Đề tài Sự can thiệp của các tập đoàn tư bản lũng đoạn đối với nền báo chí trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng

Phần mở đầu I. Lý do chọn đề tài 4 II. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 5 III. Đối tượng nghiên cứu 5 IV. Phương pháp nghiên cứu 5 V. Cấu trúc đề tài 5 Nội dung nghiên cứu Chương I: Vài nét về tập đoàn tư bản lũng đoạn 1. Khái niệm tập đoàn tư bản lũng đoạn 6 2. Tại sao tập đoàn tư bản can thiệp vào báo chí 2.1. Nhìn thấy báo chí như một loại hàng hoá, nghề kinh doanh có Lãi 7 2.2. Quảng cáo để đưa sản phẩm đến với người dân 8 2.3. Quảng bá xây dựng hình ảnh 9 2.4. Thấy được tầm quan trọng của báo chí trong việc tạo dư luận, chính trị, tác động nhận thức của người dân 10 3. Can thiệp như thế nào 3.1. Đầu tư vào nghề báo: Mua hoặc liên doanh 12 3.2. Tài trợ, bơm tiền vào quảng cáo 14 3.3. Thành lập một tờ báo riêng 18 4. Tiểu kết chương I 20 Chương II: Những câu chuyện điển hình về sự can thiệp của tập đoàn tư bản lũng đoạn đối với báo chí 1. “Đám cưới” giữa AOL và Time Warner 1.1. Vài nét về Time Warner và AOL 21 1.2. Sự can thiệp của AOL với Time Warner 24 1.3. Những hoạt động của AOL Time Warner 28 2. “Google – Câu chuyện thần kỳ” Sự ra đời và phát triển của Google 28 Sự can thiệp của Google vào báo chí 34 3. The Wall Street Journal – “Đứa con cưng” của Dow Jones Những ngày đầu của Dow Jones và nhật báo WSJ 43 Sự phát triển của WSJ 44 4. Microsoft – “Một đế chế hùng mạnh” Sự ra đời của Microsoft 50 Những sản phẩm của Microsoft 52 Sự can thiệp của Microsoft đối với báo chí 53 5. Tiểu kết chương II Chương III: Liên hệ thực tiễn ở Việt Nam 1. Vài nét về báo chí Việt Nam hiện nay 58 2. Giới thiệu một số tờ báo có sự can thiệp của các tập đoàn kinh tế 2.1 Về FPT và Vnexpress 60 2.2. Về VASC và Vietnamnet 62 3. Tiểu kết chương III 65 Kết luận Tài liệu tham khảo PHẦN MỞ ĐẦU I. Lý do chọn đề tài Nền báo chí thế giới từ nửa sau thế kỷ XX cho đến nay phát triển rất mạnh mẽ, phát huy tối đa “quyền lực thứ tư” theo xu hướng toàn cầu hoá thông tin. Quan sát và phân tích truyền thông Mỹ và thế giới từ nhiều năm và nhất là những động tĩnh thời gian gần dây, nhà nghiên cứu Eduardo Galeano đưa ra nhận định: “Chưa bao giờ lại có nhiều người bị khống chế về mặt thông tin bởi một số ít người đến thế”. Quả đúng như vậy, nhận thấy sức mạnh của báo chí, các ông trùm của các tập đoàn tư bản lũng đoạn trực tiếp hoặc gián tiếp đều tìm mọi cách can thiệp vào báo chí để phục vụ cho những mục đích lợi nhuận và nhiều quyền lợi khác cuả mình. Sự can thiệp đó đã gây ảnh hưởng sâu rộng tới nền báo chí toàn cầu. Sau 20 năm đổi mới cùng với việc gia nhập WTO, báo chí Việt Nam đã lớn mạnh về mọi mặt và đang có nhu cầu vươn cao, vươn xa hơn nữa nhằm khẳng định vị thế của mình. Việt Nam lại là một thị trường giàu tiềm năng và mới bước đầu được khai phá. Trong vòng quay đó, như một tất yếu, nền báo chí Việt Nam cũng đã bắt đầu xuất hiện sự can thiệp của các tập đoàn tư bản lũng đoạn hay các tập đoàn kinh tế. Chính vì thế, đề tài nghiên cứu này muốn tìm hiểu về sự can thiệp của các tập đoàn tư bản lũng đoạn đối với nền báo chí trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. II. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu a. Mục đích: - Nhằm tìm hiểu nguyên nhân, hình thức can thiệp và những điển hình về sự can thiệp của các tập đoàn tư bản lũng đoạn đối với báo chí. - Đây cũng là cơ hội để những sinh viên báo chí có thể tiếp cận với những vấn đề thực tế báo chí, nhằm bổ sung thêm kiến thức cần thiết phục vụ cho công việc sau này. b. Nhiệm vụ: - Tìm hiểu nguyên nhân can thiệp và hình thức can thiệp của các tập đoàn tư bản lũng đoạn đối với báo chí từ những dẫn chứng tiêu biểu. - Tìm hiểu thực trạng ở Việt Nam, xu hướng can thiệp có gì khác so với những nước phương tây. - Kiến nghị những giải pháp cho nền báo chí Việt Nam khi đối mặt với sự can thiệp đó. III. Đối tượng nghiên cứu - Trên thế giới: Tập đoàn AOL, Microsop, Google, Tập đoàn Dow Jones, những tờ báo chịu sự can thiệp. - Ở Việt Nam: chọn 2 tập đoàn FPT với tờ Vnxpress, VACS với Vietnamnet. IV. Phương pháp nghiên cứu Chủ yếu bằng phương pháp luận duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mac – LeNin kết hợp phương pháp mô tả. Ngoài ra còn sử dụng một số phương pháp như: Phương pháp thu thập, phân tích tài liệu, so sánh, mô tả, tổng hợp vấn đề, V. Cấu trúc đề tài Ngoài phần mở đầu, phần nội dung nghiên cứu, phần kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, báo cáo gồm 3 chương

doc70 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1933 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Sự can thiệp của các tập đoàn tư bản lũng đoạn đối với nền báo chí trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đó phải là kết quả của một sự thỏa thuận trên cơ sở tôn trọng tác quyền chứ không phải "vô tư" trích "của chùa". Tháng 9.2006, 3 tờ báo của Bỉ là Le Soir, La Libre Belgique và La Derniere Heure được Tổ chức Bảo bộ quyền tác giả Bỉ bảo hộ đã thắng trong vụ kiện buộc tội Google xâm phạm BQ khi sử dụng các đoạn trích dẫn bài viết trên báo của họ mà không xin phép. Google đã phải rút toàn bộ các liên kết và các bài báo, ảnh, thông tin đồ họa... của các nhà sản xuất báo chí Bỉ ra khỏi ngân hàng dữ liệu và phải công bố toàn bộ nội dung phán quyết trên trong 5 ngày liên tục trên trang chủ của mình. Ngày 13.3.2007, hãng truyền thông khổng lồ Viacom của Mỹ đã tiến hành đòi website YouTube do Google quản lý bồi thường 1 tỉ USD. Theo cáo buộc của Viacom, YouTube đã tải lên website của mình xấp xỉ 160 nghìn đoạn video clip chương trình TV của Viacom một cách "không BQ", thu hút  hơn 1,5 tỉ lượt người xem, hưởng nhiều doanh thu quảng cáo. Tháng 5.2007, YouTube lại nhận thêm một đơn kiện khác từ BTC Giải Bóng đá ngoại hạng Anh (Premier League) vì tội "cố ý khai thác các giá trị thương mại của giải bóng đá này một cách không phù hợp" bằng việc khuyến khích người dùng đưa các đoạn video clip quay các pha bóng đẹp của Premier League lên Internet. Hiện YouTube đang phải tiến hành những động thái dàn xếp BQ với một loạt các nguyên đơn, bao gồm cả Viacom và Premier League. Tháng 6.2007,  Hiệp hội Báo chí Điện tử Hàn Quốc, bao gồm những tờ báo lớn của Hàn Quốc cũng dự định đưa Google tại Hàn Quốc ra toà, do "Google đã "trưng" nội dung các bài báo của các thành viên chúng tôi lên công cụ tìm kiếm tin tức bằng tiếng Hàn mà không hề được sự đồng ý. Chúng tôi đang xem xét kiện Google nhằm ngăn chặn việc hiển thị những tin tức đó lên công cụ tìm kiếm của Google".  