Đề tài So sánh trường hấp dẫn và trường điện từ

I. Giống nhau: I.1. Có khoảng tác dụng tới vô cực. I.2. Đều có hạt truyền tương tác (trường hấp dẫn là graviton; trường điện từ là photon); hai hạt điều có spin nguyên. I.3. Đều có hai trạng thái hình chiếu của các hạt truyền tương tác. I.4. Các hạt truyền tương tác lan truyền dưới dạng sóng, tức là tồn tại sóng điện từ và sóng hấp dẫn. I.5. Các hạt truyền tương tác đều có khối lượng nghỉ bằng không (tuy nhiên graviton được dự đoán là phải có khối lượng nghỉ khác không). I.6. Đều được tin tuyệt đối về sự đúng đắng, mặt dù còn nhiều yếu tố của trường hấp dẫn chưa được thực nghiệm chứng minh. I.7. Là những dạng vật chất tồn tại khắp nơi trong vũ trụ. I.8. Định hướng nghiên cứu trường hấp dẫn theo trường điện từ. I.9. Sóng điện từ và sóng hấp dẫn có cùng dạng phương trình truyền sóng, đều là sóng ngang truyền trong chân không với vận tốc truyền sóng là c – vận tốc ánh sáng. I.10. Trong trường điện từ, điện trường biến thiên theo thời gian sinh ra từ trường xoáy và ngược lại. Đối với trường hấp dẫn, ta cũng có hiện tượng tương tự. Năng lượng sóng hấp dẫn (tương đương khối lượng) sẽ sinh ra trường hấp dẫn thứ cấp rồi lại trường tam cấp, tứ cấp và cứ thế tiếp tục lan truyền trong không gian. I.11. Sử dụng phương trình truyền sóng và các tenxơ trường hấp dẫn, trường điện từ, ta có thể tìm ra các bất biến cho sóng phẳng đơn sắc của sóng điện từ và sóng hấp dẫn có những dạng và ý nghĩa tương đương nhau. I.12. Sự lượng tử hóa trường hấp dẫn được tiến hành theo mô hình lượng tử hóa trường điện từ. Theo đó, sự lượng tử hóa trường điện từ cho thấy hạt truyền tương tác là các photon, và đã được tìm thấy. Tương tự mô hình cho trường hấp dẫn, người ta cung tìm thấy trên lý thuyết hạt truyền tương tác hấp dẫn là graviton, tuy nhiên, mặc dù đã dự đoán được các trặc trưng spin, khối lượng của hạt này nhưng chúng vẫn chưa được tìm thấy.

doc26 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2221 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài So sánh trường hấp dẫn và trường điện từ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đề: So sánh trường hấp dẫn và trường điện từ. BÀI LÀM I. Giống nhau: I.1. Có khoảng tác dụng tới vô cực. I.2. Đều có hạt truyền tương tác (trường hấp dẫn là graviton; trường điện từ là photon); hai hạt điều có spin nguyên. I.3. Đều có hai trạng thái hình chiếu của các hạt truyền tương tác. I.4. Các hạt truyền tương tác lan truyền dưới dạng sóng, tức là tồn tại sóng điện từ và sóng hấp dẫn. I.5. Các hạt truyền tương tác đều có khối lượng nghỉ bằng không (tuy nhiên graviton được dự đoán là phải có khối lượng nghỉ khác không). I.6. Đều được tin tuyệt đối về sự đúng đắng, mặt dù còn nhiều yếu tố của trường hấp dẫn chưa được thực nghiệm chứng minh. I.7. Là những dạng vật chất tồn tại khắp nơi trong vũ trụ. I.8. Định hướng nghiên cứu trường hấp dẫn theo trường điện từ. I.9. Sóng điện từ và sóng hấp dẫn có cùng dạng phương trình truyền sóng, đều là sóng ngang truyền trong chân không với vận tốc truyền sóng là c – vận tốc ánh sáng. I.10. Trong trường điện từ, điện trường biến thiên theo thời gian sinh ra từ trường xoáy và ngược lại. Đối với trường hấp dẫn, ta cũng có hiện tượng tương tự. Năng lượng sóng hấp dẫn (tương đương khối lượng) sẽ sinh ra trường hấp dẫn thứ cấp rồi lại trường tam cấp, tứ cấp và cứ thế tiếp tục lan truyền trong không gian. I.11. Sử dụng phương trình truyền sóng và các tenxơ trường hấp dẫn, trường điện từ, ta có thể tìm ra các bất biến cho sóng phẳng đơn sắc của sóng điện từ và sóng hấp dẫn có những dạng và ý nghĩa tương đương nhau. I.12. Sự lượng tử hóa trường hấp dẫn được tiến hành theo mô hình lượng  tử hóa trường điện từ. Theo đó, sự lượng tử hóa trường điện từ cho thấy hạt truyền tương tác là các photon, và đã được tìm thấy. Tương tự mô hình cho trường hấp dẫn, người ta cung tìm thấy trên lý thuyết hạt truyền tương tác hấp dẫn là graviton, tuy nhiên, mặc dù đã dự đoán được các trặc trưng spin, khối lượng của hạt này nhưng chúng vẫn chưa được tìm thấy. II. Khác nhau: II.1. Khác về cơ sở lý thuyết II.1.1. Lý thuyết trường hấp dẫn (lý thuyết tương đối rộng) dựa trên các nguyên lý nền tảng: Nguyên lý hiệp biến: Các định luật vật lý là như nhau trong