Đề tài Sự cần thiết của marketing địa phương trong việc thu hút đầu tư tại các địa phương ở Việt Nam hiện nay

KẾT LUẬN Qua những phân tích ở trên ta có thể phần nào thấy được tầm quan trọng của hoạt động marketing trong việc phát triển kinh tế của địa phương. Marketing địa phương không phải chỉ là việc làm của các cấp lãnh đạo địa phương mà mọi người dân của địa phương đó, không kể đang sống tại địa phương đó hay địa phương khác đều có thể trở thành những tác nhân tích cực giúp quảng bá thương hiệu của địa phương mình

doc28 trang | Chia sẻ: ndson | Lượt xem: 1267 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Sự cần thiết của marketing địa phương trong việc thu hút đầu tư tại các địa phương ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC LỜI NÓI ĐẦU Trong thời đại ngày nay, hoạt động Marketing không chỉ dừng lại ở phạm vi doanh nghiệp, một ngành nghề, hay một lĩnh vực hoặc sản phẩm nào đó, mà nó đang đuợc phát triển ngày càng tăng mạnh mẽ trong phạm vi một vùng, khu vực, địa phương và quốc gia. Các địa phương ngày nay phải tự thân vận động như một doanh nghiệp theo định hướng thị trường. Các nhà lãnh đạo cần biết xây dựng địa phương mình thành một sản phẩm hấp dẫn, đồng thời cần biết cách quảng bá các nét đặt thù của “sản phẩm” này một cách hiệu quả đến các thị trường mục tiêu của mình. Chiến lược Marketing đòi hỏi địa phương không chỉ nắm vững nhu cầu của khách hàng mà còn hiểu biết sâu sắc các quy trình ra quyết định của khách hàng để có giải pháp thích hợp thu hút khách hàng về với địa phương. Marketing ở đây được hiểu với ý nghĩa rộng nhất. Các nhà đầu tư trong và ngoài nước, các nhà nhập khẩu, các cư dân, khách du lịch, các tổ chức chỉ đến những nơi chào mời đúng cái mà họ cần. “Tương lai phát triển các địa phương không tùy thuộc vào vị trí địa lý, khí hậu, tài nguyên thiên nhiên. Tương lai phát triển của địa phương tùy thuộc vào chuyên môn, kỹ năng đóng góp, phẩm chất của con người và tổ chức tại địa phương” (Philip Kotler). Xuất phát từ nhận thức như trên, em quyết định chọn đề tài “Sự cần thiết của marketing địa phương trong việc thu hút đầu tư tại các địa phương ở Việt Nam hiện nay”. Do sự hạn chế trong kiến thức và kinh nghiệm nên đề tài không tránh khỏi những thiếu sót. Mong cô giáo có những ý kiến đóng góp để cho đề tài này được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn! CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ MARKETING ĐỊA PHƯƠNG 1.1. Khái niệm marketing và marketing địa phương. 1.1.1. Những khái niệm cốt lõi của marketing. Hiện nay do có nhiều tài liệu viết về marketing đang được sử dụng rộng rãi nên cũng có rất nhiều cách định nghĩa về Marketing khác nhau. Marketing là quá trình tổ chức lực lượng bán hàng nhằm bán được những hàng hóa do công ty sản xuất ra. Marketing là quá trình quảng cáo và bán hàng. Marketing là quá trình tìm hiểu và thỏa mãn nhu cầu của thị trường. Hay marketing là làm thị trường, nghiên cứu thị trường để thỏa mãn nó. Chúng ta cũng có thể hiểu rằng marketing là các cơ chế kinh tế và xã hội mà các tổ chức và cá nhân sử dụng nhằm thỏa mãn nhu cầu và mong muốn của mình thông qua quy trình trao đổi sản phẩm trên thị trường… Các định nghĩa đó không khác nhau lắm và cũng không có định nghĩa nào được coi là duy nhất đúng bởi lẽ mỗi tác giả đều có quan điểm riêng của mình và cũng bởi marketing luôn biến đổi theo điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội… Theo Philip Kotler thì marketing được hiểu như sau: “Marketing là một hoạt động kinh doanh nhằm đáp ứng nhu cầu và mong muốn của khách hàng bằng phương thức trao đổi”. Hay nói cách khác “Marketing là một quá trình quản lý mang tính xã hội, nhờ đó mà các cá nhân và tập thể có được những gì họ cần và mong muốn thông qua việc tạo ra, chào bán và trao đổi những sản phẩm có giá trị với những người khác”. Đây là một trong những định nghĩa đơn giản nhất và dễ hiểu nhất về marketing, mà vẫn nêu rõ được nội dung cơ bản của nó là hướng tới việc thoả mãn nhu cầu của người tiêu dùng. Khái niệm này của marketing dựa trên những khái niệm cốt lõi như nhu cầu, mong muốn và yêu cầu, sản phẩm, giá trị, chi phí và sự hài lòng, trao đổi, giao dịch và các mối quan hệ, thị trường, marketing và những người làm marketing. Những khái niệm này được minh hoạ trong hình sau: H.1.1. Những khái niệm cốt lõi của marketing. Nguồn: Quản trị marketing, Philip Kotler. Nhu cầu, mong muốn và yêu cầu. Nhu cầu của con người là một trạng thái cảm giác thiếu hụt một sự thoả mãn cơ bản nào đó. Chúng tồn tại như một bộ phận cấu thành cơ thể con người và nhân thân con người. Những nhu cầu này xã hội hay những người làm marketing không thể tạo ra. Mong muốn là sự ao ước có được những thứ cụ thể để thoả mãn những nhu cầu sâu xa hơn đó. Mặc dù nhu cầu của con người thì ít, nhưng mong muốn của họ thì nhiều. Mong muốn của con người không ngừng phát triển và được định hình bởi các lực lượng và định chế xã hội, như nhà thờ, trường học, gia đình và các công ty kinh doanh. Yêu cầu là mong muốn có được những sản phẩm cụ thể được hậu thuẫn của khả năng và thái độ sẵn sàng mua chúng. Mong muốn trở thành yêu cầu khi có sức mua hỗ trợ. Những người làm marketing không tạo ra nhu cầu, nhu cầu đã tồn tại trước khi có những người làm marketing. Sản phẩm. Người ta thoả mãn những nhu cầu và mong muốn của mình bằng hàng hoá và dịch vụ. Sản