2.2.4. Những site tổng hợp tin tức trên Net, kiểu như Google News đã tạo ra một hệ thống "giết chết" giá trị của các tờ báo và site "độc quyền" Trong thế giới của báo chí trực tuyến, số lượt người click truy cập (Clickthrough) là tất cả. Các máy chủ web cho phép biên tập viên và toà soạn kiểm tra chi tiết đến từng phút bài báo nào hấp dẫn, có hiệu quả tác động, còn dạng bài nào thì không. Họ có thể nắm chính xác số người đọc nó, bạn đọc có click vào các quảng cáo trên trang hay không, họ có xem thêm các câu chuyện khác trên site hay không, họ có chịu xem tiếp trang bên đối với một câu chuyện dài...? Họ cũng biết cả việc bạn đọc truy cập vào trang mình từ một site tổng hợp tin tức hay bằng cách tìm kiếm trên một công cụ tìm kiếm kiểu như Google. Tất cả các dữ liệu này được phân tích và cập nhật mỗi phút theo chu trình đưa tin mới của toà báo.  Với Google News tốt nhất là hãy làm người sau cùng đưa tin. Vì khi đó, site của bạn sẽ được đẩy lên đầu bảng ở vị trí "đinh" vì là site cập nhật tin sau cùng, mới nhất. Nếu bạn đủ nhanh nhạy để phát hiện được một nội dung thông tin độc quyền của báo khác, khai thác lại nó, Google News sẽ " tặng thưởng" cho công sức của bạn thêm nhiều "clickthrough" nữa. Một cách khác nữa để cải thiện "thứ hạng" cho mình là các site tự sắp xếp lại nội dung trình bày trong bài viết theo định kỳ. Có nghĩa là một mẩu tin từng xuất hiện trong Google News vào lúc 11 giờ trưa có thể được góp mặt trở lại trong danh sách "đinh" vào những giờ cao điểm (ăn trưa và buổi tối) bằng một vài sự "uốn nắn" thông minh về nội dung. Nói tóm lại, Google News hoàn toàn chống lại các toà soạn và nhà báo "độc quyền". Mặc dù vậy, bản thân Google lại phủ nhận chuyện này. Họ một mực cho rằng các tít bài trên trang chủ của Google News được lựa chọn hoàn toàn tự động bằng thuật toán máy tính, dựa trên nhiều yếu tố như nguồn đăng thông tin, tần suất tin xuất hiện trên Web... Các site tin tự quyết định tin nào đáng đăng tải lên, Google News chỉ làm nhiệm vụ phát hiện các "xu hướng" tồn tại trên "mặt site" mà thôi.  Những người phản đối thì không nhìn nhận sự việc theo chiều hướng "màu hồng" như vậy. "Kể từ khi tôi về báo MacWorld cách đây năm năm, tôi nghĩ chúng tôi đã tạo lập được danh tiếng với một số tin tức và câu chuyện "độc quyền" mang tính đột phá cá nhân. Nhưng đến giờ thì khó lòng khẳng định xu hướng đó còn tồn tại, một điều khá đáng thất vọng!" - biên tập viên Johnny Evans cho biết.  Peter Kirwan, cựu biên tập viên của tạp chí Computing cho rằng những gì chúng ta thấy trên báo chí trực tuyến mới chỉ là bắt đầu. "Xu hướng này đã bắt đầu từ lâu. Bạn đọc giả sử dụng Web để thu lượm tin tức mới chỉ là giai đoạn đầu tiên của hiện tượng mà một số toà báo gọi là "sự bão hoà về tin tức".  Với các nhà báo trực tuyến, họ không khỏi lo lắng rằng công việc của mình trong tương lai sẽ hoàn toàn chẳng cần gì đến kỹ năng báo chí nữa. Vì các site lớn chỉ làm mỗi một việc đơn giản là lấy lại một nội dung hấp dẫn để... viết lại, rồi sau đó thu lợi. Quả thực, xu hướng dựa vào "danh tiếng" và "uy thế" của một site mà Google News đang sử dụng tỏ ra chống lại các site nhỏ. Mặc dù Google News kiểm tra xấp xỉ 4.500 nguồn tin trên khắp Web trong một ngày, song mười nguồn tin đứng đầu chiếm tới 2/3 số câu chuyện được đưa lên trang chủ. Những cái tên thống trị là Reuters, The New York Times, VOA, Xinhua và Bloomberg, khi họ cung cấp tới 48% lượng tin tức.  Về phần mình, Google khẳng định một mực là site tin tức này mới chỉ là phiên bản "thử nghiệm", vẫn còn đang trong quá trình phát triển hoàn thiện, mặc dù nó được đưa ra hoạt động công khai từ cuối tháng 9/2002. "Chúng tôi sẽ thu thập mọi lời bình luận quý giá và gửi về cho nhóm phát triển sản phẩm. Chính vì muốn có thêm nhiều phản hồi mà cho tới nay, chúng tôi vẫn giữ Google News ở dạng beta." - người phát ngôn cho Google tuyên bố. Mặc dù vậy, câu hỏi lớn nhất vẫn chưa thể có được câu trả lời thoả đáng cho mình: Nếu Woodward và Bernstein làm việc trong một toà báo trực tuyến vào thời điểm này, liệu chúng ta có biết về họ nữa hay không? Họ có thể đủ sức, đủ lực và đủ... tiền để tiếp tục làm nên những vụ Watergate chấn động thế giới - hay toà báo của họ sẽ chỉ định bắt buộc phải làm những câu chuyện và những thủ thuật để tạo ra lượng truy cập clickthrough lớn?  Kết luận: Như vậy Google đã can thiệp vào báo chí bằng cách lập ra một website truyền thông với nhiều dịch vụ từ việc tìm kiếm thông tin từ các trang báo điện tử khác, từ việc bán quảng cáo và đăng tải quảng cáo cho những ai có nhu cầu, cho đến tổng hợp những tin tức nóng hổi trên net… Từ đó lợi nhuận phần lớn Google thu về là quảng cáo, và những lượt người Click. Bên cạnh đó Google cũng đẩy mạnh quảng cáo, quảng bá sản phẩm của mình bằng nhiều cách khác nhau. Mặc dù gặp khá nhiều rắc rối với nhiều tờ báo nhưng không ai có thể phủ nhận sự phát triển kỳ diệu của Google. Những tính ưu việt của nó đã và đang được công chúng đón nhận rất nhiệt tình. Nghiên cứu mới đây của Công ty nghiên cứu thị trường hàng đầu thế giới Millward Brown thuộc tập đoàn WPP (Anh) cho thấy Google được đánh giá là thương hiệu mạnh nhất thế giới hiện nay, với giá trị ước đạt 43 tỷ bảng (86 tỷ USD). Google đã đánh bại thương hiệu General Electric được định giá 71,4 tỷ USD, trong cuộc đua giành ngôi đầu bảng, tiếp nữa là thương hiệu của Tập đoàn phần mềm lớn nhất thế giới Microsoft (70,89 tỷ USD), nước giải khát Coca-Cola (58,2 tỷ USD) và Tập đoàn viễn thông China Mobile (57,2 tỷ USD). The wallstress Journal(WSJ) – “Đứa con cưng” của Dow Jones Những ngày đầu của Dow Jones và tờ nhật báo WSJ Công việc của Dow Jones hiện nay bắt nguồn từ năm 1882, khi 3 người gồm Charles Dow, Edward Davis Jones và Charles Bergstresser đã bắt tay thành lập công việc kinh doanh ở New York để sản xuất một bản tin tài chính viết tay hàng ngày cho các nhà đầu tư. Cả 3 hy vọng sẽ kiếm được tiền từ những nhà đầu tư đói thông tin vào thời điểm đó, khi nền kinh tế Mỹ đang phát triển nhanh chóng và các công ty tìm kiếm cơ hội mở rộng ra nước ngoài. 1882: Công ty bắt đầu sản xuất những thông cáo nhỏ hằng ngày viết bằng tay gọi là “Flimsies” (giấy pơ – luya) được phân phát bởi những người đưa tin đến những người đặt mua báo dài hạn ở phố Wall. 1884: Những chỉ số Dowjones được tìm thấy. "Dowjones Averages", sự sáng lập của Charles Dow xuất hiện lần đầu tiên trên tờ "Customer's Afternoon Letter". Lúc đó, nó chứa đựng những 11 cổ phần: 9 đường sắt và 2 nhà công nghiệp. Đây là tiền thân cho Dowjones Industrial Average ra đời vào năm 1896. 1896: Chỉ số bình quân công nghiệp Dowjones chính thức được giới thiệu. Tiền thân của tờ The Wall Street Journal là tờ “Customer’s Afternoon Letter”(Lá thư buổi chiều của khách hàng). Nó chứa đựng một tiết mục hàng đầu thường xuyên xuất hiện và được gọi là "Buôn chuyện buổi sáng". Vào ngày 8/7/1889 "Customer's Afternoon Letter" trở thành "Wall Street Journal", gồm 4 trang và bán với giá 2cents, giá quảng cáo là 20 cents một dòng. Lúc đó, công ty có 50 nhân viên. 1897: Ấn phẩm buổi sáng của nhật báo được công bố. Những người đặt mua báo dài hạn bây giờ có thể nhận được cả buổi sáng, thậm chí cả buổi tối với giá 8 đôla/năm. Họ không phải chịu phí tổn cho dịch vụ này. Nhật báo được mở rộng tới 6 trang. 