Đề tài Tại sao Hồ Chí Minh chủ trương thực hiện cơ cấu kinh tế hàng hóa nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

TPKT NN cần được đa dạng hoá dưới các hình thức liên doanh, liên kêt với các tổ chức và công ty tư bản nước ngoài, nâng dần tỉ lệ đầu tư của phía VN. Đồng thời cũng cần áp dụng nhiều phương thức góp vốn kinh doanh giữa nhà nước với các nhà kinh doanh tư nhân trong nước dưới nhiều hình thức như công ty cổ phần, công ty TNHH. nhằm tạo thế tạo lực cho các doanh nghiệp trong nước phát triển, tăng sức mạnh cạnh tranh và hợp tác với bên ngoài Bên cạnh đó chúng ta cũng cần cải thiện môi trường đầu tư và nâng cao năng lực quản lý, sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư, bảo vệ quyền lợi của người lao động. Do kinh tế tư bản nhà nước luôn chịu sụ tác động chi phố của hai hệ thông qui luạt kinh tế cung với hai xu hướng phát triển đối lập: chế độ XHCN và chế độ TBCN. Vì vậy, để KTTBNN vận động hướng vào mục tiêu XHCN đòi hỏi vai trò điều tiết, chi phối định hướng rất quan trọng của nhà nước vô sản. Cụ thể là: Giữ vững vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước. Hoạt động của DNNN phải được thực hiện trên quan điểm chủ động hợp tác, phân công với các TPKT khác, đặc biệt KTTBNN để cùng tiến hành các hoạt động chủ chốt của nền kinh tế như: xây dựng kết cấu hạ tầng, các công trình phúc lợi công cộng, đầu tư phát triển công nghệ trông tin, chuyển giao kỹ thuật công nghệ vào sản xuất. KTTBNN phải được điều tiết vào những hoạt động kinh tế nhà nước, đặc biệt là doanh nghiệp nhà nước mà nhà nước sẽ thực hiện vai trò điều tiết, định hướng sự vận động, phát triển của KTTBNN vào quỹ đạo mục tiêu XHCN. Nhà nước sử dụng các công cụ quản lý kinh tế nhằm điều tiết định hướng sự vận động, phát triển của KTTBNN. Một mặt nó tạo lập môi trường kinh tế vĩ mô lành mạnh, khuyến khích hoạt động của các TPKT, đồng thời hạn chế và sửa chữa những khuyết tật của nền KTTT. Các công cụ vĩ mô có thể là: Hệ thống pháp luật, nhà nước là “trọng tài” tạo “sân chơi bình đẳng” cho các chủ thể kinh doanh trên thị trường; Các chính sách kinh tế vĩ mô như chính sách tài chính, tiền tệ, tín dụng, nhân hàng, tỷ giá hối đoái. tác động trực tiếp đến tổng cung, tổng cầu, giá cả; Các công cụ kế hoach hoá như lập ra các kế hoạch ngắn hạn, trung hạn và dài hạn cho từng giai đoạn, từng ngành.

doc31 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1708 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tại sao Hồ Chí Minh chủ trương thực hiện cơ cấu kinh tế hàng hóa nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thế giới, nhưng Trung Quốc đã nuôi được 22% dân số thế giới. Cho đến nay có thể nói đây là bước cải cách mang tính đột phá, là thành tựu lớn nhất trong cải cách nông nghiệp ở Trung Quốc. 2.2.2) Mở cửa và ổn định chính trị Trong 30 năm cải cách, xã hội Trung Quốc không có những biến động lớn, đặc biệt là với việc thành lập ban lãnh đạo thế hệ ba từ năm 1989 đến nay. Ổn định chính trị tương đối ở tầng cao đã khiến Trung Quốc tập trung được trí tuệ, sức người, sức của cho xây dựng kinh tế cải thiện đời sống nhân dân. Với phương châm chỉ đạo "dò đá qua sông", sau những việc thành lập đặc khu kinh tế, thực hiện qui luật giá trị, cải cách giá cả, nới lỏng nhiều chính sách kinh tế... cuối những năm 80 và đầu những năm 90 của thế kỷ trước, nhà lãnh đạo Đặng Tiểu Bình và ban lãnh đạo đã vạch ra con đưòng "xây dựng Chủ nghĩa xã hội mang màu sắc Trung Quốc", đó cũng là một thành tựu trọng đại nữa của công cuộc cải cách kinh tế. Đến năm 2003 Trung Quốc đã trở thành nước thu hút đầu tư nuớc ngoài lớn nhất thế giới. Theo thống kê, đến năm 2004, Trung Quốc đã thu hút 508.941 nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài với mức ký kết là 1096, 6 tỷ USD. Năm 1995, chỉ cần thời gian 15 năm, Trung Quốc thực hiện được mục tiêu tăng GNP 4 lần so với năm 1980, vượt thời hạn 5 năm. Tốc độ tăng trưởng của Trung Quốc trung bình 9-10% năm và liên tục trong suốt gần 20 năm là chưa có tiền lệ trong lịch sử kinh tế thế giới. Hàng hoá Trung Quốc sản xuất ra tràn ngập thế giới, không phải vô cớ mà Trung Quốc được mang tên gọi "nhà máy thế giới". Theo các số liệu mới nhất, Trung Quốc sản xuất đến hai phần ba số máy phôtô, lò vi sóng và giày dép; 60% điện thoại di động; 55% đĩa DVD; hơn nửa số máy ảnh digital; và 75% đồ chơi trẻ em, cộng thêm rất nhiều mặt hàng khác. GDP của Trung Quốc nhanh chóng vượt qua nhiều nước phát triển như Anh, Pháp, Đức... và hiện nay nền kinh tế nước này đã đứng thứ ba trên thế giới, chỉ còn sau Nhật và Mỹ và là nước có dự trữ ngoại tệ lớn nhất thế giới, hiện đạt mức trên 2.000 tỷ USD, một con số lớn đến mức gộp tổng dự trữ ngoại tệ của cả khối G7 lại cũng không bằng. Với sức mạnh kinh tế, với đội ngũ nhân tài (đào tạo từ trong nước và ở nuớc ngoài, chủ yếu là các nước phát triển) các ngành khoa học kỹ thuật của Trung Quốc cũng đã có những bước tiến lớn mà việc phóng tầu vũ trụ và đưa con người vào vũ trụ thành công là một minh chứng. Song hành với những thành tựu kinh tế là sự lớn mạnh không ngừng của lực lượng vũ trang, ngày nay, quân đội Trung Quốc với những vũ khí tối tân, những hạm đội hùng mạnh và những tàu sân bay như những cường quốc quân sự thực thụ. Điều này được thể hiện rất rõ gần đây nhất thông qua những hình ảnh biểu dương quân sự hiện đại trong Ngày Quốc khánh lần thứ 60 của mình. 2.2.3) Ba mươi năm sau Ba thập niên sau cải cách, xã hội Trung Quốc đã bùng nổ thực sự. Người dân Trung Quốc ngày nay được tận hưởng nhiều quyền tự do cá nhân trong cuộc sống hàng ngày mà ông cha họ chưa bao giờ biết đến. Đất nước và xã hội Trung Quốc cũng đang quay lại bằng cách tuyên dương các giá trị Khổng giáo và Phật giáo. Hơn 200 triệu người đã được đưa ra khỏi cuộc sống nghèo khổ và con số của giới trung lưu ngày càng tăng với thu nhập dư giả đã du lịch nước ngoài, đầu tư vào thị trường chứng khoán, ăn uống ở tiệm và trang trí các căn hộ thời thượng của họ với vật dụng bàn ghế mua từ những cửa hàng sang trọng. Điều kiện tiếp cận giáo dục trở nên rộng rãi. Có khoảng 21 triệu sinh viên Trung Quốc đang theo học các trường đại học trong khi ước lượng có khoảng 300 nghìn người đang du học nước ngoài. Có khoảng 206 triệu trẻ em Trung Quốc đang học các trường tiểu học và trung học. Học vấn cơ bản hầu như là phổ thông tại Trung Quốc hôm nay, so với chỉ khoảng 20% vào năm 1949. 