế phải do những người cùng làm cử ra bằng văn bản trong đó có chữ ký của tất cả những người đó và phải đính kèm theo hợp đồng kinh tế. Trong trường hợp một bên là hộ kinh tế gia đình, hộ nông dân, ngư dân cá thể thì đại diện phải là chủ hộ. khi một bên là tổ chức nước ngoài tại Việt Nam (không có tư cách pháp nhân) thì đại diện tổ chức đó phải được uỷ quyền bằng văn bản của pháp nhân thành lập ra tổ chức tại Việt Nam. Nếu là cá nhân nước ngoài tại Việt Nam thì bản thân họ phải là người ký kết các hợp đồng kinh tế. Thứ hai: Đại diện theo uỷ quyền. Như trên ta đã biết,nếu như người đại diện theo pháp luật không tham gia ký kết hợp đồng được thì có thể uỷ quyền bằng văn bản cho người khác thay mình ký kết hợp đồng kinh tế, và người được uỷ quyền thì không được uỷ quyền lại cho người thứ ba. Tuy nhiên, đối với những hợp đồng kinh tế ký kết dưới hình thức tài liệu giao dịch và những hợp đồng kinh tế mà pháp luật quy định phải đăng ký thì không được uỷ quyền trong việc ký kết hợp đồng. Đại diện theo pháp luật của pháp nhân có thể uỷ quyền cho bất kỳ cá nhân nào có năng lực hành vi dân sự đầy đủ (trong hoặc ngoài cơ quan). Đại diện theo pháp luật phải chịu trách nhiệm về các hoạt động của người được uỷ quyền như chính mình đã thực hiện, nếu người được uỷ quyền thực hiện trong phạm vi uỷ quyền. Uỷ quyền là sự thoả thuận giữa các bên, theo đó bên được uỷ quyền có nghĩa vụ thực hiện công việc nhân danh bên uỷ quyền, còn bên uỷ quyền chỉ phải trả thù lao, nếu có thoả thuận hoặc pháp luật quy định. Việc uỷ quyền phải được lập thành văn bản. Đối với doanh nghiệp có con dấu riêng khi uỷ quyền không phải cộng chứng tại cơ quan công chứng Nhà nước hoặc chứng nhận của uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyển trừ những trường hợp đặc biệt pháp luật có quy định hoặc các bên có thoả thuận khác. Cá nhân có đăng ký kinh doanh khi uỷ quyền phải làm thành văn bản và phải có chứng thực của cơ quan công chứng Nhà nước hoặc chứng nhận của uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn. Văn bản uỷ quyền phải được ghi rõ: họ tên, chức vụ, nơi làm việc, giấy chứng minh nhân dân của người được uỷ quyền, phạm vi uỷ quyền, thời hạn uỷ quyền. Văn bản uỷ quyền được chia làm hai loại: uỷ quyền thường xuyên và uỷ quyền vụ việc. Loại một: Uỷ quyền thường xuyên là việc người có quyền giao cho người khác thay mặt mình thực hiện một hoặc một số loại việc trong khoảng thời gian có hạn định hoặc không có hạn định. Loại hai: Uỷ quyền theo vụ việc là việc người có quyền giao cho người khác thay mặt mình thực hiện một số việc cụ thể, trong khoảng thời gian nhất định. Như vậy, chủ thể của hợp đồng kinh tế trong thời kỳ này có thể là các đơn vị kinh tế được Nhà nước trực tiếp giao các chỉ tiêu pháp lệnh theo quy định của pháp luật, hoặc có thể là các đơn vị kinh doanh ký kết với nhau nhằm phục vụ lợi ích của các bên(một bên phải là pháp nhân). Trong điều kiện nền kinh tế mới bước đầu xây dựng phương thức quản lý theo cơ chế thị trường thì việc quy định chủ thể của hợp đồng kinh tế như trên được coi là cần thiết, phù hợp. 4.3. Hình thức của hợp đồng kinh tế. Hợp đồng kinh tế có thể được ký kết dưới hình thức văn bản hợp đồng hoặc tài liệu giao dịch (như