1899: Nhật báo chọn một khuôn dạng 5 cột tiêu chuẩn. Cột "Quan điểm và Cách nhìn" xuất hiện từ những ngày đầu vẫn còn chạy đến tận ngày nay. Thoạt tiên nó được viết bởi Charles Dow. Hiện nay, tổng biên tập của WSJ là Paul E. Steiger Ngoài tờ WSJ, tập đoàn Dow Jones cũng sở hữu nhiều công ty chuyên cung cấp thông tin tài chính như hãng Dow Jones Newswires, cũng như các tờ báo và kênh truyền hình khác. 3.2. Sự phát triển của WSJ 3.2.1. Một tờ báo giàu truyền thống với 33 lần đạt giải thưởng PULITZER Ngay từ những ngày đầu tờ báo đã tập trung vào lĩnh vực kinh tế, đặc biệt là chứng khoán. Đó là lý do tại sao tờ báo lại mang tên WSJ - Wall Street là con phố tài chính ở thành phố NewYork và là trái tim của thị trường chứng khoán Mỹ. Đây là tờ báo chính trị - xã hội, phát ngôn cho giới tài phiệt và doanh nhân lớn của Mỹ. Tờ báo được biết đến về các bài tường thuật chi tiết và được tôn trọng như những bài bình luận có sức nặng, mặc dù không phải tất cả đều đồng ý với những quan điểm của tờ báo này, vốn được xem là rất bảo thủ. Trong giới chính trị và tài chính, tờ báo này được coi là tờ báo "phải đọc" đến mức nó được coi là "kinh thánh của công việc". Năm 1902, nhà báo Charence Barron đã mua lại Dow Jones(tập đoàn mẹ của WSJ) đồng thời nắm giữ luôn quyền điều hành tờ báo. Số lượng phát hành của WSJ khi Barron mới mua về chỉ vẻn vẹn 7000 bản/ngày. Gần 20 năm sau (1920) con số này đã là 50000 bản. Barron và những người cộng sự đã thổi một luồng gió mới vào tờ báo tài chính này. Đó là đăng những tờ báo tài chính một cách thẳng thắn, độc lập, không hề sợ hãi trước một thế lực nào. Và đến năm 1928, gia đình Bancrofts đã chia nhau quyền lãnh đạo tập đoàn và tờ báo. Tờ báo phát hành bản Châu Á năm 1976 và bản Châu Âu năm 1983. Trong hơn một thế kỉ hoạt động, WSJ đã không ngừng chứng tỏ mình là tờ báo tài chính hàng đầu nước Mỹ, mặc dù trên thực tế nó chỉ là một tờ báo địa phương. Năm 2006 số lượng phát hành của WSJ là hơn hai triệu bản/ngày. Đó là chưa kể đến số độc giả thường xuyên truy cập phiên bản báo điện tử. Theo số liệu mà WSJ công bố tính đến năm 2006 WSJ online đã có hơn 931000 độc giả đăng kí đọc tin. Trong nhiều năm liền WSJ chiếm vị trí số một trong làng báo Mỹ. WSJ còn được biết đến với 33 lần dành được giải báo chí Pulitzer, trong đó năm 2007 báo đã dành được hai giải cho thể loại "phóng sự điều tra" và "tin tức quốc tế". Có thể nói WSJ không chỉ là cẩm nang kinh tế cho các doanh nhân mà còn là tờ báo không thể thiếu với các nhà kinh doanh trên toàn thế giới. WSJ xứng đáng mang "trái tim" của thị trường tài chính Mỹ và thế giới - phố Wall. Nó đã được nhận giải thưởng Pulitzer 29 lần. 3.2.2. Quyết không chậm chân trong thời đại Internet Năm 1996, WSJonline ra đời như một công cụ hỗ trợ cho tờ báo in. Sau đó không lâu, lãnh đạo của tờ WSJ nhận thấy những tiềm năng to lớn về mặt kinh tế do mạng Internet mang lại nên đã có những điều chỉnh. Đầu tiên là tập trung đầu tư cho phiên bản Online sao cho thu hút độc giả và các nhà quảng cáo. Sau đó WSJ gộp độc giả đặt báo in dài kì với độc giả trả tiền để đọc báo Online mà không đặt báo in dài kì, WSJ thu được 99USD/năm, không chỉ thu hút được lượng độc giả trong nước mà WSJ còn trở thành cẩm nang tài chính của nhiều thương gia Châu Âu và Châu Á. Chính vì lẽ đó, WSJOnline đã sử dụng thêm nhiều ngôn ngữ khác như: Anh, Đức, Nhật... Vào 9/2005, WSJ cho ra đời số cuối tuần, phát hành riêng cho người đăng kí đọc báo dài kì và đọc trên mạng Internet. Số báo này đã thu hút nhiều hơn số người mua báo dài hạn, điều đó đồng nghĩa với việc WSJ đắt quảng cáo hơn. 3.2.3. Sẵn sàng thay đổi nếu cần Để sống sót trong cuộc khủng hoảng báo in tại Mỹ hiện nay, WSJ sẵn sàng thay đổi, thậm chí thay đổi cả những đặc điểm có từ thuở sơ khai. Đầu tiên phải kể đến sự xâm chiếm của quảng cáo. Quảng cáo ngày càng xuất hiện nhiều trên cả phiên bản báo in lẫn điện tử của WSJ. Đáng nói nhất là việc WSJ đồng ý cho quảng cáo ngay trên trang đầu, nơi được cho là rất linh thiêng với một tờ báo và là nơi đánh giá uy tín, đạo đức nghề nghiệp của tờ báo đó. Bố cục trang nhất của WSJ cũng thay đổi. Trong suốt 50 năm qua, trang đầu của WSJ luôn có 6 chuyên mục rải đều khắp trang. Nhưng trong năm qua, WSJ đã đặt thêm một chuyên mục mới: "Câu chuyện trong ngày", nằm chính diện và rất bắt mắt. Đây là một trong những cách WSJ thu hút độc giả, giúp độc giả có thể nhận biết tờ báo từ xa, điều mà đối thủ USA Today đã làm được. Tiếp theo là sự thay đổi về khổ giấy, chiều rộng của báo đã giảm từ 15 xuống còn 12 inch, chiều dài vẫn giữ nguyên 22¾ inch. Điều này đã giúp báo tiết kiệm được 16 triệu USD mỗi năm. Một điểm nữa là WSJ rất chuộng những hình minh hoạ và vẽ tay. Những hình vẽ này xuất hiện trên WSJ đều đặn từ năm 1979 đến nay. Ảnh chụp thông thường và các biểu đồ, biểu cảng cũng được sử dụng nhiều hơn do phải đảm bảo tính thờ sự và chính xác của thông tin. Những thay đổi của WSJ hầu hết là lí do tài chính, điều này dễ hiểu bởi bản thân WSJ là một tờ báo về tài chính nên nó hiểu Hơn ai hết tầm quan trọng của tiền bạc và lợi nhuận. Nhưng WSJ vẫn giữ lại những giá trị cơ bản từ khi nó mới ra số đầu tiên. WSJ dưới bàn tay của thiên tài Rupert Murdoch Newcorp thu phục Dow Jones Năm 2008, khi đánh hơi khả năng phát triển nếu mua được Dow Jones, tài phiệt Truyền thông Rupert Murdoch chiến thắng trong cuộc chiến giành quyền kiểm soát Dow Jones - nhằm tiến tới mụch đích lớn hơn: thâu tóm tờ báo tài chính hàng đầu của Mỹ - The Wall Street Journal. Cái giá mà Murdoch đưa ra rất khó lòng từ chối: 5 tỉ USD, cao hơn giá thị trường 67% nếu tính trên cổ phiếu Dow Jones. Từ lâu Murdoch đã muốn thâu tóm Dow Jones và WSJ để xây dựng đế chế báo chí của mình. Tập đoàn tin tức(News Corp) đã khiến nhiều nhà phân tích ngạc nhiên khi quyết định đặt giá đầu tiên 5 tỉ USD để mua Dow Jones vào tháng 5. News Corp của gia đình Murdch trước đó chú ý tới WSJ, vốn được coi là kim cương trên vương miện của công việc kinh doanh của Dow Jones. Murdoch đã nhìn thương vụ này như một dự án kinh doanh kiếm lời. Đầu tư cho WSJ và hệ thống kênh truyền hình trở thành một nguồn tin tài chính vững mạnh và uy tín nhất. Thực ra ông đã coi WSJ là chìa khoá đi vào thế giới số. Murdoch nói: "Những thông tin tài chính hợp thời và chính xác thật sự có giá trị với mọi người. Một mạng lưới truyền thông chuyên về kinh tế - tài chính sẽ gây chú ý với công chúng". WSJ là một trong số ít các thương hiệu mang tính toàn cầu trong khi hầu hết các tờ báo của News Corp hoạt động trong các thị trường nội địa. Việc sở hữu của WSJ sẽ thêm tờ báo cực kì thành công này vào danh sách tài sản của News Corp, trong khi toàn bộ công việc kinh doanh của tập đoàn này lại có thêm danh tiếng. Thêm đó việc kinh doanh báo chí trở thành một lĩnh vực tăng trưởng rất mạnh trong một vài năm trở lại đây. Khi lợi tức trên thị trường