Đề tài Sử dụng vốn Ngân sách Nhà nước để cho vay giải quyết việc làm trong nông nghiệp

Các dự án vay vốn do UBND tỉnh ra quyết định cho vay thuộc kênh UBND tỉnh quản lý. Các dự án vay vốn do cơ quan Trung ương hội đoàn thể quần chúng ra quyết định cho vay thuộc các kênh Trung ương đoàn thể quần chúng quản lý. Tuỳ theo điều kiện thực tế mà dự án có thể gửi theo các kênh để đề nghị ra quyết định cho vay. Việc phân kênh quản lý vốn vay có tính tích cực là tăng cường tính chủ động, tích cực của các cơ quan đầu mối được giao nhiệm vụ cho vay GQVL, nhưng nhược điểm là khó khăn cho việc quản lý tập trung, thống nhất các dự án trên địa bàn tỉnh, huyện.

doc128 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1013 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Sử dụng vốn Ngân sách Nhà nước để cho vay giải quyết việc làm trong nông nghiệp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
a cấp thẩm quyền, số hộ vay, hình thức bảo đảm tiền vay, các hồ sơ thủ tục cần thiết khi người vay nhận tiền như chưng minh thư nhân dân, hợp đồng tín dụng. Cán bộ tín dụng phải đối chiếu chữ ký của người vay trên các giấy tờ khác nhau và chứng kiến người vay ký vào các giấy tờ, thủ tục với KBNN. + Đối với dự án của cơ sở kinh doanh, người kinh doanh: Dự án do các chủ cơ sở kinh doanh trực tiếp là người vay. Việc thẩm tra đối với thủ tục phát tiền cần thận trọng. Khi kiểm tra cần tập trung vào: Kiểm tra thủ tục TSTC, kiểm tra quyết định phê duyệt dự án, các hồ sơ thủ tục như hợp đồng tín dụng, đơn xin vay vốn...Các chứng từ, báo giá, hợp đồng kinh tế chứng minh việc chuẩn bị đầu tư. Đây là bước hết sức quan trọng để vốn vay được sử dụng vào đúng mục đích. KBNN căn cứ vào nhu cầu của người vay và thực tế hoạt động sản xuất kinh doanh có thể phát tiền vay một hay nhiều lần. Khi phát tiền vay lần một phải kiểm tra tình hình sử dụng vốn, nếu người vay thực hiện theo cam kết, phát tiếp lần hai, nếu người vay vi phạm cam kết đình chỉ số vốn vay còn trong hạn mức và thu hồi vốn đã cho vay. Kiểm tra trong khi cho vay sẽ ngăn ngừa các trường hợp lập hồ sơ giả để vay vốn, các trường hợp hợp thức hoá dự án để vay. Thông qua kiểm tra trong khi cho vay uốn nắn người vay sử dụng vốn đúng mục đích, đồng thời nâng cao trách nhiệm của người vay, người thừa kế vốn vay trong chấp hành chính sách chế độ cho vay. - Kiểm tra sau khi cho vay: Việc kiểm tra sau khi cho vay đặt ra câu hỏi với các cơ quan quản lý vốn vay là cần phải kiểm tra cái gì, thời hạn nào cần kiểm tra và mức độ thường xuyên phải tiến hành kiểm tra. Tuỳ theo mục đích và yêu cầu của kiểm tra mà việc kiểm tra do các cơ quan, đơn vị cụ thể trực tiếp kiểm tra. Kiểm tra sử dụng vốn vay là việc kiểm tra được tiến hành sau khi cho vay và do cơ quan KBNN nơi cho vay thực hiện. + Các nội dung chủ yếu cần được KBNN kiểm tra sau khi phát tiền vay là: Mục đích sử dụngvốn, vật tư tương đương làm đảm bảo vốn vay, tình hình quản lý vật tư, hàng hoá, lao động tại chỗ và tăng thêm, tình hình bảo quản và sử dụng TSTC, cầm cố, ngoài ra cũng cần kiểm tra hiệu quả sử dụng vốn vay, khả năng trả nợ, tình hình ghi chép chứng từ sổ sách, kế toán (đối với doanh nghiệp) và tài chính của đơn vị vay vốn. Ngoài việc kiểm tra của cơ quan KBNN, các cơ quan quản lý vốn vay kiểm tra theo yêu cầu quản lý, các cơ quan pháp luật kiểm tra theo chức năng và nhiệm vụ. + Thời điểm kiểm tra: Việc kiểm tra của KBNN thực hiện tuỳ theo từng dự án cụ thể nhưng theo chúng tôi thời điểm chậm nhất là sau 30 ngày kể từ ngày phát tiền vay lần đầu. Đối với cùng thời điểm vay có dự án của người kinh doanh và dự án của cá nhân hộ gia đình, thành viên đoàn thể thì KBNN phải ưu tiên kiểm tra dự án của người kinh doanh trước vì đây là dự án mức vay một hộ lớn, chịu tác động mạnh của cơ chế thị trường. Trường hợp đối tượng vay vốn làm nhiều lần thì việc kiểm tra vốn vay cũng thực hiện làm nhiều lần. KBNN chỉ thực hiện phát tiền vay cho các lần tiếp theo khi đã kiểm tra các lần trước đó. Kiểm tra vốn vay phải lập biên bản kiểm tra giữa người kiểm tra và người được kiểm tra. + Xử lý tình huống trong kiểm tra: Trong kiểm tra, KBNN cần có kết luận cụ thể về tình hình thực hiện dự án. Trường hợp phát hiện bên vay vi phạm nguyên tắc về vay vốn KBNN, được quyền đình chỉ cho vay, thu hồi nợ trước hạn, xử lý chuyển nợ quá hạn hoặc đề nghị phát mại TSTC, cầm cố để thu nợ, trường hợp nghiêm trọng đề nghị truy cứu trách nhiệm hình sự. Xử lý khi kiểm tra sử dụng vốn vay là một công việc phức tạp bởi vì kết quả kiểm tra không những chỉ phụ thuộc vào trình độ, phương pháp và các công cụ kiểm tra mà còn phụ thuộc vào mức độ hợp tác, sự trung thực của người được kiểm tra, các số liệu có đủ độ tin cậy phục vụ cho kiểm tra. Để xây dựng hệ thống kiểm tra một cách thích hợp thì hệ thống đó phải đáp ứng một số yêu cầu cơ bản. + Kiểm tra phải có mục đích cụ thể và phù hợp với khả năng của cán bộ kiểm tra, mục đích của kiểm tra sử dụng vốn vay và kiểm tra tình hình sử dụng vốn vay gắn với hiệu quả kinh tế, xã hội của dự án vay do đó tuỳ theo từng dự án cụ thể (dự án của người kinh doanh hay dự án của hộ gia đình thành viên tổ chức đoàn thể) để có cách kiểm tra phù hợp. Bên cạnh đó phải căn cứ vào khối lượng công việc cần kiểm tra để bố trí cán bộ kiểm tra. Cán bộ kiểm tra sử dụng vốn vay phải là người am hiểu lĩnh vực mà mình kiểm tra, có thể là cán bộ trực tiếp cho vay các dự án hoặc các cán bộ làm nhiệm vụ thanh tra tại đơn vị. + Kiểm tra cần phải khách quan và chính xác, dựa vào những tiêu chuẩn rõ ràng, thích hợp, kết luận kiểm tra phải trên cơ sở các luận chứng vững chắc để minh chứng chứ không dựa trên những suy nghĩ cảm tính. + Kiểm tra cần phải linh hoạt: Trong kiểm tra sẽ có rất nhiều tình huống xảy ra, vì vậy người kiểm tra cần có hướng xử lý linh hoạt đối với từng tình huống cụ thể. Phải xem xét các điều kiện cụ thể tác động đến tình hình sử dụng vốn như việc mua bán hàng, hình thức thanh toán của người vay với bạn hàng, vấn đề môi trường ... để có quyết định xử lý phù hợp. + Kiểm tra phải dẫn đến tác động điều chỉnh: Kiểm tra không phải chỉ đánh giá tình hình sử dụng vốn theo các tiêu thức cụ thể mà còn phải có tác động điều chỉnh để dự án phát huy hiệu quả hoặc giúp người vay quản lý chặt chẽ vốn vay. Cụ thể: . Đối với dự án vay mà thời điểm kiểm tra người vay chưa thực hiện được vì lý do khách quan thì KBNN cần cùng người vay xác định rõ nguyên nhân và yêu cầu người vay sử dụng vốn vay theo dự án đã