phẩm là bất cứ thứ gì có thể đem chào bán để thoả mãn một nhu cầu hay mong muốn, đó có thể là hàng hoá hay dịch vụ. Giá trị, chi phí và sự thoả mãn. Giá trị là sự đánh giá của người tiêu dùng về khả năng chung của sản phẩm thoả mãn những nhu cầu của mình. Chi phí đối với một hàng hoá là tất cả những hao tổn mà người tiêu dùng phải bỏ ra để có đươc những lợi ích do tiêu dùng hàng ngày hàng hoá đó mang lại. Sự thoả mãn là mức độ của trạng thái cảm giác của người tiêu dùng bắt nguồn từ việc so sánh kết quả thu đượ từ việc tiêu dùng sản phẩm với những kỳ vọng của họ. Trao đổi, giao dịch và các mối quan hệ. Trao đổi là hành động tiếp nhận một sản phẩm mong muốn từ một người nào đó bằng cách đưa cho người đó những thứ gì đó. Trao đổi là một khái niệm quyết định, tạo nền móng cho marketing. Trao đổi chỉ xảy ra khi thoả mãn đủ điều kiện sau: Ít nhất phải có hai bên. Mỗi bên phải có một thứ gì đó có thể có giá trị đối với bên kia. Mỗi bên phải có khả năng tự giao dịch và chuyển giao hàng hoá của mình. Mỗi bên đều có quyền tự do chấp nhận hay khước từ lời đề nghị của bên kia. Mỗi bên đều tin chắc là mình nên hay muốn giao dịch với bên kia. Nếu có đủ năm điều kiện này thì mới có tiềm năng trao đổi. Còn việc trao đổi có thực sự diễn ra hay không là còn tuỳ thuộc vào vấn đề hai bên có thể thảo thuận được những điều kiện trao đổi có lợi cho cả hai bên (hay chí ít cũng không có hại) so với trước khi trao đổi. Chính vì ý nghĩa này mà trao đổi được xem như là một quá trình tạo ra giá trị, nghĩa là trao đổi thường làm cho cả hai bên có lợi hơn trước khi trao đổi. Trao đổi phải được xem như là một quá trình chứ không phải là một sự việc. Hai bên được xem như là đã tham gia trao đổi nếu họ đang thương lượng để đi đến một thoả thuận. Khi đạt được một thoả thuận thì ta nói giao dịch đã diễn ra. Giao dịch là đơn vị cơ bản của trao đổi. Giao dịch là một vụ mua bán những giá trị giữa hai bên. Maketing giao dịch là một bộ phận ý tưởng lớn hơn là marketing quan hệ. Những người làm marketing khôn ngoan đều cố gắng xây dựng những quan hệ lâu dài, đáng tin cậy, cùng có lợi với những khách hàng lớn, những người phân phối, đại lý và những người cung ứng. Việc này được thực hiện bằng cách hứa hẹn và luôn đảm bảo chất lượng cao, dịch vụ chu đáo và giá cả phải chăng cho phía bên kia. Nhiệm vụ đó cũng được thực hiện bằng cách xây dựng những mối quan hệ ràng buộc chặt chẽ về kinh tế, kỹ thuật và xã hội với các bên đối tác. Marketing quan hệ sẽ làm giảm được chi phí và thời gian giao dịch và trong những trường hợp tốt đẹp nhất giao dịch sẽ làm chuyển từ chỗ phải thương lượng từng lần sang chỗ trở thành công việc thường lệ. Marketing ngày càng có xu hướng chuyển từ chỗ cố gắng tăng tối đa lợi nhuận trong từng vụ giao dịch sang chỗ tăng tối đa những mối quan hệ đôi bên cùng có lợi với các đối tác. Nguyên tắc làm việc là phải xây dựng được những mối quan hệ tốt rồi tự khắc các vụ giao dịch sẽ có lợi. Thị trường. Thị trường bao gồm tất cả các khách hàng hiện tại và tiềm ẩn cùng có một nhu cầu hay mong muốn cụ thể, sẵn sàng và có khả năng tham gia trao đổi để thỏa mãn nhu cầu hay mong muốn đó. Các nhà kinh tế sử dụng thuật ngữ thị trường để chỉ một tập thể những người mua và người bán giao dịch với nhau vể một sản phẩm hay một lớp sản phẩm cụ thể, như thị trường nhà đất, thị trường ngũ cốc...Tuy nhiên, những người làm marketing lại coi người bán họp thành ngành sản xuất, coi người mua họp thành thị trường. Thực tế thì những nền kinh tế hiện đại đều hoạt động theo nguyên tắc phân công lao động, trong đó mỗi người chuyên sản xuất một thứ gì đó. Như vậy nền kinh tế hiện đại có rất nhiều thị trường. Mỗi nền kinh tế quốc gia và toàn bộ nền kinh tế thế giới họp thành những tập hợp thị trường phức tạp tác động qua lại với nhau và liên kết nhau thông qua các quá trình trao đổi. Marketing và người làm marketing. Như vậy cuộc sống luôn tồn tại những nhu cầu và mong muốn, người ta thoả mãn những nhu cầu và mong muốn đó bằng hàng hoá và dịch vụ (sản phẩm). Mỗi sản phẩm chỉ có thể thoả mãn một hay một số nhu cầu nhất định, ở những mức độ nhất định và để có được sự thoả mãn đó khách hàng phải bỏ ra những chi phí nhất định. Marketing xuất hiện khi người ta quyết định thoả mãn những nhu cầu và mong muốn thông qua trao đổi. Khái niệm trao đổi dẫn đến khái niệm thị trường. Khái niệm thị trường lại đưa ta quay trở lại điểm xuất phát là khái niệm marketing. Marketing có nghĩa là hoạt động của con người diễn ra trong quan hệ với thị trường. Marketing có nghĩa là làm việc với thị trường để biến những trao đổi tiềm ẩn thành hiện thực với mục đích là thoả mãn những nhu cầu và mong muốn của con người. Nếu một bên tích cực tìm kiếm cách trao đổi hơn bên kia, thì ta gọi đó là những người làm marketing còn bên kia là khách hàng triển vọng. 1.1.2. Marketing địa phương. Khái niệm marketing địa phương còn khá mới mẻ ở Việt Nam tuy nhiên trên thế giới khái niệm này đã không còn xa lạ gì. Đã có nhiều quốc gia, vùng lãnh thổ hay địa phương áp dụng kiến thức marketing vào việc tiếp thị hình ảnh của chính mình và đã thu được những thành công, biến địa phương của mình thành những nơi phát triển bền vững. Các nước NICs ở châu Á như, Hàn Quốc, Singapore, Hong Kong, v.v... là các ví dụ điển hình. Marketing địa phương là tập hợp các chương trình hoạt động được địa phương thực hiện nhằm cải