2.2.4) Đường vẫn còn dài Tuy vậy bên cạnh những thành tựu đó, Báo cáo chính trị tại Đại hội XVII Đảng Cộng sản Trung Quốc đã chỉ ra một số tồn tại, như: Trả giá quá lớn đối với tài nguyên, môi trường trong tăng trưỏng kinh tế; Phát triển không cân đối giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng, miền, giữa kinh tế và xã hội; Nông thôn phát triển tụt hậu, tăng thu nhập cho nông dân ngày càng khó hơn; Việc làm, bảo đảm xã hội, giáo dục y tế, nhà ở, tư pháp, trị an xã hội …vẫn tồn tại nhiều vấn đề; Xa hoa, lãng phí, tham nhũng vẫn khá nghiêm trọng; Xu thế mở rộng khoảng cách thu nhập (nhất là giữa thành thị và nông thôn) về cơ bản vẫn chưa xoay chuyển được; Vẫn còn một số lượng tương đối lớn ngưòi có thu nhập thấp tại thành thị và nông thôn; Cạnh tranh quốc tế ngày càng quyết liệt, sức ép về kinh tế, khoa học công nghệ của các nước phát triển vẫn tồn tại lâu dài;… Để giải quyết tình trạng trên, ban lãnh đạo Trung Quốc đã có một số chính sách, biện pháp tương đối có hiệu quả, như một số chính sách về nông thôn nói trên, chính sách an sinh xã hội cho tầng lớp nghèo, chính sách tiết kiệm tài nguyên, chính sách chống ô nhiễm môi trường. Đã coi việc "xây dựng xã hội hài hòa", là một nhiệm vụ chính trị trọng đại, đã xác lập tư tưởng quan trọng "thuyết ba đại diện". Trong quan hệ đối ngoại về cơ bản Trung Quốc đã đạt được thoả thuận hoặc ký được hiệp định về biên giới trên bộ với hầu hết các nước láng giềng và đã sửa phương châm chiến lược "trỗi dậy hoà bình" thành "phát triển hoà bình", tích cực tham gia các tổ chức quốc tế và hoạt động quốc tế. Đặc biệt cần nhấn mạnh, ban lãnh đạo các thế hệ Trung Quốc trong thời gian này đã tỏ ra rất nhanh nhạy và có bản lĩnh trong việc nắm bắt thời cơ, lợi dụng mâu thuẫn trên thế giới và khu vực cũng như trong quan hệ song phương. Một nhận định không thể tranh cãi: Trung Quốc đã trở thành một cưòng quốc thế giới và có tiếng nói ngày càng quan trọng trên trường quốc tế nhất là trong khu vực. Một nước Trung Hoa giầu mạnh, yêu hoà bình và có trách nhiệm với các nước nhất là với các nước láng giềng không chỉ là mục tiêu của hơn 1.300 triệu dân Trung Quốc mà còn mong ước của nhiều quốc gia trên thế giới này. 2.3) Tại sao Trung Quốc cải cách thành công, Liên Xô thì không? Trung Quốc và Liên Xô có 5 điểm khác nhau cơ bản, khiến người thành công, kẻ thất bại khi cải tổ kinh tế Viện phó Viện Nghiên cứu quan hệ quốc tế thuộc Học viện Ngoại giao Nga là Yevgeny Bazhanov nhận định, Liên Xô cũng cải cách nhưng thất bại không vì phương hướng cải tổ sai, không thành công như Trung Quốc bởi hai quốc gia có quá nhiều điểm khác biệt, khiến Moscow không thể "bắt chước" Bắc Kinh. Theo ông Bazhanov, thứ nhất là hai nước có vị trí khác nhau. Trung Quốc rơi vào hỗn loạn sau Cách mạng văn hóa (1966 – 1976). Tới năm 1978, phần lớn người Trung Quốc hiểu rằng họ cần một cuộc cải tổ triệt để. Trong khi đó, Liên Xô năm 1985 vẫn mạnh nên hầu hết người dân vẫn tự coi mình là cường quốc với nền kinh tế hoạt động tốt, xã hội ổn định, trật tự, hơn hẳn Trung Quốc thời kỳ trước cải tổ 1978. Nói cách khác, người Liên Xô không nhiệt tình cải cách như láng giềng Trung Quốc. Thứ hai, cơ cấu tổ chức của hai nước có nhiều điểm khác nhau rất cơ bản. Trong lúc phe “cải cách” áp đảo phe “bảo thủ” trong giới cầm quyền Trung Quốc thì tình hình ngược lại ở Liên Xô: ông Gorbachev bị nhiều thành viên “bảo thủ” trong bộ chính trị và nhiều quan chức quân sự chống đối quyết liệt. Thứ ba, người đứng đầu cuộc cải cách ở Trung Quốc là ông Đặng Tiểu Bình có nhiều kinh nghiệm, được tự do đưa ra những cải tổ sâu rộng. Còn cuộc cải cách ở Liên Xô được tiến hành bởi những người có quyền lực hạn chế do bị những lực lượng thủ cựu kìm hãm. Nguyên nhân thứ tư là tình trạng xã hội, kinh tế hai nước khác nhau. Trước cải cách, Trung Quốc là quốc gia nông nghiệp, 80% dân số là nông dân, những người khao khát được làm việc trên mảnh ruộng của chính mình. Và khi ông Đặng biến giấc mơ của họ thành hiện thực, tình hình biến chuyển nhanh chóng tới mức ngay cả những người bảo thủ, hoài nghi cũng phải thừa nhận cải tổ thành công. Và với xuất phát điểm thuận lợi là nông nghiệp, ông Đặng có cơ sở để công nghiệp hóa và cải cách các lĩnh vực khác. Trong khi đó, tình hình Liên Xô hoàn toàn khác: công nghiệp quân sự mới là xương sống của nền kinh tế Liên Xô. Do đó, để kích thích và đa dạng hóa nền kinh tế, Liên Xô phải cắt giảm mạnh và cải tổ lĩnh vực sản xuất khí tài với hy vọng giảm dần việc sản xuất tên lửa đạn đạo sang làm giày phụ nữ... Tuy nhiên, kế hoạch này bị giới tướng lĩnh phản đối gay gắt với lý do: Mỹ và Tổ chức hiệp ước Bắc Đại Tây Dương là nguy cơ trực tiếp tới an ninh quốc gia. Chưa dừng lại, chương trình cải tổ ngành nông nghiệp ở Liên Xô cũng gặp khó khăn bởi sau hàng chục năm tồn tại, hệ thống nông trường tập thể quá lạc hậu, giới công chức sơ cứng, không chịu thay đổi, còn người nông dân không có khát vọng lao động để cải thiện đời sống... Tóm lại, cải cách nền kinh tế dựa vào ngành sản xuất khí tài khó hơn là ngành nông nghiệp. Cuối cùng, Trung Quốc cải cách thành công vì Bắc Kinh khi đó có quan hệ quân sự, chính trị gần với phương Tây trên cơ sở chống Moscow nên được Mỹ và đồng minh nồng nhiệt ủng hộ, giúp đỡ cải cách trong mảng quốc doanh lẫn tư nhân. Cùng với lượng lớn kiều bào ở nước ngoài tích cực góp sức, Trung Quốc cải cách nhanh, mạnh và hiệu quả. Trong khi đó, ở phía Bắc, Liên Xô không thể mơ về những sự trợ giúp như vậy từ nước ngoài dù ông Gorbachev nỗ lực dừng cuộc chạy đua vũ trang đang khiến Liên Xô “chảy máu”...cũng như đưa ra nhiều sáng kiến khác. Kết quả là chỉ sau hai năm làm người đứng đầu Liên Xô, ông Gorbachev nhận ra cuộc cải cách kinh tế của mình đã thất bại. Nhưng không đầu hàng, tới năm 1987, ông quyết khởi động lại cuộc cải tổ, vượt qua sự chống đối của phe bảo thủ. Chỉ có khác là điểm xuất phát không phải là kinh tế, mà là từ lĩnh vực chính trị với hy vọng rằng, hành động đó sẽ lôi kéo được người dân tham gia cải cách và sẽ tác động lại lĩnh vực kinh tế... Tuy nhiên, hành động này chẳng khác nào "gậy đập lưng ông" bởi nó chỉ khiến Liên Xô suy yếu, phá vỡ sợi dây đoàn kết các thành viên trong Liên Xô thành một khối thống nhất, hùng mạnh. Hậu quả là Liên Xô bị tê liệt trong cuộc đấu tranh giữa phe tự do và bảo thủ trong bộ chính trị, giữa Moscow (trung ương) và địa phương... Liệu pháp “shock”  của ông Gorbachev thất bại hoàn toàn. 3)Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở nước ta hiện nay và ích lợi của việc sử dụng cơ cấu nhiều thành phần đó vào phát triển Kinh tế–Xã hội trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở VN: 3.1) Cơ sở khách quan của việc tồn tại kinh tế nhiều thành phần trong TKQĐ lên CNXH - Khi cách mạng thành công, chúng