Đề tài Sắc màu sơn mài và họa tiết trong bức tranh phong cảnh của Nguyễn gia Trí

Trong những năm quacùng với sự phát triển mạnh của nền kinh tế toàn cầu, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền công nghiệp thời trang trong đó nhgành thời trang cũng góp phần quan trọng thúc đẩy sự phất triển của xã hội thế giới quan trọng của con người. Thời trang thế giới phất triển với phong phú các trương phái , trên đà tốc độ phát triển thời trang như hiện nay ơ nươc ta cững đã và đang gặt hay đượch nhưng thành công , góp phần thúc đẩy mạnh sự thăng hoa của nghành của nghành công nghiệp mới mẻ này. Thông qua các sản phẩp mốt- thời trang, con người có cơ hội xích lại gần nhau hơn, hoà đồng hơn trong một tiếng nói chung là “cái đẹp”, “ cái thẩm mỹ”, là sự phấn đấu những giá trị văn hoá tinh thần cao cả, là sự hướng lên của tâm hồn. Sản phẩm của ngành công nghiệp thời trang - trang phục chính là tiền đề, là điều kiện đưa các nền văn minh nhân loại sát cánh nhau hơn và tiến tói một tầm cao mới.

doc46 trang | Chia sẻ: Kuang2 | Lượt xem: 925 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Sắc màu sơn mài và họa tiết trong bức tranh phong cảnh của Nguyễn gia Trí, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cuộc đời. Trong khi đó cthnah niên đang định hình dễ dàng chấp nhận cái mới. Mặc dù vây mốt luôn biến đổi để hoàn thiện mình qua nhiều lần, nhưng nó vẫn tồn tại, vẫn không mất đi cái chính của nó cho đến khi xuất hiện một mốt mới thay thế. 1.2.5 Tính chu kỳ: Các nhà nghiên cứu, các nhà khoa học nhận thấy rằng sự phồn vinh và suy tàn của các vấn đề tự nhiên và xã hội thường xen kẽ và tuân theo một chu kỳ khá xác định. Đối với mốt cũng vậy tính chu kỳ của nó thể hiện tính gia tăng nhanh dần đến sự ổn định trông thấy và suy thoái đột ngột nhường chỗ cho mốt mới xuất hiện. Chu kỳ của mốt dài hay ngắn còn tuỳ thuộc vào từng loại nhưng khuynh hướng chung là ngày càng rút ngắn. Sự thay đổi của mốt luôn gắn liền với sự thay đổi của chi tiết đặc trưng. Đó là chi tiết chủ yếu nhất, do đó chi tiết này quyết định hình thức sản phẩm dẫn tới sự thay đổi chi tiết làm choi mốt thay đổi, phải lưu ý rằng sự biến đổi của mốt liên quan đến sự phát triển đột biến chung của toàn bộ dáng vẻ quần áo. Sự thay đổi chi tiết phụ thuộc vào thị hiếu trình độ thẩm mỹ cũng như cá tính khác nhau của mỗi người. Vì thế những biến đổi chi tiết nhỏ mang tính chủ quan không làm nên mốt. Chỉ những thay đổi toàn diện kiểu cách trang phục, liên quan tới lối sống chung mới giải thích được tính khách quan trong hiện tượng mốt. Trong quá trình tiến hoá chung của toàn xã hội trước đòi hỏi các hình thức thể hiện mới, xu hướng mốt không ngừng được biến đổi và hoàn thiện xdần theo sự biến đổi của lối sống và thị hiếu xã hội... Tuy nhiên sự thay đổi lối sống diễn ra từ từ. Sự thay đổi của mốt diễn ra nhanh hơn có tính đột biến. Nghiên cứu toàn bộ các khía cạnh khác nhau của hiện tượng mốt cho thấy: 1. Mốt là sự thống trị nhất thời của thị hiếu nào đó trong một môi tường xã hội nhất định. 2. Mốt là cái gì đó chỉ có trong một thời gian nhất định nhưng trong mộtphạm vi không gian rộng lớn, khá phổ biến và được số đông người biết đến. Chương 2: Cơ sở thực tiễn và cảm hứng sáng tác 2.1. Cơ sở của cái đẹp trong trang phục: Cái bánh là do bột, đường... làm nên. Quần áo là do vải may cắt mà thành. Vẻ đẹp của quần áo nằm trong ý tưởng thiết kế, cách may cắt. vẻ đẹp của trang phục của nó dựa trên cơ sở hình thể, đường nét, màu sắc, hoa văn và chất liệu, qua đó để biết cách thích hợp thích nghi ăn mặc được thnah lịch duyên dáng, hấp dẫn, nhờ biết dùng quần áo để nhấn mạnh đến những ưu điểm và che dấu khuyết điểm của mình. Đường nét là cơ bản tạo nên hình thể y phục và khi mặc vào bạn sẽ có một ihnhf dáng nhất định, quần áo được chia cắt thành những hình dáng nhất định. Quần áo được chia thành những hình dáng và và không gian khác nhau bởi những đường túi áo, cổ áo, tay áo... Tất cả tạo nên vẻ đẹp mắt hài lòng vì ngoài ý nghĩa cấu trúc, đường nét còn có khả năng khêu gợi được những phản ứng tình cảm. Hình thể và không gian do các đường nét gặp nhau kết hợp tạo thành. Thường hình dáng chính của quần áo tương ứng với dạng hình học. Màu sắc gây nên những phản ứng mạnh đến nỗi phải hiểu rõ tính chất của chúng mới có thể sử dụng khôn ngoan trong các kết hợp màu quần áo. màu ohân biệt với nhau nhờ sắc chính. Màu chính gồm màu lục, lam, vàng. Hoa văn là các hoạ tiết được trang trí trên sản phẩm thời trang, trên trang phục nó đóng góp làm đẹp nhờ tương tác cộng hưởng, tạo nên ảo giác và phản ứng tâm lý mà người mặc khéo léo sử dụng có thể tạo được những tác dụng mong muốn như làm cho người trông cao lên hay thấp xuống, to ra hay nhỏ đi. Chất liệu là đặc tính của vật liệu (vải) làm nên trang phục nó tạo cảm giác và phản ứng. 2.2. Các giai đoạn phát triển của trang phục Việt Nam: Để có một diện mạo trang phục của chúng ta ngày nay có là nhờ một qúa trình hình thành và phát triển không ngừng, nó phát triển song song với sự phát triển kinh tế, văn hoá. Từ thời các vua Hùng nổi hiệu trống đồng dựng nước. Nó còn hình thành những nền tảng văn hoá Việt Nam và trong nền tảng ấy có nền tảng của văn hoá trang phục. Nhân dân đã biết dùng các loại cây, da động vật làm lên những vật che chắn cơ thể. Tiếp theo là nuôi tằm nhả tơ dệt thành vải và đã có truyền thuyết về nghề trồng dâu nuôi tằm, những dấu tích để lại còn lưu giữ trên mặt đồ đồng đồ gốm. Trên những bức tượng, cho thấy... ngoài vải thô, đã dệt được những thứ vải mỏng mịn có lẽ đó là sản phẩm dệt của sợi tơ tằm, tơ chuối. Vào thời này trang phục nữ đã có những kiểu váy ống, áo cánh xẻ ngực mặc ngoài, yếm có hình theo thắt lưng. Trang phục nam giới thì đóng khố với nhiều kiểu như khố dây, khố quấn quanh bụng, khố quấn rồi thả hai dải về phía sau. Trang phục thời dựng nước thể hiện bản sắc dân tộc đậm đà vừa đẹp vừa tạo dáng, vừa phong phú đa dạng, các đồ trang sức, hình vẽ thêm... đã tôn thêm vẻ duyên dáng của người phụ nữ. ở đây chúng ta cũng gặp hình ảnh sống động đa dạng cùng những trang phục của nhiều dân tộc cùng chun sống thời dựng nước. Mà ngày nay chúng ta có thể nhận biết được nhờ sự so sánh với bộ trang phục của các dân tộc trong đại gia đình các dân tộc nước ta hiện nay. * Trang phục thời phong kiến: thời kỳ này có sự phân chia mạnh về tầng lớp giai cấp, với người dân gần như không có gì thay đổi nhiều: Nam vẫn đóng khố nữ vẫn mặc áo cánh ngắn, yếm. Nghề