thiện khả năng cạnh tranh và phát triển kinh tế. Những chương trình marketing nhằm tạo cho địa phương những đặc tính khác biệt “nhân tạo” chứ không phải những yếu tố tự nhiên như vị trí địa lý, tài nguyên thiên nhiên. Các chương trình marketing hiệu quả sẽ giúp địa phương trở nên hấp dẫn hơn trong đánh giá của các nhóm khách hàng mục tiêu – nhà đầu tư, của các chính khách, các du khách có khả năng chi trả và những công dân được đào tạo chuyên môn. Nói cách khác, marketing địa phương là hệ thống các chương trình hành động chủ động nhằm thay đổi được tình trạng kinh tế xã hội của địa phương theo chiều hướng tốt hơn. Trong marketing địa phương, địa phương được xác định là một khu vực địa lý được giới hạn bởi sự phân định địa giới hành chính hay địa hình tự nhiên. Địa phương có thể là một xã, một huyện, một tỉnh, một vùng, một quốc gia hay một khu vực. Mỗi địa phương có những đặc điểm cụ thể về văn hóa, lịch sử, truyền thống được đặc trưng bởi hành vi dân cư sống ở đó. Điều hành địa phương là một hệ thống chính quyền với các cơ chế lập pháp, hành pháp và tư pháp. Địa phương muốn phát triển phải có các cơ quan, doanh nghiệp tạo ra của cải vật chất và công ăn việc làm cho dân cư ở đó. Một địa phương có những thuộc tính tâm lý, ảnh hưởng tới cách hành vi quan hệ giữa những người ở địa phương đó với nhau và với những người ngoài địa phương. Nếu xem địa phương như một sản phẩm cần phải chào hàng, tìm kiếm thị trường và khách hàng riêng cho mình thì kiến thức chung về marketing cũng được sử dụng như kiến thức cơ bản. Tuy nhiên, khác với những sản phẩm hàng hóa bình thường, “sản phẩm địa phương” không được con người hay một nhà máy nào sản xuất ra, không có một qui cách cụ thể, và không có giới hạn của tuổi thọ. Và điều đặc biệt nhất là “sản phẩm địa phương” là sản phẩm duy nhất mang một đặc tính riêng, nhất là đặc điểm về vị trí, không gian của nó. Khi nói đến một địa phương là nói đến những gì thuộc về địa phương đó và những gì liên quan trong mối quan hệ về địa lý, lịch sử, kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, v.v… Do đó, con người là một nội dung chủ yếu của một địa phương, và thông qua hoạt động của con người bên trong cũng như bên ngoài liên quan đến địa phương đó để xác định nấc thang giá trị của địa phương đó, và từ đó có thể làm cho hình ảnh của địa phương đó tốt lên hay xấu đi, hay làm cho mọi người biết đến, hay đi vào quên lãng. Với cái nhìn về địa phương như một sản phẩm cần phải tiếp thị với khách hàng, cần tìm kiếm thị trường thì phương pháp cũng như kỹ thuật tiếp thị đòi hỏi phải đặc biệt hơn, trong đó đầu tiên phải có những thông tin kiến thức: Hiểu biết về địa phương đó ở mọi khía cạnh càng sâu rộng càng tốt. Xu thế phát triển của địa phương đó trong tương lai. Những mặt mạnh, mặt yếu (thuận lợi và khó khăn) của địa phương trong cái nhìn của khách hàng (theo mục đích, yêu cầu, quyền lợi của khách hàng). Những cách thức cải thiện. 1.2. Quy trình marketing địa phương. Hình 2: Các cấp của marketing địa phương. Nguồn: Philip Kotler Marketing địa phương không phải là một khái niệm mới trên thế giới. Các quốc gia phát triển đã tăng trưởng nhờ việc xây dựng được một chương trình marketing hiệu quả, tạo dựng được bản sắc quốc gia trong cộng đồng thế giới mở. Trong môi trường cạnh tranh toàn cầu như ngày nay, mỗi địa phương cần thực hiện một kế hoạch marketing mang tính chiến lược, tận dụng những tiến bộ mà địa phương khác đã thực hiện nhằm phát triển một cách hiệu quả nhất. Nguyên lý của marketing địa phương là sử dụng kết hợp các nguồn lực bên trong và bên ngoài để tạo ra nhiều lợi ích hơn. Nguồn lực bên ngoài đến từ chính những khách hàng mà địa phương muốn hướng tới. Do vậy, trước tiên, địa phương phải xác định khách hàng mục tiêu; qua đó lựa chọn chiến lược định vị phù hợp với điều kiện và khả năng của mình hướng tới khách hàng đã lựa chọn. Chủ thể thực hiện marketing địa phương chính là những tác nhân tham gia vào hoạt động marketing, bao gồm tất cả các tổ chức và cá nhân sống và làm việc tại địa phương. Chính quyền địa phương sẽ là người khởi xướng, chịu trách nhiệm quy hoạch và phát triển địa phương. Hệ thống quản lý công, các chính sách và định hướng phát triển của chủ thể ảnh hưởng lớn tới nhận thức của khách hàng về địa phương. Các tổ chức, doanh nghiệp nhà nước hay tư nhân chịu trách nhiệm cung cấp các sản phẩm, dịch vụ đảm bảo thỏa mãn nhu cầu xã hội nói chung và khách hàng mục tiêu nói riêng. Thái độ phục vụ, chất lượng dịch vụ ảnh hưởng trực tiếp tới mức độ thỏa mãn nhu cầu của khách hàng. Cách sống, làm việc và xử sự của cư dân địa phương ảnh hưởng không nhỏ tới hình ảnh của địa phương. Khách hàng của marketing địa phương chính là những đối tượng mà địa phương muốn hướng tới. Có bốn loại khách hàng mà một địa phương có thể hướng tới: (i) Du khách - những người đến với địa phương với mục tiêu tham quan, nghỉ ngơi, khảo sát hoặc thăm thân nhân, (ii) Người lao động và thân nhân của họ - những người góp phần tạo ra của cải vật chất và tạo nên phong cách của một địa phương, (iii) Nhà đầu tư - những người chủ trương tạo ra của cải vật chất tại địa phương bằng việc sử dụng và kết hợp có hiệu quả nguồn lực, trí tuệ và công nghệ của họ mang tới với nguồn lực của địa phương, và (iv) Thị trường xuất khẩu - những tổ chức và cá nhân ở địa phương khác có nhu cầu về những sản phẩm mà địa