Đề tài Sự can thiệp của nhà nước Tư bản chủ nghĩa đối với báo chí

Truyền thông đại chúng đóng vai trò quan trọng và chủ yếu trong việc rút ngắn thời gian cần thiết để giáo dục đại chúng một cách nhanh chóng, thay đổi nhận thức và ý thức mới. Trong khi đó giáo dục phải cần một hay nhiều thế hệ mới đào tạo được những con người mới. Trong truyền thông, tiêu chuẩn tối ưu là chính xác, trung thực, khách quan và nhanh chóng, và để làm được việc đó thì chúng ta cần những người có tài lẫn tâm (lương thiện trong nghiệp vụ). Nói tóm lại, không thể có một nền chính trị dân chủ đích thực nếu không có một nền truyền thông tự do và giá trị đích thực.

doc88 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1862 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Sự can thiệp của nhà nước Tư bản chủ nghĩa đối với báo chí, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Pháp Chế độ kiểm duyệt ra đời cùng với sự ra đời của báo chí. Theo đó, báo chí không được phép in bất cứ cái gì nếu chưa được phép của cơ quan kiểm duyệt hay cảnh sát. Nội dung sách báo không được chống lại tôn giáo, nhà vua, nhà nước, hình phạt cao nhất cho tội này là tử hình. Năm 1640-1775 có 8700 người làm báo ở Pháp bị tử hình do vi phạm điều luật này. Năm 1789, cách mạng vô sản Pháp nổ ra, điều luật này được bãi bỏ. 1.3. T ại Singapo Ngày 8/6/2002 Bộ trưởng Thông tin và Nghệ thuật David Lim cho biết Singapore đã tiến hành đánh giá lại toàn diện luật kiểm duyệt trong lĩnh vực báo chí và nghệ thuật sao cho phù hợp với kỷ nguyên Internet và toàn cầu hoá. Singapore cấm đăng tải nội dung về bất đồng chính trị và tình dục nhưng lại đang tự coi mình là một trung tâm báo chí và nghệ thuật của châu á, do đó làm dấy lên những yêu cầu đòi nới lỏng các vòng kiểm soát, đặc biệt là với những người dân đã sử dụng Internet. Lim cho biết chúng tôi không thể bác bỏ sự thay đổi đã xảy ra trong xã hội, và thừa nhận Singapore sẽ phải mở cửa không gian trong khi bảo vệ những giá trị quan trọng và tính đến những vấn đề nhạy cảm trong xã hội.    Uỷ ban Xem xét lại Luật Kiểm duyệt (CRC) đã được thành lập để tiến hành cuộc nghiên cứu về vấn đề kiểm duyệt và đưa ra những kiến nghị với chính phủ. Uỷ ban bao gồm các nhà báo, giáo sư, học giả và thành viên của hội đồng nghệ thuật. Lim cho biết ông yêu cầu uỷ ban này xem xét 3 điều trong việc khi thực hiện nhiệm vụ của họ: toàn cầu hoá, thay đổi kỹ thuật, di sản văn hoá và xã hội đa sắc tộc của Singapore.   1.4. Tại Thái Lan Theo thông báo phát trên truyền hình quốc gia Thái Lan, các kênh thông tin trong nước và quốc tế sẽ được đặt dưới sự kiểm soát chặt chẽ của Bộ thông tin liên lạc. Ngày 20/9/2006 các tướng chỉ huy cuộc đảo chính đã ra lệnh kiểm duyệt các phương tiện thông tin đại chúng và cấm người dân tại Thái Lan tụ tập, nhằm đảm bảo an ninh trật tự. Bộ thông tin liên lạc được giao nhiệm vụ ngăn chặn những nguồn tin sai lệch gây tổn hại đến hình ảnh của Hội đồng quân sự lâm thời hiện đang tạm thời lãnh đạo đất nước. Các lực lượng an ninh hiện đang ráo riết cho kiểm soát các phương tiện truyền tin của các hãng thông tấn báo chí. Đồng thời các tướng chỉ huy cũng ra lệnh cấm dân chúng Thái Lan tụ tập trên 5 người tại các địa điểm công cộng. Bất cứ ai vi phạm luật lệ nói trên sẽ bị phạt tù trong vòng 6 tháng. Hội đồng quân sự lâm thời cũng đã cấm việc đầu cơ tích trữ hàng hoá và thông báo bất cứ ai bị báo cáo đã tăng giá các sản phẩm của họ sẽ bị phạt tù hai năm.  1.5. Tại Anh   - Báo chí Anh ra đời từ 1583 đã gặp phải rào chắn pháp luật rằng họ không được phép đăng tải tin tức quốc nội. Nhà nước Anh không muốn báo chí chọc gậy bánh xe, hay can thiệp đến những vấn đề trong nước. Bởi vì họ cho rằng báo chí sẽ phơi bày, vạch trần những vụ việc không mấy liêm khiết. Ngược lại, báo chí được quyền đăng tải các thông tin mà nhà nước cho phép. Có thể xem đây là thời kỳ trói buộc nhất của báo chí Anh.   - Chính phủ Anh lợi dụng báo chí để bóc lột tài chính một cách trắng trợn đối với công chúng. Họ đặt ra các thuế báo chí, đặt ra các thuế tem đánh vào báo chí. 2. Can thiệp bằng các hình thức ngoài luật Khi có các biến cố lớn xảy ra, nhà nước TBCN luôn kịp thời có những văn bản, quy định cho phù hợp với tình hình, nhằm ngăn chặn những tin tức không có lợi cho chính phủ. Những luật này chỉ áp dụng trong một thời gian nhất định khi xảy ra biến cố. VD1: CHIẾN TRANH VÙNG VỊNH (NĂM 1991) Đa số những thông tin báo chí có được đều từ những cuộc họp báo ngắn của quân đội. Chỉ những nhà báo được lựa chọn mới được phép tới mặt trận hay tiến hành các cuộc phỏng vấn binh sĩ. Những cuộc viếng thăm đó luôn được tiến hành với sự hiện diện của các sĩ quan, và sau đó đều phải được sự cho phép của quân đội và bộ phận kiểm duyệt. Điều này bề ngoài là để bảo vệ các thông tin nhạy cảm khỏi bị tiết lộ cho Iraq nhưng trên thực tế là để ngăn chặn tiết lộ các thông tin gây rắc rối về chính trị. Chính sách này bị ảnh hưởng nhiều từ những kinh nghiệm sau Chiến tranh Việt Nam, được cho rằng đã gây ra nhiều rò rỉ dẫn tới sự chống đối từ bên trong nước Mỹ. Trong cuộc chiến vùng Vịnh: giới truyền thông Mĩ chôn vùi những hình ảnh hãi hùng, dã man của cuộc tàn sát trên xa lộ tử thần (còn gọi là cuộc thảm sát trên “Highway of Death”) khi quân đội Iraq rút khỏi Kuwait. VD2: TẠI ANH, ĐÀI BBC BỊ CẤM ĐƯA TIN VỀ VỤ MUA BÁN QUAN CHỨC Ngày 4/3/2007, Đài BBC đã được lệnh của tòa án, cấm đăng tin về vụ mua quan bán chức ở nước này. Tờ Người bảo vệ cho biết, nếu vi phạm, Ban lãnh đạo BBC có thể bị kỷ luật, thậm chí bị cấm phát sóng trong một thời gian. Được biết, vụ mua quan bán chức ở Anh bắt đầu bị điều tra từ tháng 3/2006 và đến nay đã có rất nhiều quan chức cấp cao bị liên quan; 4 người đã bị bắt, trong đó có trợ lý vận động bầu cử của Thủ tướng Lord Levy, trợ lý văn phòng Thủ tướng Ruth Turner... Thậm chí, Thủ tướng Anh Tony Blair cũng đã bị cảnh sát thẩm vấn tới 2 lần. VD3: MỸ CẤM TRUYỀN HÌNH ĐƯA TIN VỀ PHIÊN TÒA XỬ VỤ KIỆN CHẤT ĐỘC DA CAM Ngày 28/2/2008, Tòa án liên bang Mỹ xử vụ án các nạn nhân chất độc da cam Việt Nam kiện 37 công ty hoá chất Mỹ. Trong phiên toà lần này chính là việc truyền hình bị cấm đưa tin, trong khi báo chí và các phương tiện truyền thông khác lại được phép tham dự. Điều đó phải chăng Mỹ không dám nhìn thẳng vào sự thật của cuộc chiến mà họ gây ra, và phải chăng họ lo sợ những người Mỹ có lương tri sẽ đòi công lý cho chính những nạn nhân của quốc gia họ? Hay lo ngại vụ kiện này sẽ mở đường cho các vụ kiện tương tự từ công dân các quốc gia mà Mỹ đã gây chiến? Hay phải chăng vụ kiện này sẽ đe dọa nghiêm trọng đến quyền phát động chiến tranh của Tổng thống (do Quốc hội trao cho) và như vậy sẽ mở rộng quá mức quyền của Tòa án liên bang? CHƯƠNG IV: HỆ QUẢ CỦA SỰ CAN THIỆP CỦA NHÀ NƯỚC TBCN ĐỐI VỚI BÁO CHÍ Các phương tiện thông tin đại chúng trên thế giới, đặc biệt là báo chí phương Tây đang lâm vào khủng hoảng nghiêm trọng về mọi mặt: từ các nhật báo, tuần báo, tạp chí...tên tuổi trên thế giới đến các hãng thông tấn “gạo cội” vì lý do công chúng của báo chí ngày càng giảm sút do sự mất lòng tin. 1. Báo chí TBCN sụt giảm đáng kể Trước hết phải kể đến hiện tượng giảm sút đáng kể số lượng phát hành. Theo thống kê của AP năm 2005: Nhật báo Mỹ International Herald Tribune năm qua giảm 4,16% Tờ Financial Times của Anh giảm 6,6% Ở Đức, trong vòng năm năm qua, số lượng phát hành giảm 7,7% Ở Đan Mạch giảm 9,5% Ở Áo giảm 9,9% Ở Bỉ giảm 6% Nhiều tên báo đang biến mất dần, ví như tờ Magyar Hirlap ở Hunggari vừa đóng cửa ngày 5/11/2004, hay tờ ''''Far Eastern Ecconomic Review'''' ở Hồng Kông cũng đình bản từ ngày 4/11. Ở Pháp, nguyệt san Nova Magazine cũng đã ngừng hoạt động từ ngày 7/12/2004... Trong khoảng những năm 2000 đến 2004, hơn hai ngàn chỗ làm việc của báo viết đã ''''xóa sổ'''', tức là khoảng 4% tổng số nhân công. Không những thế, các hãng thông tấn lớn cung cấp thông tin cho các báo cũng khốn đốn. Chẳng hạn như hãng Reuters vừa thông báo sa thải 4500 nhân viên. Nhiều người đang tự hỏi liệu có phải báo viết sẽ ½ chỉ còn là một phương tiện thông tin đại chúng của kỷ nguyên công nghiệp đang bị diệt vong hay không? Nguyên nhân của hiện tượng này có nhiều, song phải kể trước hết đến sự công phá của các nhật báo miễn phí, kèm theo quảng cáo, thông báo... Thậm chí, nhiều báo còn lôi kéo độc giả vào cuộc cạnh tranh bằng nhiều hình ảnh ''hấp dẫn''. Chẳng hạn như ở Ý, Tây Ban Nha, Hy Lạp, Thổ Nhĩ Kỳ, mỗi ngày chỉ cần trả thêm một chút xíu là độc giả có thể nhận thêm đĩa CD, DVD, băng hoạt hình, sách, bản đồ, từ điển bách khoa, thậm chí cả bộ sưu tập tem hay tiền cổ, hoặc các bộ cốc chén, bộ cờ... Một nguyên nhân khác nữa là sự phát triển bùng nổ của Internet. Chỉ riêng trong quý I năm 2004, hơn 4,7 triệu trang Web đã được lập ra. Hiện trên thế giới có tới 70 triệu trang Web và có 700 triệu người đang sử dụng Internet. Trong các nước phát triển, nhiều người bỏ rơi báo chí, thậm chí cả TiVi để say sưa với màn hình vi tính. Chỉ phải chi từ 10 đến 30 euro mỗi tháng, người ta đã có thể sử dụng mạng Internet nhanh. Ở Pháp, hơn 5,5 triệu gia đình đang sử dụng báo điện tử với đủ loại tin tức, ảnh, âm nhạc, các chương trình của truyền hình hay phát thanh, xem phim hay trò chơi video, với dung lượng rất cao. Hiện trên thế giới 79% các báo cáo đã được phát lên mạng. Thậm chí còn phải kể đến một nguy cơ mới nữa là điện thoại di dộng (ĐTDĐ) ''''toàn năng'''', với công cụ này, người ta có thể biết tất cả mọi thứ diễn ra trên thế giới vào bất cứ lúc nào. Ở Ấn Độ, tờ Times of India mỗi ngày phát cho mạng ĐTDĐ 30 triệu thông tin dưới dạng tin vắn (SMS - Short Message Service), rất nhanh, vắn tắt và không đắt chút nào. Ở Nhật Bản, Hàn Quốc, số người sử dụng thông tin qua ĐTDĐ ngày càng tăng,. Họ có thể nhận các buổi phát của đài phát thanh, hoặc các kênh TiVi liên tục. 2. Độc giả mất lòng tin Có một nguyên nhân cơ bản dẫn đến việc giảm sút số lượng độc giả của báo chí là là sự mất lòng tin. Càng ngày các báo có tên tuổi càng thuộc về tay các tập đoàn công nghiệp đang kiểm soát kinh tế và thông đồng với quyền lực chính trị, và cả cách nhìn nhận thiếu khách quan, dối trá, bị giật dây ... ngày càng tăng. Chẳng hạn như vụ nhà báo Mỹ Jayson Blair do đưa tin xuyên tạc đã gây cho tờ New York Times một thiệt hại tai tiếng, dẫn đến việc hai giám đốc tòa soạn phải từ chức.  Chỉ vài tháng sau đó, một vụ "xì-căng-đan" còn nổi hơn: đó là việc phóng viên nổi tiếng Jack Kelley -  ngôi sao quốc tế đã "cày xới" cả hành tinh, người đã từng phỏng vấn 36 nguyên thủ quốc gia và đưa tin về hàng chục cuộc chiến, với cả trăm bài báo giật gân - ngày 10/3/2000 đã viết một phóng sự về một phụ nữ Cuba trốn chạy và chết đuối thê thảm ở vịnh Floride. Vụ việc đã bị nhà báo Blake Morrisson của tờ USA Today phanh phui vì ông này đã gặp người phụ nữ đó, và xác minh sự thật là người phụ nữ đó còn sống và không hề chạy trốn. Đây bị coi là một trong những vụ tai tiếng lớn nhất của ngành báo chí Mỹ. Gần đây nhất, giữa chiến dịch bầu cử Tổng thống Mỹ, một cuộc chấn động về đạo đức đã làm rung chuyển giới báo chí Mỹ. Dan Rather, ngôi sao của truyền hình CBS và chương trình đầy uy tín "Sixty Minutes" thừa nhận đã phát đi mà không xác minh những tài liệu giả chứng tỏ rằng Tổng thống Bush đã được hưởng mọi ủng hộ để khỏi phải tham chiến ở Việt Nam. Dan Rather đã tuyên bố xin thôi việc. Tệ hơn nữa, nhiều phương tiện thông tin đại chúng có tên tuổi còn bị biến thành những cơ quan tuyên truyền những tin tức dối trá của Nhà Trắng về Irắc, đặc biệt là kênh Fox News, hoặc Washington Post, New York Times còn tham gia vào các chiến dịch "nhồi sọ"... Tất cả những vụ việc trên cũng như liên minh ngày càng chặt chẽ với quyền lực kinh tế và chính trị đã gây nên sự mất lòng tin nghiêm trọng của báo chí phương Tây, đồng thời cho thấy sự suy giảm dân chủ đáng lo ngại. Người ta có thể hỏi phải chăng khái niệm báo chí tự do ở phương Tây đang biến mất. => Và còn rất nhiều hệ quả khác nữa khiến công chúng phải đặt ra 1 câu hỏi: Phải chăng đã đến ngày “tận thế” của báo chí phương Tây? (Câu hỏi này trích từ Vietnamnet ngày 14/1/2005) CHƯƠNG V: LIÊN HỆ VỚI BÁO CHÍ VIỆT NAM Từ những đặc tính của truyền thông chính trị trong nền dân chủ phóng khoáng nêu trên, chúng ta có thể rút ra một số nhận định cốt lõi liên quan đến tự do báo chí tại Việt Nam và công cuộc thúc đẩy sự tiến triển của các phương tiện truyền thông. Muốn đẩy mạnh tiến trình pháp triển và hội nhập của Việt Nam trong thời gian tới, Đảng, Nhà nước và nhân dân phải dồn hết mọi nỗ lực cần thiết để sớm hình thành một chính sách (chiến lược và chiến thuật) về thông tin và giáo dục vì cả hai lĩnh vực này là quan trọng nhất. Thời gian gần đây, các thế lực thù địch lại tung ra những quan điểm sai trái, bịa đặt, vu cáo nhằm phủ nhận, xuyên tạc những thành tựu của công cuộc đổi mới và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng. Chúng cho rằng báo chí Việt Nam vẫn chưa thoát khỏi