dệt phát triển hoàn thiện không ngừng. Người ta đã dệt được ra những loại vải sợi bông từ cây bông và các loại vải khác từ các cây đay, gai, tơ chuối. Đây chính là điều kiện cthuận lợi nhất cho việc phát triển đa dạng các kiểu quần áo thích hợp với từng mùa trong năm. Và các tầng lớp trong xã hội phân biệt trong cách ăn mặc của các quan lại, binh lính trong triều đình. * Đến thời kỳ Pháp thuộc: Trên cơ sở diện mạo trang phục các dân tộc nước ta đã hoàn chỉnh và định hình. Trong những điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá mới nó lại bước vào giai đoạn cách tân và biến đổi. Đây là thời cáhc mạng về trang phục (Âu hoá) nguyên nhân do sự ảnh hưởng tiếp cận văn hoá với các nước phương Tây. Thời kỳ phong kiến suy thoái, nảy sinh mầm mống tư bản chủ nghĩa. Ăn mặc giai đoạn này ở nước ta thể hiện hai xu hướng đó là: cải biến cái vốn có của mình và tiếp nhận những nhân tố mới của phương Tây vào cách ăn mặc của một số đông tâng lớp xã hội nước ta. Nhất là thành thị trong khi đó ăn mặc ở nông thôn không có gì thay đổi. Điển hình là chiếc áo dài đặc trưng cho phụ nữ Việt Nam theo phương án của hoạ sĩ Lê Phó và Cát Tường. Bên cạnh đó cách ăn mặc của Châu âu cũng có những ảnh hưởng không nhỏ đến trang phục của chúng ta. Đó là chiếc áo sơ mi, quần âu, áo veston, cavat, mũ phớt, giày da...Tiếp đó để phù hợp với các cuộc chiến tranh chống Pháp, Mỹ để đáp ứng nhu cầu linh hoạt của các hoạt động, Nam mặc áo chấn thủ, đại cán; nữ mặc áo cánh nâu, màu đen, sáng... tất cả đều đi dép, đội mũ nón... và ở miền bắc vẫn còn những nơi mặc áo tứ thân, yếm. Những năm sau chống Pháp 1954 nước ta được giải phóng ở miền Bắc bắt đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội và chống Mỹ ở miền Nam. Cùng với sự giao lưu quan hệ quốc tế làm thay đổi rất nhiều về trang phục ở hai miền. Sự thay đổi bắt đầu từ chiếc váy đụp của người già thành những chiếc quần chân què, thay vì những chiếc áo cánh nâu thành những chiếc áo bó sát eo với các dáng dấp được cải biến từ thân áo tới cổ áo. áo dài được sử dụng thường xuyên hơn. Những năm gần trở lại đây Việt Nam đã dần xây dựng nước công nghiệp hoá hiện đại hoá, trang phục cũng cải biến không ngừng cả về hình dáng mẫu mã màu sắc. 2.3. Nét đặc trưng riêng của trang phục các dân tộc Việt Nam: Việt Nam là một quốc gia có 54 dân tộc anh em. Tuy cùng một quốc gia nhưng mỗi dân tộc trong quốc gia ấy do điều kiện địa hình sinh hoạt khác nhau trang phục của họ cũng vậy mỗi dân tộc đều có một kiểu trang phục khác nhau, mang bản sắc riêng không lẫn lộn. Tuy nhiên tổng kết lại được phân làm những nhóm sau: Nói đến dân tộc Kinh là dân tộc chiếm đại đa số dân cư của nước ta nó có những đặc điểm chung đồng thời vẫn mang những nét riêng của từng vùng. ở miền Bắc ta nghĩ ngay đến chiếc áo tứ thân mớ ba mớ bảy, chiêc yếm đào váy đụp. ở miền Trung nét đặc trưng đó là chiếc áo dài. ở miền Nam dễ nhận ra là những bộ quần áo bà ba. Trang phục dân tộc Mường từ khoảng nửa thế kỷ trước bộ nữ phục của người Mường đã dần trở nên quen thuộc gây ấn tượng với chiếc váy bó sát thân, cạp hoa phô trước ngực, chiếc áo cánh lưng, chiếc áo trùng buộc vạt và đầu gối, thắ lưng xanh, chiếc khăn trắng đội đầu, vòng kiềng sáng lấp lánh. Bộ nữ phục ấy không có vẻ diêm dúa như phụ nữ Thái, không quá kín đáo như phụ nữ Tày, không dư thừa màu sắc mhư phụ nữ Mông, Dao. Nữ phục Mường mang những sắc thái riêng qua đường nét cắt may, qua màu trang trí. Trang phục nam giới Mường gần giống với nam phục người Kinh gồm: áo ngắn, quần, thắt lưng, khăn... áo cánh ngắn bốn thân may từ vải bông hay tơ tằm, vạt dài gần chấm mông vai có miếng vải đệm hình lá sen. Hai bên hông áo xếp xẻ tà, đơm khuy cài cúc, ba túi, hai túi to phía dưới hai vạt trước và túi nhỏ trên vạt ngực trái. Quần vải, cạp to khi mặc dùng dây buộc ngoài ra trang phục Mường còn có trang phục nghi lễ ... Trang phục Tày Nùng: Trang phục nam giới người Tày cũng như nhiều dân tộc miền núi khác gồm áo cánh ngắn áo dài quấn khăn... Chúng đều được may cắt bằng vải bông nhuộm. áo cánh ngắn mặc thường ngày của nam giới áo được may bằng cách hai thân, hai thana trước và hai thân sau xẻ ngực hai bên nẹp áo đính hàng cúc gồm 7 cái. Quần bằng sợi bông mang kiểu quần chân quê như của các phụ nữ cao tuổi dân tộc Kinh. Trước đội khăn bông dài hình chữ nhật. Nữ thì mặc áo cánh ngắn năm thân, áo dài, váy, quần thắt lưng đầu đội khăn Trang phục của người Nùng giống trang phục của người Tày. Nó có những điểm riêng đó là màu sắc và các chi tiết như cạp váy. Trang phục dân tộc Thái: Người Thái là dân tộc có truyền thống trồng bông, chăn tằm dệt vải, thêu dệt thổ cẩm. Đặc trưng nổi bật nhất của người Thái là dùng đồ trang sức bằng kim loại như bạc, xà tích... để gắn lên bộ trang phục. Kết cấu trang phục nữ của người Thái gồm có áo ngắn, váy thắt, lưng bằng vải tơ tằm hoặc sợi bông ở đầu quấn khăn piêu được trang trí cầu kỳ bằng những mũi chít thêu thùa trau chuốt. Nam giới thì mặc đơn giản hơn là áo ngắn, quần dài màu tràm, dùng thắt lưng da hoặc vải, đầu cũng đội khăn đơn giản hơn. Trang phục dân tộc Dao: Việc làm ra quần áo của người Dao có truyền thống lâu đời từ xa xưa họ nổi tiếng về nghề trồng bông, chăn tằm, dệt vải, nhuộm vải, cắt may, thêu thùa, phụ nữ Dao đảm nhiệm mọi khâu trong quá trình làm ra trang phục. Trang phục đàn ông: Trước đây đàn ông Dao đều để tóc dài, búi sau gáy, hay để một chỏm dài trên đỉnh đầu xung quanh cạo trọc. Đàn ông Dao ít để đầu trần họ thường vấn khăn kiểu “đầu rìu” trang phục đàn ông khá đơn giản. Cũng là áo dài, cổ ngắn, quần chân quê. Trang phục phụ nữ Dao đó là áo chấm dài đến sau ống chân được thêu dệt công phu và trang trí bằng những qủa bông hoặc len đỏ. Phụ nữ Dao quần chẹt thì lại có áo trang trí đơn giản hơn và được kết hợp với những miếng vải nhỏ màu trắng đắp lên trên. + Còn áo phụ nữ Dao thì lại được thêu rất nhiều loại hoa văn trang trí như hoa văn sóng nước, hình sao, cây thông.. chiếc yếm của dân tộc này cũng rất được trú trọng. Họ trang trí lên đó những môtíp hoa văn và điểm những ngôi sao bạc. + Trang phục của phụ nữ Dao quần trắng và áo tràm dài xẻ ngực, không có cổ, thêu ít hơn và trang trí bằng những đường chỉ đen, đỏ, trắng, vàngnẹp áo màu trắng đỏ. + Trang phục nữ Dao thì phần hoạ tiết trang trí chủ yếu ở phần lưng. Tộc người này có một loại mũ đó là mũ ba nừng xơ mướp, bên ngoài cạp chỉ đen, xung quanh mũ có hai hàng khuy bạc đính song song. + ở phụ nữ Dao