công văn, điện báo, đơn chào hàng, đơn đặt hàng).Những loại hợp đồng mà pháp luật quy định phải đăng ký hoặc công chứng thì các bên phải thực hiện quy định đó. Cùng với văn bản hợp đồng, các bên có thể ký kết các bản phụ lục hợp đồng để cụ thể hoá các điều khoản của hợp đồng kinh tế hoặc có thể ký kết biên bản bổ sung những điều mới thoả thuận vào văn bản hợp đồng. Phụ lục hợp đồng và biên bản bổ sung có giá trị pháp lý như hợp đồng kinh tế. IV. Thực trạng và một số giải pháp trong ký kết hợp đồng kinh tế của doanh nghiệp. 1.Thực trạng trong ký kết hợp đồng kinh tế. 1.1. Quan niệm hiện hành về hợp đồng kinh tế. Do quan niệm rằng, hợp đồng kinh tế và hợp đồng dân sự là hai loại hợp đồng khác nhau về chất, tồn tại độc lập với nhau, do đó, chúng có đầy đủ các bộ phận cấu thành, các quy định như nhau. Ví dụ, trong pháp luật về hợp đồng kinh tế phải có quy định về khái niệm hợp đồng kinh tế, chủ thể, nội dung, hình thức, nguyên tắc ký kết, nguyên tắc thực hiện hợp đồng, các biện pháp chế tài do vi phạm hợp đồng, hợp đồng kinh tế vô hiệu v. v…Trong pháp luật về hợp đồng dân sự cũng vậy, nhà lập pháp và lập quy cũng phải đưa ra ngần ấy các quy định để giải quyết ngần ấy các vấn đề phát sinh liên quan đến việc ký kết và thực hiện hợp đồng dân sự. Hậu quả là : chúng ta đã phải mất nhiều thì giờ và công sức để tạo ra hai hệ thống quy định pháp luật về hai hiện tượng xã hội mà về cơ bản là giống nhau, đó là hợp đồng trong lĩnh vực lưu thông hàng hoá. Xét về mặt kỹ thuật lập pháp thì đây là một hệ quả mà chúng ta từ nay cần phải tránh vì nó đã làm cho hệ thống pháp luật về hợp đồng của chúng ta không chỉ trở nên cồng kềnh một cách bất hợp lý mà còn làm mất đi tính thống nhất, tính liên thông, tính hỗ trợ lẫn nhau và cuối cùng là đã làm giảm đi hiệu quả và hiệu lực của việc điều chỉnh pháp luật đối với các quan hệ hợp đồng tồn tại trong xã hội ta. 1.2. Nguyên tắc ký kết hợp đồng kinh tế. Thứ nhất : nguyên tắc trực tiếp chịu trách nhiệm về tài sản. Nguyên tắc này được hiểu là các bên tham gia quan hệ hợp đồng, tự mình chịu trách nhiệm về tài sản gồm : phạt hợp đồng và bồi thường thiệt hại khi có hành vi vi phạm hợp đồng. Như vậy trách nhiệm về tài sản của các bên chỉ xảy ra khi đã có hợp đồng và hợp đồng bị vi phạm. Vậy thì đây có phải là nguyên tắc ký kết hợp đồng nữa không? Khi ký kết hợp đồng là quá trình đàm phán giữa các bên với nhau về các điều khoản của hợp đồng và để thiết lập quan hệ hợp đồng. Thứ hai : nguyên tắc "cùng có lợi". Đã gọi là nguyên tắc ký kết hợp đồng thì nếu các bên không tuân theo, hợp đồng do các bên ký kết sẽ bị vô hiệu. Chẳng hạn, một bên không phải là tự nguyện mà là bị ép buộc, bị lừa dối nên đã ký vào hợp đồng hoặc những điều khoản do hai bên thoả thuận trái với quy định của pháp luật, trái với đạo đức xã hội thì hợp đồng sẽ bị vô hiệu. Còn trường hợp hai bên tự nguyện thoả thuận với nhau, những điều thoả thuận cũng không trái với pháp luật, nhưng một bên có lợi, một bên không có lợi thì hợp đồng cũng không thể vì thế mà vô hiệu được. Ví dụ : doanh nghiệp A bán cho doanh nghiệp B một dây truyền công nghệ với giá cao hơn giá thị trường, B đồng ý mua vì không biết giá cả; trong trường hợp này A có lợi còn B thì không. Liệu