ta phải tiếp thu nền sản xuất do xã hội trước để lại, bên cạnh nền sản xuất lớn tư bản dừa trên tư hữu lớn tư bản về tư liệu sản xuất (TLSX) thù tồn tại sản xuất nhỏ của những nông dân, thợ thủ công dựa trên tư hữu nhỏ về tư liệu sản xuất. Chúng đều là đối tượng cải tạo theo CNXH nhưng bằng những biện pháp khác nhau: +Đối với tư hữu lớn TBCN chúng ta thực hiện quốc hữu hóa XHCN ( không hoặc có bồi thường) để chuyển thành sở hữu toàn dân do nhà nước thống nhất quản lý. Quốc hữu hóa là chia theo từng giai đoạn. Giai đoạn đầu quốc hữu hóa những doanh nghiệp quan trọng và lớn. Tiếp theo đến những doanh nghiệp vừa và cuối cùng là các doanh nghiệp nhỏ. Điều này rất có lợi về kinh tế chính trị. Vì vậy, dù muốn hay không trong TKQĐ vẫn còn tồn tại kinh tế TB tư nhân. + Đối với tư hữu nhỏ nông dân, thợ thủ công .. . chúng ta cải tạo thông qua con đường hợp tác hóa để chuyển từ kinh tế cá thể thành kinh tế tập thể dưới các loại hình HTX khác nhau, mà hợp tác hóa dựa trên nhiều nguyên tẳc trong đó nguyên tắc cơ bản nhất là tự nguyện vì vậy phải có thời gian. Do đó dù muốn hay không trong TKQĐ vẫn còn tồn tại kinh tế cá thể, tiểu chủ là tất yếu khách quan. + Nhà nước đầu tư xây dựng mới các doanh nghiệp của nhà nước thuộc sở hữu toàn dân, đây là chỗ dựa kinh tế cho nhà nước. - Sự phát triển kinh tế ở mỗi quốc gia không đều về LLSX giữa các ngành các vùng, các doanh nghiệp. Chính sự phát triển không đều đó quyết định QHSX, trước hết là hình thức, quy mô và quan hệ sở hữu phải phù hợp với nó, nghĩa là tồn tại các quan hệ sở hữu không giống nhau. - Với đường lối đổi mới và phát triển nền kinh tế mở, từ đó hình thành nên các doanh nghiệp liên doanh giữa nước ta với nước ngoài hoặc doanh nghiệp có 100% vốn của nước ngoài. Nhà nước cùng các nhà tư bản, các công ty trong và ngoài nước, hình thành kinh tế tư bản nhà nước. Như vậy, việc thừa nhận cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong thời kì quá độ không những có ý nghĩa về mặt lý luận mà còn trong thực tiễn. 3.2) Thực trạng nền kinh tế nước ta khi bước vào thời kì quá độ. Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ điểm xuất phát thấp, nền kinh tế chủ yếu là sản xuất nhỏ, tự cấp tự túc, còn ở tình trạng phổ biến của TSX giản đơn, LLSX lạc hậu, năng suất lao động thấp, QHSX còn yếu kém gây khó khăn cản trở cho sự phát triển và tăng trưởng kinh tế hàng hóa nhiều thành phần đang trong thời kì hình thành, thu nhập quốc dân đầu người thấp, là một trong số quốc gia nghèo và chậm phát triển. 3.3). Phân tích các thành phần kinh tế tồn tại ở Việt Nam mà đại hội Đảng IX đã nêu: 3.3.1) Thành phần kinh tế Nhà nước (TPKTNN) a.Khái niệm: TPKTNN lấy chủ sở hữu toàn dân làm cơ sở ( hay còn gọi là sở hữu nhà nước). Nó là những đơn vị, tổ chức trực tiếp sản xuất kinh doanh mà toàn bộ nguồn lực thuộc sở hữu Nhà nước hoặc phần của toàn nhà nước chiếm tỉ lệ khống chế. b. Hình thức tồn tại: TPKTNN bao gồm các doanh nghiệp nhà nước (kinh tế quốc doanh), các tài sản thuộc sở hữu nhà nước ( đất đai, tài nguyên, ngân hàng, tài chính, dự trữ quốc gia..) - TPKTNN trước hết là các doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp cổ phần được hình thành trên cơ sở : + Nhà nước đầu tư xây dựng + Quốc hữu hóa các doanh nghiệp tư bản tư nhân. + Góp cổ phần khống chế các doanh nghiệp tư nhân. - Với bản chất nhà nước XHCN, nhà nước xác định đất đai, tài nguyên thiên nhiên, tài chính ngân hàng .. do nhà nước nắm giữ chi phối để điều tiết, định hướng sự phát triển kinh tế xã hội. c. Thực trạng và xu thế phát triển: Theo số liệu 1976-1990, đầu tư cho kinh tế quốc doanh mỗi năm chiếm tới 20% tổng chi ngân sách nhà nước nên kinh tế quốc doanh được tăng thêm năng lực mới : 1127 nghìn KW điện, 4,8 triệu tấn than, 1184 nghìn ha gieo trồng được tưới và 581,6 nghìn ha được tiêu, 831 nghìn ha được khai hoang. Các công trình quan trọng như thủy điện Hòa Bình, thủy điện Trị An, xi măng Hoàng Thạch, Bỉm Sơn, giấy Bãi Bằng, cầu Thăng long, cầu Chương Dương, Bến Thủy.. đã đưa vào hoạt động và phát huy tác dụng tích cực. Do nhiều năm xây dựng nên nền kinh tế quốc doanh đã có năng lực đáng kể. Trong nông nghiệp, cả nước có 654 hồ, đập vừa và lớn, hơn 1000 cống tưới tiêu lớn với 10 nghìn máy bơm các loại, trên 2000 máy biến thế và gần 600 km đường dây điện cao thế với tổng công suất lắp đặt 20 vạn KW phục vụ tưới và 23 van KW phục vụ tiêu, 315 nông trường với trên 8000 máy kéo và 478 trại nhân giống. Trong công nghiệp, đã có 3020 XN quốc doanh, công suất điện 2700 MW, công suất dệt trên 400 triệu m, công suất giấy 16 vạn tấn, công suất xi măng 4,2 triệu tấn.. .Trong GTVT có 105500 km đường bộ, 10732 chiếc cầu và 177 bến phà. Đường thủy có 19500 km nội địa và 7 cảng chính. Hàng không có 2 sân bay quốc tế và một số sân bay trong nước. Thương nghiệp quốc doanh có 17757 điểm bán hàng. Ngoài ra, còn có 753 cơ sở thuộc các ngành tài chính, ngân hàng và các hoạt động dịch vụ khác. Tính chung kinh tế quốc doanh cho tới cuối năm 1989 có trên 12 nghìn cơ sở với 27817 tỉ đồng giá trị tài sản cố định theo nguyên giá. Do có tiềm lực như vậy nên hàng năm kinh tế quốc doanh đã tạo ra 30- 40% tổng sản phẩm xã hội ( 1981: 35,2%, 1985: 35,7%, 1990: 38,8%) và 20- 30% thu nhập quốc dân (1981: 22,9%, 1985: 24,4%, 1990: 30%) Nếu năm 94 số doanh nghiệp nhà nước có vốn dưới 1 tỷ đồng chiếm tới 50% tổng số doanh nghiệp nhà nước thì đến năm 2000 số đó chỉ còn 25%. Số doanh nghiệp có vốn 1 tỷ đồng tăng từ 10% lên 20%. Phần đóng góp của doanh nghiệp nhà nước chiếm gần 40% tổng nộp ngân sách và trên 50% kim ngach xuất khẩu của cả nước. Tỉ lệ đóng góp của doanh nghiệp nhà nước trong GDP tăng tương ứng từ 36,5% lên 40,2%. Tỉ suất lợi nhuận trên vốn nhà nước tăng từ 6,8% (1993) lên 12% năm 2000. d.Vai trò và tác dụng. *TPKTNN đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến, nó là chỗ dựa kinh tế cho nhà nước điều tiết vĩ mô, đảm bảo những cân đối chủ yếu cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Vai trò của nó trước hết thể hiện ở chỗ: Kinh tế quốc doanh nắm gần như toàn bộ ngành công nghiệp năng lượng (điện lực, khai thác than và dầu khí, khai khoáng, luyện kim, cơ khí chế tạo, sản xuất xi măng, phân bón thuốc trừ sâu và công nghiệp quốc phòng: Trong sản xuất hàng tiêu dùng, công nghiệp quốc doanh giữ vai trò chính trong một số sản phẩm quan trọng: 70% vải mặc, 85% giấy, 70% xe đạp, 60% xà phòng, 100% thuốc tân dược. Trong xây dựng cơ bản, kinh tế quốc doanh đảm nhận hầu hết các công trình trên hạn ngạch và các công trình quan trọng quyết định triển vọng tăng trưởng của