Tiền khác với dân tộc Dao khác họ mặc váy với hoa văn thêu kín thân váy, trên trang trí bằng bảy hoặc chín đồng tiền ở phía sau cổ áo tạo ra sự khác lạ. Y phục nữ Dao áo dài gọi là Dao áo dài có lẽ do cách mặc áo dài chấm gót của họ. Khác với áo dài của các nhóm Dao Tiền ở đây người ta mặc áo xẻ nách. Cài cúc bên phải giống kiểu áo năm thân của người Việt xưa. Quần của người Dao áo dài vẫn là chiếc quần chùm kiểu “chân què”, cạp “ lá toạ” coi như một bộ y phục đồng nhất với các người dao khác. Người Mông: Lại phân biệt nhờ những bộ mầu trắng. Là người Mông trắng, người Mông đen với trang phục màu đen, người Mông Hoa loại phân biệt nhờ chiếc váy hoa. Họ có cùng điểm chung là mặc váy. Những kiểu váy được trang trí bằng cách vẽ hoa văn bằng sáp ong và mang theo kiểu xếp nếp. Trang phục các dân tộc: Một nét chung để nhận biết trang phục của các dân tộc thuộc nhóm Tạng - Miên là cùng trung hợp những kiểu váy, kiểu áo, khăn mũ thuộc các loại hình có nguồn gốc phát sinh và ảnh hưởng rất khác nhau. Để có thể nhận biết một cách sinh động hơn về vẻ đẹp và tính đa dạng của trang phục các dân tộc nói ngông ngữ Tạng - Miên chúng ta cần quan sát một số bộ trang phục như Hà Nhì, Lô Lô, Phù Cá. + Dân tộc Hà Nhì trang phục thường ngày rất riêng, phụ nữ mặc áo dài gần quá đầu gối, hai cánh tay áo được những khoanh vải màu níu từ bả vai đến cổ tay. Dưới mặc quần chân quê đơn giản. + Người Lô Lô lại mặc những chiếc áo rất ngắn. Người Lô Lô Hoa thì mặc quần trong khi người Người Lô Lô đen lại mặc váy. phụ nữ Phù Lá mặc áo ngắn và váy có trang trí những môtíp hoa văn rất riêng của họ khác hẳn so với hoa văn của các dân tộc khác. Trang phục của người Sán Dìu có khăn đội đầu có áo hai lớp, lớp trong là một lớp màu trắng, bên ngoài màu tràm. Người già người trẻ cũng mặc khac nhau. Nói tóm lại trong khuông khổ nhất định của đồ án này tôi chỉ nêu một số khái quát chung của trang phục tưngf vùng từng nhóm dân tộc. Tất cả cho ta thấy mỗi một dân tộc, nhóm dân tộc có bản sắc riêng. Từ màu sắc đường nét, hoa văn. Từ đó mà ta nhìn nhận để thấy được sắc thái truyền thống mỗi dân tộc người, mỗi vùng cái gì là giao lưu ảnh hưởng lẫn nhau giữa các vùng, thấy được bản chất truyền thống trang phục Việt Nam, các khuynh hướng tiếp cận cái hiện đại của nó. Góp phần tạo nên diện mạo trong nghệ thuật tạo hùnh Việt Nam. 2.4. Một số nét về trang phục phương Tây qua các thời đại: Quần áo từ thời xa xưa, khi nền văn minh nhân loại còn ở mức sơ khai nhất. Xuất phát từ nhu cầu bảo vệ cơ thể, chống lại tác động của thiên nhiên, người xưa tìm kiếm những tấm phủ, những mảnh che cơ thể. Những kiểu “trang phục” ban đầu: các mảnh vải che vai, che ngực,...sau này phát triển thành các kiểu áo; mảnhvải che mông, đùi... sau này thành các kiểu váy và quần. Vật liệu dùng che cơ thể ở các vùng giầu thực vật là vỏ, lá, sợi cây; ở các vùng nghèo thực vật là lông chim, da cá, da thú... Ban đầu, động lực phát triển quần áo là điều kiện tự nhiên. Bằng chứng là quần áo phát triển nhanh ở các vùng có khí hậu khắc nghiệt (thường là các xứ lạnh) và phát triển chậm ở các vùng cso khí hậu ôn hoà. Về sau, khi kỹ thuật, văn hoá, xã hội phát triển đến trình độ nhất định, bên cạnh chức năng bảo vệ cơ thể, trang phục còn mang ý nghĩa xã hội, tâm lý và thẩm mỹ. Trang phục trở thành đối tượng của nghệ thuật, phản ánh đặc tính dân tộc. Để có thể hiểu được nguồn gốc sâu xa, động lực phát triển của quần áo như hiện nay, chúng ta hãy lần lại lịch sử trang phục thế giới. 2.4.1 Quần áo thế giới thời cổ đại: Thế giới cổ đại gắn liền với nền văn minh một số quốc gia sớm phát triển từ thiên niên kỷ thứ IV trước Công nguyên đến thế kỷ thứ V sau Công nguyên. Đó là các quốc gia cổ đại Ai Cập, ấn Độ, Trung Quốc, La Mã. Các quốc gia này đều nằm trên lưu vực các con sông lớn màu mỡ, thuận lợi cho phát triển nông nghiệp như sông Nin (Ai Cập), sông Hằng (ấn độ), sông Vị (Trung Quốc). Thời Cổ đại, nông nghiệp phát triển, công cụ sản xuất bằng đồng thay cho đồ đá. Muộn hơn nưaxuaats hiện công cụ bằng sắt. Nền văn minh Cổ đại là văn minh chiếm hữu nô lệ. Qua bức phù điêu trong lăng tẩm của các Pharaông Ai Cập, ta có thể thấy nô lệ thời cổ đại thường ở trần hoặc đóng khố. Thỉnh thoảng, vào những dịp lễ hội (chẳng hạn lể rước đưa đò tuỳ táng vào lăng vua), người Ai Cập mặc váy: Đàn ông quây váy dài đến chấm đầu gối. Đàn bà quấn vải ch từ cổ, kín ngực, dài đến chấm gót chân. Đến cuối thời Cổ đại, quần áo đã được tạo dáng đẹp hơn, nhưng nhìn chung người Cổ đại cắt may rất đơn giản. Váy hoặc áo chỉ là những miếng vải vuông, chữ nhật hoặc hình tròn được khoét lỗ để chui đầu vào rồi được đính ở bên sườn, sau lưng, buộc lại ở vai hoặc giữ các vạt bằng một giải dây lưng buộc ở eo. Thế giới quan của người Cổ đại thể hiện qua truyền thuyết về các thần - những người sinh ra Vũ trụ và nắm trong tay quyềnlực tối cao đối với muôn loài. theo người cổ Ai Cập, hình tròn tượng trưng cho mặt trời và sau nó là vũ trụ, hình thang biểu hiện vùng đồng bằng thuộc lưu vực các con sông lớn, hình tam giác gắn liền với quyền lực (đây cũng chính là dạng hình kiến trúc chính của các lăng mộ trong “thành phố Kim tự tháp” của các Pharaông). Vì thế, dáng quần áo và các chi tiết trang trí trên quần áo thời kỳ này thường có ba kiểu chính: kiểu ống tròn, kiểu tan giác và kiểu hình thang. Theo người cổ Ai Cập, quyền lực chia đôi giữa thần Horus - bá chủ xứ Đen và thần Set - bá chủ xứ Đỏ. Thần Horus tượng trưng cho việc sắp đặt thế giới vật chất: không khí, ánh sáng, lửa, đất và Trời - cội nguồn cảu sự sống. Thần Set, với tính hung hãn, tượng trưng cho sự huỷ diệt, ‘làm cho sự sống đi vào cõi vĩnh hằng”. Do vậy quần áo thời kỳ này dùng hai màu chủ đạo: đen và đỏ. Ngoài ra còn có các màu da cam, xanh lá cây, vàng. Đến cuối thời Cổ đại, quần áo đã được tạo dáng đẹp hơn (bớt lụng thụng và gần hình dáng cơ thể người hơn). Song do chiến tranh liên miên giữa các vương triều để tranh giành quyền lực, quần áo không chỉ bảo vệ cơ thể người chống lại tác động của thiên nhiên mà còn là phương tiện để nguỵ trang, ẩn giấu mình... Vậy nên đặc điểm trang phục thời kỳ này là rộng, thụng, che kín toàn bộ cơ thể (kể cả phần mặt). 