phương có thể tạo ra. Mỗi loại khách hàng có thể lại bao gồm nhiều nhóm nhỏ khác nhau với khả năng đem lại lợi ích cho địa phương là khác nhau. Mỗi địa phương có thể lựa chọn cho mình một vài nhóm khách hàng để tiếp cận và tăng cường khả năng thu nhận nguồn lực đó để tối đa hóa lợi ích cho địa phương mình. Sau khi lựa chọn khách hàng mục tiêu, vấn đề quan trọng mà địa phương cần làm định hướng cho chiến lược marketing trên mỗi đoạn thị trường mục tiêu là định vị bản sắc và hình ảnh địa phương. Định vị liên quan đến việc địa phương muốn khách hàng nghĩ về địa phương mình như thế nào? Việc phân tích điểm mạnh, điểm yếu là không thể thiếu để lựa chọn hình ảnh định vị cho phù hợp. Chiến lược định vị sẽ quyết định các hoạt động mà địa phương thực hiện nhằm thu hút khách hàng, trong đó có các nhà đầu tư nước ngoài. Bản sắc và hình ảnh địa phương không tự nhiên mà có. Nó phụ thuộc vào kiến trúc thượng tầng, cơ sở hạ tầng cùng con người và tổ chức ở địa phương đó. Trong môi trường toàn cầu, các địa phương cần cải thiện và nâng cấp hệ thống giáo dục, đào tạo cũng như nỗ lực xuất khẩu, huy động những nguồn lực cơ bản của địa phương để có thể vượt qua được các trở ngại và khó khăn của toàn cầu hóa. Trong thiên niên kỷ mới, sẽ có những địa phương thành công và phát triển ngày một nhanh. Ngược lại, cũng sẽ có những địa phương không thành công và phát triển chậm hơn. Tất nhiên, không thể phủ nhận một thực tế, những địa phương đi sau cũng sẽ lại “rút kinh nghiệm” và cũng sẽ tham gia vào “guồng máy phát triển của xã hội”. Một số địa phương có thể giàu có hơn vì may mắn có được vị trí thuận lợi; có địa phương giàu tiềm năng phát triển nhờ những nguồn lực sẵn có mà chưa cần có một chiến lược marketing toàn diện. Tuy nhiên, các yếu tố môi trường thường xuyên biến đổi, quy luật đào thải không bỏ qua bất cứ ai, bất kỳ sự vật, hiện tượng hay địa phương nào. Thực tế cho thấy, các địa phương biết áp dụng những nguyên tắc cơ bản của marketing trong xây dựng chiến lược phát triển của mình luôn có cơ hội thành công cao hơn, cho dù nguồn lực tự nhiên vốn có không quá nhiều. Cũng giống như các chiến lược marketing khác, marketing địa phương là sự kết hợp của 4 công cụ marketing-mix – 4Ps cơ bản: Sản phẩm – Products; Giá cả – Price; Kênh phân phối – Place; và Truyền thông marketing – Promotion. Đặc biệt, trong marketing địa phương để thu hút đầu tư, yếu tố sản phẩm luôn được đặt lên hàng đầu. Sản phẩm ở đây không được xem xét một cách đơn giản là các chính sách mà nó cần được hiểu là môi trường đầu tư. Tất cả những gì mà nhà đầu tư nhận được từ địa phương, cả những yếu tố khách quan (cứng) như vị trí địa lý, cơ sở hạ tầng, tài nguyên thiên nhiên và những yếu tố chủ quan (mềm) như chính sách, cơ chế, thái độ và trình độ nhân lực. Khái niệm giá cả trong marketing địa phương rộng hơn khái niệm giá cả với các sản phẩm thông thường. Giá cả là tất cả các loại chi phí liên quan đến quá trình đầu tư mà nhà đầu tư phải bỏ ra để nhận được những sản phẩm mà địa phương cung cấp cho họ. Nhà đầu tư quan tâm tới cả những chi phí chính thức và chi phí không chính thức khi kinh doanh tại địa phương. Đôi khi những chi phí không chính thức trở thành yếu tố cản trở quyết định lựa chọn địa điểm đầu tư. Những chi phí này phát sinh từ chính những “yếu tố sản phẩm” mà địa phương cung cấp. Chính vì vậy, các nhà đầu tư thường đánh đồng yếu tố giá vào trong sản phẩm. Giá cả trong marketing địa phương phụ thuộc phần lớn vào sản phẩm địa phương cung cấp cho khách hàng. Kênh phân phối ở đây không nên hiểu là địa điểm hay quyết định về việc phân phối sản phẩm mà nó phản ánh việc nhà đầu tư có nhận được những giá trị lợi ích mà địa phương cam kết cung cấp hay không. Rõ ràng, nếu kênh phân phối không hoạt động hoặc hoạt động kém hiệu quả thì mọi nỗ lực marketing sẽ trở nên vô nghĩa; sản phẩm không thể đến được với khách hàng. Tuy nhiên, kênh phân phối với marketing địa phương lại phụ thuộc vào chủ thể của địa phương và phụ thuộc cả vào nhà đầu tư nữa. Do đó, về mặt bản chất, nó lại thuộc về sản phẩm. Nếu sản phẩm trong marketing địa phương được nhà đầu tư nhận định tốt thì có nghĩa là kênh phân phối đã hoạt động hiệu quả. Truyền thông nhằm thu hút đầu tư thể hiện ở phương thức mà địa phương thông tin đến cho các nhà đầu tư mục tiêu về những gì địa phương đã và đang làm giúp họ đạt được mục tiêu. Việc truyền thông phải làm sao để nhà đầu tư nhận thức chính xác môi trường đầu tư của địa phương, rằng họ có thể nhận được gì khi đầu tư vào địa phương và họ phải làm gì để nhận được lợi ích đó. Việc quảng bá qua các báo, tạp chí quốc tế, qua mạng internet, qua văn học, qua khách du lịch, hay tham gia hội thảo, triển lãm đầu tư là những công việc mà địa phương nên làm để xúc tiến đầu tư. Bên cạnh đó, hành vi của các tổ chức, doanh nghiệp và cộng đồng tạo nên hình ảnh của địa phương trong nhận thức của nhà đầu tư; nó cũng cần được coi là một phương thức truyền thông trong marketing địa phương. Rất nhiều nhà Marketing cho rằng tiếp thị một địa phương đồng nghĩa với việc chiêu thị, quảng bá địa phương đó. Tuy nhiên, chiêu thị, quảng bá một địa phương đóng vai trò ít quan trọng nhất trong quá trình tiếp thị một thương hiệu địa phương. Tương tự như tiếp thị thương hiệu sản phẩm và dịch vụ của doanh nghiệp, tiếp thị thương hiệu địa phương là làm cho thương hiệu của mình thỏa mãn nhu cầu của thị trường mục tiêu hiệu quả hơn thương hiệu của các đối thủ cạnh tranh. Để thành công, một địa phương phải làm sao người dân, khu vực kinh doanh hài lòng với cộng đồng, cũng như đáp ứng được những kỳ vọng của nhà đầu tư, khách du lịch. CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG MARKETING ĐỊA PHƯƠNG HIỆN NAY – SỰ CẦN THIẾT PHẢI MARKETING ĐỊA PHƯƠNG. 