cổ phiếu tăng mạnh và nền kinh tế phát triển đã thúc đẩy ngành quảng cáo phát triển theo. Murdoch biến WSJ thành một nguồn lợi nhuận như thế nào? Làm cách nào ông Murdoch có thể biến tờ Wall Street Journal thành một nguồn lợi nhuận, trong khi ban giám đốc của của công ty Dow Jones không làm được. Năm 2000 có lúc giá cổ phần của công ty Dow Jones lên tới 70 đô la nhờ kinh tế Mỹ đang lên với số người đầu tư vào thị trường chứng khoán gia tăng, ai cũng muốn đọc tin tức tài chính nhanh chóng và chính xác. Nhưng giá cổ phần Dow Jones đã tụt xuống trong lúc thị trường chứng khoán suy yếu cùng với ngành công nghiệp kỹ thuật cao và tin học. Điều người ta có thể thấy là công ty News Corp. với nền tảng tài chính vững vàng có thể bỏ thêm tiền vào khai thác các ưu điểm của nhật báo Wall Street Journal, phát triển mạng lưới thông tin của báo này và dùng các tin tức đó trong các hoạt động khác của News Corp. Công ty News Corp. có số thu nhập khoảng hơn 25 tỷ mỹ kim năm ngoái, trong khi Dow Jones thu được 1.8 tỷ. News Corp. lan rộng trong nhiều ngành kinh doanh về truyền thông. Gần một phần tư số thu của News Corp. là phim ảnh giải trí, hạng nhì là các tờ báo cùng tạp chí đóng góp 20%, ngoài ra là các hệ thống truyền hình khắp thế giới, và ngành xuất bản sách. Trong số thu nhập của Dow Jones, 63% là nhờ các tờ báo bán thẳng cho người tiêu thụ, 30% là bán tin tức cho các nhà kinh doanh và các xí nghiệp, ngoài ra công ty còn làm chủ nhiều tờ báo địa phương khác. Mặc dù là một ông vua trong ngành truyền thông, ông Murdoch chưa bước chân vào trong ngành tin tức tài chánh. Công ty News Corp. đang dự định thiết lập một hệ thống truyền hình mới ở Mỹ, chuyên về tin tức kinh tế, tài chánh, thương mại, để cạnh tranh với hệ thống CNBC đang đứng đầu trong ngành này. Việc làm chủ nhật báo Wall Street sẽ giúp công ty News Corp sử dụng nguồn tin tức của 2,000 phóng viên và biên tập viên chuyên phân tích tin tức tài chánh. Riêng điều này sẽ tạo cho hệ thống ti vi mới của News Corp nhiều lợi thế khi so sánh với CNBC, vì khán giả khắp nơi biết tin tức của Wall Street Journal vẫn được tiếng là đầy đủ, nhanh chóng, khách quan và chính xác. Ngoài việc sử dụng tin tức của tờ nhật báo Wall Street cho hệ thống truyền hình, công ty News Corp sẽ bành trướng thêm ngành thông tin trên internet là nhật báo Wall Street đang thực hiện nhưng chưa bành trướng đủ mạnh. News Corp có thể bỏ thêm tiền đầu tư cho tờ WSJOnline để tăng số độc giả. Hiện nay người ta chỉ có thể vào đọc WSJOnline nếu trả tiền, những độc giả mua dài hạn báo in có thể được giảm giá, chỉ trả 29 đô la một năm. Nhưng ông Murdoch có thể sẽ bỏ luôn số tiền bán Online, cho độc giả vào mạng lưới miễn phí để tăng số người đọc dài hạn từ gần một triệu hiện nay lên gấp nhiều lần. Khi đó, chính tờ WSJOnline có thể thu hút nhiều quảng cáo và số tiền thu được sẽ vượt cao hơn số tiền người ta đang trả để mua quyền đọc báo. Các đối thủ của công ty News Corp thấy sau khi họ mua tờ WSJ đang phải lo đối phó. Đó là những công ty chuyên cung cấp tin tức tài chính và thương mại trên internet như Reuters, Blommberg và Pearson, chủ nhân của nhật báo Financial Times, cũng như các hệ thống truyền hình như CNBC. Hiện nay trên thế giới số người mua bán các cổ phần, trái phiếu và các loại chứng khoán khác ngày càng gia tăng. Trị giá các chứng khoán trong tay các nhà đầu tư khắp thế giới vào năm 2005 là 140,000 tỷ mỹ kim, đến năm nay sẽ lên tới 214,000 tỷ, tức là tăng gấp rưỡi. Hai thị trường lớn đang phát triển là Ấn Độ và Trung Quốc đầy triển vọng, càng ngày càng nhiều người mua bán chứng khoán, chưa biết bao giờ mới ngưng. Các công ty thông tin tài chánh đều lo cạnh tranh nhau khai thác các thị trường này trong vài chục năm sắp tới, ai tụt lùi là có thể bị đào thải. Với đà tăng trưởng và triển vọng của việc đầu tư vào chứng khoán lớn như vậy, số người đi tìm tin tức tài chính sẽ càng ngày càng đông hơn, đó là một thị trường mà ông Murdoch đang nhắm tới. 4. Microsoft – “Một đế chế hùng mạnh” Ba mươi năm có lẽ là khoảng thời gian đủ để xây dựng một công ty thành công, song để xây dựng một đế chế hùng mạnh thì tưởng như là không thể. Ấy thế mà toàn thế giới đang chứng kiến và ngưỡng mộ điều không thể đó với cái tên Microsoft. Với doanh thu năm vừa qua đạt 40 tỷ USD cùng 84 ngàn nhân công làm việc tai 85 quốc gia và cùng lãnh thổ, Microsoft là công ty sản xuất phần mềm lớn nhất thế giới. Trong hơn 20 năm, dưới bàn tay chèo lái của chủ tịch Bill Gates, Microsoft đã đi từ hết thành công này đến thành công khác, trong đó mỗi thành tựu đều ghi lại dấu mốc trong lịch sử ngành máy tính hiện đại. 4.1. Sự ra đời của Microsoft Microsoft được thành lâp năm 1975 bởi William H. Gates, III và Paul Allen, hai người bạn từ thời niên thiếu cùng có chung niềm đam mê đối với lập trình máy tính. Ngày 1-1-1975, sau khi đọc tờ tạp chí Điện tử phổ thông đăng tin về việc sản xuất máy tính Altair 8800, Bill Gates - đang là sinh viên năm thứ hai của trường Harvard - đã gọi cho nhà sản xuất MIST (Micro Instrumentation and Telemetry Systems) đề xuất viết ngôn ngữ lập trình BASIC cho máy này. Gates chẳng có một trình thông dịch cũng như một hệ thống Altair nào. Anh và Paul đã phải tranh thủ làm việc 8 tuần trên máy tính của trường để hoàn thành bản demo của BASIC- ngôn ngữ lập trình đầu tiên được viết cho máy tính cá nhân. Kết quả là bản demo đã chạy tốt và được MIST chấp nhận. Sau đó, Paul Allen gia nhập MIST, trở thành giám đốc phần mềm; còn Bill Gates, nhận ra giá trị to lớn của ngành phát triển phần mềm từ thành công ban đầu đó, anh hiểu rằng thời cơ của mình đã đến. Bill quyết định bỏ học và ngày 4-4-1975, Micro-soft (tên viết tắt của Microcomputer software - Phần mềm cho máy tính cá nhân) ra đời tại Albuquerque, New Mexico. Không ít bạn bè, người thân khi đó đã chỉ trích việc bỏ học của Bill, nhưng cho tới bây giờ , thực tế đã chứng minh được rằng Bill đã đúng. Nhiều thanh niên Mỹ bắt chước con đường của Bill, kể cả việc bỏ học giữa chừng. Ngày 29-10-1975, cái tên Microsoft (không có dấu gạch ngang) lần đầu tiên xuất hiện trong một bức thư Bill Gates gửi cho Paul Allen. Ngày 26-10-1976, Microsoft chính thức được đăng kí thương hiệu như chúng ta biết ngày nay. Những khách hàng đầu tiên của Microsoft phải kể đến hãng sản xuất máy tính non trẻ Apple, nhà sản xuất máy tính PET Commodore và Tandy Corporation chuyên về loại máy tính Radio Shack TRS-80. Năm 1977, Microsoft cho ra mắt sản phẩm ngôn ngữ thứ hai Microsoft Fortran. Cũng trong năm này, Bill Gates chính thức trở thành chủ tịch của Microsoft Corp, còn Paul Allen là phó chủ tịch. Trụ sở chính của Microsoft đặt tại Redmond, Washington, Mỹ. 4.2. Những sản phẩm của Microsoft Các sản phẩm bán chạy nhất của Microsoft bao gồm họ các hệ điều hành thuộc họ Microsoft Windows (Windows NT, Windows 95, Windows 98 SE, Windows ME, Windows 2000, Windows XP (SP1, SP2), Windows