sự kiểm duyệt. Vậy thế nào là “kiểm duyệt” theo đúng nghĩa? Theo quan điểm của Karl Makx: "Kiểm duyệt chân chính bắt rễ từ chính bản chất của tự do báo chí là sự phê bình. Phê bình là một sự xét xử mà tự do báo chí sản sinh ra từ bản thân mình". "Kiểm duyệt là sự phê bình với tư cách là độc quyền của chính phủ". "Khi sự phê bình không phải công khai mà là bí mật, không phải về mặt lý luận mà là về mặt thực tiễn, khi sự phê bình không đứng trên các đảng phái mà bản thân trở thành đảng phái, khi sự phê bình tác động không phải bằng lưỡi dao sắc bén của lý tính mà bằng cái kéo cùn của sự tùy tiện, khi sự phê bình chỉ muốn lên tiếng phê bình mà không muốn chịu sự phê bình..., cuối cùng khi sự phê bình không có tính chất phê bình đến mức coi một cách sai lầm cá nhân riêng lẻ là hiện thân của trí tuệ phổ biến, coi mệnh lệnh của bạo lực là mệnh lệnh của lý tính, coi những vết mực là những vết trên mặt trời, coi những nét gạch xoá của người kiểm duyệt là những cấu tạo toán học, coi việc dùng sức mạnh thô bạo là luận cứ mạnh mẽ – khi đó lẽ nào sự phê bình lại không mất tính chất hợp lý của mình". "Tính cách của báo chí bị kiểm duyệt đó là sự quái dị không có tính cách của thiếu tự do, đó là con quái vật được văn minh hóa, cái quái thai được tắm nước hoa". "Luật báo chí là luật thật sự, bởi vì nó biểu hiện sự tồn tại của tự do. Nó coi tự do là tình trạng bình thường của báo chí, coi báo chí là tồn tại của tự do. Vì thế luật này chỉ xung đột với những tội lỗi của báo chí với tư cách là một ngoại lệ đang chống lại tiêu chuẩn của chính mình". "Luật kiểm duyệt không phải là luật mà là biện pháp cảnh sát, và thậm chí còn là biện pháp cảnh sát tồi, bởi vì nó không đạt được điều nó muốn và nó không muốn điều nó đạt được". "Chế độ kiểm duyệt làm cho mỗi tác phẩm bị cấm dù hay hoặc dở đều trở thành tác phẩm không bình thường, còn tự do báo chí thì tước mất của tác phẩm cái vẻ oai nghiêm bề ngoài đó". "Tệ lớn nhất – tệ giả dối gắn liền với báo chí bị kiểm duyệt. Tệ xấu căn bản này của nó là nguồn gốc của tất cả những thiếu sót khác trong đó cả mầm mống mỹ đức cũng không có". "Làm cho nhân dân quen coi cái phạm pháp là tự do, coi tự do là phi pháp, coi cái hợp pháp là cái không tự do. Chế độ kiểm duyệt bóp chết tinh thần quốc gia như thế đấy". "Trong lĩnh vực báo chí, những người cai trị và những người bị cai trị có khả năng như nhau để phê bình những nguyên tắc và yêu cầu của nhau, nhưng không phải trong khuôn khổ những quan hệ lệ thuộc mà trên cơ sở ngang quyền với nhau, với tư cách là những công dân của nhà nước – không phải với tư cách là những cá nhân riêng lẻ mà với tư cách là những sức mạnh của trí tuệ, với tư cách là những người thể hiện những quan điểm hợp lý". Cũng từ những quan điểm đúng đắn trên, có thể khẳng định rằng nền báo chí Việt Nam đã hoàn toàn tự do cũng với thời điểm đất nước giành được độc lập. 1. Báo chí Việt Nam có thời kì bị kiểm duyệt Năm 1946 nhà nước thành lập hội đồng kiểm duyệt báo chí, dể ngăn chặn tin bài có hại cho đất nước, nhân dân. SẮC LỆNH CỦA CHỦ TỊCH CHÍNH PHỦ NƯỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ SỐ 41 NGÀY 29 THÁNG 3 NĂM 1946 CHỦ TỊCH CHÍNH PHỦ VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ Chiểu theo thể lệ báo chí hiện hành; Chiểu theo lời đề nghị của Bộ Nội vụ và Bộ Tư pháp; Sau khi Hội đồng Chính phủ đã thoả hiệp; RA SẮC LỆNH: MỤC THỨ II - KIỂM DUYỆT Điều thứ V: Các bài báo chí sẽ được ấn hành sau khi ty Kiểm duyệt cấp kỳ đã duyệt. Điều thứ VI: Nếu có bài báo bị kiểm duyệt và chủ nhiệm hoặc quản lý cho là quá đáng thì chủ nhiệm hoặc quản lý có thể gửi đơn khiếu nại kèm cả bài báo bị tự kiểm duyệt bỏ, lên Hội đồng kiểm duyệt. Điều thứ VII: Hội đồng Kiểm duyệt đặt tại Bộ Nội vụ, gồm có năm hội viên, do nghị định Bộ trưởng Bộ Nội vụ cử ra: 1 nhân viên Bộ Nội vụ 1 nhân viên do Bộ Ngoại giao đề cử 1 nhân viên do Bộ Quốc phòng đề cử 1 nhân viên do Quốc hội đề cử 1 đại biểu của Quốc hội đề cử 1 đại biểu của báo giới đề cử Điều thứ VIII: Hội đồng Kiểm duyệt có nhiệm vụ: a) Đề nghị lên Bộ trưởng Nội vụ những chỉ thị về việc kiểm duyệt để các ty kiểm duyệt tuân hành; b) Xét đơn khiếu nại của các nhà báo. Những quyết nghị của Hội đồng trong việc xét khiếu nại sẽ thi hành nếu trong hạn 48 giờ sau khi nhận được quyết nghị, Bộ trưởng Bộ Nội vụ không trả lời. Quyết nghị của Hội đồng kiểm duyệt chỉ có thể là cho hoặc không cho đăng bài bị ty kiểm duyệt xoá bỏ. Đến năm 1947 SẮC LỆNH CỦA CHỦ TỊCH CHÍNH PHỦ VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ SỐ 12 NGÀY 3 THÁNG 2 NĂM 1947 CHỦ TỊCH CHÍNH PHỦ Chiểu sắc lệnh số 1 ngày 20-12-1946 tổ chức các uỷ ban bảo vệ, Chiểu sắc lệnh số 41 ngày 29-3-1946 ấn định chế độ báo chí, Chiểu sắc lệnh số 159 ngày 20-8-1946 ấn định chế độ ấn loát phẩm, Sau khi Hội đồng Chính phủ đã thoả hiệp, RA SẮC LỆNH: Điều thứ 1 Các báo chí và sách chỉ được in và phát hành sau khi được Sở Kiểm duyệt Kỳ cho phép. Song đối với các báo chí Sở Kiểm duyệt Kỳ sẽ cử ở các tỉnh nơi phát hành, nhân viên phụ trách việc kiểm duyệt. Điều thứ 2 Các ấn loát phẩm khác theo định nghĩa của sắc lệnh số 159 ngày 20 tháng 8 năm 1946 kể trên, sẽ do Uỷ ban kháng chiến khu kiểm duyệt. Uỷ ban kháng chiến khu sẽ cử nhân viên phụ trách việc kiểm duyệt ở các tỉnh nơi phát hành. Điều thứ 3 Những ấn loát phẩm đã được Uỷ ban kháng chiến khu cho phép in, có thể lưu hành ở các khu khác. Điều thứ 4 Nếu Uỷ ban kháng chiến khu không cho phép in, tác giả hoặc người in có thể đệ đơn kháng cáo lên Sở Kiểm duyệt Kỳ. Sở Kiểm duyệt Kỳ sẽ quyết định chung thẩm. Điều thứ 5 Uỷ ban kháng chiến khu có quyền ra lệnh tịch thu các ấn loát phẩm phát hành tuy không được phép. Điều thứ 6 Các điều khoản trái với sắc lệnh này đều tạm hoãn thi hành. Điều thứ 7 Bộ trưởng Bộ Nội vụ chiểu sắc lệnh thi hành. CHỦ TỊCH CHÍNH PHỦ VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ     CHỦ TỊCH CHÍNH PHỦ   (Đã ký)  Hồ Chí Minh     2. Sau năm 1954, báo chí Việt Nam hoàn toàn tự do Năm 1954, chính phủ tuyên bố bãi bỏ chế độ kiểm duyệt báo chí. Từ đó đến nay, nước ta không còn chế độ kiểm duyệt nữa. SẮC LỆNH CHỦ TỊCH PHỦ SỐ 282/SL HÀ NỘI, NGÀY 14 THÁNG 12 NĂM 1956 CHỦ TỊCH NƯỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ Chiểu sắc lệnh số 41 ngày 29 tháng 3 năm 1946 quy định chế độ báo chí; Theo đề nghị của Bộ Nội vụ, Bộ Tư pháp; Theo nghị quyết của Hội đồng Chính phủ, sau khi Ban thường trực Quốc hội thoả thuận, RA SẮC LỆNH: CHƯƠNG I TÍNH CHẤT VÀ NGHĨA