được duyệt và phải có thời gian kiểm tra lại. . Đối với các vật tư đảm bảo tiền vay cần yêu cầu người vay xuất trình đầy đủ các căn cứ chứng minh (nếu có) hoặc bổ sung các giấy tờ chứng minh tình hình sử dụng tiền vay. Ngoài ra người kiểm tra phải giúp người vay đánh giá tình hình quản lý vật tư hàng hoá, ghi chép sổ sách kế toán và các vấn đề có liên quan đến dự án vay vốn. d- Công tác phối hợp xử lý các vướng mắc còn tồn đọng trong hoạt động cho vay giải quyết việc làm: - Xử lý vốn vay tồn đọng: Vốn vay tồn đọng do cơ chế duyệt vay còn phiền hà, do chưa có sự quan tâm đúng mức của các cơ quan quản lý vốn vay do bản thân quá trình cho vay, thu nợ làm tồn đọng vốn. Để xử lý nguồn vốn vay còn tồn đọng, cần thực hiện một số giải pháp sau: Thứ nhất, cần thay đổi quy trình xét duyệt và thẩm định dự án như đã phân tích ở tiểu mục a, mục 3.3.1.1 chương này. Thứ hai, làm tốt công tác kế hoạch hoá nguồn vốn, đặc biệt là nguồn vốn thu hồi. Hàng năm trên cơ sở thông báo nguồn vốn kế hoạch, UBND tỉnh, ban chỉ đạo cho vay GQVL có phương án xét duyệt, thẩm định các dự án tương ứng với nguồn vốn kế hoạch để khi có nguồn vốn chuyển về có thể cho vay được ngay. Đối với nguồn vốn thu hồi, hàng tháng cơ quan cho vay phải lập kế hoạch nguồn vốn thu hồi trình Ban chỉ đạo cho vay GQVL để làm căn cứ duyệt các dự án vay. Việc lập kế hoạch nguồn vốn thu hồi cần chú ý các dự án kênh địa phương và các dự án kênh Trung ương các đoàn thể hội quần chúng. Đối với dự án kênh địa phương, KBNN phải thông báo kịp thời cho Ban chỉ đạo cho vay GQVL tại địa phương về tình hình nguồn vốn có khả năng thu hồi. Đối với kênh Trung ương hội đoàn thể, KBNN phải thông báo cho hội đoàn thể cấp tỉnh biết để có kế hoạch thẩm định, xét duyệt dự án vay. Cách thức xác định nguồn vốn thu hồi như sau: Cách thức xác định nguồn vốn thu hồi (đối với một đơn vị kho bạc) trong tháng kế hoạch dựa trên các căn cứ cụ thể sau: + Số vốn cho vay trong hạn đến hạn thu nợ trong tháng (ký hiệu là A). Vốn cho vay đến hạn thu nợ trong tháng gồm loại kỳ hạn 1 năm, 2 năm và 3 năm. Để xác định số thu nợ đến hạn, cần thiết phải căn cứ vào báo cáo cho vay các năm trước để tính toán. . Đối với báo cáo cho vay cách tháng kế hoạch một năm, lấy số vay kỳ hạn một năm (ký hiệu là X). . Báo cáo cho vay cách tháng kế hoạch hai năm lấy số cho vay kỳ hạn hai năm (ký hiệu là Y). . Báo cáo cho vay cách tháng kế hoạch ba năm, lấy số cho vay kỳ hạn ba năm (ký hiệu là Z). Tổng cộng số cho vay trên ba báo cáo trên, ta được số thu nợ trong hạn đến hạn trong tháng. Từ giả định trên ta có công thức: A = X + Y + Z (3.1) + Số vốn quá hạn đầu tháng kế hoạch có khả năng thu hồi trong tháng (ký hiệu là B). Đây là số nợ quá hạn từ các tháng trước tháng kế hoạch còn tồn đọng. Việc xác định số nợ quá hạn có thể thu hồi phải trên cơ sở phân tích, đánh giá từng dự án quá hạn và biện pháp thu hồi. + Số chênh lệch giữa phát sinh nợ quá hạn và thu nợ quá hạn phát sinh trong tháng kế hoạch (ký hiệu là C). Số phát sinh nợ quá hạn là số vốn vay chuyển nợ quá hạn trong tháng. Số thu nợ quá hạn phát sinh trong tháng là số tiền quá hạn thu được từ các dự án phát sinh trong tháng. Trong ba yếu tố trên, số vốn vay trong hạn đến hạn thu nợ trong tháng được xác định trên các báo cáo cho vay, hai yếu tố về số vốn quá hạn có thể thu hồi và chênh lệch phát sinh nợ quá hạn và thu nợ quá hạn phát sinh trong tháng là số liệu dự kiến. Ta có công thức xác định nguồn vốn thu hồi trong tháng (ký hiệu là N) như sau: N = A + B - C (3.2) Ngoài công thức xác định nguồn vốn thu hồi ở trên, nguồn vốn thu hồi còn phụ thuộc vào số vốn thu hồi được tăng (do ở đơn vị kho bạc khác chuyển đến) hoặc giảm ( do chuyển đi đơn vị khác ). Vấn đề phát tiền vay từng lần làm tồn đọng vốn, theo chúng tôi nên quy định thời gian từ khi phát tiền vay lần đầu đến món vay tiếp theo không vượt quá 1 tháng để người vay khẩn trương và có đủ thời gian thực hiện sản xuất kinh doanh. Trường hợp dự án còn hạn mức mà người vay không đủ điều kiện vay, cơ quan cho vay phải báo cáo kịp thời để chuyển nguồn vốn vay cho dự án khác. Giải quyết cho vay phải hết sức linh hoạt, trường hợp người vay không đủ TSTC để vay hết số tiền đã được duyệt vay, căn cứ vào nhu cầu thực tế của người vay có thể phát tiền vay theo mức phù hợp với TSTC. Trường hợp thu nợ được một phần vốn của dự án vay, phải tập hợp chung vào nguồn vốn thu hồi của kênh vay để thực hiện duỵệt vay dự án khác kịp thời mà không cần phải đợi thu nợ cả dự án mới duyệt cho vay. Trong việc xử lý nguồn vốn tồn đọng thì cải tiến quy trình thẩm định xét duyệt dự án và việc kế hoạch hoá nguồn vốn có vai trò quyết định. - Giảm nợ quá hạn : Nợ quá hạn là một chỉ tiêu tổng hợp đánh giá chất lượng công tác cho vay GQVL . Muốn giảm được nợ quá hạn không chỉ cơ quan KBNN tích cực đôn đốc thu nợ mà còn phải có sự phối hợp chặt chẽ của các cơ quan quản lý vốn vay, sự chỉ đạo của UBND các cấp và sự tích cực của các cơ quan pháp luật. Nợ quá hạn do rất nhiều nguyên nhân cả chủ quan và khách quan, cả về cơ chế chính sách và thực tiễn. Vì vậy muốn giảm được nợ quá hạn, cần phân định rõ trách nhiệm của các cơ quan quản lý vốn vay trong thu nợ vốn vay. Phải coi giảm tỷ lệ nợ quá hạn, số tuyệt đối nợ quá hạn là một chỉ tiêu thi đua không chỉ trong ngành KBNN mà của các ban chỉ đạo cho vay GQVL từ tỉnh đến huyện. Ngoài những cải tiến về thẩm định, về thế chấp tài sản, về các điều khoản và điều kiện vay, về quản lý và kiểm tra sử dụng vốn vay... Theo chúng tôi muốn giảm được nợ quá hạn cần tập trung thực hiện một số biện pháp sau: Thứ nhất, phối hợp đồng bộ giữa các cơ quan ban ngành trong thu nợ vốn vay. Phối hợp trong thu nợ là công việc hết sức cần thiết bởi vì trong thu nợ vốn vay, vấn đề quan trọng vẫn là đôn đốc, cùng người vay tháo gỡ, tìm nguồn của người vay để yêu cầu họ trả nợ. Việc phát mại TSTC chỉ là biện pháp tình thế và phát mại TSTC còn có rất nhiều khó khăn. Do vậy, các ngành chức năng phải vào cuộc để tích cực đôn đốc các hộ vay trả nợ. Quá trình đôn đốc hộ vay trả nợ phải kết hợp tốt giữa tuyên truyền giáo dục để người vay hiểu về trách nhiệm trước pháp luật đồng thời kết hợp các biện pháp cứng rắn của chính quyền UBND xã, của các cơ quan pháp luật yêu cầu người vay trả nợ. Trường hợp các hộ vay không trả nợ phải đôn đốc nhiều lần, nhiều ngành đôn đốc và phải lập biên bản từng lần đốc nợ. Thông qua mối quan hệ của người vay với các bạn hàng, với các cơ quan để xác định nguồn trả nợ của người vay. Trường hợp xác định được nguồn trả nợ của người vay (vốn của người vay chưa thu hồi do đầu tư sản xuất tại một đơn vị nào đó) lập tức phối hợp với cơ quan đơn vị đang nợ người vay để thực hiện việc trả nợ cho KBNN. Để làm được việc này, các cơ quan thu nợ phải đề nghị với UBND huyện (quận) can thiệp giứp đỡ, làm trung gian trong việc chuyển trả nợ của hộ vay quá hạn. Thứ hai, làm tốt việc cho vay lại, gia hạn nợ với các dự án đủ điều kiện. Cho vay lại và gia hạn nợ nếu dự án có đủ điều kiện là biện pháp giúp chủ dự án tháo gỡ khó khăn, tiếp tục phát triển sản xuất để trả nợ. Cho vay lại và gia hạn nợ có những điều kiện quy định khắt khe về thủ tục và thời gian. Để tránh cho các dự án đã đủ điều kiện được vay lại hoặc được gia hạn nợ bị chậm về thời gian phải chuyển nợ quá hạn, trong quản lý vốn vay cần phải làm tốt một số công việc. + Đối với dự án xin vay lại: Để đảm bảo dự án được đảo nợ đúng thời gian, các chủ dự án có nhu cầu vay lại phải nắm bắt và gửi kịp thời thủ tục vay lại về cơ quan xét duyệt dự án (trước khi đến hạn trả nợ một tháng). Ngay sau khi nhận được thủ tục vay lại, cấp xét duyệt dự án phải tổ chức thẩm định và phải thông báo ngay kết quả thẩm định cho chủ dự án được biết. Trường hợp dự án không đủ điều kiện vay lại, cơ quan thẩm định thông báo để chủ dự án có biện pháp trả nợ. Đối với các dự án đủ điều kiện vay lại nhưng hồ sơ thủ tục làm chậm, quyết định về sau khi dự án đã chuyển quá hạn, cần phải xác định rõ nguyên nhân thuộc về người vay hay cơ quan thẩm định xét duyệt dự án. + Đối với dự án đề nghị gia hạn nợ: KBNN kiểm tra nếu đủ điều kiện gia hạn nợ thì thực hiện ngay việc gia hạn nợ cho người vay. Trong gia hạn nợ phải rất thận trọng nhưng cũng cần tránh tình trạng do sợ trách nhiệm nên KBNN không gia hạn nợ. 3.3.2- Các giải pháp cho vay qua ngân hàng phục vụ người nghèo: 3.3.2.1- Về cơ chế chính sách: Vấn đề khó khăn lớn nhất hiện nay là cơ chế tạo lập nguồn vốn. Theo đánh giá của NHNg thì trong các năm tiếp theo chúng ta có số hộ đói nghèo vào khoảng 4 triêụ hộ. Nếu mức vay bình quân là 2,19 triệu đồng/hộ (thời điểm tháng 10 năm 2001) thì chúng ta cần lượng vốn vào khoảng 8 000 tỷ đồng. Để tạo lập nguồn vốn ổn định cho vay hộ nghèo, theo chúng tôi cần thực hiện một số giải pháp cụ thể như sau: Thứ nhất, NSNN cấp vốn hoạt động cho NHNg theo các hình thức: + Bổ sung vốn điều lệ hàng năm: Nguồn vốn bổ sung này được hoạch định trong kế hoạch tài khoá hàng năm của Nhà nước và được xác định trên cơ sở thực trạng đói nghèo hàng năm có tính đến sự biến động ở năm kế hoạch. + Chuyển các nguồn vốn thông qua phát hành trái phiếu, tiết kiệm bưu điện, vốn ODA (Viện trợ phát triển chính thức). Thứ hai, tiếp tục duy trì nguồn cấp bù lãi suất theo kế hoạch hàng năm để ngân hàng người nghèo huy động vốn thông qua các ngân hàng thương mại, đặc biệt là ngân hàng NN & PTNT Việt nam. Thứ ba, kết hợp chặt chẽ với các kênh tài chính khác để hỗ trợ vốn cho người nghèo.Việc kết hợp này cần đặc biệt chú ý đến chương trình cho vay vốn từ nguồn Quỹ Quốc giaHTVL, nguồn vốn của NHNN & PTNT, tạo ra thị trường vốn đa dạng dưới nhiều hình thức khác nhau. Bên cạnh cơ chế tạo vốn, Nhà nước cần nghiên cứu có chính sách cho vay khác đối với các hộ nghèo ở nơi không có ruộng đất sản xuất kinh doanh, sống chủ yếu là đi làm thuê. Muốn vậy cần phải phối hợp với chính sách định canh định cư đồng thời mở rộng hình thức cho vay đối với các cơ sở thu hút được nhiều hộ nghèo vào sản xuất và dịch vụ. 3.3.2.2- Về tổ chức thực hiện: Cho vay qua NHNg trong những năm qua đã chứng minh tính đúng đắn của chủ trương Nhà nước hỗ trợ vốn cho người nghèo giúp người nghèo vươn lên hoà nhập với cộng đồng. Tuy nhiên, để cho vay qua NHNg đạt được hiệu quả cao hơn, đạt được mục tiêu XĐGN của Nhà nước đề ra, theo chúng tôi cần thực hiện một số giải pháp cụ thể sau: a- Thực hiện nghiêm túc quy trình và nghiệp vụ tín dụng Khi nghiên cứu cơ chế vay vốn NHNg, có thể thấy thủ tục cho vay hộ nghèo đơn giản, do vậy những vướng mắc trong cơ chế chính sách không lớn nhưng lại nan giải trong cơ chế vận hành bởi vì hộ nghèo muốn được vay vốn phải qua nhiều khâu bình xét nên có thể dẫn đến sai sót trong việc xác định đối tượng vay. Bên cạnh đó, do đội ngũ cán bộ của NHNg là kiêm nhiệm nên việc đầu tư công sức trí tuệ cho vay NHNg không cao hay nói cách khác chưa sâu sát trong cho vay, thu nợ, kiểm tra sử dụng vốn vay... Vì vậy, việc chấp hành nghiêm quy trình nghiệp vụ tín dụng là trách nhiệm của cả người cho vay và người đi vay, nhằm hạn chế những sai sót có thể xảy ra. Để thực hiện tốt quy trình nghiệp vụ tín dụng, cần thiết phải chấn chỉnh các hoạt động nghiệp vụ của NHNg, tổ vay vốn và người vay. Cụ thể: - Đối với NHNg: Nắm chắc danh sách hộ nghèo theo chuẩn mực của Bộ LĐTB & XH , theo từng xã, phường. Phải điều tra xác định số hộ nghèo có đủ điều kiện vay vốn để phân phối nguồn vốn sát với nhu câù vay vốn của hộ nghèo trên từng địa bàn. Nâng cao vai trò kiểm tra của cán bộ lãnh đạo đối với các cán bộ tín dụng trực tiếp cho vay, kịp thời uốn nắn những sai phạm, những thiếu sót trong việc chấp hành quy trình, thủ tục cho vay. - Đối với các tổ vay vốn và tổ chức xã hội: Thành lập tổ vay vốn phải dựa trên tinh thần tự nguyện và cộng đồng trách nhiệm, tổ trưởng tổ vay vốn phải do các tổ viên bầu trên tinh thần dân chủ, công khai. Các tổ vay vốn, các tổ chức đoàn thể thường xuyên kiểm tra tình hình sử dụng vốn của người vay giứp đỡ người vay nắm bắt được quy trình và nghĩa vụ trong vay vốn NHNg. - Đối với người vay: Nắm bắt được các yêu cầu trong thực hiện quy trình, nghiệp vụ tín dụng; đồng thời có trách nhiệm sử dụng vốn vay đúng mục đích và hoàn trả vốn vay đúng hạn. b- Nâng cao chất lượng tín dụng: Cùng với việc mở rộng tín dụng, NHNg cần phải quan tâm đến chất lượng tín dụng. Đây là mối quan hệ hữu cơ hết sức quan trọng giữa số lượng - chất lượng của NHNg, vừa đáp ứng yêu cầu về vốn ngày càng tăng của người nghèo, góp phần bảo toàn và phát triển vốn. Chất lượng tín dụng, vốn tín dụng NHNg phải được đánh giá trên các mặt chủ yếu như về số lượng người nghèo được vay, số hộ thoát khỏi đói nghèo, tình hình sử dụng vốn vay, đầu tư vào các ngành nghề sản xuất... tình hình nợ quá hạn của NHNg. Muốn đạt được yêu cầu về nâng cao chất lượng tín dụng, một vấn đề có ý nghĩa hết sức quan trọng là sự phối hợp giữa ngân hàng và chính quyền địa phương, các tổ nhóm vay vốn, các hội đoàn thể. Sự phối hợp này phải