Server 2003, Windows Vista) và bộ phần mềm văn phòng Microsoft Office. Đó là những sản phẩm rất nổi tiếng trong thị trường phần mềm cho máy tính cá nhân, chiếm thị phần lên đến 90% hoặc hơn như với Microsoft Office năm 2003, và Microsoft Windows năm 2006. Được thành lập để phát triển phần mềm trình dịch BASIC interpreters cho máy Altair 8800 , Microsoft vươn lên thống trị thị trường hệ điều hành cho máy tính gia đình với MS-DOS giữa những năm 1980. Cổ phiếu của công ty sau khi được phát hành lần đầu ra thị trường đã tăng giá nhanh chóng và tạo ra 4 nhà tỷ phú và 12000 nhà triệu phú trong công ty. Xuyên suốt lịch sử, tập đoàn này luôn là mục tiêu của rất nhiều sự chỉ trích, bao gồm các thủ đoạn độc quyền kinh doanh. Trong đó có từ phía Ủy ban công lý Hoa Kỳ (United States Department of Justice), và Ủy ban châu Âu (European commission), đã làm Microsoft dính vào rất nhiều vụ kiện tụng về chống độc quyền. Microsoft cũng có một chỗ đứng trong các thị trường khác bên cạnh thị trường hệ điều hành và phần mềm văn phòng, như mạng truyền hình cáp MSNBC, cổng Internet MSN, và bộ từ điển bách khoa đa phương tiện Microsoft Encarta. Công ty cũng kinh doanh hai dòng sản phẩm phần cứng máy tính là Microsoft mouse và sản phẩm giải trí gia đình như Xbox, Xbox 360, Zune và MSN TV. Windows Live (Bản Beta) được công bố ở trang và hệ điều hành Windows Vista, bản Microsoft Office 2007 cuối năm 2006, đầu năm 2007 phát hành và công bố rộng rãi trên toàn cầu. Sản phẩm văn phòng Microsoft Office (95, 97, 2000, XP, 2003, 2007). Những phần mềm, dịch vụ và giải pháp này được thiết kế để giúp cá nhân và doanh nghiệp nhận ra được những tiềm năng to lớn của họ. Doanh thu của Microsoft được mang về từ hoạt động phát triển, sản xuất, cấp phép và hỗ trợ nhiều sản phẩm phần mềm cho nhiều loại thiết bị. Ngoài ra, Microsoft cung cấp các dịch vụ tư vấn và dịch vụ hỗ trợ sản phẩm. Microsoft còn cung cấp những khoá học và cấp bằng chứng nhận cho những nhà quản trị và phát triển hệ thống công nghệ thông tin. Microsoft tin tưởng rằng những cuộc cách mạng công nghệ và những dịch vụ giá trị cao là nền tảng cho sự phát triển vững chắc để phục vụ nhu cầu của khách hàng cũng như sự phát triển trong tương lai của Microsoft. 4.3. Sự can thiệp của Microsoft đối với báo chí Bất chấp những rắc rối trên pháp đình, Microsoft vẫn tiếp tục những bước đường kinh doanh thành công của mình. Tới giữa thập kỉ 90, Microsoft đã bắt đầu mở rộng sang các lĩnh vực giải trí, truyền hình và truyền thông.. Năm 1995, Microsoft thành lập Microsoft Network chuyên cung cấp thông tin, tin tức, giải trí và thư điện tử cho người dùng máy tính cá nhân. Năm 1996, Microsoft liên kết với hãng truyền thông NBC cho ra đời MSNBC. Cũng trong năm này, Microsoft giơí thiệu sản phẩm Windows CE dành cho PDA. Năm 1997, Microsoft trả 425 triệu đola để mua WebTV Networks, nhà cung cấp các thiết bị kết nối TV với Internet giá rẻ. Microsoft cũng đầu tư 1 tỉ USD vào Comcast Corporation, nhà điều hành truyền hình cáp ở Mỹ như một phần trong nỗ lực mở rộng khả năng kết nôi Internet tốc độ cao. Tháng 6-1998, Microsoft tung ra phiên bản Windows 98 có kết hợp các tính năng hỗ trợ Internet. Năm 1999, Microsoft trả 5 tỉ USD cho công ty truyền thông AT&T Corp để sử dụng hệ điều hành Windows CE cho các thiết bị cung cấp cho khách hàng với truyền hình cáp, điện thoại và các dịch vụ Internet tốc độ cao. Cũng năm 1999 công ty phát hành Windows 2000, phiên bản cuối cùng của Windows NT. Trong khi gắng sức cập nhật và hoàn thiện những sản phẩm của mình, Microsoft nhắm đến việc tạo ra vị trí hàng đầu trong công cuộc cách mạng công nghệ và phục vụ thị trường tốt hơn. Chiến lược marketing của Microsoft được đẩy mạnh từ năm 1992 khi tung ra chiến dịch quảng cáo truyền hình đầu tiên. Chiến dịch nhằm mục đích giới thiệu Hệ điều hành Windows 95 và những ứng dụng của nó ra thị trường. Ngày 25/11/2001, Microsoft tung ra thị trường hệ điều hành Windows XP. Trong chiến dịch tung sản phẩn này, Microsoft đã lập được một kỉ kục thế giới: “thực hiện Video clip âm nhạc từ phim nhanh nhất” bằng cách sử dụng phầm mềm Windows Movie Maker trên Windows XP và hiện nay kỉ lục này vẫn chưa bị phá. Video Clip này dài 3 giờ 46 phút 19 giây và nó được đăng tải trên MSN. Ở Anh, sự kiện này được 143 triệu người biết đến do tiếp nhận thông tin từ 150 phương tiện truyền thông, trong đó có 2 kênh truyền hình và 12 tờ báo quốc gia. Trong khi đó có 20.000 người xem Video Clip trong tuần đầu tiên thông qua MSN. Tháng 5/2005, không xa lạ với những hoạt động rầm rộ khi tung sản phẩm mới, Microsoft kết hợp với MTV Châu Âu tung ra thị trường phiên bản mới nhất của bộ game Xbox 360. Buổi lể giới thiệu sản phẩm có nhiều ngôi sao nổi tiếng tham dự và được truyền hình trực tiếp trên cả 2 kênh của MTV trên toàn Châu Âu vào ngày 13/05/2005. Người xem có thể thấy hình ảnh của bộ Xbox 360 mới trong suốt chương trình. Ngoài ra còn có những thông tin bên lề về buổi lễ được đăng tải liên tục trước và sau thời điểm diễn ra buổi lễ. Năm 2006, Hãng truyền thông BBC vừa ký kết bản ghi nhớ hợp tác với hãng Microsoft để cùng nhau phối hợp trong công nghệ phát thanh, truyền hình số ở thế hệ tiếp theo. Bản thỏa thuận có thể mang đến cho người khổng lồ trong lĩnh vực phần mềm vai trò chính trong việc đưa tin của hãng truyền thông Anh khi đưa nội dung thông tin số dựa trên nền tảng Internet trong tương lai. Bản ghi nhớ được ký kết bởi tổng giám đốc BBC - Mark Thomson, giám đốc công nghệ và truyền thông mới của BBC – Ashley Hingfield và chủ tịch hãng Microsoft – Bill Gates tại Seattle. Bản thỏa thuận này không đề cập đến việc BBC mua bất cứ công nghệ nào của Microsoft để làm cơ sở cho việc giới thiệu các dịch vụ thông tin số trong tương lai. Đại diện của hãng BBC cho biết: Có sự rõ ràng trong hợp tác giữa BBC và Microsoft nhưng cũng cần nhấn mạnh rằng BBC không muốn bằng việc hợp tác với Microsoft sẽ làm mất uy tín những hãng cạnh tranh khác. Hiện tại, hãng BBC đang có vài dự án về phát thanh kỹ thuật số, bao gồm kế hoạch đưa chương trình của hãng lên mạng. Giám đốc công nghệ và truyền thông mới của BBC Highfield đã nêu ra các sản phẩm của Microsoft như dịch vụ mạng (MSN – Microsoft Network), nền tảng Windows Media Center, các ứng dụng Windows Live Messenger và bảng điều khiển thiết bị Xbox như tiềm năng lớn cho nội dung của BBC. Dù BBC có thể sẽ phải đối mặt với những chỉ trích nặng nề và sự can thiệp nếu nội dung của hãng này chỉ hợp tác với Microsoft. Theo BBC, hãng sẽ không để điều này sẽ xảy ra. “Đây thực sự không phải là vấn đề độc quyền”, đại diện hãng BBC cho biết, chúng tôi sẽ gặp gỡ với Real Networks, IBM, cũng như các hãng Apples và Googles... Trước đó, TGĐ Mark Thompson vừa đưa ra kế hoạch truyền thông mới để mở rộng vai trò của BBC với trách nhiệm sản xuất các chương trình theo yêu cầu. Theo đó, các chương trình của BBC sẽ liên tục được