tất các các hệ quy chiếu (các định luật vật lý là các phương trình tenxơ). Chuyển động quán tính theo đường trắc địa. Nguyên lý tương đương, vốn là điểm khởi đầu trong quá trình xây dựng lý thuyết tương đối rộng từ thuyết tương đối hẹp, sau này được nhận ra là hệ quả của nguyên lý hiệp biến và nguyên lý chuyển động quán tính theo đường trắc địa. Nguyên lý này phát biểu rằng, không có một thí nghiệm tại không thời gian địa phương nào có thể phân biệt sự rơi tự do không quay trong trường hấp dẫn với chuyển động thẳng đều khi không có trường hấp dẫn. Nó cũng dẫn đến kết quả quan trọng là độ cong không thời gian gây nên bởi sự có mặt của vật chất, phương trình trường Einstein. Phương trình Einstein hay phương trình trường Einstein, phương trình đầy đủ của trường hấp dẫn là một phương trình tenxơ trong trong lý thuyết tương đối rộng, mô tả mối liên hệ giữa vật chất (cụ thể là năng lượng và động lượng của chúng) và không - thời gian cong, thể hiện trường lực hấp dẫn, một lực cơ bản trong tự nhiên. Phương trình này được Einstein phát biểu lần đầu tiên năm 1915. Phương trình này có thể được viết như sau: Trong đó: Rμν: Tenxơ Ricci. R: Vô hướng Ricci. gμν: Tenxơ Mêtric. Λ: Hằng số vũ trụ. c: Vận tốc ánh sáng trong chân không. G: Hằng số hấp dẫn (giống như hằng số hấp dẫn trong định luật hấp dẫn của Newton). Tμν: Tenxơ năng – xung lượng. Tenxơ đối xứng chỉ chứa 10 thành phần độc lập, phương trình tenxơ của Einstein tương đương với 1 hệ 10 phương trình vô hướng độc lập. Cho biết trước một sự sắp đặt vật chất, tức là biết tenxơ năng -xung lượng Tμν, có thể coi phương trình này tìm nghiệm tenxơ mêtric gμν (đại diện cho không thời gian và cũng thể hiện trường hấp dẫn), do tenxơ Ricci và vô hướng Ricci đều phụ thuộc vào gμν một cách phức tạp. Biết được tenxơ mêtric gμν, có thể biết được một chất điểm tự do đi theo đường trắc địa trong không thời gian tương ứng với gμν như thế nào. Trong thuyết tương đối rộng, chất điểm tự do không chịu ngoại lực tác động, và lực hấp dẫn không được coi là một ngoại lực tác động lên vật mà chỉ là hiệu ứng của đường trắc địa cong trong không thời gian cong; đường đi cong của chất điểm tự do có thể coi như tác động của lực hấp dẫn trong cơ học cổ điển. Việc giải phương trình Einstein và hiểu các nghiệm là công việc cơ bản trong mônVũ trụ học. Một số lời giải cho các trường hợp đặc biệt có thể kể đến là nghiệm schwarzschild (chân không xung quanh một thiên thể không quay, không tích điện), nghiệm Reissner – Nordstrom vànghiệm Kerr. Khi không thời gian hoàn toàn là chân không (không có vật chất), lời giải thu về mêtric Minkowski của không thời gian phẳng. Phương trình trường Einstein tiệp cận về định luật vạn vật hấp dẫn của Newton trong phép xấp xỉ trường yếu và xấp xỉ chuyển động chậm (so với tốc độ ánh sáng). Thực tế là hằng số hấp dẫn và các hằng số khác được dùng trong phương trình trường Einstein để khớp nó với định luật vạn vật hấp dẫn Newton trong hai phép xấp xỉ trên. Einstein II.1.2. Lý thuyết trường điện từ dựa trên lý thuyết Maxwell: Năm1865, nhà vật lý người Anh James Ckerk Maxwell đã kết hợp các định luật về điện và từ đã biết để tạo ra lý thuyết Maxwell. Lý thuyết này dựa trên sự tồn tại của các trường, hiểu nôm na là môi trường truyền tác động từ nơi này đến nơi khác. Ông nhận thấy rằng các trường truyền nhiễu loạn điện và từ là các thực thể động: chúng có thể dao động và truyền trong không gian. Lý thuyết Maxwell có thể gộp lại vào hai phương trình mô tả động học của các trường này, gọi là các phương trình Maxwell. Dựa vào lý thuyết này, Maxwell đã đi đến một kết luận: tất cả các sóng điện từ đều truyền trong không gian (chân không) với một vận tốc không đổi bằngvận tốc ánh sáng. Các phương trình Maxwell bao gồm bốn phương trình, đề ra bởi James Clerk Maxwell, dùng để mô tả trường điện từ cũng như những tương tác của chúng đối với vật chất. Bốn phương trình Maxwell mô tả lần lượt : Điện tích tạo ra điện trường như thế nào (định luật Gauss). Sự không tồn tại của vật chất từ tích. Dòng điện tạo ra từ trường như thế nào (định luật Ampere). Và từ trường tạo ra điện trường như thế nào (định luật cảm ứng Faraday) Đây cũng chính là nội dung của thuyết điện từ học Maxwell. Các công thức của Maxwell vào năm 1865 bao