2.1. Chính sách thu hút đầu tư ở các địa phương hiện nay. Từ đầu thập kỷ đến nay đầu tư tư nhân tại các tỉnh trong cả nước đã có một sự tăng trưởng đáng kể. Tuy nhiên, mức độ gia tăng diễn ra không đồng đều, một số tỉnh thành công hơn các tỉnh khác, nổi trội lên trong việc thu hút nhà đầu tư và ngược lại một số tỉnh lại thu hút được một số vốn khá khiêm tốn. Các địa phương đã và đang áp dụng hàng loạt chính sách ưu đãi nhằm hỗ trợ, khuyến khích và định hướng đầu tư, tuy nhiên mức độ thành công còn hạn chế. Hầu hết các tỉnh đều ban hành những điều kiện ưu đãi gần giống nhau nên không tạo ra sự khác biệt cần thiết để hấp dẫn các doanh nghiệp. Điều này cũng phần nào cho thấy tình trạng chạy đua trong việc thu hút đầu tư. Năm 2005, Thủ tướng ban hành quyết định số 1387/QĐ-TTg2 nhằm chấn chỉnh hoạt động thu hút đầu tư của Ủy ban nhân dân các tỉnh, chấm dứt việc chạy đua chính sách khuyến khích đầu tư, xóa bỏ các ưu đãi xé rào ngoài khuôn khổ pháp luật. Tuy nhiên vẫn còn hiện tượng Ủy ban nhân dân tỉnh đã áp dụng các ưu đãi vượt thẩm quyền cho phép. Những chính sách ưu đãi được đưa ra thường thấy là những cam kết về đất đai, thuế và lệ phí, hỗ trợ đào tạo nhân công. Vĩnh Phúc, Bắc Ninh và Hà Tây là ba tỉnh rất được các nhà đầu tư quan tâm vì các chính sách thu hút đầu tư. Ủy ban Nhân dân các tỉnh Vĩnh Phúc, Bắc Ninh và Hà Tây đã ban hành hàng loạt chính sách ưu đãi đầu tư trong một nỗ lực thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước về tỉnh nhà. Các chính sách ưu đãi và hỗ trợ nhà đầu tư gồm có: tạo thuận lợi về mặt bằng đất đai, thanh toán tiền thuê đất, ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp, hỗ trợ di dời, giúp đỡ doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn, nhân công, miễn giảm thuế giá trị gia tăng (VAT), thuế xuất khẩu trong thời hạn nhất định. Trên thực tế những hình thức ưu đãi và hỗ trợ của các tỉnh rất đa dạng và khó có thể thống kê hết được. Bảng dưới đây cho thấy những ưu đãi trong thu hút đầu tư của ba tỉnh: Bắc Ninh, Hà Tây và Vĩnh Phúc Lĩnh vực Mô tả Bắc Ninh Hà Tây Vĩnh Phúc Mặt bằng Miến giảm phí sử dụng đất hàng năm X X X Hoãn thu phí sử dụng đất X Hỗ trợ kinh phí giải phóng mặt bằng X X Hỗ trợ đền bù giải phóng mặt bằng X X Xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội bên ngoài hàng rào khu công nghiệp X X X Thuế và lệ phí Thuế thu nhập doanh nghiệp X X X Miễn trừ thuế nhập khẩu đối với các thiết bị sản xuất X Cắt giảm thuế VAT X Lao động Hỗ trợ đào tạo dạy nghề X X X Hỗ trợ kinh phí xây dựng khu nhà ở dành cho công nhân bên ngoài hàng rào KCN X Miễn trừ thuế nhập khẩu cho các dây chuyền sản xuất X Tài chính Hỗ trợ tiếp cận nguồn tài chính X X X Hỗ trợ kinh phí di chuyển từ các tỉnh khác X Xúc tiến đầu tư Hỗ trợ các hoạt động xúc tiến đầu tư X Bảng: Mô tả các chính sách ưu đãi tại các tỉnh Bắc Ninh, Hà Tây và Vĩnh Phúc. Nguồn: Báo cáo nghiên cứu của VNCI, tháng 9/2006. Ở một khía cạnh nhất định, những chính sách này đã phát huy tác dụng, góp phần thúc đẩy, khuyến khích đầu tư vào các địa phương. Tuy nhiên do hầu như đều có thể bắt gặp các ưu đãi này ở chính sách thu hút đầu tư tại các địa phương nên chúng ta sẽ xét đến chúng dưới góc độ cạnh tranh, làm thế nào để các địa phương thu hút được sự chú ý của các nhà đầu tư khi mà nơi nào dường như cũng đưa ra cùng một “công thức” như vậy. Hơn nữa, liệu những chính sách như thế có thực sự là mối quan tâm hàng đầu của nhà đầu tư và xét về lâu dài, liệu chúng có đảm bảo được lợi ích cả về phía địa phương và nhà đầu tư hay không? Thứ nhất, nếu giả định là mối quan tâm hàng đầu của nhà đầu tư là những điều được đề cập trong các chính sách ưu đãi thì như thế địa phương nào có mức ưu đãi càng cao thì càng thu hút được nhiều nhà đầu tư. Điều này không hẳn đã đúng trong thực tế. Có thể thấy rõ ràng nhất là nhiều tỉnh phía Nam dù không đưa ra những ưu đãi hấp dẫn như một số tỉnh phía Bắc nhưng vẫn thu hút được lượng vốn không hề thua kém và có phần hơn so với các tỉnh phía Bắc. Như vậy ưu đãi chưa hẳn đã là mối quan tâm hàng đầu của các nhà đầu tư. Thứ hai, nếu cho rằng ưu đãi là vấn đề quan trọng nhất trong thu hút đầu tư thì điều này có thể dẫn đến sự chạy đua giữa các địa phương để lôi kéo sự quan tâm của nhà đầu tư. Địa phương sẽ tìm cách tăng thêm các điều kiện ưu đãi để giữ chân nhà đầu tư. Điều này dẫn đến rất nhiều hệ quả. Điều đầu tiên những chính sách ưu đãi như vậy giống như một “con dao hai lưỡi” bởi nhà đầu tư sẽ rời bỏ địa phương ngay khi có nơi khác đưa ra những chính sách ưu đãi khác hấp dẫn hơn. Tiếp theo đó là với những ưu đãi như miễn tiền thuê đất trong những năm đầu, hạ giá thuê đất trong các năm tiếp theo, miễn giảm thuế, hỗ trợ đào tạo nhân công… thì ngân sách địa phương sẽ gặp vấn đề trong việc cân đối thu chi. Mà xét cho cùng, túi tiền của địa phương cũng là từ Ngân sách nhà nước, nếu địa phương nào cũng tiến hành những ưu đãi đến bất hợp lý như vậy thì không chỉ địa phương mà cả Nhà nước cũng sẽ phải đối mặt với bài