được làm thường xuyên, chặt chẽ để bình chọn, xét duyệt cho vay đúng người, đúng đối tượng hộ nghèo thiếu vốn sản xuất và có điều kiện sử dụng vốn tốt. NHNg cùng với các đoàn thể phải tổ chức chuyển giao kỹ thuật, đi sâu hướng dẫn, giới thiệu cho hộ nghèo cách làm ăn, kinh nghiệm công nghệ để hộ nghèo đầu tư vốn có hiệu quả. Cùng với việc đầu tư vốn, NHNg, chính quyền địa phương và các hội, đoàn thể cũng giúp hộ nghèo trong việc tiêu thụ sản phẩm, tư vấn, giới thiệu sản phẩm để người nghèo có khả năng bán hàng, thu hồi vốn trả nợ cho Nhà nước. NHNg phải cùng chính quyền địa phương thường xuyên khảo sát, đánh giá tình hình vay vốn hộ nghèo ở xã, phường, thấy rõ những khó khăn của hộ nghèo để có cách thức giúp đỡ phù hợp. Thực tiễn cho thấy rằng nếu có sự phối hợp tốt giữa NHNg với chính quyền địa phương, các tổ nhóm vay vốn, các hội đoàn thể sẽ giúp cho việc đầu tư của NHNg đúng đối tượng, sử dụng vốn đúng mục đích thu hồi nợ đúng hạn, rủi ro thấp, hiệu quả đầu tư mang lại cao hơn. c- Củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ nhóm vay vốn: Trong những năm qua, hoạt động của tổ nhóm vay vốn đã phát huy những ưu điểm như tập hợp hộ nghèo với quy mô nhỏ từ 7 đến 10 hộ trong tổ vay vốn phù hợp với trình độ tự quản lý của người nghèo. Nguyên tắc thành lập tổ là tự nguyện, không phân biệt ngành nghề tuổi tác đã tạo điều kiện cho đông đảo người nghèo tham gia sinh hoạt tổ là dịp để người nghèo giao lưu, học hỏi kinh nghiệm, trao đổi cách làm ăn giúp nhau trong lúc khó khăn hoạn nạn. Đồng thời qua hoạt động của tổ nhóm giúp chính quyền các cấp, NHNg có điều kiện tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về chương trình xoá đói giảm nghèo và các chủ trương kinh tế- xã hội khác đến với hộ nghèo. Tuy nhiên cho đến cuối năm 2000, số tổ nhóm được đào tạo còn ít (30%) số tổ nhóm hiện có, vì vậy hoạt động của tổ nhóm chưa qua đào tạo còn mang nặng tính hình thức và không hiệu quả, thậm chí tác động tiêu cực đến tình hình sử dụng vốn đến hiệu quả vốn vay của NHNg. Để hoạt động của tổ nhóm ngày càng phát huy hiệu quả, phải tăng cường công tác đào tạo cán bộ và tập huấn nghiệp vụ cho các tổ nhóm vay vốn. Nội dung tập huấn phải được chuẩn bị kỹ lưỡng, bao quát toàn bộ chính sách cho vay hộ nghèo hiện thời nhưng lại đi sâu vào các tác nghiệp cụ thể của người vay, của tổ vay vốn, của NHNg, quy trình và thủ tục vay. Trong tập huấn làm rõ trách nhiệm, quyền lợi, quyền hạn của tổ vay vốn, của tổ viên để mọi thành viên của tổ vay vốn nắm bắt cùng tham gia vào thực hiện quy ước của tổ đã đề ra. Ngoài việc quan trọng là đã bình xét đối tượng nghèo đủ điều kiện vay vốn, tổ vay vốn còn phải được đào tạo về các kiến thức, kinh nghiệm trong SXKD để cùng với các hộ đoàn thể chuyển giao, tuyên truyền, giúp đỡ người nghèo cách làm ăn, phải sử dụng vốn đúng mục đích và có hiệu quả. d- Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát: Cũng như cho vay GQVL qua KBNN, công tác kiểm tra qua NHNg phải đạt được những yêu cầu kiểm tra và phải tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát nhằm phát hiện kịp thời những thiếu sót, hạn chế thấp nhất các vi phạm về cơ chế, nguyên tắc tín dụng, ngăn chặn và xử lý kịp thời các hành vi tiêu cực, tham ô để góp phần lành mạnh hoá hoạt động tín dụng NHNg. Công tác kiểm tra qua NHNg phải bằng nhiều hình thức: kiểm tra tại chỗ, kiểm tra định kỳ, kiểm tra đột xuất, kiểm tra chéo, kiểm tra của Ban đại diện HĐQT, cụ thể: - Kiểm tra tại chỗ, kiểm tra định kỳ: thường do tổ vay vốn, cán bộ tín dụng NHNg kiểm tra để xác định đối tượng vay, tình hình sử dụng vốn của người vay. - Kiểm tra đột xuất thường là của NHNg khi phát hiện người vay có dấu hiệu sử dụng vốn sai mục đích hoặc hoạt động của tổ nhóm vi phạm nguyên tắc tín dụng như thu tiền của người vay nhưng không nộp vào ngân hàng, tham ô, làm ăn thất thoát vốn vay. - Kiểm tra chéo thường do các NHNg tiến hành nhằm thực hiện sự giám sát kiểm tra trong hệ thống, đảm bảo tính nghiêm minh, khách quan trong kiểm tra. - Kiểm tra của Ban đại diện HĐQT, kiểm tra của các cơ quan chức năng như thanh tra của ngân hàng Nhà nước, kiểm tra của Viện kiểm sát... nằm trong chương trình thanh tra thực hiện sự giám sát của Nhà nước với hoạt động NHNg từ Trung ương đến địa phương. Thông qua công tác thanh tra ngoài việc phát hiện ra các vướng mắc về cơ chế chính sách các vụ việc trong thực hiện cho nợ, phải đề xuất những giải pháp về cơ chế chính sách sử lý kiên quyết các vụ việc, các sai sót đã được phát hiện. e- Tập trung xử lý nợ quá hạn, nợ khó đòi: Để giữ nghiêm kỷ cương trong hoạt động cho vay của NHNg, cần tập trung xử lý nợ quá hạn, nợ khó đòi, tránh tình trạng nợ dây dưa và kéo dài từ năm này sang năm khác. Muốn thu được nợ quá hạn, nợ khó đòi, điều cốt yếu đầu tiên là phải phân loại cho được tình hình nợ quá hạn theo các nguyên nhân cụ thể. Nguyên nhân nợ quá hạn có nhiều, có cả nguyên nhân thuộc về Nhà nước và thuộc về người nghèo vay vốn, nguyên nhân về môi trường... tuỳ thuộc vào từng loại nguyên nhân để đề ra biện pháp thu nợ thích hợp. Vấn đề tiếp theo cũng được đặt ra trong thu nợ quá hạn của người nghèo là nguồn trả nợ. Trường hợp đã thẩm định, xác định được các trường hợp rủi ro bất khả kháng thuộc diện khoanh nợ hoặc xoá nợ thì chính phủ cần sớm cho xử lý phù hợp với từng đối tượng vay cụ thể. Đối với các đối tượng khác không thuộc diện khoanh, xoá nợ, cần phải làm rõ về mục đích sử dụng tiền vay; đồng thời phải xem xét, xác định nguồn trả nợ của người vay qua các quan hệ qua các quan hệ của người vay với xã hội. Nâng cao tính cộng đồng trách nhiệm của tổ vay vốn, khi có thành viên trong tổ nợ quá hạn thì NHNg cần yêu cầu các thành viên khác của tổ có trách nhiệm giúp đỡ cùng người vay trả nợ cho NHNg. Trong quá trình thu nợ đối với các dự án các xã vay lại của người vay sử dụng vốn sai mục đích, các tổ trưởng, tổ nhóm xâm tiêu tiền của người vay cần làm rõ trách nhiệm cá nhân của những sai phạm và cần thiết phải truy cứu trách nhiệm hình sự. Đối với khoản nợ quá hạn bị thiệt hại do bất khả kháng xảy ra năm 1999 đã được Bộ Tài chính, Ngân hàng nhà nước thẩm định hồ sơ, đề nghị Chính phủ có hướng xử lý cụ thể. Xử lý nợ quá hạn, nợ khó đòi không thể tách rời việc hạn chế nợ quá hạn phát sinh. Do vậy cần phải làm tốt việc lựa chọn đối tượng vay, đủ điều kiện giúp đỡ người vay không những về vốn mà cả cách làm ăn và tiêu thụ sản phẩm. 3.4 - Những điều kiện cần thiết để đảm bảo thực hiện có