gồm 20 phương trình với 20 ẩn số, nhiều phương trình trong đó được coi là nguồn gốc của hệ phương trình Maxwell ngày nay. Các phương trình của Maxwell đã tổng quát hóa các định luật thực nghiệm được những người đi trước phát hiện ra: chỉnh sửa định luật Ampère (ba phương trình cho ba chiều (x, y, z)), định luật Gauss cho điện tích (một phương trình), mối quan hệ giữa dòng điện tổng và dòng điện dịch (ba phương trình (x, y, z)), mối quan hệ giữa từ trường và thế năng vectơ (ba phương trình (x, y, z), chỉ ra sự không tồn tại của từ tích), mối quan hệ giữa điện trường và thế năng vô hướng cũng như thế năng vectơ (ba phương trình (x, y, z), định luật Faraday), mối quan hệ giữa điện trường và trường dịch chuyển (ba phương trình (x, y, z)), định luật Ohm về mật độ dòng điện và điện trường (ba phương trình (x, y, z)), và phương trình cho tính liên tục (một phương trình). Các phương trình nguyên bản của Maxwell được viết lại bởi Oliver Heaviside và Willard Gibbs vào năm 1884 dưới dạng các phương trình vectơ. Sự thay đổi này diễn tả được tính đối xứng của các trường trong cách biểu diễn toán học. Những công thức có tính đối xứng này là nguồn gốc hai bước nhảy lớn trong vật lý hiện đại đó là thuyết tương đối hẹp và vật lý lượng tử. Thật vậy, các phương trình của Maxwell cho phép đoán trước được sự tồn tại của sóng điện từ, có nghĩa là khi có sự thay đổi của một trong các yếu tố như cường độ dòng điện,mật độ điện tích... sẽ sinh ra sóng điện từ truyền đi được trong không gian. Vận tốc của sóng điện từ là c, được tính bởi phương trình Maxwell, bằng với vận tốc ánh sáng được đo trước đó bằng thực nghiệm. Điều này cho phép kết luận rằng ánh sáng là sóng điện từ. Các nghiên cứu về ánh sáng và sóng điện từ, tiêu biểu là các nghiên cứu của Max Planck về vật đen và của Heinrich Hertz về hiện tượng quang điện đã cho ra đời lý thuyết lượng tử. Sự không phụ thuộc của vận tốc ánh sáng vào chiều và hệ quy chiếu - những kết luận được rút ra từ phương trình Maxwell - là nền tảng của thuyết tương đối. Chú ý rằng khi ta thay đổi hệ quy chiếu, những biến đổi Galileo cổ điển không áp dụng được vào các phương trình Maxwell mà phải sử dụng một biến đổi mới, đó là biến đổi Lorentz. Einstein đã áp dụng biến đổi Lorentz vào cơ học cổ điển và cho ra đời thuyết tương đối hẹp. Tóm tắt Bảng sau đây tóm tắt các phương trình và khái niệm cho trường hợp tổng quát. Kí hiệu bằng chữ đậm là vectơ, trong khi đó những kí hiệu in nghiêng là vô hướng. Tên Dạng phương trình vi phân Dạng tích phân Định luật Gauss: Đinh luật Gauss cho từ trường (sự không tồn tại của từ tích): Định luật Faraday cho từ trường: Định luật Ampere (với sự bổ sung của Maxwell): Bảng sau đây liệt kê khái niệm của các đại lượng trong hệ đo lường SI : Kí hiệu Ý nghĩa Đơn vị trong hệ SI Cường độ điện trường volt / mét Cường độ từ trường ampere / mét Độ điện thẩm coulomb / mét vuông Vectơ cảm ứng từ tesla, weber / mét vuông Mật độ điện tích, coulomb / mét khối Mật độ dòng điện, ampere / mét vuông Vectơ vi phân diện tích A, có hướng vuông góc với mặt S mét vuông Vi phân của thể tích V được bao bọc bởi diện tích S mét khối Vectơ vi phân của đường cong, tiếp tuyến với đường kính C bao quanh diện tích S mét (còn gọi là div) toán tử tính suất tiêu tán: trên mét (còn gọi là rot) toán tử tính độ xoáy cuộn của trường vectơ. trên mét Các đại lượng D và B liên hệ với E và H bởi : trong đó : χe là hệ số cảm ứng điện của môi trường, χm là hệ số cảm ứng từ của môi trường, ε là hằng số điện môi của môi trường, và μ là hằng số từ môi của môi trường. Khi hai hằng số ε and μ phụ thuộc vào cường độ điện trường và từ trường, ta có hiện tượng phi tuyến; xem thêm trong các bài hiệu ứng Kerr và hiệu ứng Pockels.) Trong môi trường tuyến tính Trong môi trường tuyến tính, vectơ phân cực điện P (coulomb / mét vuông) và vectơ phân cực từ M (ampere / mét) cho bởi : Trong môi trường không tán sắc (các hằng số không phụ thuộc vào tần số của sóng điện từ), và đẳng hướng (không biến đổi đối với phép quay), ε và μ không phụ thuộc vào thời gian, phương trình Maxwell trở thành : Trong môi trường đồng đều (không biến đổi đối với phép tịnh tiến), ε và μ không đổi theo không gian, và có thể được đưa ra ngoài các phép đạo hàm theo không gian. Trong trường