sản xuất như các chương trình được đăng tải trên TV, radio, mạng và di động. Ông Thompson cho biết: “BBC sẽ trở thành một tập đoàn năng động nhất trên thế giới, mang đến các chương trình yêu thích cho khán giả”. Bản thỏa thuận ký với Microsoft như một bước tiến trong việc đa dạng hóa sản phẩm truyền thông được đưa đến khán giả, đặc biệt qua hệ thống mạng toàn cầu. Kết luận: Sứ mệnh của thương hiệu Microsoft là giúp cho cá nhân và doanh nghiệp trên toàn thế giới tự nhận ra khả năng tiềm tàng của họ. Sứ mệnh đó thể hiện rõ giá trị cốt lõi của thương hiệu: chính trực, lương thiện; hết lòng với khách hàng, đối tác và công nghệ; cởi mở và lễ phép; đối đầu và chinh phục thử thách; tự hoàn thiện…. Những giá trị này thể hiện giá trị nhân văn của thương hiệu trong hoạt động kinh doanh và trách nhiệm của nó đối với cộng đồng. Dựa vào những thành viên thông minh và sáng tạo trong công ti, Microsoft tự tin rằng sứ mệnh đó có thể hoàn thành. Cùng với việc sản xuất những sản phẩm mới, Microsoft rất chú trọng tài trợ, bơm tiền vào quảng cáo để từ đó tạo dựng hình ảnh và mang sản phẩm của mình đến với công chúng. Trong thế kỉ 21, với đà phát triển hiện nay, Microssoft sẽ vẫn tiếp tục giữ vững vị thế của một đế chế hùng mạnh nhất, vừa tạo động lực cho sự phát triển của ngành công nghiệp phần mềm và Internet thế giới, vừa tiếp tục là tâm điểm cho những cuộc tranh cãi về độc quyền hay cạnh tranh lành mạnh. Một chu kì mới lại đang băt đầu. 5. Tiểu kết chương II Bốn tập đoàn tư bản mà chúng tôi lựa chọn trên đây đều ở Mỹ, nơi mà có nền kinh tế và truyền thông phát triển nhất thế giới. Chúng tôi chỉ chọn bốn tập đoàn này bởi nó rất điển hình và tiêu biểu cho sự can thiệp này. Mỗi tập đoàn lại điển hình cho những hình thức can thiệp đã nêu trên: AOL can thiệp bằng cách bắt tay với Time Warner, Google và Mirosoft thu lời từ quảng cáo, Dow Jones thành lập cho mình tờ báo riêng. Trong quá trình can thiệp báo chí các tập đoàn đồng thời cũng tận dụng được lợi thế của mình. Qua đó cho chúng ta thấy được sự cạnh tranh khốc liệt và bành trướng của các tập đoàn tư bản lũng đoạn trên thế giới. Chương 3: Liên hệ thực tiễn ở Việt Nam Vài nét về báo chí Việt Nam hiện nay Trong năm năm đầu của thế kỷ 21, tình hình kinh tế xã hội của Việt Nam có những chuyển biến mạnh mẽ. Nhiều năm liền, tỉ lệ tăng trưởng GDP ở mức cao trung bình 7%, đến năm 2005, đạt mức 8,4%. Không khí sôi động là đặc điểm chung cho cả nước, đặc biệt là những đô thị trung tâm, phát triển năng động, dẫn đầu là thành phố Hồ Chí Minh. Đây là điều kiện vô cùng thích hợp cho những trào lưu đổi mới, cải cách để hội nhập. Với mong muốn vươn lên sánh vai với các nước trong khu vực và thế giới, Việt Nam đang trong giai đoạn đọc hiểu về mọi mặt trong thế giới, nắm vững các quy tắc, luật lệ của thế giới. Kinh tế phát triển, đời sống của người dân được nâng cao, trình độ dân trí phát triển. Người dân sẵn sàng đầu tư tiền của, thời gian cho việc tiếp cận thông tin, học tập và vui chơi giải trí, đó là cơ hội dẫn đến sự phát triển tất yếu của báo chí - truyền thông, theo đúng tinh thần: Báo chí đồng hành với sự phát triển kinh tế đất nước. Theo tổng kết của Bộ văn hoá – thông tin, trong thời kỳ đổi mới, “hệ thống báo chí nước ta có bước phát triển quan trọng cả về loại hình, số lượng và chất lượng”, với đủ các phương tiện truyền thông tiên tiến nhất trên thế giới. Ngoài sự phát triển khởi sắc của ba loại hình báo chí truyền thông là báo in, báo nói, báo hình, là sự nở rộ của của loại hình báo điện tử, và sự “kì diệu” của các loại hình báo chí qua điện thoại di động. Thế và lực về cơ sở vật chất-kỹ thuật và tài chính của báo chí ngày càng được nâng cao tiêu biểu là các tờ báo Tiền Phong, Thanh Niên, Tuổi trẻ, Hà Nội mới… Chính vì thế, những cơ quan báo chí này đang xây dựng đề án nâng lên thành Tập đoàn báo chí. Tuy cơ chế chưa có, nhưng thị trường truyền thông về cơ bản đã hình thành. Từ chỗ chỉ là công cụ chính trị - tư tưởng của Đảng, báo chí từng bước tung ra làm kinh tế (cải tiến nội dung, tăng doanh số phát hành, thu hút quảng cáo, tham gia vào các hoạt động kinh tế khác). Từ thực tiễn báo chí làm ăn có hiệu quả mà vẫn duy trì được định hướng chính trị, những người lãnh đạo đã có sự đổi mới trong tư duy, tạo điều kiện thông thoáng hơn cho báo chí tham gia vào hoạt động kinh tế. Nhận thấy được điều đó, một số tập đoàn kinh tế trong nước đã tìm cách can thiệp vào báo chí, điển hình là FPT và VASC. Hai tập đoàn này đã đứng ra thành lập hai tờ báo điện tử thuộc loại lớn nhất Việt Nam hiện nay, đó là tờ Vnexpress(FPT), Vietnamnet(VASC). Một hiện tượng khác cũng được xem là mới mẻ trong một năm trở lại đây, đó là sự tham gia bước đầu của các tập đoàn truyền thông nước ngoài vào đời sống truyền thông sôi động của Việt Nam nhân đàm phán thương mại WTO. Những diễn tiến được đăng tải trên báo chí trong thời gian gần đây cho thấy rõ điều đó. Trong chuyến “đổ bộ” của 21 tập đoàn kinh tế Mỹ hồi đầu tháng 3/2006, Phó chủ tịch cấp cao tập đoàn truyền thông Time Warner Hugh Stephens khẳng định mong muốn “hợp tác với phía Việt Nam để tận dụng truyền thống văn hoá lâu đời và đa dạng của Việt Nam”. Vào khoảng giữa tháng 3/2006, tập đoàn in ấn truyền thông Ringer AG(Thụy Sĩ) nổi tiếng khắp Châu Âu, sau 3 năm hoạt động trong các dự án nhân đạo ở Việt Nam đã có bước đi mới. Trong chuyến thăm Việt Nam 16 và 17/3, ông Michael Ringier, chủ tịch hội đồng quản trị của tập đoàn, không ngần ngại cho biết sẽ tìm hiểu các hoạt động kinh doanh của tập đoàn trong lĩnh vực báo chí Việt Nam. Ông nói: “Tại Việt Nam, chúng tôi đang có tham vọng đầu tư thêm vào các báo viết và tạp chí”. Cũng vào cuối tháng 3/2006, công ty cung cấp nội dung Internet Yahoo!Inc hàng đầu thế giới đã chọn đối tác cung cấp dịch vụ tin tức Yahoo!News là Tuổi Trẻ Online, trong một nỗ lực bản địa hoá tối đa nội dung của trang web này tại mỗi quốc gia. Tuy nhà nước ta chưa cho phép có báo chí tư nhân nhưng có thể nói, việc Việt Nam gia nhập WTO sẽ tạo nhiều cơ hội cho các tập đoàn tư bản trên thế giới can thiệp vào truyền thông Việt Nam nói chung và báo chí Việt Nam nói riêng. Báo chí Việt Nam ngày càng trở thành nguồn lợi “béo bở” không những các tập đoàn kinh tế Việt Nam mà ngay cả những ông trùm tư bản lớn nhất của thế giới cũng muốn có phần. Giới thiệu một số tờ báo có sự can thiệp của các tập đoàn kinh tế 2.1. Về FPT và Vnexpress 2.1.1. Vài nét về tập đoàn FPT Thành lập ngày 13/9/1988 bởi một nhóm kỹ sư trẻ, đứng đầu là Trương Gia Bình. Đến nay, công ty cổ phần Phát triển Đầu tư Công nghệ FPT (tên giao dịch là: The Corporation for Financing and Promoting Technology) đã trở thành tập đoàn công nghệ thông tin lớn tại Việt Nam. Theo thống kê của Chương trình Phát triển Liên Hiệp Quốc, đây là công ty lớn thứ 14 của Việt Nam vào năm 2007. FPT chuyên cung cấp dịch vụ công nghệ mạng hàng đầu tại Việt Nam. Công ty FPT cũng là đối tác của các công ty lớn khác ở nước ngoài như Cisco. Các dự án công nghệ mạng WAN của nhiều cơ quan nhà nước CSVN như bộ tài chính, tổng cục thuế, kho bạc nhà nước, các ngân hàng lớn, hải quan, bộ ngoại giao, văn phòng chính phủ.... tất cả đều do FPT thực hiện. 2.1.2. Sự ra đời và phát triển của Vnexpress Vào đầu năm 2000, cả nước Việt Nam chưa có đến 50000 thuê bao Internet. Báo chí thường xuyên kêu la về tình trạng giá cước cao và băng thông hẹp. Người Việt Nam vẫn thích mua tờ báo in giá 1- 2000đ đọc “vừa tiện vừa rẻ”, hơn là nhìn vào màn hình tù mù, chạy ậm ạch, phải trả cước điện thoại, vừa cước Internet. 