2.4.2 Quần áo thời Trung cổ (từ thế kỷ VI đến thế kỷ XIV) Thời Trung cổ, chế độ nô lệ sụp đổ, cac quốc gia phong kiến châu á ra đời sớm, sau đó là các chế độ phong kiến tập quyền ở Anh, Pháp, Tây Ban Nha. Thủ công nghiệp phát triển trongđó có nghề dệt. Văn hoá nghệ thuật phát triển tới trình độ cao. Cơ thể con người được tìm hiểu và nghiên cứu để phát hiện cái đẹp trong đường nét tỷ lệ, hình thức Nếu quần áo thời Cổ đại rộng, lụng thụng thì quần áo thời Trung cổ cắt may phức tạp hơn, tạo dáng đẹp hơn, bó sát cơ thể người những phần cần thiết nhằm tôn thêm vẻ đẹp vốn có của cơ thể. Thời Trung cổ, nhà thờ thống trị cả về đời sống vật chất lãn tinh thần. Quan điểm đạo đức nghiêm ngặt và khắt khe. Vì thế quần áo thời kỳ này có vẻ nặng nề, kín đáo. Các kiểu quần áo, giầy, mũ... mô phỏng theo kiến trúc Gôtic, mang phong cách nhà thờ. Màu sắc chủ đạo là đen và các màu tối sẫm. 2.4.3 Quần áo thời Phục hưng (thế kỷ XV - XVI) Sau thời gian dài chế độ phong kiến hà khắc, thời phục hưng con người được mở mang về trí tuệ. Những tư tưởng xa hội mới xuất hiện. Thời kỳ này đã nảy sinh nhiều học giả và văn nghệ sĩ thiên tài như danh hoạ Italia Leonardo da Vinci, nhà thiên văn học Ba Lan Copernic, nhà văn Pháp Rabelais, nhà soạn kịch Anh Shakespeare. Thời kỳ này con người được tự do vươn tới cái đẹp. Họ không những không xấu hổ về cơ thể mình mà còn yêu mến và tự hào về nó. Quan niệm về cái đẹp đàn ông là khoẻ mạnh, cường tráng. Do đó đà ông có hai kiểu mặc chính: hoặc mặc quần lửng phồng trang trí nhiều màu, để chân trần từ ngang đùi trở xuống, ở phía trên, chiếc áo khoác ngoài (cho thêm phần long trọng) chỉ dài vừa đủ che hết chiếc quần lửng; hoặc mang chiếc quần bó sát, để lộ rõ mọi đường nét của đùi và mông. Mỗi ống quần có thể một màu, trang trí táo bạo bằng cách đính vàng ngọc hoặc vải màu sặc sỡ vào chỗ bất ngờ nhất. Người Phục hưng đề cao cái đẹp tâm hồn phụ nữ nên trọng tâm trang phục nữ là phần ngực sát cổ và phần cổ nhằm hướng sự chú ý vào nét mặt. Phụ nữ thời Phục hưng trong cùng mặc váy thụng, rộng (như kiểu áo người có bầu) những khoét cổ rộng xuống đến gần ngực. Chiếc áo khoác ngoài khoét nách hoặc không có tay để thuận tiện trong sử dụng. Thời Phục hưng người ta đã biết tỷ lệ vàng nhưng chúng chưa được vận dụng nhiề trong thiết kế quần áo. Để trang trí, người Phục hưng hay dùng nếp gấp của vải, màu sắc phong phú. Nhìn chung, quần áo thời kỳ này mang tính cường tráng khoẻ mạnh, phong cách thư thái thể hiện sự điềm tĩnh, niềm tin vào cuộc sống tốt đẹp. 2.4.4 Quần áo thế kỷ XVII - XVIII Thời kỳ này bắt đàu cuộc cách mạng tư sản Anh (1660) và kết thúc bằng cuộc cách mạng tư sản Pháp (1789 - 1794). Trong suốt hai thế kỷ này sản xuất công nghiệp tư bản chủ nghĩa phát triển mạnh, trong khi các lãnh chúa phong kiến cùng tầng lớp quý tộc vẫn nắm giữ quyền hành. Xã hội phân hoá nhanh giữa người giầu và người nghèo. Quần áo phát triển phong phú, trở thành dấu hiệu phân biệt giai cấp, tầng lớp, vị trí xã hộicủa mỗi người: quần áo giới quí tộc cầu kỳ phức tạp, quần áo người lao động đơn giản. Quan niệm thẩm mỹ, trình độ may thể hiện trên trang phục của giới qúi tộc. Thiết kế quần áo thời kỳ này rất chú ý tới quan hệ tỷ lệ và quan hệ đối lập. Trang phục nữ cổ khoét rộng, ngực bó sát và nâng cao lên. Eo thắt càng nhỏ càng tốt. Để tạo dáng cho phần váy, người ta thiết kế một cái khung đỡ vải, làm bằng vật liệu cứng và nhẹ. Thời kỳ này, phương tiện giao thông chủ yếu vẫn là ngựa nên đàn ông đi ủng cao, quần bó, chiếc áo đuôi tôm có hai khuy cài sau lưng để vén đuôi áo lên khi cần thiết. Sau cuộc cách mạng tư sản Pháp, trang phục có vẻ đơn giản hơn. Nhưng nhìn chung, kể cả trang phục quí tộc lẫn trang phục thường dân đều rất phức tạp. 2.4.5 Quần áo thế kỷ XIX Thế kỷ XIX, sản xuất công nghiệp đạt đến trình độ phát triển cao. Nghề dệt hưng thịnh. Trang phục thời kỳ này phát triển rực rỡ. Nhiều kiểu cách trang phục phong phú, đa dạng, phức tạp. Mốt bắt đầu xuất hiện làm cho hình thức trang phục biến đổi nhanh. Đặc trưng trang phục thời kỳ này đối với nữ là váy không phồng tròn đều như thế kỷ trước mà không phồng riêng phía sau và đây cũng là trọng tâm trang trí; đuôi váy phía sau càng dài càng tốt. Trang phục nam về cơ bản kiểu cách, hình dáng vẫn giống như thế kỷ trước nhưng đạt đến đỉnh điểm cảu sự trang trí phức tạp, không thua kém trang phục phụ nữ. Trong khi nữ giới rấty chú ý tới kiểu chải tốc thì nam giớo luôn đội đầu bằng những chiếc mũ cầu kỳ. 2.4.6 Quần áo thế kỷ XX Đặc trưng của thời kỳ này là cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật phát triển như vũ bão, tác động sâu sắc đến mọi khía cạnh của đời sống. Các kiểu quần áo không ngừng thay đổi. Các tạp chí thời trang xuất hiện. Giao lưu văn hoá và thông thương giữa các nước làm cho mốt lây lan nhanh trên phạm vi toàn thế giới. Trang phục thời kỳ này phát triển theo xu hướng thuận tiện trong sử dụng, cắt may đơn giản. Xuất hiện các phong cách mới, khác với phong cách cổ điển truyền thống. Sau thời gian dài với những quần áo nam cầu kỳ và phức tạp, giờ đây trang phục nam ngày càng giản dị. Trang phục nữ tuy có đơn giản đi rất nhiều so với trước đây nhưng vẫn phức tạp hơn hẳn trang phục nam giới. 2.5. Xu hướng thời trang hiện đại. Trong thời đại công nghiệp hiện nay ngày càng phong phú về chủng loại, đa dạng về chất liệu. Xu hướng hiện đại đem lại những bộ trang phục với những đường cắt đơn giản, khi mặc tạo cảm giác thoải mái, dễ dàng phù hợp với hình dáng cơ thể. Bổ trợ những kiểu dáng ấy là chất liệu vải: Chất liệu hiện đại là những chất liệu tự nhiên, có theer kể những loại chất quý như: Cotton, lụa thô, lụa tơ tằm, đây là những loại chất liệu tự nhiên đem lại và góp phần tạo sự thoải mái mỗi khi trang phục được khoác lên cơ thể người. Ngóài đạt được những giá trị tạo giá trị thẩm mỹ cao. Điều này giúp cho thời trang dễ được phổ cập rộng rãi, không chỉ cho một nhóm người mà có thể cho nhều người. Ngày nay, sự phát triểncủa các mối quan hệ quốc tế: thương nghiệp và du lịch, trao đổi văn hoá, thông tin đại chúng.. có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của ngành thời trang. Tuy nhiên trong các giai đạon hiện nay, xu hướng thời trang hiện đại có nhưnmgx đặc điểm cơ bản sau: - Sự thya đổi xu hướng mốt thời trang ở các nước đều theo xu hướng chung. Điều này có nghĩa là quần áo của các nước, tuy có sự khác nhau nhưng không đáng kể và sự khác biệt đó không phải do thời trang mà là do các điều kiện sống tcs độgn. Mặc dù hình thức biểu hiện có khác nhau, nhưng trong quan hẹ quốc tế các nước vẫn cùng hướng tới một tư duy chung về nội dung, hình thức quần áo. - Đa dạng và phong phú về kiểu loại. Theo dõi sự phát triển củ thời trang trong thời gian qua có thể dễ dàng nhận thấy trước kia trang phục thường chỉ có một kiểu đơn giản, với những màu sắc đơn điệu thì cho đến nay sự phát triển của thời trang theo nguyên tắc nhiều dáng vẻ, đa màu sắc nhưng vẫn thống nhất theo một phong cách chung là ngày càng hiện đại và phong phú về chủng loại. - Cắt may đơn giản và khuôn hình rõ nét. Thời trang hiện đại có ưu thế là tiện lợi, đơn giản, mặc thoải mái, nhiều kiểu dáng và phong cách khác nhau. Hiện nay, cả phụ nữ và nam giới hoàn tiòan có thể lạ chọn các trang phục phù hợp với thẩm mỹ, lứa tuổi, ý thích của chính bản thân mình mà vẫn hợp thời trang. Xu hướng thời trang hiện đại tính tới giá trị sử dụng thực tế tức là sự thích ứng của các kiểu trang phục với ý nghĩa sử dụng của chúng. Thời trang hiện đại cũng cùng lúc thoả mãn 2 chức năng: dễ gia công, thoả mãn thị hiếu của đại chúng. - Phổ cập rộng rãi. Ngày nay, sản xuất công nghiệp phát triển, trình độ văn hoá xã hội cao, ranh giới giữa các tầng lớp nhân dân trong xã hội không còn nữa, vì vậy có thể nói rằng một thời trang không chỉ của một vài người mà trở thành thị hiếu chung của nhiều người. Chính vì lý do đó, tính đồng loạt của thời trang phải chú trọng đến khía cạnh giáo dục thẩm mỹ cho mọi người. Sự phát triển của thời trang đã góp phần làm thế giới quan của con người trở nên phong phú và tiến bộ hơn. Trong bối cảnh lịch sử nước ta hiện nay, với sự ổn định về kinh tế, chính trị, an toàn xã hội là những nhân tố quan trọng htúc đẩy nền công nghiệp thời trang trong nước phát triển. Với mục đích đáp ứng nhu cầu ngày một mạnh mẽ của quần chúng nhu cầu mặc đẹp và góp phần thể hiện sự lớn mạnh của thời trang, trên thực tế ngang công nghiệp thời trang Việt Nam đã có những bước tiến quan trọng. Thời trang Việt Nam xét trên 2 lĩnh vực ứng dụng và biểu diến đều có những thành quả nhất định. Trước hết là thời trang biểu hiện, từ năm 97 tới nay một số các cuộc thi của khu vực và quốc tế thì Việt Nam đều có mặt và bước đầu thu được các giải thưởng lớn. Sự thành công này một phần cũng nhờ sự kết hợp các cơ quan báo chí, Fadin, Đại học Mỹ thuật Công nghiệp, Khoa tạo dáng Viện Đại học Mở... Sự phát triển của thời trang nghệ thuật cũng làm biến đổi về kiểu dáng của thời trang ứng dụng. Trước kia, người Việt Nam thường bắt trước kiểu dáng thời trang của người nước ngoài. Hiện nay người Việt Nam ưa thích sử dụng các trang phục gọn gẽ, màu sắc không quá rực rỡ. Chất liệu vải thô đũi, tơ tằm, vải dệt kim... được ưa chuộng vào mùa hè kiểu dáng nhẹ nhàng đơn giản. các chất liệu vải tổng hợp, vải pha, vải len mỏng với độ bền cao dữ được form dáng giá thành hợp lý, được sử dụng phổ biến cho trang phục mua đông, công sở. Tóm lại xu hướng hiện đại trên thế giới cũng như ở Việt nam tuy có khác nhau về thời điểm bứt đầu và kết thúc những vẫn mang một đặc điểm chung là đa dạng về ý tưởng và phương pháp sáng tạo. Trang phục được thể hiện tuy có khác nhau về kiểu dáng kích cỡ nhưng tựu chung vẫn là những trang phục phong cách giản dị trang nhã và hấp dẫn. Đây chính là ưu điểm của thời trang hiện đại và cũng là tiêu chí chung của xu hướng thời trang hiện nay. 2.6 giới thiệu đôi nét về sơn mài Việt Nam. Khi nói đến nghệ thuật Việt Nam thì một trong những nét đặc thù tiêu biểu đậm nét văn hoá nhất được thế giới quan tâm đến chinh là sơn mài. Nghề sơn vốn đã có từ nghìn năm trước, và hàng hoá mỹ nghệ, tranh tượng sơn ta cũng đã có từ lâu trong lịch sử, nhưng cuộc cải tiến sơn ta trở thành sơn mài thì mới sap xỉ 70 năm, với sự góp mặt của các hoạ sĩ trường cao đẳng mỹ thuật Đông Dương. Sơn mài là loại chất liệu độc đáo trước đây thường gọi là sơn ta hay nhựa sơn, dùng để sơn phủ và thếp vàng bạc lên đồ thờ, đồ mỹ nghệ và một số công trình kiến trúc với vẻ đẹp lộng lẫy cho hình, khối và không gian thẩm mỹ qua mấy màu cơ bản: Đen (là màu củ sơn then), đỏ (là màu được chế ra từ thần sa, chu sa, vàng bạc (là kim loại quỳ dát mỏng thếp lên đồ vật ) và màu lóng lánh của sa cừ. Từ đầu nhữn năm 30, qua các giai đoạn lịch sử, tiếp thụ nghề sơn từ những người thợ thủ công, một số hoạ sĩ Việt Nam đã dày công nghiên cứu khám phá, không những đã sáng tạo kỹ thuật mài sơn bằng cách pha nhựa thông vào sơn then và sơn cánh gián đẻ tạo lên vẻ đẹp đặc thù của chất liệu vẽ tranh: phẳng lỳ, trong trẻo, bóng bảy và có độ sâu thẳm, mà còn làm phong phú thêm bảng màu cổ truyền và những kỹ thuật thể hiện mới: màu trắng của vỏ trai, vỏ trứng. Các màu xanh từ khoáng chất và phẩm. Cách rắc vàng, bạc để chuyển độ đậm nhạt. Nghệ thuật sơn mài kể cả sơn mài đắp nổi, sơn mài khắc., đã có bước tiến về chất, đủ khả năng biểu đạt đường nét, và hình khối, và không gian xa gần của mọi hình tượng nghệ thuật trong tranh một cách đặc sắc và độ đáo. Do những đặc điểm ưu thế của chất liệu và kỹ thuật thể hiện, hoạ sĩ vẽ tranh sơn mài không sao chép tự nhiên mà giải quyết các mối tương quan bằng màu sắc hoặc đối lập, hoặc là đồng điệu như trời đỏ, nước đen, hay trời nước cùng đỏ với những sắc độ khác nhau mà vẫn thấm đậm tinh thần hiện thực. Trải qua 7 thập kỷ các hoạ sĩ Việt Nam đã có nhưng tác phẩm tuỵệt tác đóng góp phong phú cho nền nghệ thuâtj nước nhà, đây là những dẫn chứng đầy sức thuyết phục cho kết quả hội hoạ sơn mài Việt Nam. 2.7 Sắc màu chất liệu và những sáng tạo trong nghệ thuật sơn mài. Hoạ sĩ Việt Nam đã kế thừa một nghề cũ của ông cha tạo ra chất liệu sơn mài độc đáo: chất sơn mài với màu đen sâu thẳm ,màu son chói lọi, màu vàng màu bạc lộng lẫy. Tạo lên màug sắc kỳ ảo giúp ngôn ngữ nghệ thuật thêm khả năng diễn tả. Ngôn ngữ nghệ thuật thì khong thể sao chép tự nhiên khồng thể tự nhiên chủ nghĩa. Trong cảnh tự màu xanh mây trắng đã đành. Nhưngtrong tranh sơn mài có khi trời đỏ nước đen mà vẫn rất gợi cảm. có hoạ sĩ đã nói “ trong thực tế thì không có con ngựa nào màu xanh nhưng khi vẽ ngựa có lục phải vẽ ngựa màu xanh mới nói được cảm hứng “. Thể chất sơn mài cánh gián, sơn then ,vàng, bạc ở sơn mài linh biến linh động, không còn là thể chất không hồn nữa. Màu của sơn mài đằm thắm sắc nhị âm vang sâu đậm, rung tận đáy lòng người xem. Không một màu đỏ sôn dầu nào đứng cạnh màu son sơn mài mà không bị tái nhợt. Chưa thấy màu đen của sơn dầu nào đặt cạnh màu đen của sơn mài mà không bị bọt chơ... Trải qua một chặng đường dài các hoạ sĩ đã dần bổ sung cải tiến nâng cao chất lượng sơn mài, từ việc phát hiện chất liệu mới để tăng thêm bảng màu ,cách pha chế màu. Từ các quy trình thực hiện sản phẩm, dựng hình bản vẽ. Đặc biệt