hợp tổng quát, ε và μ có thể là tensor hạng 2 mô tả môi trường lưỡng chiết. Và trong các môi trường tán sắc ε và/hoặc μ phụ thuộc vào tần số ánh sáng (sóng điện từ), những sự phụ thuộc này tuân theo mối liên hệ Kramers-Kronig. Trong chân không Chân không là môi trường tuyến tính, đồng đẳng (không biến đổi theo phép quay và phép tịnh tiến), không tán sắc, với các hằng số ε0 và μ0 (hiện tượng phi tuyến trong chân không vẫn tồn tại nhưng chỉ quan sát được khi cường độ ánh sáng vượt qua một ngưỡng rất lớn so với giới hạn tuyến tính trong môi trường vật chất). Đồng thời trong chân không không tồn tại điện tích cũng như dòng điện, phương trình Maxwell trở thành : Những phương trình này có nghiệm đơn giản là các hàm sin và cos mô tả sự truyền sóng điện từ trong chân không, vận tốc truyền sóng là : Kí hiệu Tên Giá trị Đơn vị trong hệ SI Vận tốc ánh sáng mét trên giây Độ điện thẩm chân không fara / mét Độ từ thẩm chân không henry / mét Cụ thể Phương trình Maxwell-Gauss Phương trình Maxwell-Gauss thừa hưởng từ định lý Gauss mô tả liên hệ giữa thông lượng điện trường qua một mặt kín và tổng điện tích chứa trong mặt kín đó : Phương trình này nói lên rằng : mật độ điện tích là nguồn của điện trường. Nói cách khác, sự hiện diện của điện tích (vế phải) sẽ gây nên một điện trường có điện cảm D thể hiện ở vế trái. Ví dụ : một điện tích điểm q nằm ở gốc tọa độ O. Định luật Coulomb cho biết trường tĩnh điện sinh ra bởi điện tích điểm này tại một điểm M trong không gian. Ta có với là vectơ li tâm có độ lớn đơn vị : Trường tĩnh điện này thỏa mãn phương trình Maxwell-Gauss với mật độ điện tích : trong đó là hàm delta Dirac ba chiều. Bảo toàn thông lượng Thông lượng của từ trường qua một mặt kín S luôn luôn bằng không : Điều này chỉ ra sự không tồn tại của đơn cực từ. Tương tự như điện tích điểm cho điện trường trong định luật Gauss, đơn cực từ là nguồn điểm của từ trường và nó luôn bằng không. Trong thực tế, nguồn của từ trường là các thanh nam châm. Một thanh nam châm là một lưỡng cực từ bao gồm cực nam và cực bắc. Khi ta cắt thanh nam châm ra làm hai, ta sẽ thu được hai lưỡng cực từ chứ không phải là hai cực nam và bắc riêng biệt. Phương trình Maxwell-Faraday Phương trình Maxwell-Faraday hay Định luật cảm ứng Faraday (còn gọi là Định luật Faraday-Lenz) cho biết mối liên hệ giữa biến thiên từ thông trong diện tích mặt cắt của một vòng kín và điện trường cảm ứng dọc theo vòng đó. với E là điện trường cảm ứng, ds là một phần tử vô cùng bé của vòng kín và dΦB/dt là biến thiên từ thông. Phương trình Maxwell-Ampere Phương trình Maxwell-Ampere cho biết sự lan truyền từ trường trong mạch kín với dòng điện đi qua đoạn mạch: trong đó: là từ trường, là thành phần vi phân của mạch kín S, Ienc là dòng điện bao phủ bởi đường cong S, μ0 là độ từ thẩm của môi trường, là đường tích phân theo mạch kín S. Hệ đơn vị CGS Các phương trình trên được cho trong hệ đo lường quốc tế (viết tắt là SI). Trong hệ CGS (hệ xentimét-gam-giây), các phương trình trên có dạng sau : Trong chân không, các phương trình trên trở thành : Phương trình truyền sóng Phương trình truyền sóng hay còn gọi là phương trình d'Alembert mô tả sự truyền đi của sóng điện từ trong môi trường. Điện trường Bắt đầu từ phương trình : Trong chân không (với mật độ điện tích bằng không), phương trình Maxwell - Gauss có dạng: nên phương trình đầu tiên trở thành: . Quay sang phương trình Maxwell-Faraday : Lấy rot hai vế, phương trình trên trở thành : Theo định luật Schwartz ta có thể đổi thứ tự của đạo hàm theo không gian và đạo hàm theo thời gian (hai biến này hoàn toàn độc lập trong vật lý phi tương đối tính): Cùng với mật độ điện tích, vectơ mật độ dòng điện trong chân không cũng bằng không , nên phương trình Maxwell-Ampère trở thành : nên cuối cùng ta thu được một phương trình đạo hàm riêng cấp hai cho vecto cường độ điện trường \textbf{E} với nghiệm có dạng dao động điều hòa: Trong một số sách, ta có thể thấy phương trình này được viết dưới dạng: với toán tử . Đây là phương trình truyền sóng điện từ (thành phần điện trường) trong chân không. Trong dạng 4 chiều, phương trình này đặc biệt gọn: . Từ trường Hoàn toàn tương tự như trên cho từ trường, ta có : = Trong chân không mật độ dòng điện bằng không, phương trình