3/2000, có 2 người đã bạo dạn thực hiện ý tưởng thành lập 1 tờ báo điện tử đầu tiên ở Việt Nam đó là giám đốc FOX Trương Đình Anh và trưởng ban thời sự kiêm trưởng ban báo điện tử báo Lao Động lúc đó là Thang Đức Thắng. 7/2000, Họ bắt đầu bàn bạc, nghiên cứu tình hình, lập dự án xây dựng báo trực tuyến. Nó phải có nhiều độc giả, phải tự cân đối tài chính, hay nói cách khác nó phải làm ra tiền bạc. Hai nguồn thu phải là quảng cáo và thời lượng của khách hàng thuê bao vào mạng gia tăng. Đầu tháng 8/2000 đăng quảng cáo tuyển dụng biên tập viên, phóng viên để “xây dựng một tờ báo trực tuyến lớn nhất VN”. Đặt tên cho tờ báo là: Vnexpress.net. Điểm khác biệt của Vnexpress so với các tờ báo in lúc bấy giờ là tốc độ cập nhật và phong cách đưa tin. Cuối cùng, ngày 26/2/2001, VnExpress chính thức lên Internet. Cơ quan chủ quản là Bộ Khoa học và Công nghệ Việt Nam. Không quảng cáo trên báo chí, không có lễ khai trương, diễn văn và champagne. Chỉ có một thông báo qua e-mail cho các khách hàng của FPT Internet. Sau tuần đầu, số máy tính truy cập trong một ngày đạt mức 1.000. Một tuần sau, số độc giả hằng ngày đã tăng gấp đôi… Sau nửa năm, VnExpress có 300.000 độc giả… Phần lớn bạn đọc biết đến VnExpress là nhờ bạn bè giới thiệu. Sau đó, VnExpress được báo giới Việt Nam bình chọn là một trong 10 sự kiện nổi bật trong lĩnh vực công nghệ thông tin của năm 2002 “do đã thực sự là một biểu tượng cho sự phát triển nội dung Internet ở Việt Nam”. Sau một thời gian tự phát triển mạnh mẽ, các cơ quan chức năng buộc phải chấp nhận một ngoại lệ là cho phép trang web của doanh nghiệp trở thành báo. Qua 5 năm hoạt động, VnExpress đã có 1,2 triệu lượt truy cập hằng ngày. Năm 2005, số độc giả thường xuyên trong và ngoài nước đạt hơn 8,9 triệu. Lượng độc giả thường xuyên này đã đưa tờ báo trở thành báo điện tử lớn nhất tại Việt Nam hiện nay. Ngày 11/12/2006, Báo điện tử VnExpress xếp hạng 187 trong danh sách 300 website có nhiều người đọc nhất thế giới của Alexa.com. Sự kiện này không chỉ là thành tựu của riêng VnExpress mà còn là mốc đánh dấu bước phát triển vượt bậc về nội dung Internet ở Việt Nam. Giới công nghệ thông tin quốc tế đánh giá cao việc một trang web Việt Nam lọt vào bảng xếp hạng các website lớn nhất trên toàn cầu. Hiện Vnexpress còn có thêm Evăn, số hoá, ngôi sao… 2.1.3. Vai trò của FPT với Vnexpress Vnexpress.net là tờ báo nhận được sự hậu thuẫn rất lớn về mặt công nghệ từ cơ quan chủ quản chuyên về công nghệ thông tin, công ty FPT… VnExpress sử dụng phần mềm biên tập - phát hành chuyên dụng, được xây dựng bởi đội ngũ lập trình viên chuyên nghiệp của Công ty Cổ phần Viễn thông FPT (FPT Telecom); Tốc độ đưa tin nhanh do có lợi thế về công nghệ; Khả năng tìm kiếm dễ dàng do dùng công nghệ Microsoft Search (tìm những chuỗi ký tự khi độc giả đăng nhập), cho kết quả tìm kiếm nhanh và hiệu quả nhất; Không giới hạn thời gian lưu trữ thông tin. Có thể nói, câu chuyện của Vnexpress minh chứng cho hiệu quả ứng dụng công nghệ tiến tiến, tăng khả năng tương tác hai chiều giữa bạn đọc và tờ báo, phục vụ tối đa nhu cầu đa dạng của bạn đọc với máy chủ mạnh và đường truyền tốc độ cao. Về VASC và Vietnamnet Công ty Phần mềm và Truyền thông VASC là công ty hoạt động trong lĩnh vực Phần mềm, Truyền thông và Giá trị gia tăng trên mạng Internet và mạng điện thoại di động hàng đầu tại Việt Nam. Ban đầu công ty mang tên là công ty phát triển phần mềm VASC. Giám đốc Công ty Phần mềm và Truyền thông VASC ông Nguyễn Anh Tuấn đã khẳng định: ''Việc đổi tên từ Công ty phát triển phần mềm VASC thành Công ty Phần mềm và Truyền thông VASC không chỉ thể hiện nhiệm vụ mới của chúng tôi với tư cách là một thành viên Tổng Công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam (VNPT), mà còn thể hiện mong muốn được đóng góp vào sự phát triển truyền thông và công nghệ thông tin Việt Nam của VASC '' Công ty này đã thành lập nên báo điện tử Vietnamnet. Cơ quan chủ quản là Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam thuộc Bộ Thông tin và Truyền thông. Vietnam Net được cấp giấy phép hoạt động mới nhất vào ngày 23 tháng 1 năm 2003 (số giấy phép: 27/GP-BVHTT). Trước đó người ta đã thấy báo này xuất hiện tại địa chỉ mạng hiện nay từ thập niên 1990. Giám đốc Công ty phần mềm và Truyền thông VASC là Nguyễn Anh Tuấn đã kiêm nhiệm Tổng biên tập Vietnamnet. Sau hơn 10 năm gây dựng VietNamnet trở thành một trong các báo điện tử Việt Nam có lượt truy cập nhiều nhất hiện nay. Đây là một trong những tờ báo điện tử được ra đời đầu tiên tại Việt Nam. Tới nay đã có hàng triệu lượt người truy cập mỗi ngày. Với hơn 300 triệu lượt truy cập mỗi tháng, Vietnamnet đã trở thành điểm hẹn quen thuộc với những người sử dụng Internet trong nước và quốc tế. Với tầm nhìn xa trông rộng và nỗ lực không mệt mỏi trong việc đưa tin tức và các bài phân tích một cách cân bằng, khách quan đến với người đọc, Vietnamnet đã trở thành tờ báo điện tử được yêu thích nhất của Việt Nam. Vietnamnet có Người viễn xứ, Giai điệu xanh... Theo xếp hạng các website có nhiều lượt truy cập nhất thế giới Alexa.com, hiện nay Vietnamnet là 1.264 (xếp hạng này tính đến ngày 11/12/2006), lọt vào danh sách top 10.000 website lớn trên thế giới. Bà Mary Lyndon Haviland - Giám đốc American Legacy Foundation từng nói: “Trong vòng hai thập kỷ qua, Việt Nam đã chứng tỏ sự trỗi dậy của mình cả về kinh tế và vị thế chính trị. Báo điện tử VietNamnet đã góp phần đẩy mạnh quá trình ấy, mở ra một kênh thông tin, trao đổi cởi mở và tích cực nhằm xây dựng một môi trường phát triển thuận lợi nhất. VietNamnet với hai phiên bản tiếng Việt và tiếng Anh là một tờ báo bao quát những thông tin toàn diện nhất cho những người Việt Nam cả trong nước và tại nước ngoài”. Vì sức ảnh hưởng sâu rộng của tờ báo điện tử Vietnamnet ấy mà tầm quan trọng của Công ty phần mềm và truyền thông VASC ngày càng được nâng cao. Ngày 6/9/2002 tại cuộc thi quốc tế APICTA, Công ty VASC được trao Bằng công nhận và Cúp Vàng trong lĩnh vực ứng dụng trong truyền thông giải trí. Cũng nhờ nhưng gì mà Vietnamnet đem lại, Công ty phần mềm và truyền thông VASC đã tiếp tục đã phát triển một hệ thống truyền thông đa dạng bao gồm báo điện tử và báo viết như “E-chíp” (tuần báo CNTT-VT dành cho giới trẻ), tạp chí công nghệ thông tin trực tuyến “I-today”, mạng thông tin “xúc tiến xuất nhập khẩu Eximpro”, cơ sở dữ liệu luật trực tuyến “Vietlaw”, mạng luyện thi đại học trực tuyến Trường thi... Trong suốt quá trình phát triển, với nhiệm vụ chính là “phát triển phần mềm”, VASC đã khẳng định được vị trí tiên phong của mình trong lĩnh vực CNTT- VT, trở thành một trong những công ty uy tín hàng đầu Việt Nam Đáp ứng nhu cầu được thông tin của những người sử dụng điện thoại di động, VASC đã và sẽ tiếp tục đầu tư cho lĩnh vực truyền thông di động. Hiện nay, với công nghệ và dịch vụ của VASC, các thuê bao của Vinaphone và MobiFone đã có thể đọc thông tin thời sự trên máy điện thoại của mình bất cứ lúc nào.  