toán nan giải trong việc cân đối ngân sách. Giá nhân công rẻ cũng là một lời mời chào hấp dẫn thường được đưa ra từ các địa phương. Nhưng điều này cũng có nghĩa là chất lượng nguồn nhân lực thấp kém, thậm chí là chưa hề qua đào tạo. Liệu với nguồn nhân lực chất lượng như thế thì địa phương có thể thu hút được những dự án công nghệ cao, vốn lớn hết sức cần thiết cho việc phát triển kinh tế dài hạn của địa phương hay không? Đó là còn chưa kể đến với đồng lương ít ỏi thì làm thế nào để cải thiện được chất lượng cuộc sống cho người dân? Một thực tế gần đây là nhiều vụ bãi công đã xảy ra tại các nhà máy, nơi mà đồng lương được trả không đủ đáp ứng cho nhu cầu đời sống của công nhân. Đây là một vấn đề mà lãnh đạo địa phương cần lưu tâm khi đưa ra các lời mời gọi đầu tư về địa phương mình. Nhà đầu tư hết sức quan tâm đến lợi nhuận – kết quả việc đầu tư của mình. Để đảm bảo việc duy trì lợi nhuận về lâu dài nhà đầu tư cần tạo ra giá trị gia tăng cho sản phẩm của mình. Giá các yếu tố đầu vào như lao động, đất đai không thể đảm bảo được điều đó. Lợi nhuận về lâu dài chỉ có thể được đảm bảo nhờ sự thuận lợi trong việc vận chuyển nguyên vật liệu, sản phẩm; nhờ chất lượng của nhà xưởng, kho bãi; nhờ chất lượng công nhân, nhờ sự thuận lợi trong việc mở rộng quy mô, phát triển sản xuất… Nhà đầu tư không thể tìm kiếm được điều này từ các chính sách ưu đãi mà địa phương phải tạo ra chúng từ “thương hiệu” của chính mình. Mỗi dự án đầu tư có rất nhiều vấn đề phải quan tâm. Không phải chỉ là những vấn đề về thu, chi mà còn về những vấn đề đảm bảo cho sự vận hành của dự án, sự lưu thông của sản phẩm. Địa phương sẽ không thể là nơi nhà đầu tư lựa chọn nếu không có đủ cơ sở hạ tầng cần thiết như nhà xưởng, đường sá giao thông, sự đảm bảo của thị trường tiêu thụ, sự sẵn có của nguồn nguyên nhiên vật liệu, sự thông thoáng trong môi trường đầu tư… và không kém phần quan trọng là sự cam kết “đồng hành” của chính quyền địa phương. Có rất nhiều lời phàn nàn từ các nhà đầu tư về việc chính quyền địa phương chỉ chăm chăm đi tìm kiếm các dự án đầu tư mới mà “quên” đi các dự án đang sẵn có. Hoặc tệ hơn là sau khi mời gọi được nhà đầu tư bằng những cam kết hấp dẫn, sau một vài năm chính chính quyền địa phương lại là người đơn phương phá bỏ những cam kết ấy. Một vấn đề nữa hiện nay là để thu hút được các dự án, đặc biệt là các dự án với vốn đầu tư lớn, nhiều địa phương đã bất chấp các vấn đề về môi trường. Điều này là hết sức nguy hiểm cho sự phát triển về lâu dài của địa phương. Trước hết người dân địa phương sẽ là những người phải gánh chịu những hậu quả trực tiếp khi môi trường địa phương bị tàn phá. Sau đó thì chính hình ảnh địa phương sẽ bị xấu đi, địa phương sẽ trở nên kém hấp dẫn trong con mắt các nhà đầu tư sau này. 2.2. Các nhà đầu tư mong muốn gì từ địa phương? Thu hút đầu tư, xét ở góc độ Marketing, là làm cho nhà đầu tư có được môi trường, điều kiện sản xuất tốt nhất và trả giá đúng đắn nhất cho “sản phẩm địa phương” họ nhận được mà vẫn đảm bảo giá thành sản phẩm của họ cạnh tranh nhất. Để làm được điều đó không phải chỉ có một cách mà chúng ta đang làm rất nhiều mà xét cho cùng đó là hạ giá đất, hạ giá nhân công. Không nên coi "xé rào" với các chính sách ưu đãi là phương pháp quan trọng nhất của địa phương để thu hút đầu tư bởi rất nhiều hệ luỵ đi kèm. Như vậy khi theo đuổi thu hút đầu tư bằng một loạt các chính sách ưu đãi kể trên, các địa phương thường không ý thức được rằng doanh nghiệp khi quyết định đầu tư thường căn cứ vào tính toán kinh doanh và đầu tư vào nơi đảm bảo khả năng thu hồi vốn đầu tư và triển vọng phát triển hơn là dựa trên những ưu đãi sẽ được hưởng. Quyết định đầu tư thường bị tác động bởi các yếu tố tiêu biểu như: vị trí địa lý, điều kiện cơ sở hạ tầng, khả năng tiếp cận thị trường tiêu thụ, nguồn nguyên liệu, môi trường chính trị, luật pháp, thiện chí của các quan chức địa phương, khả năng cung ứng lao động phổ thông và lao động có tay nghề.v.v.. Nhà đầu tư chỉ đến khi các yếu tố đã sẵn sàng chào đón họ, như: thứ nhất, về mặt bằng, đã được quy hoạch, đền bù giải phóng mặt bằng; thứ hai là phải sẵn có hệ thống cơ sở hạ tầng kết nối; thứ ba là sẵn sàng nguồn nhân lực về số lượng, chất lượng, không để xảy ra tranh chấp về nguồn nhân lực giữa các doanh nghiệp trong quá trình đầu tư; thứ tư là chính quyền địa phương phải đi cùng với doanh nghiệp, tìm hiểu kịp thời và nhanh chóng tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp. Lời khuyên đối với các địa phương khi marketing địa phương của mình là phải hiểu thị trường hiện cần gì. Địa phương phải luôn nhớ rằng thị trường sẽ có yêu cầu ngày càng cao với sản phẩm, yêu cầu sự phục vụ cao với khách hàng. Các nhà đầu tư sẽ tập trung vào các xu thế đó để tạo ra lợi nhuận chứ không quá chú trọng đến "giá rẻ". Sản phẩm rẻ chỉ nên xuất phát từ cải tiến kỹ thuật, từ các dây chuyền sản xuất hàng loạt sau khi đã khẳng định được vị trí trên thị trường. Do vậy, về mặt marketing, địa phương phải dựa vào nguyên lý: "Yêu cầu về sản phẩm của khách hàng càng ngày càng cao, chứ họ không yêu cầu giá thành hạ".  