hiệu quả các giải pháp cho vay Giải quyết việc làm trong nông nghiệp: Để đảm bảo thực hiện có hiệu quả các giải pháp cho vay GQVL trong nông nghiệp như đã nêu trên đòi hỏi phải tạo được các điều kiện cần thiết sau đây: 3.4.1- Nhà nước cần bố trí nguồn vốn hợp lý cho Quỹ Quốc giahỗ trợ việc làm: Dự báo về lao động và việc làm năm 2001- 2005: Trong 5 năm tới, dự tính thu hút và tạo việc làm thêm cho khoảng trên 7,5 triệu lao động trong các ngành kinh tế xã hội, bình quân mỗi năm khoảng 1,5 triệu người trong đó: ở khu vực nông thôn, với việc đổi mạnh cơ cấu sản xuất, mùa vụ cây trồng, vật nuôi phát triển đa dạng ngành nghề trong các lĩnh vực nông nghiệp, thủ công mỹ nghệ, dịch vụ... dự kiến có thể thu hút và tạo việc làm cho khoảng trên 9 triệu lao động (tính theo ngày công quy đổi). ở khu vực thành thị, dự kiến trong 5 năm có thể thu hút và tạo việc làm khoảng 1,78 triệu người trong các ngành sản xuất công nghiệp, xây dựng và dịch vụ, đưa tổng số lao động có việc làm ở thành thị chiếm khoảng 5,4% số lao động trong độ tuổi [14, tr.267]. Để đáp ứng nhu cầu về vốn thì chúng ta phải xác định lượng vốn vay cần thiết để thực hiện mục tiêu GQVL hàng năm. Theo tính toán của các chuyên gia kinh tế thì mức vốn cần thiết để tạo ra một chỗ làm việc mới là 5 triệu đồng thì với khả năng GQVL bình quân hàng năm của Quỹ Quốc giaHTVL là 22%, số vốn cần thiết mỗi năm sẽ là : 1,5 triệu người * 5 triệu đồng/người * 22% =1.650 tỷ đồng (3.3) Thực tế những năm gần đây số vốn để bổ sung cho Quỹ Quốc giaHTVL chỉ khoảng trên dưới 80 tỷ đồng nên chưa đáp ứng được nhu cầu vay. Muốn giải quyết vấn đề này, không chỉ trông chờ vào nguồn vốn NSNN được cân đối trong kế hoạch hàng năm mà phải được tạo ra bằng nhiều nguồn vốn khác nhau, chúng tôi xin đề xuất một số hướng cụ thể: Thứ nhất, huy động vốn từ phát hành trái phiếu KBNN. Qua 10 năm thực hiện, KBNN đã huy động một khối lượng vốn lớn hàng chục ngàn tỷ đồng, góp phần cân đối NSNN và bổ sung nguồn vốn cho đầu tư phát triển. Trên cơ sở nhu cầu vốn của chương trình cho vay GQVL, KBNN tính toán số vốn cụ thể cần huy động theo từng đợt ở những địa bàn nhất định. Toàn bộ số vốn huy động từ thu do phát hành trái phiếu được ghi bổ sung cho nguồn vốn vay GQVL. Việc trả nợ được tính từ nguồn trả nợ vay của các dự án để thanh toán cho người mua trái phiếu. Chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động vốn được trích từ quỹ dự phòng rủi ro để bù đắp. Thứ hai, sử dụng nguồn vay nợ viện trợ của nước ngoài, các quỹ dự trữ tài chính. Nguồn vốn vay nợ và viện trợ của nước ngoài là nguồn vốn tuy không ổn định thường xuyên nhưng với lãi suất thấp và thời hạn dài có thể bổ sung làm nguồn vốn tín dụng tài trợ đối với các dự án vay vốn GQVL. Hiện nay các quỹ dự trữ tài chính như quỹ ngoại tệ tập trung của Nhà nước, quỹ dự trữ Nhà nước tương đối ổn định và tăng dần theo sự tăng trưởng của nền kinh tế . KBNN có thể đề nghị Chính phủ cho phép sử dụng một tỷ lệ nhất định bổ sung cho nguồn vốn tín dụng tài trợ. Tất nhiên việc quản lý nguồn vốn này phải bảo toàn vốn và bù đắp ngay khi phải trả nợ nước ngoài hoặc hoàn trả lại các quỹ dự trữ. Việc bổ sung nguồn vốn tín dụng từ các quỹ này phải cân đối với quỹ dự phòng rủi ro vốn vay GQVL. Thứ ba, lập quỹ giải quyết việc làm của địa phương. Đến hết năm 2000, trong 61 tỉnh, thành phố toàn quốc mới chỉ có 9 đơn vị cho vay từ quỹ GQVL địa phương. Trong thời gian tới, muốn giải quyết tốt vấn đề việc làm, các tỉnh cần bố trí nguồn vốn trong kế hoạch ngân sách hàng năm để lập quỹ GQVL tại địa phương. Mức trích lập quỹ từ ngân sách địa phương do Hội đồng nhân dân tỉnh quyết định căn cứ vào nhu cầu việc làm của từng tỉnh. Song song với việc tạo lập nguồn vốn, Trung ương cần có biện pháp sử dụng vốn hợp lý bằng cách điều hoà nguồn vốn cho các tỉnh. Những nơi để nguồn vốn tồn đọng kéo dài (trên 3 tháng) thì Trung ương điều chuyển ngay cho các đơn vị khác sử dụng nhằm tránh tình trạng vốn vay vừa thừa vừa thiếu như hiện nay. 3.4.2 - Nâng cao trình độ chuyên môn và sử dụng hợp lý đội ngũ cán bộ: Cho vay GQVL là công việc mới mẻ và phức tạp, động chạm đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực, vừa phải đảm bảo tuân thủ chặt chẽ các nguyên tắc, vừa phải hết sức linh hoạt trong lựa chọn kiểm tra các dự án. Đối với cho vay qua KBNN, thực tế đội ngũ cán bộ cơ quan LĐTB & XH chủ yếu là kiêm nhiệm, không có những cán bộ chuyên làm công tác cho vay GQVL, đội ngũ cán bộ KBNN còn mỏng: Biên chế cán bộ có hạn, việc bố trí cán bộ trực tiếp quản lý chương trình cho vay GQVL hiện nay đối với kho bạc cấp tỉnh chỉ có 1 - 2 cán bộ, đối với kho bạc cấp huyện, rất ít huyện bố trí được 1 cán bộ, hầu hết các huyện chỉ có 1 cán bộ quản lý tất cả các chương trình mục tiêu trong đó có chương trình cho vay GQVL [28]. Với thực trạng cán bộ như vậy và yêu cầu quản lý vốn vay Quỹ Quốc giaHTVL, vừa phải nâng cao trình độ chuyên môn, năng lực phẩm chất cho cán bộ, vừa phải bổ sung đội ngũ cán bộ trực tiếp thực hiện nhiệm vụ quản lý vốn vay có thể đảm nhận tốt công việc. Đội ngũ cán bộ không những phải am hiểu về các nguyên tắc, chế độ về chính sách tín dụng của Nhà nước mà còn phải có kiến thức rộng về nhiều lĩnh vực xã hội, các chính sách về pháp luật của Nhà nước như : Luật hình sự, Luật dân sự, Luật đất đai... đây là những luật hết sức cơ bản trong vận dụng xử lý các trường hợp nợ quá hạn. Đối với cho vay qua NHNg, đội ngũ cán bộ là cán bộ của các ngân hàng thương mại, chủ yếu là kiêm nhiệm do đó chưa thể đi sâu sát trong các nghiệp vụ từ cho vay đến kiểm tra sử dụng vốn vay. Từ thực tế đội ngũ cán bộ như vậy phải tăng cường tập huấn nghiệp vụ, phổ biến các kiến thức pháp luật thường thức thông qua diễn đàn, qua sách báo và các phương tiện thông tin khác. Đội ngũ cán bộ phải tâm huyết, có bản lĩnh nghề nghiệp và có kinh nghiệm, cán bộ phải được thử thách, điều chuyển phù hợp với công việc. Đánh giá và lựa chọn cán bộ cho công tác tín dụng GQVL là yêu cầu hết sức cần thiết để quản lý tốt công tác cho vay GQVL. Một trong những yêu cầu về chất lượng cán bộ là không những làm tốt công việc nghiệp vụ mà phải có năng lực phát hiện những bất cập trong công tác để đề xuất các giải pháp nhằm làm cho công tác cho vay GQVL ngày càng hoàn thiện, cán bộ phải được đào tạo những kiến thức mới đặc biệt là am hiểu về kinh tế thị trường. Để làm tốt công tác cán bộ, một trong những yêu cầu quản lý là xây dựng chế độ thưởng phạt nghiêm minh, phải có kiểm