Tuy nhiên, ngày 21 tháng 3 năm 2008, Thủ tướng Chính phủ đã có văn bản đồng ý tách các báo điện tử VietNamnet công ty Phần mềm và Truyền thông (VASC) theo đề nghị của VNPT. VASC sẽ được cổ phần hoá còn Vietnamnet sẽ để cơ quan chủ quản về báo chí quản lý. Sự chia tách này là để thúc đẩy lĩnh vực phần mềm và báo điện tử Vietnamnet được phát triển đúng hướng, đúng luật và tránh được những sai phạm không đáng có. Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Lê Doãn Hợp khẳng định, VietnamNet là tờ báo điện tử có bạn đọc đông đảo, tuy nhiên “đội ngũ lãnh đạo của Vietnamnet còn mỏng, yếu; năng lực quản lý chưa theo kịp sự phát triển. Đội ngũ phóng viên của Vietnamnet có ưu điểm là nhanh nhẹn, năng động, sáng tạo, chuyên môn sâu nhưng lại thiếu nhạy cảm chính trị vì vậy đã có lúc, Vietnamnet đăng tin chưa trung thực, đưa tin thiếu nhạy cảm chính trị…”. Truyền thông ở mọi lúc mọi nơi và đa phương tiện. Truyền thông kết hợp CNTT. Đó là xu hướng của thời đại và cũng là sự lựa chọn của VASC cho tương lai. Tiểu kết chương III Ngày nay, cùng với sự phát triển như vũ bão của các công nghệ kết nối, giúp đẩy nhanh tốc độ truy tải, số lượng các tờ báo điện tử nở rộ khắp nơi trên thế giới. Việt Nam cũng kông nằm ngoài quy luật đó khi có khoảng hơn 70 báo điện tử và báo giấy online (trực tuyến) và hàng ngàn website thương mại. Báo điện tử "hút" bạn đọc bởi sự đa dạng thông tin trên nhiều lĩnh vực mà báo giấy không thể đem lại do hạn chế về "đất". Ngày nay, người lướt web không chỉ được đọc tin tức mà còn có thể nghe rất nhiều kênh phát thanh và xem truyền hình ngay trên các webiste báo chí. Diễn đàn mở cũng là một đặc tính hấp dẫn của báo điện tử. Một tin tức gửi đi có thể nhanh chóng nhận ngay phản hồi của rất nhiều độc giả, nhận xét về nội dung thông tin, chia sẻ tình cảm với người trong cuộc, thậm chí phản ứng ngay với tờ báo về cách đưa tin... Thêm vào đó, thay vì hiện diện hạn hẹp trong khuôn khổ một quốc gia, các tờ báo có thể khuếch trương hình ảnh của mình mọi nơi, mọi lúc. Theo Trang Nhi, một bạn đọc thường xuyên của các báo điện tử Lao Động, Thanh Niên, Dân Trí... báo điện tử hấp dẫn còn bởi có tính lưu trữ rất cao. "Báo điện tử như một thư viện khổng lồ, ở đó chỉ trong ít phút tôi có thể tìm lại những bài báo đã được đăng từ lâu, điều rất khó thực hiện với các trang báo giấy", Nhi cho hay. Lợi nhuận từ quảng cáo cũng tăng vù vù. Ngày càng dày đặc những logo, banner quảng cáo nhấp nháy trên các trang web báo chí điện tử. Tuy nhiên, hiện tại chỉ có một vài website tin tức như Vnexpress, Dân Trí... có thể lấy lợi nhuận quảng cáo bù chi phí hoạt động. Theo các chủ website, mức độ đầu tư phát triển báo điện tử ngày một tăng. Nhưng cũng phải thừa nhận một thực tế hầu hết các trang báo điện tử lớn đều có sự hỗ trợ hay nói thẳng là đầu tư của một ISP (nhà cung cấp đường truyền). Hai báo điện tử ra đời sớm nhất ở Việt Nam là Vnexpress và Vietnamnet là những ví dụ điển hình. Báo điện tử thu hút người đọc bởi lượng thông tin khổng lồ, vì thế khi các báo Thanh Niên, Tuổi Trẻ, Ngưòi Lao Động chưa có trang web, Vnexpress và Vietnamnet đã khai thác triệt để nguồn thông tin từ các báo này. Độc giả lúc đó đang háo hức với sự nhanh nhạy và mới mẻ của báo điện tử đã đổ xô vào 2 trang web này. Nhưng đến nay, gần hết các cơ quan báo chí đều có website thì người đọc chỉ cần truy cập một báo, khỏi mở báo khác vì chỉ có ngần ấy thông tin được copy qua lại, hầu như giống nhau. Theo cuộc khảo sát "bỏ túi" của Sơn (đã được Báo Kinh tế Sài Gòn đăng tải ngày 30/11/2006), 100% các bài đó được đăng lại chứ không phải trích dẫn. Vnexpress là website vượt trội về số lượng bài tái sử dụng của báo khác, trong đó hầu hết từ báo in hoặc phiên bản điện tử của báo in. Sơn cho rằng, điều này không những dẫn đến tình trạng cạnh tranh không công bằng, mà còn làm giảm chất lượng của báo điện tử. Hơn nữa, khi đã vào Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), Việt Nam phải tôn trọng luật bản quyền và sở hữu trí tuệ ở mọi lĩnh vực. Không những vậy, một số doanh nghiệp lại tìm cách núp dưới danh nghĩa của một vài cơ quan báo chí nhỏ nhằm kiếm được tấm giấy “cấp phép” của Bộ VHTT. Sau đó, cho ra đời những trang tin điện tử cực kỳ giật gân, lá cải. Ông Dương Xuân Nam, Tổng Biên tập báo Tiền phong phê phán kịch liệt những trang báo điện tử quá câu khách, quá giật gân, không chính xác. "Chính những trang web này đang khiến bạn đọc mất tin tưởng vào báo điện tử. Những tờ báo hay, tờ báo dở, tờ báo lá cải lẫn lộn với nhau, khiến bạn đọc mất lòng tin. Đó là những trang web rất độc hại và nguy hiểm cho đất nước", ông Nam nói.   Cũng cần nói thêm, không phải tờ báo điện tử nào cũng được nuôi tốt, nghĩa là phải tự bươn chải. Lực lượng biên chế cho đội ngũ chưa mạnh lắm, lại chưa được đào tạo chuyên nghiệp. Làm đầy nội dung trang tin, rất sẵn! Sao chép, cắt dán nội dung từ mọi nguồn báo khác nhau. Lắp chỗ này một ít, chỗ kia một ít. Tệ hại là có những trang chỉ chuyên khai thác và đăng tải những bài liên quan đến hậu trường, đời tư của con người, những vụ án mạng man rợ, hay chuyện chăn gối, phòng the,.. những câu chuyện mang tính giải trí xuất hiện có liều lượng vừa phải trên những tờ báo chính thống. Báo điện tử Việt Nam đã có những bước tiến mạnh mẽ trong 6 năm qua, kể từ khi ra đời. Nhưng dường như, cũng chỉ sau 6 năm, sự ưu việt của báo đã bị những vấn đề bất cập khác làm giảm uy tín. Hi vọng các trang báo điện tử sẽ tìm được lối đi "không đụng hàng", thể hiện sự cạnh tranh lành mạnh để giữ được những độc giả thân thiết. KẾT LUẬN TÀI LIỆU THAM KHẢO Bài giảng LSBCTG của Th.S Bùi Tiến Dũng Cơ sở lý luận báo chí truyền thông – Dương Xuân Sơn, Đinh Văn Hường, Trần Quang Truyền thông đại chúng - Tạ Ngọc Tấn “Google – câu chuyện thần kỳ” David Vavid Vise và Mark Maleed do Khánh Chi dịch Tạp chí lý luận chính trị và truyền thông Tạp chí thương mại Các trang web: google.com.vn Vietnamnet.vn Vnexpress.vn Fpt.vn Vasc.com.vn Thanhnien.com.vn Laodong.com tuoitre.com.vn dowjones.com aol.com vietbao.com nghebao.com Wikipedia. Org Nghebao.com Tuanvietnam.net

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docS7921 can thi7879p c7911a cc t7853p 273on t432 b7843n l361ng.doc