là kỹ sảo sơn mài. Từ các màu đen đỏ,cánh gián, vàng bạc, chưa tạo ra sắc độ. Nhu cầu của nghệ thuật tạo hình, của hội hoạ, để tăng thêm khả năng diễn tả các hoạ sĩ đã không ngừng tìm tòi cải tiến thêm. Năm 1932 Trần Quang Trân dùng cát vàng rắc lên mầu sơn cánh gián để tả độ đậm nhạt tạo anh sáng cho cảnh vật. 1935- 1945 Phạm Hậu, Nguyễn Khang, Nguyễn Gia Trí ... dùng vỏ trứng nguyên mảnh, vỡ vụn tạo ra mầu trắng và màu nền men rạn. Dùng hạt chi tử hạt giành ngâm với nước tiết ra màu vàng, làm giảm chất sẫm của màu cánh gián, tìm ra màu xanh lam bóng óng chuốt sâu kín... bnên cạnh đó còn có chất liệu như son trai, son tươi, son nhì, để tạo lên các sắc đỏ, dùng vàng bạc quỳ ray nhỏ thành bột, pha trộn vào sơn cánh gián, dùng sà cừ, vỏ trai tạo ra ánh sắc muôn màu. Có thể noí ỳ màu sắc sơn mài và chất liệu của no đã được các hoạ sĩ tạo lên những bức tranh có một màu huỳnh quang kỳ lạ... cái đó không thể tìm thấy trong bất cứ chất liệu nghệ thuật nào, nó có một sức thôi miên kỳ lạ. Trải qua gần bẩy thập kỷ các hoạ sĩ Việt Nam đã làm cuộc cách mạng đã đưa sơn mài vào nghệ thuật giá vẽ, với sự cải tiến sáng tạo không ngừng, ăn chịu với chất liệu, thấu hiểu đặc chưng chất liệu, mầu sắc, làm lên một diện mạo sơn mài Việt Nam. 2.8 Nghệ thuật sơn mài nguyễn gia trí. Nguyễn Gia trí sinh năm 1908 tại hà sơn bình. Là người dẫn đầu thành công trong nghệ thuật sơn mài Việt Nam. Nhắc đến tên Ông ta nghĩ ngay đến những tác phẩm nhệ thuật đầu tiên của Ông. Bộ bình phong vẽ cảnh làng quê trên nền sơn đen tuyền với ngọn cau cận cảnh được thể hiện bằn vang vụn rắc patin, trên nền trời xa có những ngọn tre bay theo gió và trên đường làng, qua một cái cổng chống bằng tre, có ba thiếu nữ gánh gạo đi như chạy, tà áo bay phấp phới. Bức “thiếu nữ bên hoa phù dung” nền vẽ vỏ trứng nét vẽ rất linh hoạt, được khắc lõm thiếp vàng. “Ai mua dươi ra mua” vẽ cảnh trời mưa nước sông dâng ngập tràn đồng, cô thiếu nữ duyên dáng đi bán dươi, đầu che đầu bằng chiếc lá sen. Mỗi tác phẩm của Nguyễn Gia Trí là tâm trạng của người tạo ra nó, nó rồi rào linh động, phức tạp và biến theo tâm trạng. Trong những hình màu sắc ấy như ẩn hiện một chút gì huyền ảo đắm say nồng nàn còn run rẩy trong bóng tối hoà với sắc máu, một sức sống còn bế tắc. Một linh hồn kiên quyết đam mê, đang quằn quại vì thoát nhanh ra ngoài ánh sáng. Sự sáng tạo bao giờ cũng đẹp. Còn gĩ khô sượng bằng vỏ trứng, giữa cảnh trời đen mây đỏ đã thành ánh sáng nhễ nhại và huyền diệu trên thân thể một phụ nữ mặc áo đỏ trong bức sơn mài, giữa một cảnh lộng lẫy, thiếu nữ đó tưng bừng đi ra mặc áo xám xanh, áo xám xanh này chỉ có so9ưn đen và vỏ trứng gà... Những hình thù thốt ra đanh thép như vẫn sống tự bao giờ, giản dị và bền bỉ như những vật thiên nhiên,đó là kết quả suy nghĩ kinh nghiệm của ông. Tạo nên sự huyền diệu trong mỗi tác phẩm! Nó được khởi sự trong lòng hoạ sĩ. 2.9 Cảm hứng sáng tác. Để thực hiện đồ án tốt nghiệp này bên cạng nghững kiến thức chuyên môn. Tôi đã tìm hiểu rất kỹ về nghệ thuật sơn mài Việt Nam, và Nguyễn Gia trí người thanh công đầu tiên tron lĩnh vực nghệ thuật này. -Nghiên cứu màu sắc: Về màu sắc sơn mài: khi nhắc đến sơn mài người ta nghĩ ngay đến màu sắc với vẻ đẹp lộng lẫy, giầu ngôn ngữ biểu cảm. Màu sắc sơn mài trong tranh nghệ thuật mang tíng ước lệ, và duy lí, càng nhìn ta càng nhận ra vẻ đẹp lung linh huyền bí, tuy nhiên cũng rất cô đọng. Chính cái thể chất lộng lẫy của sơn mài đã làm thoả lòng hoạ sĩ khát khao đi tìm một thể chất sơn cánh gián, sơn then, vàng bạc,sơn son ở sơn mài linh biến linh động không còn là thể chất không hồn nữa. ý tưởng mầu sắc1 ý tưởng mầu sắc 2 ý tưởng mầu sắc 3 Màu sắc sơn mài mang đậm đà bả sắc dân tộc phương đông bởi nó có nguồn gốc của một nghề truèn thống của cha ông ta, một nghề là niềm tự hào về văn hoá của dân tộc, đồng thời cũng là bảo bối, là tài sản làm giầu có cho đất nước. + Nghiên cứu về hoạ tiết: Hoạ sĩ Nguyễn Gia Trí mỗi tấc phẩm của ông đã nhấn mạnh được cái chất xúc động sâu lắng của sơn mài. Trong những bức tranh có nguồn gốc của lòng chân thành, cộng với cái đẹp sự thật cái đẹp thuần tuý ấn tượng. Trong bức “phong cảnh” của ông với màu sắc linh biến linh động, cái chất phi tự nhiên, chủ nghĩa của sơn mài đã đưa Ông vượt qua mối tư duy mô tả cụ thể đi vào tư duy nghệ thuật trừu tượng, chính cách tư duy của Ông mang được tính tôn giáo, bởi bản chất của nghệ thuật (gần với tôn giáo). Hình ảnh hoạ tiết chiếc “lá khoai” trong bức tranh phong cảnh của Ông được cách điệu rất cao, không miêu tả hiện thực vẽ kỹ càng như sơn dầu, chỉ bằng những mảng miếng ẩn hiện trong chất liệu sơn mài, hình ảnh chiếc lá đã được cô đọng, đầy tính nghệ thuật. ý tưởng hoạ tiết. 2.10 ý tưởng và thực tiễn sáng tác. Qua quá trình tìm hiểu nghệ thuật sơn mài, đặc biệt là màu sắc của sơn mài, và hoạ tiết chiếc lá khoai nước trong tranh Nguyễn Gia Trí, tôi thấy trong các yếu tố đó đều mang những nét đặc sắc văn hoá dân tộc. Với những mầu sắc cứng cỏi, được làm mềm đi dưới bàn tay các hoạ sĩ màu sắc sơn mài ít mãu nhưng rất nhiều sắc, mang tính ước lệ cao, dưới những gì còn lại và cô đọng trên tranh sơn mài thể hiện những bàn tay sắc sảo của hoạ sĩ hình tượng, hình khối cô đọng, màu sắc lung linh, và tương quan sắc độ mạnh mẽ dễ dàng làm cho người thưởng thức nhận ra sự sáng tạo trong loại hình nghệ thuật này. Để góp phần rút ngắn khoảng cách giữa nghệ thuật này, với tất cả niềm say mê nghệ thuật của một nhà thiết kế thời trang, tôi chọn đề tài để sáng tác tác bộ sưu tập "Lộng lẫy vàng son". Bộ sưu tập bao gồm các trang phục như quần, áo, váy dài, váy ngắn, được cách điệu làm sao truyển tải những thông tin một cách hiệu quả cho người sử dụng, với màu sắc biểu cảm tâm sự, và một chút suy nghĩ, bởi trước cuộc sống xô bồ theo phong cách phương tây, và sự lai căng trong cách ăn mặc. Bộ sưu tập gồm những trang phục nữ giới trẻ tuổi, những con người năng động và sáng tạo, bên cạnh sự nhạy cảm trong giao lưu cuộc sống. 2.10.1 Cách điệu và biểu tượng: Qua tìm tòi nghiên cứu tư liệu vê mầu sắc sơn mài và hoạ tiêt trong bức trang phong cảnh của Nguyễn Gia Trí, tôi tìm hiểu lắm bắt được nhữn đặc điểm nổi bật của vấn đề ,từ đó thể hiên, cách điệu những dường nét, mầu sắc đặc trưng để xây dựng biểu tượng, từ những màu sắc của sơn mài và hoạ tiết lá khoai nước, trang trí cấu thành biểu tượng Biểu tượng Biểu tượng là tiếng nói chung cho bộ sưu tập mang tên “lộng lẫy vàng son”, với sự kết hợp màu cánh gián, màu son, màu vàng. Sự tương quan các màu này tạo lên chất lộng lẫy, nhưng được làm dịu đi bởi màu đen, bên cạnh những màu cơ bản của sơn mài, tôi cũng nhấn thêm màu lục của sơn mài hiện đại, làm mát dịu đi gam màu nóng rực rỡ của sơn mài ... Bằng những mầu sắc mạnh mẽ kết hợp với những mảng miếng được cách điệu trên một số trang phục truyền thống, bộ sưu tập gồm 12 mẫu trang phục bao gồm thời trang trẻ và thời trang nghệ thuật. 