tra, kiểm soát và giúp đỡ của cán bộ có kinh nghiệm, của lãnh đạo thì mới tránh cho cán bộ vấp váp, sai lầm và động viên đội ngũ cán bộ tâm huyết, sáng tạo với công việc. Các cơ quan quản lý cho vay cần giữ nghiêm kỷ luật trong quản lý cán bộ, xác định rõ trách nhiệm cán bộ trong quá trình từ thẩm định, cho vay đến thu nợ vốn vay. 3.4.3 - Hoàn thiện bộ máy quản lý ở Trung ương và địa phương: Hiện nay, có những quan điểm khác nhau về việc giao KBNN là cơ quan cho vay GQVL. Quan điểm giao KBNN là cơ quan quản lý vốn vay GQVL dựa trên các lập luận: - Bản chất cho vay GQVL là một khoản chi từ NSNN có hoàn lại, KBNN thực hiện chức năng kiểm soát chi ngân sách thì thực hiện cho vay GQVL là điều đương nhiên. - Hệ thống KBNN hoạt động như một ngân hàng Chính phủ, trong những điều kiện cụ thể, Nhà nước có thể cho phép nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi từ các quỹ dự trữ để tạo nguồn cho vay. - KBNN đã có hệ thống bộ máy quản lý vốn từ Trung ương đến địa phương, có cơ sở vật chất, có đội ngũ cán bộ đang thực hiện nhiệm vụ thì việc giao cho KBNN quản lý vốn vay GQVL sẽ tiết kiệm chi phí quản lý tín dụng nhà nước. Có những quan điểm cho rằng nên giao cho hệ thống ngân hàng thương mại dưới hình thức đại lý cho Nhà nước nhằm tận dụng kinh nghiệm và đội ngũ cán bộ chuyên trách công tác cán bộ của hệ thống ngân hàng.Theo chúng tôi việc giao nhiệm vụ cho cơ quan nào chịu trách nhiệm phải xuất phát từ những thuận lợi và khó khăn trong quản lý vốn vay của mỗi hệ thống tài chính hoặc ngân hàng. Thực tế nhiều năm thực hiện cho vay GQVL cho thấy việc giao nhiệm vụ tín dụng cho vay GQVL cho KBNN có những vướng mắc sau: - Nhiệm vụ của ngành KBNN ngày càng tăng nhưng biên chế có hạn đặc biệt là biên chế cán bộ vốn vay GQVL do vậy ảnh hưởng không nhỏ đến tiến độ giải ngân và thu hồi nợ của chương trình, nhất là khả năng nguồn vốn GQVL ngày càng tăng. - Xét về chức năng nhiệm vụ thì hoạt động KBNN không có chức năng tín dụng. Quá trình thực hiên chính sách cho vay GQVL, KBNN khi xử lý các vướng mắc phát sinh nhất là các thủ tục về bảo đảm vốn vay như thế chấp, tín chấp... thiếu các căn cứ pháp lý hoặc không đủ thẩm quyền để giải quyết nên còn nhiều vấn đề tồn tại. - Việc thực hiện chính sách tín dụng ưu đãi hiện nay gồm cả hệ thống ngân hàng, tài chính (Kho bạc), Quỹ hỗ trợ phát triển thuộc Chính phủ dẫn đến nguồn vốn tín dụng bị dàn trải, thiếu tập trung, trùng lắp về đối tượng được vay, khó khăn trong kiểm tra sử dụng vốn vay và đánh giá hiệu quả kinh tế xã hội của các chương trình tín dụng. Nếu giao cho ngân hàng thương mại thực hiện cho vay GQVL thì không phù hợp với yêu cầu cải cách hệ thống ngân hàng là: Giảm mạnh các hình thức bao cấp về vốn tín dụng, cải cách hệ thống ngân hàng thương mại tách chức năng tín dụng chính sách ra khỏi chức năng kinh doanh của các ngân hàng thương mại quốc doanh. Về mô hình quản lý của NHNg, trước mắt giữ như hiện tại nhưng cần xem xét lại căn cứ tính phí trả cho ngân hàng nông nghiệp để nâng cao hơn nữa trách nhiệm của ngân hàng nông nghiệp đối với tín dụng hộ nghèo. Hiện nay, Chính phủ đã quyết định thành lập ngân hàng chính sách, vì vậy nên giao nhiệm vụ quản lý cho vay GQVL qua KBNN và NHNg sang ngân hàng chính sách. Sự chuyển giao đó nhằm khắc phục tình trạng phức tạp, phân tán của nhiều loại hình tín dụng chính sách khác nhau, tạo điều kiện quản lý tập trung thống nhất các hình thức tín dụng chính sách, gắn chặt giữa cho vay và thu nợ. 3.4.4 - Tăng cường công tác tuyên truyền chế độ chính sách cho vay giải quyết việc làm: Các cơ quan quản lý vốn vay phải giải thích, phổ biến rõ chủ trương chính sách pháp luật của Nhà nước trong cho vay và thu hồi vốn vay. Đặc biệt trong kiểm tra sử dụng vốn vay và xử lý vốn vay phải làm cho người vay thấy rõ việc đầu tư đã đúng mục đích chưa, phải kiên quyết xử lý thu hồi nợ vay cho Nhà nước đối với các trường hợp vi phạm chế độ quản lý vốn vay. Việc tuyên truyền phổ biến chế độ chính sách vay vốn phải hết sức linh hoạt, vừa trực tiếp với các hộ vay vừa gián tiếp thông qua các hội đoàn thể, chính quyền hoặc các hộ vay khác. Giải đáp kịp thời các ý kiến của người vay về xử lý rủi ro, cho vay lại, gia hạn nợ... Thông qua tuyên truyền, phổ biến chính sách pháp luật về vốn vay GQVL nhằm tăng cường trách nhiệm giám sát kiểm tra cuả người vay đối với hoạt động cho vay, giúp người vay có nhận thức và xử lý được các tình huống phát sinh trong quá trình sử dụng vốn vay và trả nợ. 3.4.5 - Làm tốt việc tổng kết đánh giá công tác cho vay giải quyết việc làm: Tổng kết công tác cho vay GQVL phải được làm tốt từ Trung ương tới các địa phương. Thông qua việc tổng kết phải đánh giá được những mặt mạnh, tồn tại trong công tác cho vay GQVL đối với từng địa bàn. Nêu những gương điển hình trong quản lý và sử dụng vốn vay, kiến nghị với các ngành các cấp bổ sung chỉnh lý những vấn đề còn tồn tại cả về cơ chế chính sách và thực tiễn. Phải có những giải pháp cụ thể và đồng bộ để giải quyết dứt điểm những tồn tại, đặc biệt là nợ quá hạn dây dưa kéo dài. Cần xác định rõ lượng vốn cần thiết để đáp ứng nhu cầu GQVL ở địa bàn huyện, tỉnh. Khen thưởng và biểu dương những cá nhân đơn vị thực hiện tốt chính sách cho vay GQVL, khuyến khích bằng lợi ích vật chất với những đơn vị và cá nhân có thành tích, đặc biệt cần chú ý tới các chủ dự án hội đoàn thể. Phát động và giao chỉ tiêu thi đua đối với các ban chỉ đạo GQVL nhằm nâng cao tinh thần trách nhiệm và sự phối hợp các thành viên trong ban chỉ đạo GQVL. 3.4.6 - Lồng ghép hợp lý chương trình cho vay giải quyết việc làm với các chương trình kinh tế xã hội khác trên địa bàn: Là một bộ phận của chính sách việc làm, cho vay GQVL phải kết hợp đồng bộ với các chính sách xã hội khác trên từng địa bàn. Các chính sách đó như chính sách về chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, chính sách về đào tạo nghề cho lao động ở nông thôn, chính sách về cải tạo kết cấu hạ tầng ở nông thôn. Đối với việc GQVL ở khu vực nông thôn cần đặc biệt chú trọng với việc đào tạo nghề cho lao động, phát triển kinh tế trang trại, phát triển các làng nghề truyền thống. Nhiệm vụ GQVL không tách rời việc nâng cao về học vấn và đào tạo nghề. Không có kiến thức tay nghề khó có thể tìm được việc làm ổn định: Hiện nay ở nông thôn hơn 60% số lao động thuần nông (nông, lâm , ngư) còn lại là ngành nghề và dịch vụ; hầu như chưa thoát khỏi tình trạng làm nông nghiệp bằng kinh nghiệm cổ truyền. Theo báo cáo của Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn, tỷ lệ lao động nông nghiệp được đào tạo nghề quá thấp, chỉ chiếm dưới 1% [3, tr.7]. Do vậy để giải quyết tốt việc làm trong nông nghiệp, cho vay GQVL cần khuyến khích những đối tượng có nghề vay vốn để sản xuất kinh doanh. Đối với mọi đối tượng vay cần xem xét các cơ quan chuyên môn kỹ thuật giúp đỡ người vay trong quá trình thực hiện dự án vay. Cho vay GQVL phải tập trung cho việc phát triển các làng nghề truyền thống, vì hiện nay làng nghề đã có một vị thế quan trọng đối với GQVL ở nông thôn. “Chung cả nước các hoạt động ngành nghề đã thu hút khoảng 29,5% lực lượng lao động nông thôn, một tỷ lệ tuy chưa được cao nhưng chiếm vị trí đáng kể về việc làm cho người lao động” [36, tr.7]. Vốn vay GQVL đầu tư vào tăng cường năng lực sản xuất, trang thiết bị máy móc, các sản phẩm hiện nay đang chiếm thị phần cao trong xuất khẩu. Một trong những vấn đề cũng cần được quan tâm đầu tư bằng vốn vay GQVL đó là đầu tư vào các trang trại. Mặc dù vốn đầu tư vào các trang trại hiện nay là nguồn vốn thuộc chương trình 135 (Chương trình giúp đỡ các xã nghèo của Chính phủ). Nhưng nguồn vốn này còn hạn hẹp do đó để tạo ra mô hình kinh tế trang trại, thu hút được nhiều lao động thì cần có sự đầu tư thông qua các chương trình, dự án trong đó có vốn vay GQVL, nhằm ổn định lao động tại các trang trại. Xuất phát từ đặc điểm của sản xuất nông nghiệp và phương hướng nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội của nước ta được đề cập trong các chủ trương đường lối của Đảng, pháp luật của nhà nước, đặc biệt là Văn kiện Đại hội IX Đảng Cộng sản Việt Nam. Từ thực tiễn hoạt động cho vay GQVL trong nông nghiệp, luận án đã đưa ra những quan điểm định hướng nhằm tiếp tục mở rộng và hoàn thiện chương trình quốc gia GQVL. Đồng thời luận án đã đề ra những giải pháp về cả trước mắt cũng như lâu dài, nhằm hoàn thiện cơ chế, chính sách, cũng như mô hình quản lý cho vay GQVL trong nông nghiệp. Kết luận Cho vay GQVL từ nguồn vốn NSNN là một biện pháp tài chính hữu hiệu nhằm giải quyết việc làm cho người lao động, ổn định tình hình kinh tế và xã hội. Đối với nước ta, lao động chủ yếu trong lĩnh vực nông nghiệp và thời gian sử dụng lao động còn thấp, sử dụng nguồn vốn NSNN cho vay GQVL trong nông nghiệp là đòi hỏi, là yêu cầu của việc phát triển kinh tế gắn liền với ổn định xã hội. Qua toàn bộ những vấn đề đã trình bày, luận án giải quyết cơ bản những yêu cầu đặt ra, thể hiện trên các nội dung chủ yếu sau đây: 1- Khái quát hoá những vấn đề lý luận về việc làm, thất nghiệp, một số mô hình về việc làm. Chỉ rõ vai trò, sự cần thiết cho vay GQVL trong nông nghiệp, bản chất của tín dụng tài trợ cũng như của cho vay GQVL từ nguồn vốn NSNN. Phân tích mối quan hệ giữa cho vay GQVL với các hình thức tín dụng khác để thấy rõ hơn đặc điểm tầm quan trọng của cho vay GQVL trong việc giải quyết và ổn định việc làm cho người lao động, trong quá trình thực hiện quản lý vĩ mô nền kinh tế của Nhà nước. Thông qua trình bày kinh nghiệm của tín dụng tài trợ của một số nước trong khu vực, đã làm rõ thêm sự cần thiết sử dụng vốn tín dụng tài trợ của Nhà nước phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế xã hội phù hợp với đặc thù của mỗi nước. 2- Phân tích và đánh giá thực trạng hoạt động cho vay GQVL từ nguồn vốn NSNN trong nông nghiệp, luận án đã chỉ rõ những vấn đề cơ bản để phát triển nông nghiệp hiện nay là vấn đề thị trường, xây dựng cơ sở hạ tầng nông nghiệp nông thôn, từ đó đặt ra yêu cầu mục tiêu cho vay, nội dung cho vay phải phù hợp với việc phát triển nền nông nghiệp tương xứng với yêu cầu công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Với việc nghiên cứu cho vay GQVL được thực hiện bởi hệ thống KBNN và NHNg, luận án đã đánh giá thực trạng cho vay GQVL về cơ chế chính sách và tổ chức thực hiện. Đối với cho vay GQVL qua hệ thống KBNN, luận án đã đi sâu phân tích về cơ chế chính sách vay vốn, trong đó đặc biệt chú ý về phương thức quản lý vốn vay, về thẩm định dự án, đảm bảo tiền vay, vấn đề lãi suất cho vay. Trong thực hiện cho vay thu nợ, với những số liệu và dẫn chứng phong phú, xác thực, luận án đã làm rõ những kết quả cũng như hạn chế trong cho vay GQVL. Đối với cho vay qua NHNg, luận án đã chỉ rõ tác động của thất nghiệp và vấn đề đói nghèo, thất nghiệp đồng hành với đói nghèo và xét ở lĩnh vực GQVL, vốn vay xoá đói giảm nghèo qua NHNg chính là tạo điều kiện cho người nghèo có việc làm, có vốn để sản xuất kinh doanh và làm quen với nền sản xuất hàng hoá. Tuy không đi sâu phân tích toàn bộ hoạt động nghiệp vụ cho vay của NHNg nhưng luận án đã làm sáng tỏ kết quả, chỉ ra những tồn tại trong cho vay với hộ nghèo đó là vấn đề nguồn vốn và tình hình nợ quá hạn. Mặc dù nợ quá hạn của NHNg không phải là cao so với cho vay GQVL qua KBNN nhưng những vấn đề tiềm ẩn nợ quá hạn đang đặt ra yêu cầu phải có những giải pháp, phương thức cho vay phù hợp nhằm đạt hiệu quả cả về kinh tế và xã hội. 3- Trình bày và phân tích rõ nguyên nhân của những tồn tại ảnh hưởng đến hiệu quả cho vay GQVL, những nguyên nhân đó bao gồm cả nguyên nhân về cơ chế chính sách và tổ chức thực hiện. Lồng ghép trong nguyên nhân cơ bản đó, luận án cũng phân tích và sắp xếp các nguyên nhân theo trình tự: Các nguyên nhân thuộc về Nhà nước, thuộc về người vay, thuộc về môi trường. Những nguyên nhân đó có thể được khái quát là: Sự thiếu đồng bộ trong các văn bản pháp luật, hạn chế trong phối hợp cho vay thu nợ, ý thức chấp hành pháp luật của người vay, của các cơ quan quản lý vốn vay, sự thiếu hiểu biết thông tin của người vay, vấn đề môi trường sản xuất kinh doanh và điều kiện tự nhiên ảnh hưởng đến cho vay và thu nợ. 4 - Đề xuất hệ thống giải pháp nâng cao hiệu quả công tác cho vay GQVL bao gồm 3 nhóm giải pháp lớn: Các giải pháp mang tính định hướng; các giải pháp cụ thể qua 2 hệ thống KBNN và NHNg; những điều kiện cần thiết để thực hiện các giải pháp nâng cao hiệu quả công tác cho vay GQVL trong nông nghiệp. Việc xây dựng hệ thống giải pháp dựa trên chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước đã được Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đề ra, đồng thời dựa trên cơ sở thực tiễn tình hình thực hiện cho vay thu nợ những năm vừa qua. Những giải pháp đưa ra trong luận án là có tính khả thi vì chúng dựa trên sự kết hợp chặt chẽ giữa thực tiễn với nghiên cứu lý luận chung về tín dụng tài trợ trong nền kinh tế thị trường. 