nền kinh tế quốc dân. Trong giao thông vận tải, kinh tế quốc dân đảm nhận từng cung độ dài như vận tải Bắc Nam, vận tải ngoài nước. Trong nông nghiệp, kinh tế quốc doanh là nơi cung cấp chủ yếu kĩ thuật nuôi trồng và các giống cây con cho năng suất cao. Nó đảm nhận nhiệm vị tưới tiêu chính ở hệ thống kênh cấp I. Trong lâm nghiệp khai thác được 25-30% sản lượng gỗ toàn ngành trong 1 năm. Trong lưu thông phân phối, thương nghiệp quốc doanh có vai trò to lớn trong việc cung cấp và ổn định giá cả thị trường đối với những vật tư hàng hóa thiết yếu như xăng dầu, sắt thép, phân bón thuốc trừ sâu, xi măng, gạo và là lực lượng chủ yếu thực hiện các nhiệm vụ xuất nhập khẩu. Kinh tế quốc doanh nước ta cũng là lực lượng chủ yếu cung cấp tài chíng cho ngân sách nhà nước . Tỉ lệ thu từ kinh tế quốc doanh thường chiếm 60-80% tổng thu ngân sách. Thu nhập thuần túy từ thu nhập quốc doanh hàng năm gấp nhiều lần so với thu thuế công thương nghiệp ngoài quốc doanh. Kinh tế quốc doanh thực hiện nghĩa vụ đối với nhà nước nghiêm chỉnh hơn các thành phần kinh tế khác. Vai trò của kinh tế quốc doanh nếu chỉ đánh giá các mặt lượng trên thì chưa đủ vì nó còn có những mặt không thể lượng hóa được. Trong một số trường hợp kinh tế quốc doanh phải chịu thô lỗ để cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân phát triển, nhất là trong khi điều kiện phát triển kinh tế từ một cơ cấu lạc hậu nông nghiệp là phổ biến. Nhiều sản phẩm hoặc dịch vụ do kinh tế quốc doanh đảm nhận thường là đầu vào của quá trình sản xuất kinh doanh của các thành phần kinh tế khác. Trách nhiệm xã hội của kinh tế quốc doanh còn thể hiện ở các mặt khác nữa như tạo việc làm, phân phối lại thu nhập quốc dân, đào tạo cán bộ quản lí và công nhân lành nghề, giảm bớt sự mất cân đối giữa các dân tộc, giữa các vung kinh tế, văn hóa, giáo dục, y tế. Bên cạnh đó kinh tế quốc doanh của ta trong thời gian qua đã bộc lọ một số điểm yếu , cần khắc phục . Đó là : Do chủ quan , duy ý chí và nóng vội đi lên CNXH nên chúng ta đã mở rộng kinh tế quốc doanh quá mức chịu đựng của nền vật tư , tài lực hiện có và quá khả năng quản lí ở các cấp các ngành . Việc thành lậpcác cơ sở kinh tế quốc doanh lại không được chuẩn bị kĩ về cơ cấu ngành , điều kiện kinh tế kĩ thuật , thiếu các căn cứ càn thiết . - 9 - Những cơ sỡ kinh tế quốc doanh nhỏ là bộ phận chịu thua lỗ lớn nhất . 3.3.2.)Thành phần kinh tế tập thể (TPKTTT). a.Khái niệm : TPKTTT dựa trên sở hữu tập thể về tư liệu sản xuất , do những người lao động tự nguyện góp vốn vào để làm ăn tập thể dưới nhiều hình thức mà điển hình là các hợp tác xã . b. Hình thức tồn tại : Hình thức quan trọng của kinh tế hợp tác là hợp tcs xã . Kinh tế hợp tác xã là những hình thức liên kết kinh tế có pháp nhan , tuân thủ những nguyên tắc , có tổ chức chặt chẽ và điều lệ hoịat động rõ ràng Kinh tế HTX được phát triển dưới nhiều hình thức đa dạng từ thấp đến cao , từ nhóm tổ đến HTX theo nguyen tắc tự nguyện , bình đẳng cùng có lợi. Trong những năm đổi mới kinh tễHT có những biến đổi căn bản: Hộ nông dân được coi là đơn vị kinh tế tự chủ , ruộng đất được giao sử dụng lâu dài. Thực tế xuất hiện những hình thức hợp tác xã giản đơn, từng khâu như hợp tác xã cổ phần, hợp tác xã dịch vụ đầu vào, đầu ra phục vụ cho kinh tế hộ và kinh tế trang trại phát triển. c. Thực trạng và xu thế phát triển. Các hợp tác xã kiểu cũ bước sang cơ chế mới đã ngày càng bộc lộ tính không phù hợp. Trong thời gian từ năm 1986 đến 1996 đã giải thể 3623 HTX và 37787 tập đoàn sản xuất nông nghiệp, trên 42 nghìn HTX tín dụng. Số hợp tác xã còn lại tuy không giải thể nhưng phần lớn tồn tại trên danh nghĩa. Năm 1996 là thời điểm kết thúc mô hình HTX kiểu cũ chuyển sang thời kì xây dựng và phát triển HTX theo mô hình mới, đánh dấu bằng việc ban hành luật HTX tháng 3 năm1996. d. Vai trò và tác dụng: *TPKTTT là trợ thủ đắc lực cho thành phần kinh tế nhà nước ở nông nghiệp và nông thôn. Kinh tế tập thể đã có vai trò không nhỏ trong nền kinh tế quốc dân. Các HTX và tập đoánản xuất trong trong nông nghiệp đóng vai trò chủ yếu trong sản xuất lương thực , thực phẩm nguyên liệu nông nghiệp và cho công nghiệp chế biến và nông sản xuất khẩu. Kinh tế tập thể trong công nghiệp có những năm đã tạo ra trên 40% giá trị tổng sản lượng của toàn ngành công nghiệp. Khối lượng hàng hóa và hành khách do kinh tế tập thể thực hiện hàng năm thường bằng trên dưới 30% khối lượng vận chuyển của vận tải quốc doanh. Thương nghiệp tập thể trong nhiều năm trước đây đảm nhận khoảng 15% tổng mức bản lẻ trên thị trường ( số liệu từ năm 90 trở về trước) *Hạn chế: Kinh tế tập thể cũng có những bước phát triển do cải tạo nóng vội, gượng ép và vi phạm nguyên tắc cơ bản của hợp tác hóa là tự nguyện. Khi đổi mới cơ chế quản lí , bao cấp bị cắt giảm , kinh tế quốc doanh trì trệ thì kinh tế tập thể lâm vào tình trạng sa sút là không thể tránh khỏi. Quá trình hình thành chưa được chuẩn bị kĩ , khi hoạt động lại dựa vào kinh tế quốc doanh , trang bị đơn giản , trình độ tổ chức sản xuất kinh doanh yếu kém. Sản xuất chất lượng kém , dịch vụ đơn giản và chất lượng phục vụ thấp . Tuy vậy do xây dựng mô hình HTX kiểu mới nên kinh tế tập thể cùng với kinh tế nhà nước ngày càng trở thành nền tảng cho kinh tế quốc dân của nước ta. 3.3.3) Thành phần kinh tế cá thể và tiểu chủ (TPKTCT & TC) a. Khái niệm. TPKTCT & TC dựa trên tư hữu nhỏ về tư liệu sản xuất và lao động của chính người chủ sở hữu nó. b. Hình thức tồn tại. Kinh tế hộ gia đình trong nông nghiệp thủ công nghiệp, buôn bán và dịch vụ nhỏ. c. Thực trạng và xu thế phát triển. Từ khi bước vào thời kì đổi mới thành phần kinh tế này đã không ngưng phát triển cả về mặt số lượng cũng như quy mô hoạt động. Theo luật hợp tác xã việc thực hiện từ tháng 1/1987 các hộ nông dân không tham gia HTX nông nghiệp thì tồn tại dưới hình thức kinh tế cá thể tiểu chủ. Đóng góp quan trọng vào GDP năm 2000, đóng góp vào GDP là 154.561 tỉ đồng. Giải quyết công ăn việc làm, xóa đói giảm nghèo, nâng cao đời sống nhân dân. Đóng góp đáng kể vào ngân sách nhà nước. Lưu thông hàng hóa, vật tư thông thoáng, việc đi lại mua sắm của dân cư thuận tiện dễ dàng hơn, không còn cảnh người và hàng chờ phương tiện như trước đây, chất lượng phục vụ cũng được tăng lên do có sự cạnh tranh giữa các thành phần kinh tế *Tuy nhiên trong quá trình phát triển của thành phần kinh tế này đã bộc lộ nhiều hạn chế như buôn lậu, làm hàng giả, đầu cơ, trốn tránh đăng kí, kinh doanh và trốn lậu thuế. 3.3.4) Thành phần kinh tế tư bản tư nhân(TPKTTBTN) a. Khái niệm: TPKTTBTN dựa trên sở hữu tư nhân tư bản về tư liệu sản xuất và bóc lột lao động làm thuê, đầu tư vào những ngành vốn ít, lãi cao. Nó là những đơn vị kinh tế mà vốn do một hoặc một số nhà tư bản trong và ngoài nước đầu tư để sản xuất kinh doanh và dịch vụ. b. Hình thức tồn tại. Tổ chức dưới hình thức doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn , công ty cổ phần.. . c. Thực trạng và xu thế phát triển: Năm 1991, ở Việt Nam có 122 doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn được thành lập theo luật doanh nghiệp tư nhân 1990, luật công ty 1990. Năm 1993 , sau khi ban hành nghị định 66HĐBT đã có khoảng 900.000cá nhân , nhóm kinh doanh được cấp đăng kí theo loại hình đơnvị có vốn dưới mức pháp định . Đến cuối năm 2001 , đã có trên 30.000 doanh nghiệp tư nhân được thành lập theo luật doanh nghiệp . Tổng vốn đăng kí của các loại hình doanh nghiệp của tư nhan từ năm 1991 đến hết tháng 9/2001 đạt 50.795,142 tỉ đồng . Trong đó doanh nghiệp tư nhân 11.470,173 công ty cổ phàn 10.260,770 tỉ chiếm 20,20%. Năm 2000 , tổng vốn thực té sử dụng của doanh nghiệp là 110.071,8 tỉ , tăng 38,4% so với năm 1999 , trong đó của công ty trách nhiệm hữu hạn tăng 40,07% , doanh nghiệp tư nhân tăng 37,64% , công ty cổ phần tăng 36,79%. Về số lượng lao động từ năm 1996 – 2000 : tốc độ tăng lao động ở doanh nghiệp bình quân 24,15% 1 năm . Số lao động làm viẹc trong doanh nghiệp tăng thêm được 487.459 người ( tăng 137,57%) d. Vai trò và tác dụng : Đóng góp quan trọng vào GDP : Năm 2000, sđóng góp vào GDP là 33.154 tỉ đồng Đóng góp và huy dộng ngày càng nhiều các nguồn vốn trong xã hội cho đàu tư sản xuất , kinh doanh : vốn đầu tư phát triẻn , vốn sử dụng và vốn đăng kí kinh doanh đều tăng nhanh , chiếm tỉ trọng đáng kể trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội Đóng góp tích cực cho tạo việc làm , xóa đói giảm nghèo , nâng cao đời sống người lao động . Đóng góp đáng kể vào ngân sách nhà nước . Góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế , tăng kim ngạch xuất khẩu, thúc đẩy cạnh tranh. Hạn chế : Nhiều doanh nghiệp tư nhân chưa đảm bảo tính công khai , minh bạch trong kinh doanh , chưa thực hiện đúng các qui định của pháp luật về lao động , hợp đồng lao động, chế độ bảo hiểm, tiền lương, tiền công, chế độ bảo hộ lao động đối với người lao động. Còn tồn tại nhiều doanh nghiệp với trình độ công nghệ thấp, năng lực quản lý của người lao động và tay nghề của người lao động còn yếu, hiệu quả kinh doanh thấp và kém bền vững, sức cạnh tranh yếu. 3.3.5) Thành phần kinh tế tư bản nhà nước (TPKTTBNN) a.Khỏi niệm Là sản phẩm của sự can thiệp của nhà nước và hoạt động của các TPKTTBNN Tổ chức, đơn vị kinh tế tư bản trong và ngoài nước ,. b.Hình thức tồn tại: Bao gồm tất cả cỏc hỡnh thức hợp tỏc ,liờn doanh sản xuất giữa kinh tế nhà nước và kinh tế TB trong và ngoài nước nhằm sử dụng , khai thác , phát huy thế mạnh của mỗI bên tham gia , đặt dướI sự kiểm soát của nhà nước . c.Thực trạng và xu thế phỏt triển : Năm 1988,sau khi nhà nước ban hành luật đầu tư nước ngoài , Việt Nam đó có 37 dự án đầu tư dược cấp phép dướI hỡnh thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài , doanh nghiệp liên doanh giữa VN vớI nước ngoài vớI tổng số vốn đăng kí 360 triệu USD.Chỉ riêng năm 1995 đó cú 404 dụ ỏn vốI 6,6 tỉ USD vốn đăng kí , và đến tháng 12 năm 2000 số dự án được cấp giấy phép lên tớI 3112 dự án vớI vốn đăng kí 43,16 tỉ USD . Trong đó có 27 dự án (156 triệu USD) đó kết thỳc đúng thờI hạn hoạt động , 452 dự án (3,24 tỉ USD) đó bị giảI thể trước thờI hạn , 668 dự án xin tăng vốn (4,25 tỉ USD) . - 15 - Hiện nay ở nước ta , sử dụng kinh tế TB nhà nước phảI đặt trong bốI cảnh đặc thù của thờI đạI và dân tộc: sự tác động cửa xu hướng toàn cầu hoá , thương mạI hoá các mặt đờI sống kinh tế-chính trị-XH làm cho cạnh tranh quốc tế ngày càng quyết liệt giữa các quốc gia trong giả quyết các vấn đề về: vốn , công nghệ , nguyên liệu , lao động … mốI quan hệ kinh tế giữa các nước ,TB dân tộc ngày càng quan hệ mật thiết vớI TB quốc tế . Điều đó cho ta thấy , việc thực hiện kinh tế TBNN ở nước ta hiện nay vừa có thuận lợI , vừa có nhiều thách thức , khó khăn. d.Vai trò và tác dụng: KTTBNN kết hơp tối ưu sức mạnh của nhà TB với vai trũ sức mạnh của nhà nước trong việc huy động ,sử dụng vốn , kĩ thuật , công nghệ , kinh nghiệm tổ chức quản lí , để giành lợI thế cạnh tranh trên thương trường. KTTBNN không chỉ là “chiếc cầu nốI” giữa nhà nước vớI TB tư nhân trong nước mà cũn mở rộng “bàn tay nhà nước” với TB nước ngoài hướng chúng vào thực hiện mục tiêu xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật của CNXH đồng thờI chuyển dần nền sản xuất tiểu nụng lờn sản xuất lớn XHCN. Thông qua KTTBNN để cảI tạo tư sản dân tộc , củng cố địa vị thống trị của giai cấp công nhân. 3.3.6).Thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài: a.Khỏi niệm: Nó bao gồm phần vốn của nước ngoài vào các cơ sở sản xuất kinh doanh của nước ta. b.Hình thức tồn tại : Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài , doanh nghiệp liên doanh giữa VN vớI nước ngoài. c.Thực trạng và xu thế phỏt triển Trong 10 năm (1991_2000) các DN có vốn đầu tư nước ngoài có giá trị sản xuất bỡnh quõn tăng 22% 1 năm. Trong 5 năm (1996_2000) tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đó thực hiện khoảng 10 tỉ ÚD , chiếm 24% tổng vốn đầu tư toàn XH , các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tạo ra 34% giá trị XK toàn ngành công nghiệp , khoảng 23%kim nghạch xuất khẩu và đóng góp trên 10% GDP chung của cả nước , thu hút trên35 vạn lao đọng trực tiếp làm việc trong ngành xây dựng , thương mạI , dịch vụ liên quan. d.Vai trũ và tỏc dụng: TPKT có vốn đầu tư nước ngoài đó khai thỏc những tiềm năng , lợI thế so sánh và các nguồn ngoạI lực từ phía cácđốI tác bên ngoài. Do đó nó đó bổ su ng nguồn vốn quan trọng cho đầu tư phát triển , tạo thế và lực mớI cho nền kinh tế nước ta , góp phần quan trọng vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế , nâng cao trỡnh độ công nghệ , trỡnh độ quản lí nền kinh tế nước ta , góp phần mở rộng quan hệ dốI ngoạI , chủ động hộI nhập kinh tế vớI các nước trong khu vực và quốc tế , nâng cao năng lực XK của VN , đồng thờI mở rộng thị trường hàng hoá , dịch vụ và lao động. Tuy nhiên kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài không đồng nhất vớI các TPKT trong nước cả về mục tiêu và cơ chế vận hành , vừa cầncó chính sách thu hút mạnh hơn , vừa phảI quan tâm , theo dừi , phõn tớch điều chỉnh để đảm bảo mốI quan tâm , theo dừi , phõn tớch điều chỉnh để đảm bảo mốI tương quan hợp lí vớI các TPKT