2.10.5 Mẫu thể hiện. Mẫu1 : Đây là mẫu mang tính ứng dụng, được thiết kế bám sát từ hình dáng biểu tượng, chiếc váy được cách điệu bằng những mảng trang trí sắp xếp hài hoà, chiếc áo được dựng lên từ những mảng hoạ tiết cách điệu từ chiếc lá khoai, sự kết hợp mảng miếng, trổ thủng tạo lên được chiếc ao độc đáo mói lạ. Việc sử dụng màu sắc, và chất liệu đều có chủ ý: trên nền váy màu đen với chất liệu thô được trang trí cườm, và chất liệu vải taffta nâu đỏ bóng và bắt ánh sáng, tạo sự tương phản thể hiện được ngôn ngữ màu sắc sơn mài, chiếc áo vải taffta nâu đỏ có chuyển màu kết hợp với màu lục tạo sự tương phản đó là mảng chính của bộ trang phục. Bộ trang phục với kết cấu đơn giản nhẹ nhàng nhưng cũng rất táo bạo, và một chút cầu kỳ, làm cho bộ trang phục có phần táo bạo và nữ tính. Đặc biệt những mảng miếng của chiếc áo được may trên nền vải voan, tạo cho kết cấu chiếc áo thêm vững chắc, đồng thời cũng tạo được hiệu quả màu sắc ẩn hiện, do đo truyển tải được đặc tính và hiêu quả của màu sắc ước lệ, duy lý của sơn mài, điều này cho thấy bộ trang phục nó như là một tác phẩm nghệ thuật chứ không đơn thuần là một bột trang phục. Mẫu 2: Đây là bộ trang phục ứng dụng trong trình diễn nghệ thuật bằng sự sắp đặt điểm nhấn, cắt khoét tạo hình, chiếc áo choàng từ vai xuống ngang bắp chân được chổ những sọc chéo nhìn tổng thể ta thấy nét gợi mô phỏng gân chiếc lá khoai,làm toát lên được ý tưởng phần ngực và chân váy được trang trí bằng những miếng vải taffta chuyển sắc, sự kết hợp này được đặt trong một tổng thể cân đối làm cho bố cục trang phục thêm chặt chẽ, với gam mau nâu,màu đen (trầm lắng), và mạnh mẽ của mau vàng cánh gián, trong một tổng thể bố cục này nó giường như đưa ta đến những suy nghĩ, tâm sự tĩnh tại huyền bí, linh thiêng, và trong cái trầm lắng ấy là sự dẫy dụa vươn lên, nó như là tâm trạng một hoạ sĩ sơn mài vẽ tranh trừu tượng vậy, bên cạnh đó nó còn thể hiện ngôn ngữ mầu sắc dân tộc, bởi nghệ thuật luôn gắn liền với tôn giáo. Do vậy bộ trang phục này là một tác phẩm giầu ngôn ngữ nghệ thuật. Mâu3: Đây là bộ trang phục mang tính ứng dụng cao với, trên cơ sở bám sát ý tưởng màu sắc và hoạ tiết, một lần nữa được thiết kế trang phục ứng dụng, trên chất liệu thô đũi tự nhiên, loại vải khi mặc giúp cho con người thấy thoai mái, thoáng mát tôi thiết kế chiếc quần với đường nét thiết kế cô đọng đơn giản, với chiếc áo có chút cầu kỳ kiểu cách, đem lại những phong thái trẻ trung. Bộ trang phục này là sự kết hợp giữa màu nâu cháy của sơn mài, màu son đã được làm dịu bớt sắc độ, chiếc quần màu xanh chất màu của sơn mài hiên đại, tạo màu sắc tương phản hài hoà. đồng thời kết cáu trang phục được thiết kế bám sát cơ thể nhằm tôn những đường cong vẻ đẹp của những thiếu nữ đang xuân. Chương 3: Tính toán hiệu quả kinh tế 3.1 Cơ sở tính toán: Ngành công nghiệp thời trang cũng như nhiều ngành công nghiệp khác, nó được sinh ra nhằm phục vụ cho nhu cầu của con người. Để đáp ứng được những nhu cầu thiết yếu này, nhà tạo mẫu không chỉ đơn thuần là làm công việc tạo mẫu mà còn phải nghiên cứu, tìm tòi để nắm bắt những đòi hỏi của xã hội để từ đó có thể tạo ra những tác phẩm phù hợp với nhu cầu của xã hội. Điều này là vô cùng quan trọng, đó chính là việc nghiên cứu thị trường. Khi đã nắm bắt được nhu cầu thị của trường, nhà tạo mẫu có thể dễ dàng tìm được chỗ đứng cho sản phẩm của mình. Chính vì vậy, phần kinh tế này là phần đòi hỏi: - Thăm dò thị trường: Đây là công việc đầu tiên trước khi tiến hành sáng tác mẫu. Cần nắm rõ được thị trường sẽ tiêu thụ sản phẩm, đặc biệt là đối tượng sẽ phục vụ. Những mẫu thiết kế ra sẽ được sản xuất hàng loạt phục vụ nhiều đối tượng hay là sản xuất đơn chiếc phục vụ một tầng lớp nhất định., hay phải nắm được họ thuộc thành phần nào trong xã hội, có đặc điểm gì nổi bật về văn hoá, lối sống, sở thích, mức sống... Sau khi thăm dò thị trường, các mẫu thiết kế phù hợp với nhu cầu sẽ ra đời. Công việc tiếp theo là sản xuất. - Sản xuất: Cần tìm hiểu về các vấn đề có liên quan đến sản xuất như địa hình (nhà xưởng để sản xuất), giá đầu vào, thuế, các chế độ xã hội... Cần phải tính toán chính xác được giá thành sản phẩm, tức là tính toán được các chi phí để tạo ra sản phẩm và lợi nhuận có thể thu được từ những sản phẩm đó. Khâu tính toán này rất quan trọng. Sản phẩm được tạo ra phải là những sản phẩm đáp ứng được nhu cầu nhưng phải có mức chi phí thấp nhất. - Tiêu thụ sản phẩm: Sau khi nghiên cứu thị trường và sản xuất ra sản phẩm, công việc quan trọng tiếp theo là tiêu thụ. Có thể là những đơn đặt hàng được sản xuất theo đơn đặt hàng có được từ quá trình thăm dò thị trường thì viậc còn lại chỉ là giao hàng theo hợp đồng, nếu không phải là sản xuất theo đơn đặt hàng thì công việc tiếp theo là marketing để tiêu thụ sản phẩm. Việc này đòi hiỏi phải thực hiện những bước sau: + Quảng cáo + Tiếp thị + Giới thiệu sản phẩm + Đồng thời tìm những đại điểm thích hợp để bán hàng. Các biện pháp cụ thể này nhằm đảm bảo việc tiêu thụ sản phẩm một cách nhanh chóng để thu hồi vốn trong thời gian ngắn nhất có thể tiếp tục tái sản xuất. Những công việc trên đều là những công việc hết sức quan trọng bởi nó phỉa đảm bảo cho sản phẩm khi đã sản xuất và đưa ra thị trường phải đươc tiêu thuu với lợi nhuận cao nhất có thể. Tức là giá bán sản phẩm phải là cao nhất bởi vì: Lợi nhuận = Doanh thu - Chi phí Doanh thu ở đây là giá tiêu thụ của sản phẩm trên thị trường. Qua những phân tích tính toán ở trên, khi áp dụng cho bộ sưu tập này đòi hỏi tác giả cũng phải cân nhắc sao cho sản phẩm khi đưa ra thị trường đảm bảo thu được doanh thu cao nhất. Lợi nhuận có thể thu được từ bộ sưu tập: L = D - C Trong đó: L: Lợi nhuận D: Doanh thu (Tổng giá trị hợp đồng) C: Các chi phí C = C1 + C2 + C3 + C4 + C5 Bao gồm: C1: Chi phí cố định: nhà xưởng, hao mòn máy móc... C2: Chi phí nguyên vật liệu C3: Chi phí nhân công: công thiết kế, công cắt, công may C4: Các chi phí khác như đi lại, giao dịch, marketing... C5: Chi phí lãi suất vay ngân hàng. Tính các chi phí cần thiết trong quá trình hoàn thành sản phẩm: 3.2 Tính toán chi phí và lợi nhuận 3.2.1 Chi phí cố định.