5- Cho vay GQVL trong nông nghiệp là một vấn đề lớn và rất phức tạp, bởi vì việc làm trong nông nghiệp có liên quan đến nhiều lĩnh vực kinh tế xã hội, tác động trực tiếp đến chủ trương của Đảng và pháp luật của nhà nước về chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp; việc bố trí lao động và việc làm giữa thành thị, nông thôn...Vì vậy, nâng cao hiệu quả công tác cho vay GQVL trong nông nghiệp góp phần ổn định và tạo việc làm cho người lao động, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Danh mục tài liệu tham khảo 1. Alvin Toffler và heiditoffler (1996), Tạo dựng một nền văn minh mới, chính trị của làn sóng thứ ba, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 2. Vũ Đình Bách (Chủ biên) (1998), Những vấn đề cơ bản về kinh tế vĩ mô, Nxb Thống kê, Hà Nội. 3. Báo nhân dân (2001)"Đào tạo nghề cho lao động ở nông thôn”, (16836), tr.7. 4. Báo nhân dân (2001), “Phát biểu của Thủ tướng Phan Văn Khải tại kỳ họp Quốc hội khoá X ngày 18/6/2001”, tr. 2. 5. David Begg ( 1992), Kinh tế học, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 6. Lê Bình (2001), “Hiệu quả xoá đói giảm nghèo ở Sóc trăng”, Báo nhân dân (16911), tr.3. 7. Bộ lao động TB & XH – BTC – BKHĐT ( 1999), Thông tư liên tịch hướng dẫn cho vay từ quỹ Quốc gia HTVL và lập quỹ Giải quyết việc làm địa phương số 13/1999/TT – BLĐ Bộ LĐ TB & XH BTC – BKHĐT ngày 8/5/1999. 8. Bộ Kế hoạch đầu tư ( 1998), Chuyên đề thẩm định dự án đầu tư, Hà Nội. 9. Nguyễn Thanh Cai (2000), Những giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư vốn tín dụng tài trợ của nhà nước ở tỉnh Thừa Thiên Huế, đề tài khoa học cấp ngành, Hà Nội. 10. Trần Đình Chính (1999), “ Tỷ lệ thất nghiệp và vấn đề việc làm”, Báo nhân dân, (16199) tr.2. 11. Chủ tịch nước C.H.X.H.C.N.V.N (1995), "Luật dân sự", Phụ trương báo nhân dân cuối tuần, (H8), tr. 14. 12. Mai Ngọc Cường(chủ biên) (1996), Hướng dẫn học tập lịch sử các học thuyết kinh tế, Nxb Thống kê, Hà Nội. 13. Thuỳ Dương (2001), “ Vốn 120 khôi phục nghề thổ cẩm”, Bản tin KBNN, (81), tr.29. 14. Đảng CSVN (2001), Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 15. Frede ris. Mishkin (1995), Tiền tệ ngân hàng và thị trường tài chính, Nxb Khoa học kỹ thuật, Hà Nội. 16. Phạm Thu Hà, Nguyễn Thị Ngọc Huyền (1999), Chính sách kinh tế xã hội, Nxb Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội. 17. Võ Đình Hảo ( Chủ biên) (1993), Đổi mới chính sách và cơ chế quản lý tài chính, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 18. Nguyễn Sinh Hùng ( Chủ nhiệm) (1993), Hoàn thiện cơ chế tín dụng ở Việt nam và việc áp dụng nó trong hệ thống Kho bạc nhà nước, đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ , Hà Nội. 19. Hoàng Huy (2000), “ Xoá đói giảm nghèo – Sự nghiệp còn lắm khó khăn”, Báo nhân dân cuối tuần, (H2), tr.1. 20. Bạch Thị Minh Huyền (1994), “ Một số quan điểm về vay nợ cho đầu tư phát triển ở Việt Nam”, Tài chính, (1), tr.10. 21. Lê Văn Hưng ( Chủ biên) ( 2000), Kho Bạc nhà nước Việt nam – Quá trình xây dựng và phát triển, Nxb Tài chính, Hà Nội. 22. Lê văn Hưng (1992), “Một số vấn đề về tín dụng nhà nước”, Thông tin KBNN (1), tr.18. 23. Lê Văn Hưng ( 1993), “Một số vấn đề về cho vay tài trợ giải quyết việc làm”, Tài chính, (7), tr.12. 24. Hàng Tấn Hưng (2000), “ Nhìn lại 7 năm thực hiện công tác cho vay quỹ Quốc gia HTVL”, Bản tin KBNN, (70), tr.33. 25. Thu Hương (2001), “Đồng vốn 120 – Những nghi nhận khả quan”, Bản tin KBNN, (78,79), tr.57. 26. Lê Hữu Khi (Chủ biên), (1999), Kinh tế công cộng, Nxb Thống kê, Hà Nội. 27. Kho bạc Nhà nước tỉnh Tiền giang (1999) Báo cáo chuyên đề cho vay giải quyết việc làm tại tỉnh Tiền giang - Kết quả và những kiến nghị. 28. Kho bạc Nhà nước TW (2001), Báo cáo tình hình và kết quả thực hiện cho vay từ quỹ Quốc gia hỗ trợ việc làm năm 2000 và một số kiến nghị biện pháp quản lý trong những năm tới, Hà Nội. 29. Phạm Xuân Nam (2000), “ Phát triển kinh tế gắn liền với tăng trưởng xã hội”, Báo nhân dân, tr.2. 30. Ngân hàng phục vụ người nghèo (2001), Báo cáo tổng kết năm 2000 và định hướng năm 2001, Hà Nội. 31. Ngân hàng phục vụ người nghèo (2001), tài liệu tập tập huấn tổ vay vốn, Hà Nội. 32. Nguyễn Đức Nhật (1997), Hoàn thiện cơ chế tín dụng tài trợ đối với các dự án qua hệ thống KBNN, Đề tài khoa học cấp ngành, Hà Nội. 33. Vũ Thị Ngọc Phùng ( Chủ biên) (1999), Kinh tế phát triển, NXb Thống kê, Hà Nội. 34. Hồ Xuân Phương (1997), “ Đầu tư phát triển sự nghiệp khoa học côn,g nghệ của đất nước”, Tài chính trong sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, Viện nghiên cứu tài chính, Hà Nội. 35. Robert Raymond(1992), Tiền tệ ngân hàng và tín dụng, Viện khoa học –ngân hàng. 36. Nguyễn Sinh (2001), “ Làng nghề và việc làm ở nông thôn” Thông tin tài chính, (7) tr. 7. 37. Nguyễn Đình Tài (1997), Sử dụng công cụ tài chính tiền tệ để huy động vốn cho đầu tư phát triển, Nxb Tài chính, Hà Nội 38. Nguyễn Thị Hồng Thuỷ và nguyễn Thị Ngọc Huyền (Chủ biên) (1997), Lý thuyết quản trị kinh doanh, Nxb khoa học và kỹ thuật, Hà Nội. 39. Nguyễn Văn Tới (1999), “Thực trạng cho vay giải quyết việc làm ở Kontum”, Bản tin Kho bạc nhà nước (59) tr. 28. 40. Trần Xuân Trí (2000), “ Kho bạc nhà nước qua 8 năm thực hiện chính sách cho vay từ quỹ quốc gia HTVL”, Bản tin KBNN (71), tr.12. 41. Nguyễn Đức Triều ( 2001), “Sự lãnh đạo của Đảng đối với hội nông dân Việt Nam – Một nhân tố quyết định thắng lớị nghiệp công nghiệp hoá , hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn”, Cộng sản, (609), tr. 27. 42. Trung tâm thông tin thống kê lao động và xã hội – Bộ lao động thương binh và xã hội, (1999, 2000, 2001) Thực trạng lao động – việc làm ở Việt Nam, Nxb Thống kê - Hà Nội. 43. Trường Đại học Tài chính Kế toán - Hà Nội (1998), Quản lý tài chính nhà nước, Tập bài giảng dùng cho cao học và nghiên cứu sinh. Hà Nội. 44. Thanh Tùng(2001) ,"Ngân hàng chính sách được cho người lao động ở nước ngoài vay vốn", Thời báo tài chính Việt Nam, (109), tr.2. 45. Vũ Công Ty ( 1996), Phương pháp lựa chọn phương án đầu tư có hiệu quả trong doanh nghiệp, Nxb Tài chính, Hà Nội. 46. Uỷ ban khoa học và kỹ thuật nhà nước (1990), Đầu tư phục vụ phát triển – Những bài học của ngân hàng thế giới , Hà Nội. 47. Uỷ ban khoa học và xã hội nhà nước (1977), Từ điển tiếng Việt, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 48. Nguyễn Quế Văn (2001), “Bình xét hộ nghèo xã nghèo sao cho đúng”, Báo nhân dân, (16907), tr.4.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc3063.doc
Tài liệu liên quan