Maxwell-Ampère trở thành : Phương trình trên trở thành : Theo định luật Schwartz ta co thể đổi thứ tự của đạo hàm theo không gian và đạo hàm theo thời gian : Theo định luật Maxwell-Faraday cho chân không ta có : Thu được : Đây là phương trình truyền sóng điện từ (thành phần từ trường) trong chân không 2. Maxwell II.2. Khác về hạt truyền tương tác.Trường hấp dẫn là graviton; trường điện từ là photon. II.2.1. Trường điện từ Photon, còn gọi là quang tử, là một hạt sơ cấp. Hạt sơ cấp gồm 2 loại cơ bản là hạt chất và hạt trường. Photon là một trong những loại hạt trường. Nó là hạt của trường điện từ. Photon có spin nguyên (spin=1), nghĩa là tuân theo thống kê Bose-Einstein, có thể nằm cùng một trạng thái lượng tử (không tuân thủ nguyên lý Pauli). Photon thuộc nhóm hạt Boson, phân nhóm Gauge boson. Theo thuyết lượng tử, mọi hạt đều có lưỡng tính sóng hạt, photon cũng vậy. Sự lan truyền dao động của trường điện từ, sóng điện từ, cũng tương đương với sự di chuyển của các hạt photon. Do ánh sáng là một sóng điện từ nên photon có tên gọi thứ hai là quang tử. Tia sáng mạnh gồm nhiều photon, nhưng tia sáng rất yếu có thể chỉ gồm vài photon đơn lẻ, có thể đếm được bằng các máy thu có độ nhạy cao, như trong quan sát thiên văn học. Photon không có khối lượng nghỉ nhưng có động lượng. Theo lý thuyết tương đối, điều này tương đương với việc photon luôn phải chuyển động với tốc độ ánh sáng trong chân không, trong mọi hệ quy chiếu. Năng lượng của một hạt photon có bước sóng λ là hc/λ, với h là hằng số Planck và c là tốc độ ánh sáng trong chân không. Theo công thức của thuyết tương đối: E2-p2c2 = m02c4 với: E là năng lượng của hạt p là động lượng của hạt m0 là khối lượng nghỉ Do photon không có khối lượng nghỉ, động lượng của hạt photon bằng năng lượng của nó chia cho tốc độ ánh sáng, h/λ. Hầu hết các hạt, trong vật lý hạt, đều có phản hạt, riêng photon thì không. Photon có thể tạo thành từ sự huỷ cập của các hạt và phản hạt, và từ photon có thể tạo thành hạt và phản hạt trong điều kiện nhất định. Do là hạt trường của trường điện từ, theo lý thuyết trường, mọi tương tác điện từ, ví dụ lực hút đẩy giữa các điện tích, đều thông qua trao đổi photon (phát xạ/hấp thụ hay sinh/hủy). Thuyết điện động lực học lượng tử, một phần của mô hình chuẩn trong vật lý hạt, mô tả chi tiết các trao đổi photon này, qua các giản đồ Feymann. Ký hiệu Photon thường được ký hiệu bằng chữ Hy Lạp γ (gamma). Đôi khi người ta cũng hiểu γ là photon năng lượng cao (tia gamma). Công nghệ Nhờ các tương tác của photon với vật chất, đặc biệt là các tương tác phi tuyến tính, người ta có thể sử dụng photon thay cho electron để tạo ra các cổng logic nhằm mục đích chế tạo thiết bị xử lý và truyền tải thông tin, tự động hóa, như máy tính. Công nghệ này là quang tử học. Photon được sử dụng trong vũ khí lượng tử, chế tạo thiết bị Lade,... Mô hình photon như một nhóm sóng, có năng lượng tập trung trong một khoảng không gian hẹp II.2.2. Trường hấp dẫn Graviton là một loại hạt cơ bản phỏng đoán, nó là hạt trung gian lan truyền tương tác của trường hấp dẫn trên nền tảng của lý thuyết trường lượng tử. Nếu tồn tại, hạt graviton phải không có khối lượng nghỉ (bởi vì lực hấp dẫn có tầm tác dụng vô cực) và phải có spin bằng 2 (bởi vì nguồn hấp dẫn biểu diễn bởi tenxơ năng lượng, là tenxơ hạng hai, được so sánh với trường điện từ biểu diễn bởi tenxơ hạng một). Để chứng minh sự tồn tại của graviton, thì những nhà vật lý phải có khả năng liên kế với những hạt cơ bản để vẽ được đồ thị không - thời gian và tính toán được ảnh hưởng của lực hấp dẫn. Cho tới bây giờ vẫn chưa “thấy” được hạt graviton. Hạt graviton được chấp nhận do sự thành công to lớn của lý thuyết trường lượng tử, thói quen kiểu là bất kỳ những lực nào tồn tại trong tự nhiên đều có môi trường truyền tương tác là những hạt cơ bản: Trường điện từ là hạt những photon, tương tác mạnh là hạt những gluon, tương tác yếu là những hạt boson W và Z. Có những giả thuyết cho rằng tương tác hấp dẫn chưa được khám phá một cách rõ ràng, hạt graviton bị hoài nghi, họ đưa ra về sự cong của không - thời gian như thuyết tương đối tổng quát. Trong giới hạn cổ điển, cả hai cách tiếp cận đều cho những kết quả đúng với định luật vạn vật hấp dẫn của Newton. Những thí nghiệm