VỤ CỦA BÁO CHÍ Điều 1 Sắc lệnh này nhằm đảm quyền tự do ngôn luận của nhân dân trên báo chí và ngăn cấm những kẻ lợi dụng quyền ấy để làm phương hại đến công cuộc đấu tranh cho hoà bình, thống nhất, độc lập và dân chủ của nước nhà. Điều 2 Báo chí dưới chế độ ta, bất kỳ là của một cơ quan chính quyền, đảng phái chính trị, đoàn thể nhân dân hoặc của tư nhân cũng đều là công cụ đấu tranh của nhân dân, phải phục vụ quyền lợi của Tổ quốc, của nhân dân, bảo vệ chế độ dân chủ nhân dân, ủng hộ Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà. Điều 3 Báo chí dưới chế độ ta có nghĩa vụ: a) Tuyên truyền giáo dục nhân dân, động viên tinh thần đoàn kết phấn đấu thực hiện mọi đường lối chính sách của Chính phủ, đấu tranh bảo vệ những thành quả của cách mạng, xây dựng chế độ dân chủ nhân dân, phát triển tình hữu nghị giữa nhân dân ta với nhân dân các nước bạn và nhân dân yêu chuộng hoà bình thế giới, phục vụ cuộc đấu tranh thực hiện một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giầu mạnh. b) Đấu tranh chống mọi âm mưu, hành động và luận điệu phá hoại công cuộc xây dựng miền Bắc vững mạnh, phá hoại công cuộc đấu tranh thống nhất Tổ quốc, phá hoại hoà bình. CHƯƠNG II QUY ĐỊNH VỀ QUYỀN LỢI VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA BÁO CHÍ MỤC I - QUYỀN LỢI CỦA BÁO CHÍ Điều 4 Quyền tự do ngôn luận của nhân dân trên báo chí được đảm bảo. Tất cả các báo chí đều được hưởng quyền tự do ngôn luận. Không phải kiểm duyệt trước khi in; trong trường hợp khẩn cấp, xét cần phải tạm thời đặt kiểm duyệt, Hội đồng Chính phủ sẽ quyết định. Điều 5 Báo chí có thể phản ánh ý kiến, nguyện vọng của nhân dân đối với các cơ quan Nhà nước, các đoàn thể nhân dân, góp ý kiến vào việc xây dựng và thực hiện đường lối, chính sách của Chính phủ. Điều 6 Quyền lợi của những người viết báo chuyên nghiệp sẽ do nghị định của Thủ tướng Chính phủ quy định. MỤC II- ĐIỀU KIỆN HOẠT ĐỘNG CỦA BÁO CHÍ. Điều 7 Để có một cơ sở cần thiết đảm bảo làm tròn trách nhiệm của báo chí và đảm bảo cho việc hoạt động nghiệp vụ, muốn xuất bản một tờ báo, cần phải có những điều kiện sau đây: a) Tờ báo phải có những người chịu trách nhiệm chính thức, chủ bút (hoặc là tổng biên tập viên, hoặc là thư ký toà soạn), quản lý. Những người này phải là những người có quyền công dân và không bị pháp luật đương truy tố. b) Tôn chỉ, mục đích của tờ báo phải rõ ràng, phù hợp với tính chất và nghĩa vụ đã quy định ở chương I. c) Có trụ sở chính thức. Điều 8 Muốn xuất bản một tờ báo phải xin phép trước, phải làm đầy đủ những thủ tục về khai báo. Sau khi được cơ quan phụ trách về báo chí của Chính phủ cấp giấy phép, tờ báo mới bắt đầu được hoạt động. Báo chí nào đã được phép xuất bản mà sau đó có một sự thay đổi nào về tôn chỉ, mục đích, tên báo, kỳ hạn phát hành hoặc về những người chịu trách nhiệm chính thức của tờ báo, đều phải xin phép và khai báo lại. Điều 9 Để quyền tự do ngôn luận trên báo chí được sử dụng một cách đúng đắn, báo chí phải tuân theo những những điều sau đây: a) Không được tuyên truyền chống pháp luật của Nhà nước. Không được cổ động nhân dân không thi hành hoặc chống lại những luật lệ và những đường lối, chính sách của Nhà nước. Không được viết bài có tính chất chống lại chế độ dân chủ nhân dân, chống lại chính quyền nhân dân, chia rẽ nhân dân và chính quyền, nhân dân và bộ đội. Không được gây ra những dư luận hoặc những hành động có hại cho an ninh trật tự của xã hội. b) Không được tuyên truyền phá hoại sự nghiệp củng cố hoà bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập và dân chủ của nước Việt Nam, làm giảm sút tinh thần đoàn kết, ý chí phấn đấu của nhân dân và bộ đội. c) Không được tuyên truyền chia rẽ dân tộc, gây thù hằn giữa nhân dân các nước, làm tổn hại tình hữu nghị giữa nhân dân nước ta với nhân dân các nước bạn, không được tuyên truyền cho chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, không được tuyên truyền cho chủ nghĩa đế quốc, không được tuyên truyền chiến tranh. d) Không được tiết lộ bí mật quốc gia: Những bí mật quốc phòng, những hội nghị cơ mật chưa được công bố chính thức của cơ quan có trách nhiệm, những vụ án đang điều tra chưa xét xử, những bản án mà toà án không cho phép công bố, những tài liệu, số liệu và những cơ sở kiến thiết về kinh tế tài chính mà Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước hoặc các cơ quan có thẩm quyền chưa công bố. e) Không được tuyên truyền dâm ô, truỵ lạc, đồi bại. Điều 10 Báo nào đăng bài vu khống, xúc phạm đến danh dự của một tổ chức hay một cá nhân, thì đương sự có quyền yêu cầu báo ấy cải chính hoặc đăng bài cải chính của đương sự; ngoài ra, đương sự có quyền yêu cầu toà án xét xử. Điều 11 Trước khi phát hành, các báo chí phải thi hành thể lệ nộp lưu chiểu. Điều 12 Không được phát hành và in lại những báo chí mà cơ quan chính quyền đã có quyết định thu hồi. CHƯƠNG III ĐIỀU KHOẢN THI HÀNH MỤC I- QUY ĐỊNH VỀ KỶ LUẬT. Điều 13 Báo chí nào vi phạm điều 8, sẽ bị trừng phạt: Tịch thu ấn phẩm, đình bản vĩnh viễn và truy tố trước toà án, sẽ bị phạt tiền từ mười vạn đồng (100.000 đồng) đến năm mươi vạn đồng (500.000 đồng), hoặc người có trách nhiệm bị phạt tù từ 1 tháng đến 1 năm, hoặc cả hai hình phạt đó. Báo chí nào vi phạm điều 9 hoặc điều 12 sẽ bị trừng phạt: tuỳ theo lỗi nặng nhẹ mà bị cảnh cáo, tịch thu ấn phẩm, đình bản tạm thời, đình bản vĩnh viễn, hoặc bị truy tố trước toà án, có thể bị phạt tiền từ mười vạn đồng (100.000đ) đến một triệu đồng (1.000.000đ), hoặc người chịu trách nhiệm bị phạt tù từ một tháng đến hai năm, hoặc cả hai hình phạt đó. Nếu xét đương sự phạm vào những luật lệ khác, toà án sẽ chiếu theo những luật ấy mà trừng phạt thêm. Báo chí nào vi phạm điều 10, sẽ bị trừng phạt: tuỳ theo lỗi nặng nhẹ mà cảnh cáo, đình bản tạm thời, hoặc bị truy tố trước toà án, có thể bị phạt tiền từ năm vạn đồng (50.000đ) đến hai chục vạn đồng (200.000đ). Báo chí nào vi phạm điều 11, sẽ bị cảnh cáo hoặc tịch thu ấn phẩm. Điều 14 Trong mỗi trường hợp vi phạm, chủ nhiệm và chủ bút của tờ báo chịu trách nhiệm chính; quản lý và người viết bài cũng phải liên đới chịu trách nhiệm về phần mình. Nếu in những báo chí đã có lệnh tịch thu, đình bản và những báo chí chưa có giấy phép thì chủ nhà in cũng phải liên đới chịu trách nhiệm. MỤC II- ĐIỀU KHOẢN CHUNG Điều 15 Các điều khoản trong sắc lệnh này áp dụng cho tất cả các ấn phẩm có tính chất báo chí, tập san viết bằng tiếng Việt; hoặc bằng tiếng nước ngoài, kể cả các hoạ báo, xuất bản đều kỳ và không đều kỳ, trên lãnh thổ nước Việt nam dân chủ cộng hoà, ra từng tờ hoặc đóng thành từng tập, từng quyển, in bằng máy, bằng rô-nê-ô, in đá, in thạch, bán hoặc phát không, lưu hành ngoài nhân dân hoặc trong từng ngành, từng tổ chức. Điều 16 Tất cả các báo chí đã xuất bản trước ngày ban sắc lệnh này thì không phải xin phép nữa. Những báo nào chưa làm đúng thủ tục khai báo thì nay phải khai báo lại cho đúng. Điều 17 Những luật lệ và báo chí đã ban hành từ trước đến nay trái với các điều khoản ghi trong sắc lệnh này đều bãi bỏ. Điều 18 Thủ tướng Chính phủ sẽ quy định những tiết thi hành sắc lệnh này. Điều 19 Thủ tướng Chính phủ, các ông Bộ trưởng Bộ Nội vụ, Bộ trưởng Bộ tư pháp, Bộ trưởng Bộ Công an chịu trách nhiệm thi hành sắc lệnh này. CHỦ TỊCH NƯỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ   CHỦ TỊCH NƯỚC   (Đã ký) Hồ Chí Minh   3. Báo chí Việt Nam hiện nay Và từ đó đến nay, báo chí Việt Nam luôn được tôn trọng quyền tự do. Quyền đó được quy định trong điều 2, luật báo chí Việt Nam (được công bố theo Lệnh số 05 L/CTN ngày 26/6/1999 của Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) có quy định rõ: “Điều 2. Bảo đảm quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí: Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi để công dân thực hiện quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí và để báo chí phát huy đúng vai trò của mình. Báo chí, nhà báo hoạt động trong khuôn khổ pháp luật và được Nhà nước bảo hộ; không một tổ chức, cá nhân nào được hạn chế, cản trở báo chí, nhà báo hoạt động. Không ai được lạm dụng quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí để xâm phạm lợi ích của Nhà nước, tập thể và công dân. Báo chí không bị kiểm duyệt trước khi in, phát sóng”. Các nhà khoa học đã viết bài phê phán những quan điểm sai trái của các thế lực thù địch. Hội đồng Lý luận Trung ương đã tập hợp những bài viết đó và phối hợp với Nhà Xuất bản Chính trị quốc gia xuất bản cuốn sách "Lẽ phải của chúng ta". Báo Sài Gòn Giải Phóng trích đăng bài của Tiến sĩ Hồng Vinh. Sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, đặc biệt từ khi nước ta tiến hành sự nghiệp đổi mới, báo chí Việt Nam đã có bước phát triển nhanh chóng về số lượng và chất lượng. Hiện nay, nước ta đã có tất cả các loại hình báo chí (báo viết, báo nói, báo hình, báo điện tử). Cả nước hiện có hơn 550 cơ quan báo chí, với 713 ấn phẩm báo chí, bình quân 7,5 bản báo đầu người/năm. Đài Tiếng nói Việt Nam đã có 6 hệ chương trình, 452 chương trình, thời lượng phát sóng 172 giờ trong ngày. Sóng phát thanh không chỉ đã phủ trong toàn quốc, mà còn tỏa khắp năm châu, đáp ứng nhu cầu tinh thần của hàng triệu đồng bào sống ở nước ngoài và bầu bạn thế giới. Cùng với 11 trạm phát sóng và phát qua vệ tinh của Đài Tiếng nói Việt Nam, còn có 64 đài tỉnh, thành phố, 606 đài phát thanh truyền hình cấp huyện, trong đó có 288 đài phát sóng FM. Đài Truyền hình Việt Nam có 5 kênh, phủ sóng đến 85% hộ gia đình Việt Nam, có 4 đài khu vực và 61 đài phát thanh, truyền hình tỉnh và thành phố. Trong những năm gần đây, đài đã có chương trình VTV4 phủ sóng đến nhiều vùng trên thế giới, được cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài và bầu bạn năm châu đón nhận và hoan nghênh. Mặc dù mới được phát triển trong mấy năm gần đây, báo điện tử đã có bước phát triển nhanh chóng với tốc độ tăng 32,5%/năm. Hiện nay ở nước ta đã có hơn 70 tờ báo điện tử và hàng ngàn trang thông tin điện tử; 6 nhà cung cấp dịch vụ và kết nối Internet; 20 nhà cung cấp dịch vụ Internet và hơn 50 nhà cung cấp thông tin và báo điện tử trên Internet… Báo chí nước ta đã là món ăn tinh thần không thể thiếu được của các tầng lớp nhân dân; thực sự đến với nhiều đối tượng trở thành người bạn thân thiết hằng ngày của họ. Đó là vì báo chí là tiếng nói của Đảng, Nhà nước, đoàn thể chính trị, tổ chức xã hội, nghề nghiệp, tiếng nói của nhân dân,…; đồng thời là bầu bạn tin cậy của các tầng lớp nhân dân, đã và đang đáp ứng quyền được cung cấp thông tin của đông đảo cán bộ, nhân dân. Báo chí Việt Nam có quyền đề cập tất cả các vấn đề mà pháp luật không cấm. Pháp luật chỉ cấm báo chí tuyên truyền kích động bạo lực, kích dục, tuyên truyền cho chiến tranh, gây chia rẽ đoàn kết dân tộc. Đây là điều cần thiết với tất cả các nước tiến bộ trên thế giới, mong muốn xây dựng một xã hội hòa bình, ổn định, vì hạnh phúc của nhân dân. Báo chí Việt Nam đã tích cực tham gia đấu tranh chống tiêu cực, tham nhũng, quan liêu, phát hiện những việc làm trái với pháp luật, đi ngược lại lợi ích của nhân dân. Báo chí tham gia xây dựng đời sống mới, đấu tranh với những hủ tục, những tệ nạn xã hội. Báo chí ngày càng tham gia rộng rãi vào việc xây dựng Đảng, chính quyền các cấp trong sạch, vững mạnh. Tại Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 (lần 2), khóa VIII, Đảng ta đã coi báo chí là công cụ giám sát các hoạt động của tổ chức Đảng và cơ quan nhà nước, phát hiện và phê phán cán bộ, đảng viên thoái hóa biến chất, có biểu hiện tiêu cực, tham nhũng, quan liêu… Có thể đi đến kết luận là, báo chí và hoạt động báo chí ở Việt Nam, ngay từ khi mới ra đời, đã hoạt động vì mục tiêu độc lập dân tộc và hạnh phúc của nhân dân. Đó chính là nội dung cốt lõi của tự do báo chí ở nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Luật Báo chí Việt Nam khẳng định báo chí không chỉ là cơ quan của Đảng, Nhà nước, đoàn thể chính trị và tổ chức xã hội, nghề nghiệp,... mà còn là diễn đàn tin cậy của người dân. Nhân dân có quyền bày tỏ ý kiến của mình qua các phương tiện báo chí. Hàng triệu bài, tin gửi cho các báo về nhiều chủ đề liên quan đến các mặt thiết thực của đời sống nhân dân; thông qua chuyên mục “Ý kiến bạn đọc”, nhiều ý kiến rất phong phú của các tầng lớp nhân dân được phản ánh trên nhiều tờ báo, là sự thể hiện sinh động quyền tự do ngôn luận của mỗi người dân. Luật Báo chí của Việt Nam ghi rõ hai điều rất quan trọng: Điều 4: Quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí của công dân. Công dân có quyền: 1- Được thông tin qua báo chí về mọi mặt của tình hình đất nước và thế giới; 2- Tiếp xúc, cung cấp thông tin cho cơ quan báo chí và nhà báo; gửi tin, bài, ảnh và tác phẩm khác cho báo chí mà không chịu sự kiểm duyệt của tổ chức, cá nhân nào và chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung thông tin; 3- Phát biểu ý kiến về tình hình đất nước và thế giới; 4- Tham gia ý kiến xây dựng và thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; 5- Góp ý kiến, phê bình, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo trên báo chí đối với các tổ chức của Đảng, cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội và thành viên của các tổ chức đó. Điều 5: Trách nhiệm của báo chí đối với quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí của công dân. Cơ quan báo chí có trách nhiệm: l) Đăng, phát sóng tác phẩm, ý kiến của công dân; trong trường hợp không đăng, phát sóng phải trả lời và nói rõ lý do; 2) Trả lời hoặc yêu cầu tổ chức, người có chức vụ trả lời bằng thư hoặc trên báo chí về kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của công dân gửi đến. Như vậy, dù với động cơ nào, người ta không thể bưng tai, nhắm mắt phủ nhận pháp luật Việt Nam về tự do hoạt động báo chí; phủ nhận tính dân chủ, văn minh của báo chí Việt Nam trong thời đại ngày nay. Thực tế quản lý hoạt động báo chí bằng pháp luật ở Việt Nam đã thể hiện tự do báo chí của Việt Nam. Trong một xã hội dân chủ, tự do của người này không thể làm mất tự do của người khác. Những hành động liên kết với nhau để vụ lợi, trái với quy ước đạo đức nghề nghiệp báo chí, đều bị xử lý, dù người đó đang giữ trọng trách cao trong cơ quan của Đảng, Nhà nước. Những tờ báo hoạt động xâm hại tôn chỉ, mục đích, gây tác động xấu đối với xã hội đều bị xử phạt theo các quy định của pháp luật. Để nâng cao chất lượng hoạt động báo chí của các nhà báo, Nhà nước Việt Nam đã lập ra các trường đại học báo chí, đào tạo nhà báo với trình độ đại học và cao học. Hàng năm có hàng trăm nhà báo ra trường, có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cao, có năng lực và ý thức trách nhiệm xã hội. Các trường đào tạo nhà báo ở Việt Nam đã có sự hợp tác, liên kết với các trường đại học báo chí của Pháp và một số nước phương Tây để bồi dưỡng, trao đổi kinh nghiệm làm báo. Việt Nam đã cử hàng trăm nhà báo đi bồi dưỡng nghiệp vụ báo chí tại các trường đại học ở Mỹ, Pháp, Đức, Thụy Điển, Nga,... Báo chí Việt Nam không đóng cửa, biệt lập với thế giới, mà luôn luôn mở rộng quan hệ với các đồng nghiệp ở nhiều nước. Để bảo vệ quyền lợi của các nhà báo, giúp nhau bồi dưỡng nghiệp vụ báo chí, Việt Nam đã có Hội Nhà báo toàn quốc và các hội địa phương, thu hút hơn 12.000 nhà báo là hội viên. Hội Nhà báo Việt Nam là thành viên của Hội Nhà báo quốc tế (OIJ) và Liên đoàn Báo chí ASEAN (CAJ) trong nhiều năm qua, tham gia tích cực và đóng góp xứng đáng vào sự phát triển của báo chí khu vực và thế giới, vì mục tiêu hòa bình, ổn định, tiến bộ và thịnh vượng. Vậy là, sự quản lý báo chí bằng pháp luật ở Việt Nam không phải là sự cản trở quyền tự do báo chí của người dân cũng như những hoạt động báo chí của các nhà báo. Việt Nam đã mở cửa trong hoạt động báo chí với bên ngoài để góp phần nâng cao trình độ báo chí của mình, đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, mở cửa, hội nhập, giao lưu kinh tế, văn hóa với bầu bạn bốn phương. Có ý kiến cho rằng, có báo tư nhân mới là biểu hiện cụ thể của tự do báo chí. Phải khẳng định rằng không có báo chí tư nhân thì không thể quy chụp là không có “tự do báo chí”. Những người làm báo Việt Nam đã và đang phấn đấu vì sự nghiệp độc lập dân tộc và tự do, hạnh phúc của nhân dân. Những tờ báo hiện nay của các cơ quan Đảng, nhà nước, đoàn thể chính trị, xã hội, tổ chức nghề nghiệp đã phản ánh đầy đủ những ý kiến, nguyện vọng chính đáng của các tầng lớp nhân dân. Vì vậy, vấn đề ra báo tư nhân hiện nay là không cần thiết. Những kiến nghị của họ đã được công luận phản ánh đầy đủ và được Đảng, Nhà nước tiếp thu, trả lời qua báo, đài. Đó là sự thể hiện quyền được thông tin cũng như quyền ngôn luận của nhân dân. Mặt khác, thực tiễn việc ra đời báo tư nhân ở nhiều nước gây nhiễu thông tin, thậm chí làm vô hiệu hóa sự lãnh đạo của chính quyền, dẫn đến sự rối loạn chính trị-xã hội ở nhiều nước vốn quảng cáo rầm rộ cho cái gọi là “tự do báo chí” đã là bài học thấm thía cho nhân dân ta. Có lẽ nào, chúng ta lại trượt theo vết xe đổ ấy. Sở dĩ có đòi hỏi vô lý trên, có nguyên nhân từ nhận thức mơ hồ về quyền tự do báo chí và nhiệm vụ của báo chí Việt Nam. Do hiểu phiến diện hoặc cố tình hiểu sai về tự do báo chí, họ đã ra công cổ súy, đấu tranh đòi “tự do báo chí” theo kiểu phương Tây, coi đó là biểu hiện của "tinh thần dân chủ”, tự phong cho mình là “người hăng hái đấu tranh cho dân chủ”. Song, họ không hiểu rằng dân chủ là một thể chế, trong đó quyền tự do báo chí của người này không được làm tổn hại đến quyền tự do của người khác, đến lợi ích của toàn dân tộc. Sự sụp đổ mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu có sự góp phần của những tờ báo theo khuynh hướng "tự do báo chí” kiểu phương Tây đó. Mặt khác, trong một số ít người, tư tưởng nêu trên xuất phát từ những toan tính liên quan đến lợi ích, quyền lực, động cơ cá nhân; từ sự bất mãn của họ với Đảng và Nhà nước. Họ luôn luôn đặt lợi ích cá nhân lên trên lợi ích của đất nước; chính vì thế, họ có những ý kiến lạc lõng, cực đoan, phản lại quyền lợi của dân tộc. Trong số những người cơ hội chính trị, có người đã thực sự đối lập với lợi ích Tổ quốc, liên kết những phần tử bất mãn ở bên trong cùng với thế lực xấu ở bên ngoài để dùng báo chí chống phá sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta. Họ quay lưng lại với quá khứ vẻ vang, hào hùng của toàn dân tộc, trong đó có sự đóng góp nào đó của gia đình và bản thân họ. Những bài báo, những hồi ký của họ đầy rẫy sự xuyên tạc, vu cáo hèn hạ, bêu riếu những người dân nước Việt đang ngày đêm cần cù lao động sáng tạo, chắt chiu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, tất cả vì mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh". Thật trớ trêu khi họ cho rằng, nếu chúng ta không có tự do báo chí như họ mong muốn, thì "đất nước này vẫn không thể cất đầu lên được", vẫn "sống trong vòng lạc hậu tối tăm" (!). Những người nuôi dã tâm xấu xa đó không có quyền nói đến “tự do báo chí”, theo nghĩa chân chính nhất của từ này. Tự do báo chí cho ai, vì ai? Câu hỏi lớn đó đã được thực tiễn đổi mới đất nước nói chung và thực tiễn đổi mới báo chí nói riêng trong gần 20 năm qua cùng thực tiễn trên thế giới ngày nay cho ta câu trả lời rành rọt. Thực tiễn luôn luôn là tiêu chuẩn của chân lý. Nhận thức đúng xu thế tiến lên của dân tộc, trong đó có hoạt động rất sôi động và hiệu quả của báo chí cách mạng Việt Nam, chúng ta sẽ có cái nhìn đúng đắn về Việt Nam trong tiến trình đổi mới. 4. Nhìn thẳng về báo chí Việt Nam và báo chí TBCN (Mỹ làm đại diện) Bàn về vấn đề tự do báo chí trong khi bom đạn đang giết chết nhiều người dân vô tội ở Iraq, ông Đỗ Phượng - nguyên Uỷ viên Trung ương đảng, nguyên Tổng giám đốc TTXVN cho rằng, khái niệm tự do kiểu phương Tây mới chỉ được cắt nghĩa ở cái ngọn, mà không giải thích được quyền tự do lớn nhất của một quốc gia, dân tộc là quyền sống trong độc lập đang bị vùi dập bằng sự hủy diệt của bom đạn cường quyền. Có tới hai nghìn nhà báo được Bộ Tư lệnh quân đội Mỹ cấp thẻ phóng viên chiến trường. 