trong nước và lợI ích đất nước. 4.)Sự thống nhất và mõu thuẫn giữa cỏc thành phần kinh tế: 4.1).Sự thống nhất giữa các thành phần kinh tế Chúng đều nằm trong hệ thống phân công lao động xh.mỗi thành phần kinh tế đều có vị trí và vai trũ nhất định đôi với nền kinh tế quốc dân. Các thành phần kinh tế đó đều chịu sự quản lí vĩ mô của nhà nước đề vận động theo cơ chế thị truờng .. đều chịu sự tác động của các quy luật kinh tế thị truờng. Các tpkt đều liên doanh , liên kết với tpkt nhà nuớc để đều định huớng di lên cnxh do kinh tế nhànước giũ ca trũ chủ đạo. Tính nhiều tpkt phản ánh tính linh hoạt , mềm dẻo , tính thích nghi của những quan hệ sản xuất đối với tớnh nhiều trỡnh độ của lực lượng sản xuất , đồng thời , các tpkt cần được bỡnh đẳng trước pháp luật 4.2.) Sự mâu thuẫn giữa cỏc thành phần kinh tế: Mâu thuẫn giữa các tpkt với nhau thể hiện: ở những mâu thuẫn giữa công hữu và tư hữu , Giữa tư nhân với tập thể , với nhà nước , giữa xu hướng TBCN và CNXH . Đây là mâu thuẫn về mặt lợI ích dựa trờn những hỡnh thức sở hữu khỏc nhau về tư liệu sản xuất . Mâu thuẫn là động lực của mọi sự vận động và phát triển . Trong hệ thống nhất của nền kinh tế quá độ chứa đựng những sự đốI lập , những khuynh hướng đốI lập , một mặt bài trừ , phủ định lẫn nhau , cạnh tranh với nhau , mặt khác , chúng thống nhấtvớI nhau , thâm nhập , nương tựa vào nhau để tồn tạI và phát triển thông qua hợp tác và cạnh tranh , liên doanh , liên kết. 5.) Ích lợi và hạn chế của việc sử dụng cơ cấu kinh tế nhiều thành phần vào phát triển KT-XH trong thờI kỡ quỏ độ lên CNXH. 5.1): Ích lợi: Các thành phần kinh tế ở VN trong những năm qua đó gúp phần quan trọng vào tăng trưởng kinh tế đất nước . Tạo công ăn việc làm ổn định cho người lao động , góp phần tăng năng suất lao dộng , cảI thiện đờI sống cho người dân. Cụ thể là: Trong thời kỡ kế hoạch hoỏ tập trung, với quan niệm dướI CNXH không có thất nghiệp , nền KTVN đó cố gắng tạo việc làm , thu hỳt lao động XH bằng cơ chế tăng biên chế nhà nước và tăng số ngườI tham gia vào các hỡnh thức kinh tế hợp tác . Năm 1986 , trong tổng số lao động đang làm việc trong nền KTQD thỡ 14,5% thuộc biờn chế nhà nước , 72,2% là xó viờn cỏc tổ chức kinh tế tập thể , 13,3% là những ngườI làm kinh tế cá thể cơ chế tạo việc làm dẫn đến lao động thuộc biên chế nhà nước dư thừa quá lớn,số xã viên tăng cao 1 cách hình thức .Từ năm 1986 -> 1998, số lao động thu hút vào các kinh tế cá thể, tiểu chủ ở thành thị tăng trên 7,4 triệu người, số lao động làm việc trong thành phần TB nhà nước và TB tư nhân đạt gần 0,5 triệu người. Nguồn thu ngân sách nhà nước ngày càng nhận được nhiều hơn từ sự phát triển kinh tế nhiều thành phần. Thuế thu từ doanh nghiệp liên doanh vơí nước ngoài từ 6% năm 1988 đã chiếm 11.5% năm 1989 và tăng cao trong các năm sau, đạt 35,1% năm 1998 Thuế công thương nghiệp và dịch vụ ngoài quốc doanh chiếm tỉ trọng ổn định trong khoảng 12% ->16% (từ 1986 -> 1998) . Thuế nông nghiệp chiếm tỉ trọng ổn định (5% - 6%) từ 1986 -> 1998.Nhìn chung mức đóng thuế của TPKT nhà nước vẫn chiếm tỉ trọng cao hơn so với các TPKT khác Giải phóng được mọi sức sản xuất tiềm tàng và mọi tiềm năng của đất nước đẻ phát triển nền kinh tế quốc dân. Tập hợp mọi nguồn lực rộng rãi trong toàn xã hội. Về lao động, tài chính, trí tuệ cho công việc phát triển 1 cách nhanh chóng nhất, có hiệu quả nhất. Mỗi TPKT có vị trí, vai trò và tác dụng to lớn của nó trong công việc phát triển nền kinh tế,mà TPKT khác không thể thay thế được. Nó làm cho trìng độ sản xuất, phân công lao động phát triển, xã hội hoá cao. Phát triển các TPKT là cơ sở phát triển sản xuất hàng hoá, phát triển kinh tế thị trường, tạo thuận lợi cho cơ chế thị trường hoạt động có hiệu quả. Số hộ kinh doanh cá thể hoạt động từ 1.498.611 hộ năm 1992 lên 2.026.259 hộ năm 1996, tốc độ tăng bình qụân 7,68% /năm, mỗi năm tăng 129.412 hộ. Từ năm 1996-2000 số lượng hộ kinh doanh cá thể hoạt động tăng từ 2.016.259 hộ lên 2.137.731 hộ, tăng bình quân 1,47 % năm, mỗi năm tăng 30.364 hộ. Trong cơ cấu ngành nghề, thời điểm 31/2/2000, các hộ kinh doanh thương mại dịch vụ chiếm tỉ trọng 51,9% tiếp đếnlà các hộ sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp chiếm tỉ trọng 30,2%. Vốn đầu tư phát triển của hộ kinh doanh cá thể năm 2000 là 29.267 tỉ đồng tăng 12,93% so với năm 1999. Năm 2000, vốn đầu tư của hộ kinh doanh cá thể chiếm 19,83% trong vốn đầu tư toàn xã hội. Nói chung các hộ kinh doanh cá thể có nhiều khó khăn về vốn hoạt động, phải vay ở thị trường không chính thức với lãi xuất cao và thời hạn ngắn, rất khó tiếp cận với các nguồn vốn tín dụng của các ngân hàng thương mại, nhất là nguồn vốn tín dụng ưu đãi của nhà nước. Về số lượng lao động từ năm 1996 –2000 tốc độ tăng bình quân là 2,01%/năm. d. Vai trò và tác dụng. Phát triển các TPKT có tác dụng phát triển cơ sở vật chất, kĩ thuật, cộng nghệ, động viên tối đa mọi nguồn lực bên trong, bên ngoài,động viên mọi tầng lớp nhân dân xây dựng kinh tế, phục vụ cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần góp phần ổn định chính trị – xã hội của đất nước, nó là cơ sở vững chắc để đảm bảo sự dân chủ về kinh tế. Cơ sở của dân chủ kinh tế là bảo đảm sự tự do của mọi công dân trong hoạt động kinh tế với TPKT phù hợp. Đồng thời mọi công dân, mỗi TPKT đều phải có nghĩa vụ kinh tế đối với xã hội theo qui định của pháp luật. Như vậy, mọi người dân đều có thể làm giàu chính đáng. Đó là tiền đề cho đân chủ hoá đời sống kinh tế - xã hội và thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Việc phát triển kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam thời gian vừa qua đã tạo điều kiện để nền kinh tế Việt Nam hội nhập vào quá trình toàn cầu hoá kinh tế. Điêù này được thể hiện rõ ở những mặt sau: Hiến pháp 1992 ghi nhận sở hữu tư nhân là 1 trong 3 chế độ sở hữu chủ yếu trong nền kinh tế. Sự ghi nhận này chẳng những giải phóng sức sản xuất 1 lực lượng kinh tế to lớn của quốc gia mà còn tạo ra 1 căn cứ pháp lí vững chắc để tư nhân nước ngoài đầu tư vào Việt Nam mà không sợ bị quốc hữu hoá hay bị đặt vào 1 quá trình cải tạo XHCN như trước đổi mới tại Việt Nam . Việc xoá bỏ độc quyền ngoại thương của kinh tế nhà nước đã từng bước được thực hiện trong suốt quá trình đổi mới vừa qua. Sự điều chỉnh này đã mở ra những khả năng to lớn và hiện thực để nền kinh tế Việt Nam đẩy mạnh hội nhập quốc tế về mặt thương mại. Hiến pháp 1992 qui định quyền tự do kinh doanh của công dân. Với quyền này, công dân Việt Nam ngoài việc trở thành người lao động trong các tổ chức kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, còn