B có thể yêu cầu Toà án tuyên bố hợp đồng vô hiệu được không? Rõ ràng là không được vì A không lừa dối, không ép buộc B ký hợp đồng. 1.3. Chủ thể của hợp đồng kinh tế. Hợp đồng được ký kết giữa hai cá nhân có đăng ký kinh doanh nhằm mục đích kinh doanh không được coi là hợp đồng kinh tế, vì không có một bên là pháp nhân. Ngay cả trường hợp hai doanh nghiệp tư nhân ký hợp đồng với nhau để thực hiện hợp đồng kinh doanh vẫn không được coi là hợp đồng kinh tế, vì doanh nghiệp tư nhân không có tư cách pháp nhân. Quan hệ hợp đồng giữa hai doanh nghiệp tư nhân phục vụ cho hoạt động kinh doanh của họ thậm chí không được luật nào điều chỉnh. Luật Dân sự không điều chỉnh vì đó là quan hệ kinh doanh giữa hai doanh nghiệp. Theo Điều 57 Pháp lệnh về hợp đồng dân sự ngày 07/05/1991 thì Pháp lệnh này chỉ có thể áp dụng đối với quan hệ hợp đồng giữa hai cá nhân có đăng ký kinh doanh nhưng không thành lập doanh nghiệp (tức là không phải doanh nghiệp tư nhân). Bộ Luật Dân sự cũng không điều chỉnh quan hệ tài sản trong kinh doanh giữa các doanh nghiệp mà chỉ điều chỉnh quan hệ tài sản trong giao lưu dân sự. Pháp lệnh về hợp đồng kinh tế cũng không được áp dụng trong trường hợp này vì trong quan hệ đó không có pháp nhân tham gia. Quy định như vậy về chủ thể của hợp đồng kinh tế là không phù với nền kinh tế thị trường nước ta hiện nay. Vì mọi thành phần kinh tế, mọi chủ thể kinh doanh đều bình đẳng trước pháp luật mà không phụ thuộc vào quy mô hay hình thức tổ chức của nó. 2. Giải pháp trong ký kết hợp đồng kinh tế. Thứ nhất : Đối với nguyên tắc ký kết hợp đồng kinh tế Sau khi đã thiết lập quan hệ hợp đồng, các bên phải thực hiện các nghĩa vụ phát sinh từ quan hệ hợp đồng, nếu không thực hiện hoặc thực hiện không đúng và đầy đủ thì sẽ phải chịu trách nhiệm tài sản. Do đó trực tiếp chịu trách nhiệm tài sản không phải là nguyên tắc ký kết hợp đồng mà là hậu quả pháp lý của việc không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ và không đúng hợp đồng kinh tế. Có lẽ không có luật nước nào quy định "Trực tiếp chịu trách nhiệm tài sản" là nguyên tắc ký kết hợp đồng cả dù đó là hợp đồng gì đi nữa.Và cũng không nên quy định "cùng có lợi" là nguyên tắc khi ký kết hợp đồng kinh tế.Vì có lợi hay không là do các bên tự quyết định, không ai bắt buộc họ ký kết hợp đồng khi họ thấy không có lợi. Còn trong trường hợp họ thiếu kiến thức mà không có lợi trong việc ký kết hợp đồng nào đó thì đây không phải là lỗi của bên cùng ký kết. Bên không có lợi không thể yêu cầu Toà án tuyên bố hợp đồng vô hiệu được. Do đó không nên quy định nguyên tắc cùng có lợi là nguyên tắc ký kết hợp đồng kinh tế. Bộ Luật Dân sự nước ta cũng chỉ quy định 2 nguyên tắc ký kết hợp đồng tại Điều 395 là : "1.Tự do giao kết hợp đồng nhưng không được trái pháp luật, đạo đức và xã hội 2.Tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác, trung thực và ngay thẳng". Việc ký kết hợp đồng kinh tế cũng phải triệt để tuân theo nguyên tắc đó. Thiết nghĩ rằng có thể xác định lại các nguyên tắc ký kết hợp đồng kinh tế theo hướng đó hoặc có thể không cần thiết phải quy định nữa mà áp dụng các nguyên tắc ký kết hợp đồng dân sự. Pháp luật về hợp đồng kinh tế không nhất thiết phải có những quy định