tìm kiếm graviton Sự dò tìm graviton không bị vi phạm bất cứ định luật cơ bản nào, nhưng các nhà vật lý vẫn chưa tìm ra được nó bằng nhiều loại detector (đầu dò). Lý do là tương tác hấp dẫn ở xa vật chất thì rất yếu. Ví dụ, một máy dò với khối lượng của Jupiter và với hiệu suất 100%, được đặt ở gần quỹ đạo của sao Nơtron thì nó chỉ được mong chờ là thu một graviton trong 10 năm, với điều kiện thuận lợi nhất. Tuy nhiên, những thí nghiệm đo sóng graviton, có thể được xem như là trạng thái liên kết của nhiều graviton, thì đã được thực hiện dưới những cách (LIGO and VIRGO). Mặt dù những thí nghiệm không thể đạt được những hạt graviton cụ thể, nhưng chúng đã chứng minh thông tin về những đặt tính của graviton. Ví dụ nếu sóng graviton được dò thấy lan truyền với vận tốc nhỏ hơn vận tốc ánh sáng trong chân không thì ám chỉ rằng graviton có khối lượng nghỉ. Graviton II.3. Khác về Năng lượng II.3.1. Trường hấp dẫn Đối với trường hấp dẫn, vật chất gắn kết chặt chẽ với trường, chính vì tính chất này, năng lượng của trường có một số điểm đặt biệt trong lý thuyết. Tenxơ năng xung của trường hấp dẫn  trong môi trường liên tục được viết dạng: Trong đó p là sức căng môi trường, ε là mật độ năng lượng Từ biểu thức bảo toàn năng – xung, bằng cách chọn hệ quy chiếu thích hợp ta tìm được hệ thức tổng quát: Hệ thức này cho thấy  thỏa định luật bảo toàn.  là tenxơ năng – xung của vật chất sinh trường.  là giả tenxơ năng – xung của trường hấp dẫn.  là siêu thế của trường. Như vậy bằng cách chọn hệ quy chiếu thích hợp ở lân cận một điểm cho trước, ta có thể làm triệt tiêu giả - tenxơ. Chính điều này làm ta không thể khẳng định được tính định xứ của năng lượng trường hấp dẫn vì ta có thể sinh hoặc hủy trường hấp dẫn bằng cách chọn hệ quy chiếu thích hợp. Trên thực tế, ta có thể lý giải thỏa đáng vấn đề này với ví dụ kinh điển về thang máy hoặc tàu vũ trụ. II.3.2. Trường điện từ Công của các lực điện từ theo định luật bảo toàn năng lượng luôn kèm theo sự biến thiên của năng xung trường điện từ. Theo đó, mật độ lực 4 chiều phải liên hệ với mật độ năng lượng và xung lượng. Năng xung lượng của trường điện từ được viết là: Với các thành phần là: Khác với trường hấp dẫn, năng lượng điện từ trường định xứ trong không gian có trường. Một ví dụ kinh điển là sự định xứ của năng lượng trong cuộn dây có dòng điện đi qua hoặc trong vùng không gian quanh điện tích. II.3.3. Một vài nhận xét a) Trường hấp dẫn và trường điện từ gây ra tác dụng lực lên vật có khối lượng, điện tích đặt trong nó. Đó là 2 tương tác cơ bản của mô hình chuẩn. Theo đó, hạt truyền tương tác điện từ là photon không có khối lượng còn hạt truyền tương tác trong tương tác hấp dẫn được dự đoán là phải có khối lượng. b) Tương tác hấp dẫn chỉ có lực hút, còn tương tác điện từ có cả lực hút và lực đẩy. c) Trường hấp dẫn biểu hiện trong độ cong của không thời gian còn trường điện từ biểu hiện mật độ năng lượng trường điện từ d) Trường hấp dẫn tương tác bằng lực vạn vật hấp dẫn của Newton ứng với thế năng hấp dẫn. Còn trường điện từ tương tác bằng lực Lorent tương ứng với thế năng điện từ. Thế năng hấp dẫn phụ thuộc vào khối lượng của vật trong khi thế năng điện từ phụ thuộc vào điện tích. Khối lượng là nguồn của trướng hấp dẫn còn điện tích là nguồn của trường điện từ. II.4. Sóng sóng hấp dẫn và sóng điện từ II.4.1.   Sóng hấp dẫn Định hướng nghiên cứu trường hấp dẫn theo trường điện từ, cụ thể đối với sóng hấp dẫn trong trường hấp dẫn yếu trong chân không, ta tìm được phương trình truyền sóng trong trường không có nguồn vật chất (Rνε = 0) là: Hay:            (1) II.4.2.   Sóng điện từ Xét trường điện từ trong chân không (mật độ nguồn ρ = 0) ta có các phương trình mô tả sự truyền sóng trong chân không:        (2) II.4.3.   