có thể trở thành những người chủ kinh doanh trong các tổ chức thuộc các TPKT khác. Với tư cách là chủ kinh doanh công dân Việt Nam có nhiều điều kiện hơn để tham gia vào nền kinh tế khu vực, nền kinh tế thế giới không chỉ trên lĩnh vực thương mại mà trên lĩnh vực đầu tư trí tuệ. 5.2.) Hạn chế: Thực tiễn, nền kinh tế trong những năm qua đã cho thấy thành phần kinh tế nhà nước với hiệu quả hoạt động đã không tương xứng với vai trò chủ đạo vốn có của nó xét về mặt lí thuyết. Vấn đề bình đẳng trước pháp luật về quyền và nghĩa vụ của các TPKT còn nhiều bất cập. Việc xử lí mối quan hệ giữa làm giàu và bóc lột, giữa TB và lao động làm thuê trong quá trình phát triển cơ cấu các TPKT đang là những vấn đề lí luận nổi cộm cần phải được nghiên cứu, làm rõ. 6.) Chính sách và giải pháp để sử dụng cơ cấu kinh tế nhiều thành phần: 6.1.) Chính sách và giải pháp chung: Trong chính sách phát triển các TPKT, Đảng ta chủ trương phát triển các hình thức tổ chức kinh doanh đan xen, hỗn hợp nhiều hình thức sở hữu, giữa các TPKT với nhau, giữa trong nước và ngoài nước, các xí nghiệp liên hợp doanh giữa nhà nước và tư nhân, giữa HTX và tư nhân… Chúng ta phải có cơ chế quản lý và chính sách đúng đắn, tiến hành đồng bộcác giải pháp vĩ mô để tạo môi trường thuận lợi cho các TPKT hoạt động có hiệu quả,bao gồm: Hoàn thiện hệ thống tài chính và ngân hàngbằng những công nghệ hiện đạI,đảm bảo thông suốt trong và ngoài nước. Xây dựng một thị trường hoàn thiện và đầy đủ. Hoàn thiện hệ thống thông tin kinh tế phục vụ cho các nhà doanh nghiệp và phát huy dân chủ hoá trong đời sống kinh tế. Xây dựng đội ngũ các doanh nghiệp giỏi và các nhà quản lý vĩ mô có tài, đồng thời liên kết họ lại. Hoàn thiện và nâng cao tay nghề cho người lao động. Chúng ta cần phải tăng cường vai trò kinh tế của nhà nước, xây dựng nhà nước pháp quyền VN. để nhân dân yên tâm bỏ vốn ra sản xuất kinh doanh và hoạt động đúng hướng, Nhà nước phảI xây dựng một hệ thống văn bản pháp qui như luật kinh doanh,luật thừa kế, luật thuê mướn lao động…..đồng thời hoàn thiện chế độ kinh doanh, kế toán, thống kê, thuế, hợp đồng kinh tế. Phải phát triển kinh tế nhà nước để nó thực sự giữ vai trò chủ đạo làm chỗ dựa kinh tế cho nhà nước và định hướng nền kinh tế đi lên CNXH. Vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh không phải ở chỗ chiếm tỉ trọng bao nhiêu mà là ở chỗ nắm giữ những vị trí nào. 6.2.) Chính sách và giải pháp đối với từng thành phần kinh tế: 6.2.1) Thành phần kinh tế nhà nước: KTNN cần tập trungvào những ngành, lĩnh vực trọng yếu như kết cấu hạ tầng kinh tế- xã hội, hệ thống tài chính, ngân hàng, những cơ sở sản xuất kinh doanh, thương mại, dịch vụ quan trọng, những cơ sở kinh té phục vụ an ninh quốc phòng về vấn đề xã hội, để đảm bảo những cân đối lớn, chủ yếu của nền kinh tế và thực hiện vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường. Chúng ta cần thiết phải cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước. Đổi mới công nghệ, kĩ thuật, dây chuyền thiét bị. Hoàn thiện chế độ, chính sách, luật pháp đảm bảo DN nhà nước thực sự là một đơn vị hàng hoá có tư cách pháp nhân. Phân định quyền sở hữu nhà nước với quyền đại diện chủ sở hữunhà nước, quyền sở hữu nhà nước với quyền sử dụng, quản lí. Tách bạch rõ ràng chức năng kinh tế với quản lí tài sản của nhà nướcvà quản lí kinh doanh của doanh nghiệp. Để đổi mới và phát triển kinh tế nhà nước phải phân loại và sắp xếp lại hệ thống doanh nghiệp nhà nước theo hướng: Xác định các doanh nghiệp công ích cần thiết,hoạt động không vì mục đích lợi nhuận là chính ( như các doanh nghiệp phục vụ an ninh, quóoc phòng,giao thông công cộng, trường học,bệnh viện…) cần có cơ chế chính sách phù hợp đẻ quản lý và sử dụngcó hiệu quả các nguồn lực dược đầu tư, đảm bảo mục tiêu kinh tế-xã hội. Những doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh thu lợi nhuận tập trung kiện toàn và nâng cao hiệu quả các DN lớn, những doanh nghiệp hoạt động tốt, có khả năng cạnh tranh và tham gia thị trường thế giới, phảI trở thành những doanh nghiệp mạnh toàn diện, đầu đàn về CN-KT và chất lượng sản phẩm,đi đầu về bảo đảm XH, ảnh hưởng tốt đén nền kinh tế. Những doanh nghiệp nhỏ và quá nhỏ, những doanh nghiệp không có vai trò quan trọng, làm ăn thua lỗ yếu kém, càn dứt điểmxử lý thích hợp như chuyển hình thưcsở hưũ,cổ phần hoá, cho thuê, khoán, giải thể hoặc phá sản theo luật. Những doanh nghiệp mang tính độc quyềnhoặc những soanh nghiệp có chức năng ổn định thị trường, giá cả,cần phải xác định rỏ trách nhiệm, quyền hạn và sự điều tiết của nhà nước, nhằm bảo đảm công bằng trong phát triển, tạo môI trường cho cạnh tranh và phục vụ cho sự định hướng nền kinh tế. Mạnh dạn nghiên cứu và ứng dụng các hình thức tổ chức quản lý trong các doanh nghiệp nhà nước. Hoàn thiện hệ thống chính sách tuyển dụng, đãi ngộ, gắn trách nhiệm với quyền hạn và nghĩa vụ, sớm tiêu chuẩn hoá các chức danh. 6.2.2) Thành phần kinh tế tập thể: TPKTTT cần có sự giúp đỡ về đào tạo cán bộ quản lý, cán bộ KHKT để nông nghiệp chuyển dịch cơ cấu gắn với phân công lao động xã hội, tạo việc làm và thu nhập, khuyến khích làm giàu chính đáng đi đôi với xoá đói giảm nghèo, từng bước công nghiệp hoá,hiện đại hoá nông nghiệp để từng bước kinh tế HTX cùng với KTNN trở thành nền tảng KYQD. Chính sách đầu tư trang bị kĩ thuật và ứng dung công nghệ mới trong nông nghiệp, sử dụng những tiến bộ của công nghệ sinh học vào sản xuất. Cần có sự giúp đỡ về vấn đề tiêu thụ sản phẩm,chính sách thị trường, xuất khẩu, chế biến, giá cả, tín dụng. Xây dựng cơ sở hạ tầng cho sản xuất và đời sống, chuyển dịch cơ cấu cây trồng. Chuyển đổi HTX kiểu cũ sang HTX kiểu mới mới như luật HTX đã được quốc hội ban hành 6.2.3) Thành phần kinh tế cá thể và tiểu chủ: Nhà nước và các TPKT khác tạo điều kiện giúp đỡ, hướng dẫn KTCT&TC về vốn, kĩ thuật,công nghệ, tài chính, tiêu thụ sản phẩm…để nó từng bước đi vào con đường làm ăn tập thể dưới hình thức HTX hoặc làm vệ tinh cho các TPKT khác. Phát triển hộ kinh doanh cá thể ở tất cả các ngành nghề pháp luật không cấm và không đòi hỏi điều kiện kinh doanh ở thành thị và nông thôn, tập trung khuyến khích, phát triển ở những nơi có thế mạnh về nguồn lao động, nguyên liệu và thị trường tiêu thụ. Khuyến khích phát triển và hỗ trợ kinh tế hộ ở vùng sâu vùng xa, vùng kinh tế chậm phát triển. 