về các nguyên tắc ký kết hợp đồng khi Bộ Luật Dân sự đã quy định và các nhà làm luật không tìm ra nguyên tắc nào đặc trưng cho việc ký kết hợp đồng kinh tế trong nền kinh tế thị trường. Không nên quy định các nguyên tắc ký kết hợp đồng kinh tế khác với các nguyên tắc ký kết hợp đồng dân sự một cách miễn cưỡng, gượng ép, không cần thiết làm cho các quy định đó trở thành hình thức, giáo điều. Thứ hai: Đối với chủ thể của hợp đồng kinh tế. Để khắc phục tình trạng trên, cần phải có quan điểm rõ ràng về hợp đồng kinh tế và xác định chủ thể của hợp đồng kinh tế một cách khoa học, toàn diện và đầy đủ hơn. Như ở phần bản chất của hợp đồng kinh tế đã phân tích. Hợp đồng được ký kết giữa tất cả các chủ thể kinh doanh nhằm phục vụ hợp đồng kinh doanh đều phải được coi là hợp đồng kinh tế, không phụ thuộc vào yếu tố một trong các bên có tư cách pháp nhân hay không, vì không có tư cách pháp nhân thì doanh nghiệp tư nhân vẫn là một chủ thể kinh doanh. Đã là chủ thể kinh doanh thì họ phải là chủ thể ký kết hợp đồng kinh tế và là chủ thể của hợp đồng kinh tế. Thật là không logic khi hợp đồng được ký kết giữa hai cá nhân có đăng ký kinh doanh hay giữa hai doanh nghiệp tư nhân có đăng ký kinh doanh lại không được coi là hợp đồng kinh tế, trong khi chúng ta vẫn cho rằng hợp đồng kinh tế là hợp đồng có mục đích kinh doanh để phân biệt nó với hợp đồng dân sự có mục đích tiêu dùng. Do vậy, nên quy định là : Người có thẩm quyền ký kết hợp đồng kinh tế cho pháp nhân là đại diện theo pháp luật của pháp nhân hay đại diện theo sự uỷ quyền. Đại diện theo pháp luật của pháp nhân chính là người đứng đầu của pháp nhân (hay còn gọi là đại diện đương nhiên, đại diện chính thức). Đại diện theo sự uỷ quyền là người đại diện theo pháp luật uỷ quyền. Đại diện hợp pháp sẽ bao gồm cả đại diện theo pháp luật và đại diện theo sự uỷ quyền. Nhưng đại diện theo pháp luật khác đại diện theo sự uỷ quyền ở chỗ : đại diện theo pháp luật của pháp nhân có quyền đại diện cho pháp nhân trong mọi quan hệ liên quan đến pháp nhân, còn đại diẹn theo sự uỷ quyền chỉ được đại diện cho pháp nhân trong những việc được uỷ quyền. Hiểu như vậy sẽ chính xác và đầy đủ hơn. Do vậy không nên quy định đại diện hợp pháp chỉ là người đứng đầu của pháp nhân như hiện nay. Thứ ba: Định hướng hoàn thiện pháp luật về hợp đồng. Trong tương lai, cần xoá bỏ sự phân biệt giữa hợp đồng kinh tế và hợp đồng dân sự như những khái niệm khoa học bởi một số nguyên nhân sau đây: -Nội dung của quan hệ hợp đồng kinh tế trong điều kiện nền kinh tế thị trường đã thay đổi cơ bản. Tính kế hoạch mà thực chất là tính áp đặt của các quan hệ hợp đồng này đã không còn nữa. Ngày nay, không phải kế hoạch của Nhà nước mà chính nhu cầu của thị trường là cơ sở cho việc hình thành quan hệ hợp đồng giữa các chủ thể kinh doanh. Tóm lại, tính tự nguyện đã thay thế cho tính bắt buộc của các quan hệ này. Sự mất đi tính kế hoạch (tính bắt buộc) của quan hệ hợp đồng kinh tế đã làm cho nó gần gũi hơn với quan hệ hợp đồng dân sự. -Hiện nay, nguyên tắc tự do kinh doanh đã được pháp luật ghi nhận và thựchiện trong cuộc sống. Kết quả là, thành phần các chủ thể tham gia kinh doanh đã được mở rộng một cách đáng kể. Các doanh nghiệp Nhà nước,các hợp