2.3. Marketing địa phương mang lại lợi ích gì? Một điều có thể dễ dàng nhận thấy là không phải nơi nào cũng có được điều kiện tự nhiên, vị trí địa lý thuận lợi. Vậy làm thế nào để một địa phương không có được những yếu tố đó có thể thu hút được sự quan tâm của các nhà đầu tư? Câu trả lời chính là marketing địa phương. Nhu cầu phát triển kinh tế là một nhu cầu tất yếu của mỗi địa phương, và nếu một địa phương nào đó không thể có những thế mạnh tự nhiên như những nơi khác, tất nhiên là chính quyền địa phương nơi đó không thể nào “mang” địa phương mình “đặt” vào một nơi khác với những điều kiện tự nhiên thuận lợi hơn. Như ta đã biết là nhà đầu tư không chỉ quan tâm đến những điều kiện tự nhiên sẵn có mà còn quan tâm tới cả những điều kiện “nhân tạo”, như cơ sở hạ tầng, môi trường chính sách đầu tư, chất lượng nguồn nhân lực… của địa phương. Chính quyền địa phương không thể thay đổi những điều kiện tự nhiên sẵn có nhưng lại hoàn toàn có thể xây dựng, cải tạo cơ sở hạ tầng, tạo lập môi trường đầu tư thuận lợi, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực… Đây là những sức hút mạnh mẽ tới nhà đầu tư và trong nhiều trường hợp còn có ý nghĩa quan trọng hơn cả vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên tới các quyết định đầu tư. Trong điều kiện cạnh tranh như hiện nay, nếu địa phương nào cũng chạy theo những chính sách ưu đãi mang tính chất “giảm giá sản phẩm” của mình như ưu đãi về thuế, về giá đất, giá nhân công thì phải chăng nơi nào có nhiều ưu đãi nhất, có giá rẻ nhất sẽ được các nhà đầu tư đổ xô đến? Thực tế không phải như vậy. Xét trên góc độ marketing, nhà đầu tư là một khách hàng và cái mà họ quan tâm chính là những gì mà họ nhận được từ sản phẩm chứ không phải chỉ là giá của sản phẩm đó. Và các địa phương cũng không thể “giảm giá sản phẩm” như thế mãi được. Một sản phẩm không tạo được sự khác biệt giữa các sản phẩm cùng loại thì không thể cạnh tranh được với các sản phẩm khác. Địa phương muốn tăng tính cạnh tranh thì cũng phải tạo cho mình nét khác biệt so với những địa phương khác. Điều này không chỉ giúp địa phương cải thiện năng lực cạnh tranh mà còn giúp địa phương “nâng giá sản phẩm” của mình và tạo điều kiện cho nhà đầu tư tăng thêm giá trị gia tăng cho sản phẩm của họ. Việc nhà đầu tư trả đúng giá những gì họ nhận được cũng góp phần giúp địa phương giải quyết những vấn đề về ngân sách của địa phương mình. Điều quan trọng hơn cả là địa phương đã tạo cho mình một uy tín, một thương hiệu trong con mắt của “khách hàng” mà địa phương hướng tới. “Khách hàng” này có thể là nhà đầu tư, là khách du lịch trong và ngoài nước, cũng có thể là cơ quan trung ương cấp trên. Sự quan tâm của các cấp trung ương là hết sức quan trọng bởi nó đảm bảo cho địa phương có được một sự lưu tâm cần thiết mỗi khi một chiến lược, quy hoạch phát triển được hoạch định, một chính sách được xây dựng. Xét cho cùng thì sự phát triển của địa phương không thể nằm ngoài kế hoạch phát triển chung và nguồn lực của địa phương cũng khó có thể đủ để đảm bảo cho các kế hoạch của địa phương. Một điều không kém phần quan trọng là cùng với việc thực hiện các kế hoạch marketing địa phương thì chính người dân là những đối tượng hưởng lợi trực tiếp. Người dân địa phương nhận được những gì từ marketing địa phương? Đó chính là chất lượng cơ sở hạ tầng được cải thiện và nâng cao, là chất lượng cuộc sống được cải thiện, trình độ dân trí được nâng cao…Người dân sẽ được hưởng những sản phẩm – kết quả trực tiếp của các dự án đầu tư, sẽ có thêm nhiều công ăn việc làm được tạo ra, số lượng và chất lượng các dịch vụ cũng được cải thiện. Chất lượng cuộc sống được nâng cao, dân trí được cải thiện sẽ đóng góp một phần vô cùng quan trọng vào sự phát triển của bản thân địa phương. Qua các phân ở trên ta có thể thấy được marketing địa phương có tác dụng to lớn như thế nào trong việc đóng góp vào sự phát triển kinh tế xã hội địa phương. Vấn đề tiếp theo là với những nhận thức như thế thì địa phương cần phải làm gì để marketing địa phương của mình? CHƯƠNG III: ĐỊA PHƯƠNG LÀM GÌ ĐỂ MARKETING ĐỊA PHƯƠNG CỦA MÌNH? Chúng ta đã xem xét đến những yếu tố mà nhà đầu tư quan tâm khi có ý định đầu tư vào một địa phương. Đó là vị trí địa lý, là điều kiện cơ sở hạ tầng, khả năng tiếp cận thị trường tiêu thụ, nguồn nguyên liệu, môi trường chính trị, luật pháp, thiện chí của các quan chức địa phương, khả năng cung ứng lao động phổ thông và lao động có tay nghề… Ngoại trừ những yếu tố thuộc về điều kiện tự nhiên không thể thay đổi thì các yếu tố còn lại đều là các yếu tố “nhân tạo", nghĩa là địa phương hoàn toàn có thể tác động đến các yếu tố đó, làm cho chúng thay đổi theo hướng có lợi cho địa phương. Chúng ta sẽ xem xét đến ba yếu tố cơ bản: 3.1. Môi trường đầu tư. Môi trường đầu tư là yếu tố đầu tiên trong tầm tay mà địa phương có thể tác động đến. Môi trường đầu tư theo nghĩa rộng không chỉ bao gồm cơ chế, chính sách, cơ sở pháp lý cho việc đầu tư. Nó bao gồm tất cả những yếu tố liên quan đến “cơ sở hạ tầng mềm” của địa phương. Đầu tiên phải kể đến đó là cơ chế, chính sách, là hành lang pháp lý. Địa phương cần có một cơ chế thông thoáng cho hoạt động đầu tư. Điều đáng nói hiện nay chính là việc thực hiện “cơ chế một cửa”, giảm phiền hà cho doanh nghiệp, nhà đầu tư; tăng tính trách nhiệm, sự tận tuỵ trong công việc của đội ngũ cán bộ công chức trong bộ máy nhà nước. Địa phương cần có những chính sách thu hút đầu tư thích hợp, không nên quá theo đuổi việc ưu đãi trong thu hút đầu tư. Cần có một môi trường pháp lý minh bạch, đội ngũ thi hành pháp luật công tâm, đảm bảo về trình độ để có thể giải quyết được các vấn đề pháp lý