500 người được "tập huấn" như những chiến binh thực thụ. Họ được tập trung tại căn cứ tiền phương ở Kuwait và Qatar. Giới báo chí được chuẩn bị dài ngày như một cuộc biểu dương lực lượng cho "tự do thông tin- tự do báo chí" trong chiến tranh tổng lực của đội quân viễn chinh có sức tiến công và kỹ thuật cao ở đầu thế kỷ 21. Cùng với văn phòng báo chí tại Qatar, một trung tâm báo chí tạm thời thành lập ở Kuwait có nhiều sĩ quan cấp tá thường xuyên liên hệ và tạo điều kiện cho các nhà báo hoạt động. Mọi sự chuẩn bị làm cho dư luận hiểu rằng: Sẽ không có độc quyền và bưng bít thông tin như chiến tranh vùng Vịnh hơn 10 năm trước! Người ta chờ đợi sự bùng nổ tự do thông tin ngay khi cuộc chiến tranh chống nhân dân Iraq bắt đầu. Sáng 20-3, nhận hai thông tin chính thức: chiến tranh đã bắt đầu bằng cuộc tiến công trúng mục tiêu của máy bay và tên lửa xuống Baghdad. Nhiều nhà lãnh đạo Iraq đã bị tử thương, S.Hussein cũng nằm trong số đó. Tổng thống Iraq đã không chạy thoát những trái bom và cả tên lửa "siêu thông minh" trúng nơi ông đang ngủ. Các nhà báo có mặt ở Bagdad và đài truyền hình Iraq đã phát đi những thông tin ngược lại. Vài ngày liền, thông tin chính thức được phát đi theo đúng kịch bản "cuộc chiến tranh 72 giờ". Cùng với những "cú sốc kinh hoàng" và chiến dịch "Iraq tự do", dường như các thành phố, cảng biển, căn cứ chỉ huy và các đơn vị mạnh của lực lượng Vệ binh cộng hòa của Iraq đã bị chiếm đóng và tiêu diệt đúng theo bản đồ quân sự đã được ghi chú sẵn theo kế hoạch (!) Chưa tới 72 giờ, chỉ sang ngày thứ ba của cuộc chiến, các tư lệnh chiến trường, kể cả Tổng chỉ huy quân Mỹ, ngay tại trung tâm báo chí ở Qatar và Kuwait đã không ít lần phải bổ sung thông tin, thông tin lại và nói với các nhà báo: "Xin hãy chờ xem". Có nhà báo bị mắc kẹt tại chiến tuyến, liên hệ với các sĩ quan liên lạc của trung tâm báo chí mong được giúp đỡ nhưng chỉ nhận được những hứa hẹn mơ hồ: "Xin chờ đợi, tình hình sẽ sớm sáng sủa". Một màn kịch vụng về của chiến tranh thông tin là hình ảnh hàng đoàn binh lính Iraq đầu hàng được chiếu trên màn ảnh máy thu hình. Một cựu binh Mỹ trong chiến tranh Việt Nam vừa xem đã nói ngay: Ðúng là một vở diễn, không có bối cảnh chiến tranh, mọi thứ như sắp đặt sẵn! Một nhân vật gần gũi với sở chỉ huy Mỹ ở Qatar tiết lộ: Băng hình đã có sẵn từ trước khi phát lệnh nổ súng. Ấy vậy mà khi đài truyền hình Iraq và một số đài nước ngoài truyền đi hình ảnh những tù binh Mỹ đang trả lời phỏng vấn và các phi công Mỹ bị dân quân Iraq bắt, thì ngay lập tức người Iraq bị kết tội "vi phạm Công ước quốc tế đối với tù binh". Và, có lẽ "vận dụng" Công ước quốc tế không mấy hiệu quả, cho nên ngày 25-3, đài truyền hình Iraq đã bị dội bom không dưới ba lần! Thực tế của cuộc chiến tranh do nhà cầm quyền Mỹ, Anh phát động đã bị sự phê phán mạnh mẽ của cả thế giới. Phân nửa số người Mỹ không tán thành chiến tranh, tới 70% người dân Anh cũng không ủng hộ chính sách tham chiến của chính phủ nước họ. Ðiều rõ ràng là hãng CNN, đài tiếng nói Hoa Kỳ và đài BBC đã theo sát các nguồn tin của cơ quan chỉ huy liên quân Anh-Mỹ. Vậy mà, người ta đã không tiếc lời thuyết minh về tự do báo chí, tự do ngôn luận như biểu tượng văn hóa Mỹ! Ở nước tự cho mình cái quyền hướng dẫn các quốc gia, dân tộc về quyền con người, về tự do dân chủ, tự do ngôn luận, tự do báo chí, lại cho mình quyền tự ý kết tội, trừng phạt các quốc gia, dân tộc theo chuẩn mực của riêng họ. Các ông Hans Blix và Baradei với một đội ngũ chuyên gia quốc tế thanh sát Iraq một thời gian dài chỉ có thể kết luận: Iraq hợp tác chặt chẽ, chưa có điều gì chứng minh họ đang sản xuất, nhập khẩu và tàng trữ vũ khí giết người hàng loạt, cần có thêm thời gian cho công việc thanh sát. Ðại đa số thành viên Hội đồng Bảo an LHQ tán thành đề nghị của hai ông. Nhưng nhà cầm quyền Mỹ, Anh đã bất chấp tất cả, đơn phương quyết định dùng vũ lực tiến công Iraq. Phải chăng họ đang nhân danh những giá trị dân chủ, nhân quyền kiểu Mỹ, đem các loại vũ khí siêu hiện đại, có sức tàn phá, khả năng hủy diệt rất lớn để gây tang tóc đến cho nhân dân của một đất nước chịu đựng 12 năm cấm vận, với một đội quân mà tổng hỏa lực, trang bị thua xa dù chỉ so với một hàng không mẫu hạm của Mỹ. Những kế hoạch "cú sốc khủng khiếp" đến "diệt gọn mọi ổ đề kháng cuối cùng", "chính phủ không có Saddam được quân đội quốc tế (Mỹ, Anh) làm chỗ dựa", "dự án 5 năm khôi phục và xây dựng lại Iraq tự do bởi chính hơn 10 tập đoàn, công ty Mỹ đã bỏ thầu", "số tiền cứu hộ nhân đạo đầu tiên sẽ là mấy tỷ USD của Iraq đang giữ ở các ngân hàng nước ngoài", v.v. Quả thật, khó ai có thể nghĩ ra nổi những bước đi được tính tới từng chi tiết đến như vậy. Từ những gì đang diễn ra ở Iraq, người ta càng nhận rõ tính chất phi lý của những cái gọi là bản tổng kết, bản báo cáo, đôi khi cả nghị quyết hằng năm được phát đi từ Washington bình phẩm, lên án, tính điểm việc này, việc nọ ở các quốc gia trên khắp các lục địa, trong đó có Việt Nam, khi thì về "nhân quyền", khi thì về "tự do tôn giáo", "tự do báo chí", "tự do ngôn luận"... Mấy năm gần đây, lời lẽ của họ cũng có cung bậc cao thấp khác nhau, bởi vì họ không thể phủ nhận được thực tế ở Việt Nam quyền con người chẳng những được Hiến pháp, pháp luật khẳng định, bảo vệ mà còn được thực thi ngày càng tốt hơn trên thực tế. Tuy nhiên, những kẻ ăn theo, bảo hoàng hơn chủ, tiếp tục la lối về cái gọi là tự do ngôn luận, tự do báo chí, đòi hỏi chỉ có tư nhân hóa báo chí mới có báo chí tự do. Thật ra, đó là những người cố tình không hiểu gì về những phát triển vượt bậc của báo chí Việt Nam mà bất cứ ai quan tâm hoặc đã đến Việt Nam đều thừa nhận. Không chỉ là sự phát triển về số lượng, về kỹ thuật mà quan trọng hơn là những tiến bộ không ngừng về nội dung, chất lượng, về đội ngũ những người làm báo, về sự đóng góp to lớn của họ trong tổng hợp tiếng nói từ thực tiễn, của mọi tầng lớp