tác xã với tư cách là chủ thể cơ bản, chủ yếu, truyền thống của quan hệ hợp đồng kinh tế đã không còn giữ vị trí độc tôn trong hoạt động kinh doanh như trước đây. Như vậy, "thành phần chủ thể đặc biệt" với tư cách là một dấu hiệu cơ bản của khái niệm hợp đồng kinh tế đã không còn nữa. Vì vậy, ý tưởng xoá bỏ khái niệm hợp đồng kinh tế như là một loại hợp đồng dành riêng cho các chủ thể kinh doanh XHCN là một điều rất đáng được ủng hộ. -Việc xoá bỏ pháp luật về hợp đồng kinh tế sẽ khắc phục được hầu hết các khó khăn, vướng mắc mà chúng ta từng gặp phải trong quá trình ký kết, thực hiện hợp đồng, cũng như trong quá trình giải quyết các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng này. Cụ thể là : khi ký kết hợp đồng trong một lĩnh vực hoạt động cụ thể nào đó thì trước hết, các bên phải vận dụng các quy định của pháp luật về lĩnh vực ấy (nguyên tắc ưu tiên áp dụng các quy định riêng, quy định đặc thù); nếu thiếu các quy định riêng, đặc thù đó thì được vận dụng các quy định về hợp đồng được ghi nhận trong Bộ Luật Dân sự. Khi xét xử cũng vậy, nếu thiếu các quy định cụ thể trong các văn bản pháp luật chuyên ngành thì Toà án, Trọng tài sẽ vận dụng các quy định trong Bộ luật Dân sự để xử lý các vấn đề phát sinh. Tóm lại, trong điều kiện không có một hệ thống pháp luật về hợp đồng kinh tế thì việc áp dụng pháp luật trong thực tiễn sẽ nhanh gọn và dễ dàng hơn nhiều, tránh được những ách tắc không cần thiết do sự có mặt của nó gây ra. -Xoá bỏ pháp luật về hợp đồng kinh tế sẽ làm cho hệ thống pháp luật về hợp đồng của Việt Nam trở về với quỹ đạo chung của thế giới là trong mối quan hệ với Bộ luật Dân sự thì các quy định về hợp đồng trong mọi lĩnh vực hoạt động cụ thể đều chỉ là các quy định có tính chất chuyên nghành. Nói cách khác, mối quan hệ chung-riêng giữa chúng sẽ được xác lập một cách chính thức. Đây là vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt trong điều kiện hội nhập khu vực và quốc tế hiện nay. Pháp luật Việt Nam không chỉ thể hiện được các đặc thù của nền kinh tế-xã hội Việt Nam mà còn phải thể hiện cả những thông lệ, những quy định có tính chất chung đã được nhiều nước thừa nhận. Không tuân thủ nguyên tắc này thì chúng ta, về mặt lập pháp, đã tự gây trở ngại cho chính mình trong việc hội nhập khu vực và quốc tế như một tiền đề để phát triển đất nước./.  Thay lời kết luận Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, trong đó các doanh nghiệp là hạt nhân, Luật pháp về doanh nghiệp ở Việt Nam đã có bước phát triển mới đáp ứng được đòi hỏi của thực tiễn, tạo ra môi trường pháp lý mới thuận lợi, thông thoáng, an toàn và hấp dẫn hơn đối với người đầu tư. Với sự ra đời của Luật Doanh nghiệp và Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế, năng lực sản xuất của các thành phần kinh tế được giải phóng, quyền của người dân được khẳng định. Đây là điều có ý nghĩa quyết định để phát huy nội lực, khơi dậy tiềm lực sáng tạo, khuyến khích tinh thần kinh doanh trong nhân dân, thúc đẩy toàn dân làm giàu cho đất nước mình. Mặc dù trong quá trình thực hiện cùng với sự phát triển nhanh chóng của đất nước, các văn bản này đã xuất hiện những bất cập, hạn chế. Nhưng khi chúng được khắc phục, hoàn thiện, tôi tin tưởng rằng chúng sẽ phát huy được tính ưu việt vốn có của mình tạo ra môi trường thông thoáng cho kinh doanh, giảm thiểu được rủi ro cho nhà đầu tư, phát huy mạnh mẽ các nguồn nội lực để phát triển đất nước và tăng thêm niềm tin, tính sáng tạo của nhân dân, doanh nghiệp trong thiên niên kỷ mới. Tài liệu tham khảo 1.Hiến pháp 1992. 