nảy sinh, đặc biệt là khi có tranh chấp, đảm bảo quyền lợi cho doanh nghiệp, cho nhà đầu tư. Bên cạnh các yếu tố nêu trên, một môi trường đầu tư hấp dẫn còn được thể hiện ở một thị trường sức mua liên tục tăng, ở thái độ niềm nở, thiện chí của người dân đối với hoạt động đầu tư… Điều này liên quan tới một hệ thống các hoạt động của chính quyền địa phương góp phần đảm bảo, nâng cao chất lượng cuộc sống và con người 3.2. Nguồn nhân lực. Nguồn nhân lực ở đây chỉ đề cập đến chất lượng của đội ngũ nhân công tại địa phương phục vụ trực tiếp cho các dự án. Không có gì phải bàn cãi về sự thu hút ở những nơi nguồn nhân lực có chất lượng cao, đội ngũ công nhân đựợc đào tạo tốt đáp ứng được yêu cầu của công việc. Một đội ngũ công nhân sẵn có như thế sẽ giúp doanh nghiệp giảm đáng kể các chi phí về đào tạo, hỗ trợ nơi ăn chốn ở, đi lại của công nhân. Vấn đề đặt ra ở đây là địa phương phải có chính sách chú trọng tạo nguồn nhân công, giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực ngay tại địa phương mình. Địa phương có thể tự đào tạo hoặc liên kết đào tạo với các cơ sở hoặc ngay trực tiếp tại các nhà máy, dự án đang hoạt động trên địa bàn của mình. Bên cạnh đội ngũ công nhân thì không thể không nói đến đội ngũ nhân lực chất lượng cao. Tất cả các dự án đều có nhu cầu về nguồn nhân lực chất lượng cao nhưng hiện nay đội ngũ này chủ yếu tập trung ở các thành phố, đô thị lớn. Không phải bởi vì địa phương không có mà là địa phương chưa có phương sách giữ chân đội ngũ này. Một ví dụ dễ thấy nhất là hàng năm có rất nhiều sinh viên ở các trường đại học xuất thân từ các tỉnh. Tuy nhiên không ít trong số họ sau khi tốt nghiệp đã không trở về địa phương làm việc, hoặc trở về một thời gian lại tìm ra các thành phố mưu sinh. Vì vậy địa phương cần có các chính sách thu hút và “giữ chân” đội ngũ này ở lại phục vụ cho địa phương. 3.3. Cơ sở hạ tầng. Cơ sở hạ tầng là một yếu tố mà nhà đầu tư hết sức quan tâm khi đầu tư vào một địa phương. Đầu tiên đó chính là chất lượng của hạ tầng giao thông, liệu hạ tầng giao thông tại địa phương có đảm bảo cho việc vận chuyển nguồn nguyên vật liệu cho sản xuất, đảm bảo cho việc lưu thông sản phẩm hay không. Sau giao thông thì cơ sở vật chất nhà xưởng cũng là một vấn đề hết sức quan trọng. Các yếu tố trên có được đảm bảo thì vấn đề sản xuất, phân phối và tiêu thụ mới được đảm bảo. Điều này quyết định đến sự ổn định sản xuất và khả năng sinh lợi của dự án. Địa phương cần có những kế hoạch dài hạn, không ngừng cải thiện điều kiện hạ tầng cơ sở của địa phương mình. Tuy nhiên việc đầu tư vào cơ sở hạ tầng lại đòi hỏi nguồn lực to lớn và mang lại tác dụng lâu dài. Vì vậy các kế hoạch phát triển cơ sở hạ tầng cần nằm trong quy hoạch tổng thể và cần hết sức lưu tâm đến các kế hoạch, chiến lược kinh tế xã hội khác. Địa phương cần phải chủ động trong các kế hoạch phát triển hạ tầng cơ sở của mình. KẾT LUẬN Qua những phân tích ở trên ta có thể phần nào thấy được tầm quan trọng của hoạt động marketing trong việc phát triển kinh tế của địa phương. Marketing địa phương không phải chỉ là việc làm của các cấp lãnh đạo địa phương mà mọi người dân của địa phương đó, không kể đang sống tại địa phương đó hay địa phương khác đều có thể trở thành những tác nhân tích cực giúp quảng bá thương hiệu của địa phương mình Thu hút đầu tư không chỉ là khuyến khích đầu tư mà còn là phải làm thế nào để giữ chân nhà đầu tư, để cho họ không những là những người tạo ra của cải vật chất dịch vụ mà đồng thời là người giúp làm tăng giá trị của “sản phẩm địa phương”. Để làm được điều đó địa phương cần phải xác định được nhà đầu tư cần gì ở địa phương mình bởi sẽ không thể hiệu quả nếu muốn cung cấp cái mà mình khồng có hoặc cái mình có mà người ta không cần. Mối quan hệ giữa địa phương và nhà đầu tư phải là mối quan hệ tương hỗ hai chiều chặt chẽ, trong đó khi nhà đầu tư giúp làm lợi cho địa phương thì địa phương cũng phải là người đồng hành, giúp đỡ tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của doanh nghiệp. Chiến lược marketing địa phương quan điểm phát triển địa phương trong dài hạn và có sự phối kết chặt chẽ với các chính sách kinh tế xã hội khác, bởi vì “sản phẩm địa phương” ở đây không cụ thể là một thứ gì mà đó là tổng hợp tất cả những gì địa phương có mà nhà đầu tư mong muốn nhận được khi đầu tư vào đây. Có như thế mới tạo ra sự nhất quán, góp phần vào sự phát triển kinh tế xã hội địa phương. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Quản trị Marketing, Philip Kotler. Marketing Asian Places, Philip Kotler (Bài dịch một số chương). Giáo trình Marketing, PGS. TS. Trần Minh Đạo (chủ biên), NXB Thống Kê 2005. Giáo trình Chính sách kinh tế - xã hội, PGS. TS. Đoàn Thị Thu Hà, PGS. TS Nguyễn Thị Ngọc Huyền (đồng chủ biên), NXB Khoa học và kỹ thuật. Báo cáo chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh 2006 Việt Nam, VCCI & VNCI. Báo cáo chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh 2007 Việt Nam, VCCI & VNCI. Báo cáo tháng 9/2006, Các tỉnh thu hút doanh nghiệp từ Hà Nội, VNCI. Bài viết “ Marketing địa phương với việc quảng bá thương hiệu TP Hồ Chí Minh”, GS. Ts. Hồ Đức Hùng. Những bất ngờ của PCI 2006, Thời báo Kinh tế Sài Gòn, Số 23/2006. PCI: Đằng sau những con số, Thời báo Kinh tế Sài Gòn, Số 46/2007.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docF0196.doc
Tài liệu liên quan