Một vài nhận xét a) Từ (1) và (2) có thể nhận thấy rằng sóng điện từ và sóng hấp dẫn có cùng dạng phương trình truyền sóng, đều là sóng ngang truyền trong chân không với vận tốc truyền sóng là c – vận tốc ánh sáng. b) Trong trường điện từ, điện trường biến thiên theo thời gian sinh ra từ trường xoáy và ngược lại. Đối với trường hấp dẫn, ta cũng có hiện tượng tương tự. Năng lượng sóng hấp dẫn (tương đương khối lượng) sẽ sinh ra trường hấp dẫn thứ cấp rồi lại trường tam cấp, tứ cấp và cứ thế tiếp tục lan truyền trong không gian. c) Sử dụng phương trình truyền sóng và các tenxơ trường hấp dẫn, trường điện từ, ta có thể tìm ra các bất biến cho sóng phẳng đơn sắc của sóng điện từ và sóng hấp dẫn có những dạng và ý nghĩa tương đương nhau. d) Theo lối nghiên cứu đối với sóng điện từ, sóng hấp dẫn được định hướng nghiên cứu với trường hợp sóng yếu, tức là bổ chính nhỏ so với không – thời gian phẳng. Trong thực tế, đã quan sát được các nguồn hấp dẫn mạnh. Trường hợp điển hình là sao neutron trong một chu kì co bóp (~10-4s) có thể bức xạ ra năng lượng hấp dẫn ~ 1051erg = 0.1% khối lượng tĩnh của sao. Tương tự đối với pulsar, quasar và sao đôi, sao co vô tận. Trong các trường  hợp này, người ta gặp một số khó khăn khi nghiên cứu mặc dù đã có một số phương pháp cải tiến nghiên cứu sóng hấp dẫn ở “tần số cao”. Lúc này, sóng hấp dẫn có những tính chất khác với sóng điện từ. II.5. Lượng tử hóa trường hấp dẫn và trường điện từ  II.5.1.   Lượng tử hóa trường hấp dẫn Sử dụng các phương pháp gần đúng đối với trường hấp dẫn yếu, từ phương trình Einstein, người ta lượng tử hóa năng lượng có dạng: Các đại lượng  là toán tử hủy,  là toán tử sinh. Trong biểu thức trên, ta có thể nói rằng có tất cả 11 loại hạt lượng tử của trường hấp dẫn, được gọi là các graviton. Một số loại hạt tham gia với dấu trừ “-” làm cho năng lượng không xác định dương. Tuy nhiên nhằm mục đích loại bỏ các thành phần tham gia với dấu âm, người ta sử dụng các điều kiện phụ và đã giúp loại bỏ chín loại graviton trong biểu thức trên, do đó chỉ còn hai loại đó là và . Và biểu thức năng lượng bây giờ xác định dương: Ta cũng chứng minh được các graviton có spin là 2 và có 2 trạng thái hình chiếu. Tuy nhiên, cho đến nay, chưa tìm thấy graviton. Trong điều kiện trường mạnh, người ta sử dụng phương pháp tích phân lộ trình để lượng tử hóa trường hấp dẫn. II.5.2.   Lượng tử hóa trường điện từ Đối với trường điện từ, sự lượng tử hóa được đưa về dạng cho chúng ta thấy hạt truyền tương tác là các photon. Các photon có spin là 1 và không có khối lượng. Tiến hành lượng tử hóa trường điện từ bằng cách sử dụng sóng phẳng, ta thu được biểu thức haminton: Trong đó,  và là toán tử sinh, toán tử hủy hạt. II.5.3.   Một vài nhận xét a) Sự lượng tử hóa trường hấp dẫn được tiến hành theo mô hình lượng  tử hóa trường điện từ. Theo đó, sự lượng tử hóa trường điện từ cho thấy hạt truyền tương tác là các photon, và đã được tìm thấy. Tương tự mô hình cho trường hấp dẫn, người ta cung tìm thấy trên lý thuyết hạt truyền tương tác hấp dẫn là graviton, tuy nhiên, mặc dù đã dự đoán được các trặc trưng spin, khối lượng của hạt này nhưng chúng vẫn chưa được tìm thấy. Hạt graviton và photon là hai trong bốn hạt cơ bản truyền tương tác lực bên cạnh 2 hạt khác là gluon và các boson truyền tương tác yếu. b) Các thuộc tính (độ mạnh, tác dụng vào những đối tượng nào, phổ tác dụng) của photon và graviton trong mô hình chuẩn được thể hiện trong bảng trên. Nó đặc trưng cho tính chất của tương tác điện từ và tương tác hấp dẫn. II.6. Các kết quả ứng dụng II.6.1. Trường hấp dẫn Lý thuyết trường hấp dẫn thật sự đã mang đến những giải thích thỏa đáng cho các hiện tượng tự nhiên, mang đến những cái nhìn mới, nhất là trong tư duy với thuyết tương đối tổng quát, phương trình trường Einstein. Một trong những ứng dụng đó là việc lý giải một loạt các hiện tượng còn nghi vấn hoặc biểu hiện quá nhỏ để được phát hiện trước đây. a) Sự lệch đường đi của tia sáng. Tia sáng bị lệch khi đến gần một vật thể bởi vì nó đi theo những quỹ đạo tương ứng với con đường ngắn nhất (đường trắc địa). Khi những tia sáng đi gần một vật thể, chúng bị trễ, bởi chúng phải trải qua một khoảng cách lớn hơn. Tất cả những kết quả được được đo bằng thí nghiệm. Ban đầu, đây chỉ là kết quả được Einstein tiến đoán từ phương trình của ông. Sau đó, các hiệu ứng về sự lệch của tia sáng đã được nhóm thám hiểm của nhà thiên văn Eddington kiểm nghiệm nhờ quan sát Nhật thực năm 1919 tại đảo Principe. Những quan sát này đã cho một kết quả hoàn toàn phù hợp với các dự đoán về độ lệch tia sáng của Einstein. Sự lệch của tia sáng đến từ ngôi sao mà đường đi của nó qua vùng tác dụng của trường hấp dẫn mặt trời b) Sự dịch chuyển cận điểm quỹ đạo các hành tinh: Các quan sát thiên