2.Luật doanh nghiệp ngày 12/06/1999. 3.Luật doanh nghiệp tư nhân 12/12/1990. 4.Luật Công ty 12/12/1990. 5.Nghị định của Chính phủ số 02/2000/NĐ-CP ngày 03/02/2000 về đăng ký kinh doanh. 6.Nghị định của Chính phủ số 03/2000/NĐ-CP ngày 03/02/2000 về hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Doanh nghiệp. 7.Sách: Hợp đồng kinh tế và các hình thức giải quyết tranh chấp kinh tế. Thạc sỹ luật học Nguyễn Thị Khế. 8.Sách: Hợp đồng kinh tế và vấn đề giải quyết tranh chấp kinh tế của nước ta hiện nay. Của các tác giả : Hoàng Thế Liên, Phạm Hữu Nghị, Trần Hữu Huỳnh. 9.Tạp chí tài chính số 7 năm 2000. 10.Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 6/2002, số 10/2001. 11.Tạp chí kinh tế và phát triển số 45/2002. 12.Tạp chí Luật học số 3/2001, số 5/2001. số 7/2001, số 11/2000. 13.Tạp chí nghiên cứu Luật pháp số 10/2001. 14.Tạp chí phát triển kinh tế số 134/2001. 15.Tạp chí dự báo và kinh tế số 7/2002. Mục lục Trang Lời nói đầu 1 Phần A: Quyền tự do kinh doanh trong thành lập doanh nghiệp tại Việt Nam 3 I. Sơ lược về quyền tự do kinh doanh 3 1. Quyền tự do kinh doanh 3 2. Những yếu tố chi phối quyền tự do kinh doanh 5 II. Những khái niệm cơ bản 8 1. Khái niệm kinh doanh 8 2. Đơn vị kinh doanh 8 3. Khái niệm doanh nghiệp 9 III. Quyền tự do kinh doanh trước và sau khi có Luật Doanh nghiệp 10 1. Quyền sở hữu tài sản, quyền bình đẳng trước pháp luật, quyền tồn tại lâu dài của "sự nghiệp" kinh doanh 11 2. Quyền tự do trong thành lập doanh nghiệp 12 3. Quyền tự quyết của doanh nghiệp 32 IV. Thực trạng và giải pháp trong thực hiện quyền tự do kinh doanh theo Luật Doanh nghiệp 33 1. Một số thành tựu sau hai năm thực hiện Luật Doanh nghiệp 33 2. Một số vướng mắc trong qua trình thực hiện Luật Doanh nghiệp 33 3. Giải pháp 36 Phần B: Quyền tự do ký kết hợp đồng kinh tế trong cơ chế thị trường 39 I. Sự ra đời và phát triển của hợp đồng kinh tế 39 1. Sự ra đời của hợp đồng kinh tế 39 2. Quá trình phát triển hoạt động kinh tế ở Việt Nam 40 II. Khái niệm hợp đồng kinh tế trong nền kinh tế thị trường tại Việt Nam 42 1. Khái niệm hợp đồng kinh tế 42 2. Đặc điểm của hợp đồng kinh tế 43 3. Phân biệt hợp đồng kinh tế với hợp đồng dân sự 43 III. Quyền ký kết hợp đồng kinh tế của doanh nghiệp 44 1. Thời kỳ khôi phục kinh tế và cải tạo xã hội chủ nghĩa nền kinh tế quốc dân (1954-1959) 44 2. Thời kỳ đầu xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội theo cơ chế kế hoạch tập trung (1960-1974) 45 3. Thời kỳ thực hiện chủ trương cải tiến kinh tế (1975-1988) 47 4. Thời kỳ đổi mới cơ chế quản lý kinh tế (từ năm 1988 đến nay) 48 IV. Thực trạng và một số giải pháp trong ký kết hợp đồng kinh tế của doanh nghiệp 56 1. Thực trạng trong ký kết hợp đồng kinh tế 56 2. Giải pháp trong ký kết hợp đồng kinh tế 58 Thay lời kết………………………………………………………….61

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc34627.doc
Tài liệu liên quan