(C1) Bộ sưu tập đang trong quá trình thiết kế mẫu đưa ra thị trường (làm hàng mẫu đơn chiếc đơn chiếc) do vậy chi phí cố định bằng0. C1 = 0 3.2.2 Chi phí nguyên vật liệu (C2) a. Mẫu số 1: B1. Đơn vị: Đồng TT Tên vật liệu Đơn vị Số lượng Đơn giá Thành tiền Ghi chú 1 Taffeta nâu m 1,40 60.000 84.000 2 Vải lụa vàng m 0,1 20.000 2.000 3 Vải đũi xanh m 1,5 15.000 22.500 4 Vải đũi đen m 2 15.000 30.000 5 Vải voan m 0,7 18.000 12.600 6 Khoá cái 2 2.000 4.000 Tổng cộng 155.100 Bằng chữ: Một trăm năm mươi ngàn một trăm đồng. b. Mẫu số 2: B2. Đơn vị: đồng TT Tên vật liệu Đơn vị Số lượng Đơn giá Thành tiền Ghi chú 1 Vải đũi nâu m 3,3 15.000 49.500 2 Vải Taffeta nâu đỏ m 0,6 60.000 36.000 3 Vải thô đũi đen m 3 15.000 45.000 4 Lụa vàng m 0,1 20.000 2.000 5 Vải voan m 0,3 18.000 5.400 6 Khoá cái 1 2.000 2.000 Tổng cộng 139.900 Bằng chữ: Một trăm ba chín ngàn chín trăm đồng. c. Mẫu số 3: B3. Đơn vị: Đồng TT Tên vật liệu Đơn vị Số lượng Đơn giá Thành tiền Ghi chú 1 Vải thô nâu m 0,4 30.000 12.000 2 Vải đũi đỏ m 1 15.000 15.000 3 Vải đũi xanh m 2,2 15.000 33.000 4 Vải Taffeta m 0,2 60.000 12.000 5 Vải voan m 0,1 18.000 1.800 6 Khóa cái 2 2.000 4.000 Tổng cộng 77.800 Bằng chữ: Bẩy bẩy ngàn tám trăm đồng. d. Chi phí vật liêu phụ:(p) Bảng chi phí vật liệu phụ bổ xung cho bộ sưu tập Đơn vị: đồng TT Tên vật liệu Đơn vị Số lượng Đơn giá Thành tiền Ghi chú 1 Cườm trang trí Túi 1 10.000 10.000 2 Chỉ may Cuộn 3 2.000 6.000 3 Mếch giấy m 3 4.000 12.000 Tổng cộng 28.000 Bằng chữ: Hai tám ngàn đồng. * Tổng chi phí vật liệu sưu tập: C2 = B1 + B2 + B3 + P = 155.100 + 139.900 + 77.800 + 28.000 C2 = 400.800 (đồng) Bằng chữ: Bốn trăm ngàn tám trăm đồng. 3.2.3 Chi phí nhân công (C3): Bảng chi phí nhân công cho bộ sưu tập Đơn vị:(đồng) TT Tên công việc Đơn vị Số lượng Đơn giá Thành tiền Ghi chú 1 Công thiết kế tạo mẫu Bộ 4 150.000 600.000 2 Công thiết kế kỹ thuật công/ bộ 2 30.000 60.000 3 Công gia công công/ bộ 5 30.000 150.000 4 Công hoàn thiện công/ bộ 1 20.000 20.000 Tổng cộng 830.000 Bằng chữ: Tám trăm ba mươi ngàn đồng. Vậy chi phí cho nhân công là: C3 = 830.000 (đồng) 3.2.4 Các chi phí khác: C4. a. Chi phí kho tàng bến bãi bằng 0(do làm bộ sưu tập đang trong quá trình thiết kế làm hàng mẫu đơn chiếc). b. Chi phí đi lại vận chuyển và chi phí Marketing được tính theo quy định của nhà nước và căn cứ vào thực tế khi khi thực hiện bộ sưu tập này là: 7% tổng các chi phí (chi phí vật liệu, chi phí nhân công...). C4 = ( C1 + C2 + C3)* 7% C4 = ( 0 + 400.800 + 830.000)* 7% C4 = 1.230.800* 7% C4 = 86.156 (đồng) Bằng chữ: Tám sáu ngàn một trăm năm sáu đồng 3.2.5 Chi phí lãi suất vay ngân hàng (C5): Dự toán bộ sưu tập này từ khi thực hiện đến khi đáo hạn hợp đồng là hai tháng: C5 = ( C1 + C2 + C3 + C4)*1%* số tháng vay C5 = ( 0 + 400.800 + 830.000 + 86.200)*1%*2 C5 = 26.300 (đồng) Bằng chữ: Hai sáu ngàn ba trăm đồng. * Tổng chi phí bộ sưu tập: C = C1 + C2 + C3 + C4 + C5 C = 0 + 400.800 + 830.000 + 86.200 + 26.300 C = 1.343.200 (đồng) Bằng chữ: Một triệu ba trăm bốn ba ngàn hai trăm đồng. 3.2.6 Tính toán lợi nhuận: Theo tôi dự toán bộ sưu tập của tôi đưa ra là bộ sưu tập đẹp, thẩm mỹ, hợp với xu thế thời trang hiện nay, song nó vừa mang tính ứng dụng trong cuộc sống đồng thời vừa có tính ứng dụng trong biểu diễn nghệ thuật do đó bộ sưu tập (Lộng lẫy vàng son) là khả thi rất cao. Căn cứ vào thị trường va Theo dự toán hợp đồng số tiền từng mẫu là: Mẫu số 1: M1 (mang tính ứng dụng cao) tương ứng M1 = 1.500.000 đồng Mẫu số 2: M2 (mang tính ứng dụng trong trình diễn nghệ thuật) M2 = 3.000.000 đồng Mẫu số 3: M3 (mang tính ứng dụng trong thực tế) M3 = 1.200.000 đồng Tổng dự toán ba mẫu: D = M1 + M2 + M3 = 1.500.000 + 3.000.000 + 1.200.000 D = 5.700.000 (đồng) Lợi nhuận = Doanh thu - Chi phí L = D - C = 5.700.000 - 1.343.200 L = 4.356.800 (đồng) Bằng chữ: Bốn triệu ba trăm năm sáu ngàn tám trăm đồng. Trong quá trình thiết kế bộ sưu tập này, tôi cũng đã nghiên cứu khảo sát thăm dò thị trường có thể thấy rằng bộ sưu tập này đáp ứng được nhu cầu đông đảo của đối tượng tiêu dùng, cả về thời trang ứng dụng và thời trang nghệ thuật. Bộ sưu tập được thiết kế và sản xuất hàng mẫu đơn chiếc bằng nhiều công đoạn thủ công do vậy giá thành mỗi bộ trang phục lên giá cao, tuy nhiên khi đưa vào sản xuất hàng loạt thì chi phí sẽ giảm xuống đáp ứng được đông đảo quần chúng. KếT LUậN Trong những năm quacùng với sự phát triển mạnh của nền kinh tế toàn cầu, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền công nghiệp thời trang trong đó nhgành thời trang cũng góp phần quan trọng thúc đẩy sự phất triển của xã hội thế giới quan trọng của con người. Thời trang thế giới phất triển với phong phú các trương phái , trên đà tốc độ phát triển thời trang như hiện nay ơ nươc ta cững đã và đang gặt hay đượch nhưng thành công , góp phần thúc đẩy mạnh sự thăng hoa của nghành của nghành công nghiệp mới mẻ này. Thông qua các sản phẩp mốt- thời trang, con người có cơ hội xích lại gần nhau hơn, hoà đồng hơn trong một tiếng nói chung là “cái đẹp”, “ cái thẩm mỹ”, là sự phấn đấu những giá trị văn hoá tinh thần cao cả, là sự hướng lên của tâm hồn. Sản phẩm của ngành công nghiệp thời trang - trang phục chính là tiền đề, là điều kiện đưa các nền văn minh nhân loại sát cánh nhau hơn và tiến tói một tầm cao mới. Với sự thúc đẩy nỗ lực của các nhà thiết kế trẻ trong thời gian qua nghành công nghiệp thiết kế thời trang của Việt Nam đã tự khẳng định mình và tạo tiếng vang lớn trên bàn đồ thời trang thế giới. Là Một sinh viên ngành thời trang luôn mong muốn được góp phần một phần nhỏ bé và tiến trình phát triển của thời trang Việt Nam, những tác phẩm được thiết kế trong khuôn khổ đồ án tốt nghiệp này nhằm cùng hoà nhập với thế giới thời trang muôn mầu, phát triển và tôn vinh cái đẹp trong văn hoá dân tộc, không làm phai mờ những nét văn hoá truyền thống trong sự phồn vinh của thế giới hiện tại Tài liệu tham khảo Th.S Trần Thuỷ Bình - T.S Phạm Hồng: “Kỹ thuật tạo mốt và vật liệu thời trang”. Nguyễn Đăng Quang: “Sơn mài Việt Nam”, Nhà xuất bản Trẻ1995. TS Đoàn Thị Tính: “Những vấn đề trang phục sân khấu truyền thống” (Luận án PTS Nghệ thuật học - Viện VHNT 1996) Tư liệu ảnh bảo tàng mỹ thuật Hà Nội, và các trang bài nói về nghệ thuật sơn mài.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docV0083.doc
Tài liệu liên quan