6.2.4) Thành phần kinh tế tư bản tư nhân: Khuyến khích những hộ kinh doanh cá thể có đủ điều kiện chuyển thành doanh nghiệp tư nhân. Khuyến khích TBTN đầu tư vào sản xuất, bảo vệ quyền sở hữu và lợi ích hợp lí, tạo điều kiện thuận lợi và củng cố lòng tin cho các nhà TB đầu tư phát triển. Mở rộng diện ưu đãi đối với những ngành nghề, lĩnh vực, địa bàn, sản phẩm nhà nước khuyến khích đầu tư. Hỗ trợ mạnh hơn những doanh nghiệp đầu tư sản xuất sản phẩm mới với cộng nghệ hiện đại phục vụ cho chiến lược xuất khâủ… Tiếp tục hoàn thiện môi trường pháp lí, môi trường tâm lí xã hội. Bổ xung sửa đổi cơ chế chính sách tín dụng đầu tư. Chính sách thuế, tài chính, kế toán, kiểm toán. Giảm các qui định thủ tục rườm rà trong hợp đồng chuyển giao công nghệ để thu hút các nhà đầu tư tư nhân vào việc chuyển giao công nghệ. Tạo điều kiện cho TBTN được vay ngoại tệ để nhập máy móc, thiết bị hiện đại, cộng nghệ tiên tiến. Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp. Xây dựng chiến lược và chương trình đào tạo nghề đến năm 2005 và 2010. Chế độ phụ cấp, tiền lương, tiền thưởng cho người lao động phải được ghi trong các thoả ước lao động tập thể hoặc trong qui chế doanh nghiệp. Bảo hiểm xã hội cũng cần được chú ý. 6.2.5) Thành phần kinh tế tư bản nhà nước.(TPKT TBNN) TPKT NN cần được đa dạng hoá dưới các hình thức liên doanh, liên kêt với các tổ chức và công ty tư bản nước ngoài, nâng dần tỉ lệ đầu tư của phía VN. Đồng thời cũng cần áp dụng nhiều phương thức góp vốn kinh doanh giữa nhà nước với các nhà kinh doanh tư nhân trong nước dưới nhiều hình thức như công ty cổ phần, công ty TNHH.... nhằm tạo thế tạo lực cho các doanh nghiệp trong nước phát triển, tăng sức mạnh cạnh tranh và hợp tác với bên ngoài Bên cạnh đó chúng ta cũng cần cải thiện môi trường đầu tư và nâng cao năng lực quản lý, sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư, bảo vệ quyền lợi của người lao động. Do kinh tế tư bản nhà nước luôn chịu sụ tác động chi phố của hai hệ thông qui luạt kinh tế cung với hai xu hướng phát triển đối lập: chế độ XHCN và chế độ TBCN. Vì vậy, để KTTBNN vận động hướng vào mục tiêu XHCN đòi hỏi vai trò điều tiết, chi phối định hướng rất quan trọng của nhà nước vô sản. Cụ thể là: Giữ vững vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước. Hoạt động của DNNN phải được thực hiện trên quan điểm chủ động hợp tác, phân công với các TPKT khác, đặc biệt KTTBNN để cùng tiến hành các hoạt động chủ chốt của nền kinh tế như: xây dựng kết cấu hạ tầng, các công trình phúc lợi công cộng, đầu tư phát triển công nghệ trông tin, chuyển giao kỹ thuật công nghệ vào sản xuất... KTTBNN phải được điều tiết vào những hoạt động kinh tế nhà nước, đặc biệt là doanh nghiệp nhà nước mà nhà nước sẽ thực hiện vai trò điều tiết, định hướng sự vận động, phát triển của KTTBNN vào quỹ đạo mục tiêu XHCN. Nhà nước sử dụng các công cụ quản lý kinh tế nhằm điều tiết định hướng sự vận động, phát triển của KTTBNN. Một mặt nó tạo lập môi trường kinh tế vĩ mô lành mạnh, khuyến khích hoạt động của các TPKT, đồng thời hạn chế và sửa chữa những khuyết tật của nền KTTT. Các công cụ vĩ mô có thể là: Hệ thống pháp luật, nhà nước là “trọng tài” tạo “sân chơi bình đẳng” cho các chủ thể kinh doanh trên thị trường; Các chính sách kinh tế vĩ mô như chính sách tài chính, tiền tệ, tín dụng, nhân hàng, tỷ giá hối đoái... tác động trực tiếp đến tổng cung, tổng cầu, giá cả; Các công cụ kế hoach hoá như lập ra các kế hoạch ngắn hạn, trung hạn và dài hạn cho từng giai đoạn, từng ngành. 6.2.6) Thành phần kinh tế có vốn đầu tư của nước ngoài Tạo điều kiện để kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát triển thuận lợi, hướng vào xuất khẩu, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội gắn với thu hút - 26 - công nghệ hiện đại, tạo thêm nhiều việc làm. Để thu hút vốn đầu tư nước ngoài, chúng ta cần thực hiện một số giải pháp sau: Xây dựng kế hoạch cụ thể nhằm triển khai chiến lược thu hút vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài, tiếp tục hoàn thiện và bổ sung danh mục các dự án quốc gia gọi vốn đầu tư nước ngoài Bổ sung hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đế hoạt động đầu tư nước ngoài như: xây dựng hệ thông pháp luật liên quan đến hoạt đông cạnh tranh cao, đồng thời tạo môi trường thuận lợi, thông thoáng để thu hút và sử dụng hiệu quả vốn đầu tư nước ngoài. Thực hiện thí điểm cổ phần hoá doanh nghiệp đầu tư nước ngoài, hoàn thiện hệ thống pháp lý chung về kinh tế để tạo môi trường kinh doanh bình đẳng. Đổi mới và triển khai có hiệu quả chính sách đầu tư nước ngoài như: chính sách thuế và ưu đãi tài chính, chính sách cơ cấu đầu tư.... Nâng cao hiệu quả quản lý và điều hành của nhà nước trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài: cải tiến thủ tục cấp giấp phép đầu tư; đơn giản hoá thủ tục hải quan, tranh hiện tượng tiêu cực trong công tác hải quan. Chính phủ cần có văn bản hướng dẫn thi hành luật hải quan và chỉ đạo việc sớm đưa luật hải quan vào cuộc sống.; xây dựng, ban hành qui chế phối hợp giữa các bộ, cơ quan nước ngoài; thực hiện phân cấp quản lý nhà nước về đầu tư nước ngoài cho các địa phương trên cơ sở bảo đảm sự thống nhất về qui hoạch chính sách và cơ chế quản lý; Thành lập các trung tâm tư vấn đầu tư, nhằm giải quyết nhanh chóng thắc mắc của các nhà đầu tư, thúc đẩy nhanh tiến độ thực hiện dự án. Nâng cao hiệu quả công tác xúc tiến đầu tư. Đổi mới và nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, vận động để tạo dựng hình ảnh về một đất nước Việt Nam năng động, thực sự muốn mở rộng quan hệ quốc tế với nước ngoài. Chú trọng xúc tiến đầu tư trực tiếp với từng dự án, từng nhà đầu tư có tiềm năng. 7. Kết luận Rõ ràng các thành phần kinh tế tồn tại ở nước ta hiện nay vô cùng phức tạp, chính vì vậy, trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế sang cơ chế mới, việc nhận thức vận dụng đúng qui mô, phạm vi của các thành phần kinh tế sẽ đảm bảo vững chắc cho tăng trưởng và phát triển nhanh, bền vững nền kinh tế đất nước “mọi thành phần kinh tế đều bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ trước pháp luật”. Điều đó khẳng định rằng mỗi thành phần kinh tế đều có vai trò nhât định đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Chúng ta cần tăng cường vai trò quản lý kinh tế của nhà nước XHCN và làm cho khu vực kinh tế nhà nước đủ mạnh, có thực lực, sẽ đảm bảo vững chắc cho mọi thành phần kinh tế phát triển theo định hướng XHCN trong cơ chế thị trường vì một dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh: “mọi thành phần kinh tế đều bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ trước pháp luật”. Điều đó khẳng định rằng mỗi thành phần kinh tế đều có vai trò nhât định đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc25407.doc
Tài liệu liên quan