nhân dân đề xuất và hoàn thiện chính sách, pháp luật, cải cách hành chính, cải cách tư pháp, phục vụ sự nghiệp đổi mới, phục vụ chính sách đối ngoại và gần nhất chính là đường lối phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo... Ai mà chẳng biết rằng, ở Việt Nam, hàng chục hiệp hội có báo, tạp chí, tập san hoặc bản tin định kỳ của mình. Ðường dây nóng trực tiếp ghi nhận các ý kiến của người dân được công khai ghi trên trang nhất của hàng chục tờ báo. Loại hình báo chí, chủ đề trên báo ngày càng rộng mở vì sự nghiệp đổi mới, vì xóa đói, giảm nghèo, vì làm giàu cho mỗi người và đất nước, vì sự công bằng và dân chủ. Hơn 90% báo chí Việt Nam không nhận trợ cấp của Nhà nước. Ðoàn thể, hiệp hội cử ra tổng biên tập và tổng biên tập chịu trách nhiệm trước pháp luật và trước những người bổ nhiệm họ về hoạt động của mình. Không ai can thiệp và có quyền duyệt nội dung bài viết và hình ảnh báo chí sử dụng. Ðương nhiên, mỗi tờ báo đều thể hiện tôn chỉ, điều lệ và quyền lợi của tổ chức của họ. Cũng khó mà so sánh với bất cứ ai. Mỗi đất nước đều có pháp luật riêng, mỗi cơ quan báo chí đều có truyền thống, văn hóa, quy chế của riêng mình. Ta có nhiều dịp tiếp xúc, tìm hiểu và học tập được nhiều điều hay của các loại hình báo chí thế giới. Ta từng biết một cơ quan báo chí tư nhân có thâm niên hàng đầu thế giới, có khối lượng thông tin đồ sộ và sinh ra ở một đất nước khai sinh ra nền dân chủ tư sản. Vậy mà cơ quan báo chí đó đã trải qua những tháng ngày không có chủ tịch, tổng giám đốc. Một hãng báo chí tư nhân ở một nước lớn mà khi Tổng thống và Thủ tướng nước đó có đường lối chính trị trái ngược nhau, người ta không thể cử được người đứng đầu của hãng. Thì ra, ngân sách "mua tin" từ Phủ Tổng thống và Phủ Thủ tướng ngang nhau. Và cộng cả hai lại lớn hơn các nguồn thu khác. Thế là đã rõ. Lại nhớ trong những năm chiến tranh cứu nước ác liệt, ta đối chiếu từng bài viết của các tờ báo Mỹ, nhất là giữa hai tờ Newsweek và Time để so sánh những cái đồng nhất và không đồng nhất giữa hai thế lực dân chủ và cộng hòa trong cuộc chiến tranh Việt Nam. Ðương nhiên, ta trân trọng thái độ khách quan trung thực và sự khôn ngoan trong bút pháp của không ít nhà báo Mỹ, song ta rất hiểu thế lực chính trị, tài chính nào đang chi phối từng tờ báo. Vả lại, tại sao khái niệm tự do lại chỉ được cắt nghĩa ở cái ngọn không nhằm nhò gì so với việc quyền tự do lớn nhất của một quốc gia, dân tộc là quyền sống trong độc lập đang bị vùi dập bằng sự hủy diệt của bom đạn cường quyền? KẾT LUẬN Như vậy, những dẫn chứng về sự can thiệp của nhà nước TBCN đối với báo chí khá phong phú. Vẫn còn tồn tại sự can thiệp có nghĩa là sự tự do báo chí ở các nước TBCN vẫn chưa hoàn toàn. Khi đúc kết báo chí xã hội TBCN, Lê Nin đã nói rằng: “ Tự do báo chí trong xã hội TBCN là tự do mua bán, trao đổi, chế biến thông tin phục vụ cho lợi ích của nhà cầm quyền”. Tự do báo chí trong xã hội TBCN chỉ là “ huyền thoại” mà thôi. Tóm lại, chúng ta cần hiểu thật rõ rằng truyền thông có thể là công cụ để bảo vệ chế độ (độc tài lẫn dân chủ), và ngược lại, nó cũng là phương tiện để thay đổi chế độ đó. Hầu hết chúng ta, không loại trừ ai, đều ít hay nhiều chịu ảnh hưởng của truyền thông. Đối với mỗi một cá nhân, chọn một hay nhiều phương tiện truyền thông “thích hợp” với mình để theo dõi, thu nhận thông tin và từ đó nghe theo hay tự đi đến kết luận cho chính mình về các vấn đề khác nhau. Khi có những thông tin sai lệch, hay vì thiếu dữ kiện, hay vì có thói quen dựa vào quan điểm của người khác thì cái nhìn của ta về các vấn đề đó cũng sẽ bị thiên lệch, sai sót. Ngoài ra, một khi truyền thông, hay nói đúng hơn, một khi các chủ nhân sở hữu các phương tiện truyền thông, đồng loã với chính quyền hay một số thành phần chính trị nào đó, vì quyền lợi hay vì ý thức hệ, thì sự thông tin sai lệch từ các cơ quan truyền thông này cũng sẽ dẫn chúng ta đi lầm đường lạc lối. Truyền thông đại chúng đóng vai trò quan trọng và chủ yếu trong việc rút ngắn thời gian cần thiết để giáo dục đại chúng một cách nhanh chóng, thay đổi nhận thức và ý thức mới. Trong khi đó giáo dục phải cần một hay nhiều thế hệ mới đào tạo được những con người mới. Trong truyền thông, tiêu chuẩn tối ưu là chính xác, trung thực, khách quan và nhanh chóng, và để làm được việc đó thì chúng ta cần những người có tài lẫn tâm (lương thiện trong nghiệp vụ). Nói tóm lại, không thể có một nền chính trị dân chủ đích thực nếu không có một nền truyền thông tự do và giá trị đích thực. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Blumler, Jay G., and Kavanagh, Dennis, The Third Age of Political communication: Influences and Features, Political Communication, Vol. 16, 1999. Trang 209-230. 2. Schultz, Julianne, Reviving the Fourth Estate. Democracy, Accountability and them media, Cambridge University Press, Cambridge, 1998. Trang 81. 3. Karol Jakubowicz, From party propaganda to corporate speech? Polish journalism in search of a new identity. Journal of Communication, Vol. 42, N3 (Summer 1992). Trang 64-73. 4. Street, John, Mass Media, Politics and Democracy, Palgrave, 2001. Trang 236. 5. Ward, Ian, Politics of the Media, Macmillan, South Yarra, 1995. Trang 82 6. John Steven, "Tự do ngôn luận: thước đo mới" phương tiện thông tin đại chúng và kinh nghiệm quốc gia, NewYork, 1971. Trang 14-37 (tự dịch) 7. Noam Chomsky, Media control - The spectacular achievements of propaganda, Pennsylvania, 1957 (tự dịch) 8. Fredrick Seaton Siebert, Freedom of the Press in England, 1476-1776: The Rise and Decline of Government Control. 9. E. Malcolm Hause, The Western Political Quarterly, Vol. 19, No. 1 (Mar., 1966), Trang 201-202. 10. Zhanna Seitzhanov, TYPOLOGY OF MODERN PRESS, bài giảng của Hội đồng truyền thông của Kazakhstan. 11. Pierre Albert, Lịch sử báo chí, NXB Thế giới, 2003, Hà Nội 12. Bogdanov N. G., Viazemskii B. А. Leninizdat, Directory of the journalist, 1971. 13. Sibert F., Shram U., Piterson Т. М, Four theories of press, 1998. 14. Theory and practice of the Soviet periodic press, Pelta V. D. М, 1980. 15. Shkondin М. V, Press: bases of organisation and management, 1982 16. X.A.Mikhailốp, Báo chí hiện đại nước ngoài: những quy tắc và nghịch lý, NXB Thông tấn, 2004, Hà Nội. 17. Website: vietmedia.com 18. Website: Tuanvietnam.net 19. Website: BBC.co.uk 20. Website: nghebao.com 21. Các văn bản luật báo chí, đạo đức báo chí. MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTBC 105.doc