văn cổ mấy ngàn năm trước của Trung Quốc và của các nước phương Tây cho thấy cận điểm các hành tinh dịch chuyển quanh ngôi sao mẹ những góc rất nhỏ. Trước đây, người ta không thể lý giải hiện tượng này. Từ lý thuyết trường hấp dẫn, áp dụng một số kết quả tính toán khác, ta có thể chứng minh được bán kính vecto quét một góc lớn hơn 2π sau một vòng quay. Điều này gây ra sự dịch chuyển cận điểm quỹ đạo đã biết từ xa xưa. c) Lỗ đen: Các lỗ đen là nghiệm kì dị xuất hiện trong khi Schwarzchild giải phương trình của Einstein và là vật thể được suy ra từ lý thuyết. Ngoài việc khẳng định và chính xác hóa thêm về mặt toán học sự cong của không - thời gian đã được minh họa một cách khái lược trên hình vẽ, công trình của Schwarzchild - ngày nay thường được gọi là “nghiệm Schwarzchild” - còn xuất hiện thêm được một hệ quả lạ lùng của thuyết tương đối rộng. Ông đã chứng minh được rằng nếu khối lượng của một ngôi sao được tập trung trong một vùng hình cầu đủ nhỏ, sao cho tỷ số của khối lượng và bán kính của nó vượt quá một giá trị tới hạn cụ thể nào đó, thì sự cong của không - thời gian do nó gây ra sẽ mạnh tới mức bất cứ vật nào, kể cả ánh sáng, khi tới gần ngôi sao đó, sẽ không thể thoát ra khỏi vòng xiết hấp dẫn của nó. Vì ngay cả ánh sáng cũng không thoát ra khỏi những “ngôi sao bị nén chặt” như vậy, nên ban đầu chúng được gọi là sao tối hay sao băng giá. Lỗ đen làm cong cấu trúc không - thời xung quanh mạnh tới mức bất kỳ vật nào rơi vào bên trong "chân trời sự kiện" của nó - được minh họa bằng vòng tròn đen trên hình - đều không thoát khỏi móng vuốt hấp dẫn của nó. Chưa ai biết chính xác điều gì sẽ xảy ra ở điểm bên trong sâu nhất của lỗ đen. Chân trời sự kiện của lỗ đen (A, thoát khỏi. B, bị hút vào lỗ đen) d) Mô hình vũ trụ và tương lai của vũ trụ: Có rất nhiều mô hình vũ trụ xung quanh việc giải phương trình Einstein, nhưng tất cả chỉ là giả thiết, một số đã có các chứng minh cụ thể và thuyết phục. Mô hình Vũ trụ de Sitter: Đây là mô hình đơn giản nhất, theo mô hình này, cho vế phải của phương trình trên bằng không (coi như không có sự đóng góp của tenxơ năng xung lượng), một mô hình không vật chất, không bức xạ, chỉ có năng lượng chân không. Mô hình Vũ trụ chuẩn: Đây là mô hình Big Bang - mô hình giải thích nguồn gốc Vũ trụ đang được khoa học thừa nhận. Tổng quát hơn mô hình de Sitter, mô hình Vũ trụ chuẩn có xét đến cả sự có mặt của vật chất và bức xạ ngoài năng lượng chân không. Mô hình này tìm sự phụ thuộc giữa các yếu tố như mật độ năng lượng, hệ số giãn nở Vũ trụ, các thông số Vũ trụ... và sự phụ thuộc của chúng vào sự giãn nở của Vũ trụ. Từ đó tùy thuộc sự đóng góp của các thành phần mà Vũ trụ sẽ thể hiện một cách riêng tương ứng. Qua đó ta có thể thiết lập được biểu thức tính tuổi của Vũ trụ. Sử dụng mô hình Vũ trụ chuẩn có thể tìm mối quan hệ giữa các thông số vũ trụ, hệ số giãn nở, mật độ năng lượng..., và sự thay đổi của các đại lượng đó khi Vũ trụ giãn nở. Từ đó ước lượng tuổi Vũ trụ. Các mô tả chi tiết và thông tin về các mô hình xin không được nói ở đây, nó là các kiến thức phổ thông hiển nhiên cần thiết. Đặt biệt là mô hình Big bang, các thông tin gần như tràn ngập, tất cả đều xây dựng trên phương trình Einstein và được kiểm nghiệm thông qua các quan sát thiên văn. (phông vũ trụ với bức xạ tàn dư 2.7K, Hubble với sự dịch chuyển về đỏ, Nghịch lý Olber với bầu trời đêm tối,…). II.6.2.   Trường điện từ Vũ trụ gồm có 2 phần, đó là bụi (khối lượng) và trường điện từ. Lý thuyết trường điện từ đa phần được khai thác ứng dụng trong ứng dụng thực tế, đặc biệt là trong thông tin vô tuyến, trong quan sát thiên văn và dò tìm các tín hiệu mới từ vũ trụ. Lý thuyết trường điện từ còn được sử dụng làm mô hình tương tự để nghiên cứu trường hấp dẫn hay nói cách khác, trường hấp dẫn được định hướng nghiên cứu theo trường điện từ. Do đó, việc chúng ta có thể tìm thấy những tính chất gần tương đương nhau là điều tất nhiên. The end Tài liệu tham khảo: Nguyễn Ngọc Giao, Lý thuyết trường hấp dẫn, 2003, NXB Đại Học Quốc Gia HCM. Nguyễn Ngọc Giao, Hạt cơ bản, 2001, NXB Đại Học Quốc Gia HCM. Từ điển bách khoa toàn thư (Wikipedia). Trần Triệu Phú - Thuvienvatly.com

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTruong Hap Dan Kiem tra giua ky.doc