Đề tài Tại sao Hồ Chí Minh lại chủ trương thực hiện cơ cấu kinh tế hàng hoá nhiều thành phần trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

Vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin và nghiên cứu tình hình thực tiễn của Việt Nam cũng như của các nước khác trong giai đoạn quá độ, Hồ Chí Minh đã chủ trương thực hiện cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Tư tưởng ấy của Người là hoàn toàn đúng đắn, thực tế đã chứng minh điều đó. Thực hiện cơ cấu kinh tế nhiều thành phần không chỉ phù hợp trong quá khứ mà ngay cả hiện tại và tương lai cũng là con đường đi đúng đắn cho sự nghiệp phát triển kinh tế của Việt Nam. Điều đó đòi hỏi chúng ta phải liên tục nghiên cứu, học tập và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn để đưa nước ta phát triển lên một tầm cao mới.

doc16 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1814 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Tại sao Hồ Chí Minh lại chủ trương thực hiện cơ cấu kinh tế hàng hoá nhiều thành phần trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đề bài: Tại sao Hồ Chí Minh lại chủ trương thực hiện cơ cấu kinh tế hàng hoá nhiều thành phần trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam MỤC LỤC Lời mở đầu Tư tưởng Hồ Chí Minh chính là cách vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lenin trong điều kiện cụ thể của Việt Nam, và trong thực tế Tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành một tài sản tinh thần quý báu của Đảng Cộng Sản và của dân tộc Việt Nam. Hồ Chí Minh là người đầu tiên chủ trương phát triển cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong suốt thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Chủ trương ấy của Người là hoàn toàn đúng đắn, thực tế phát triển kinh tế của Việt Nam đã chứng minh điều ấy. Dưới đây chúng ta sẽ đi vào nghiên cứu cụ thể lý do vì sao Hồ Chí Minh chủ trương thực hiện cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. 1. Xuất phát từ chủ nghĩa Mác-Lênin 1.1. Theo Mác 1.1.1. Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất 1.1.1.1. Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của phương thức sản xuất Chúng tồn tại không tách rời nhau, tác động qua lại lẫn nhau một cách biện chứng, tạo thành quy luật sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất – quy luật cơ bản nhất của sự vận động, phát triển xã hội. Khuynh hướng chung của sản xuất vật chất là không ngừng phát triển. Sự phát triển đó xét đến cùng là bắt nguồn từ sự biến đổi và phát triển của lực lượng sản xuất, trước hết là công cụ lao động. 1.1.1.2. lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất Khi một phương thức sản xuất mới ra đời, quan hệ sản xuất sẽ phát triển để phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Trong đó quan hệ sản xuất là hình thức phát triển của lực lượng sản xuất. Tất cả các mặt của quan hệ sản xuất đều tạo điều kiện sử dụng và kết hợp một cách tối ưu giữa người lao động với tư liệu sản xuất và do đó lực lượng sản xuất có cơ sở để phát triển hết khả năng của nó. Sự phát triển của lực lượng sản xuất đến một trình độ nhất định làm cho quan hệ sản xuất từ chỗ phù hợp trở thành không phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Khi đó, quan hệ sản xuất kìm hãm lực lượng sản xuất phát triển. Yêu cầu khách quan của sự phát triển lực lượng sản xuất tất yếu dẫn đến thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ phát triển mới của lực lượng sản xuất để thúc đẩy lực lượng sản xuất tiếp tục phát triển. 1.1.1.3. Quan hệ sản xuất độc lập tương đối và tác động trở lại lực lượng sản xuất Quan hệ sản xuất quy định mục đích của sản xuất, tác động đến thái độ của con người trong lao động sản xuất, đến tổ chức phân công lao động xã hội, đến phát triển và ứng dụng khoa học và công nghệ,… và do đó tác động đến sự phát triển của lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Ngược lại, quan hệ sản xuất lỗi thời, lạc hậu hoặc “tiên tiến” hơn một cách giả tạo so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Khi này theo quy luật của sự phát triển quan hệ sản xuất cũ sẽ được thay thế bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ phát triển và thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Tuy nhiên, việc giải quyết mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất không phải giản đơn. Nó phải thông qua nhận thức và vận động cải tạo xã hội của con người. Trong xã hội có giai cấp phải thông qua đấu tranh giai cấp, thông qua cách mạng xã hội. 1.1.2. Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội Theo quan điểm của Mác quá độ lên chủ nghĩa xã hội là loại hình quá độ trực tiếp từ các nước tư bản phát triển ở trình độ cao. Đây là loại quá độ phản ánh quá trình phát triển tuần tự của xã hội loài người. Thời kỳ này bắt đầu từ khi giai cấp vô sản dành chính quyền, đập tan Nhà nước tư sản, thiết lập Nhà nước vô sản (quan hệ sản xuất cũ mâu thuẫn với lực lượng sản xuất nên dẫn đến một cuộc cách mạng xã hội để thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp hơn). Đây là thời kỳ quá độ ngắn và trực tiếp. 1.2. Theo Lênin 1.2.1. Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội Ngoài loại hình quá độ trực tiếp như Mác đã nghiên cứu, Lênin còn đề cập tới con đường quá độ gián tiếp từ các nước chậm phát triển (các nước tiền tư bản) bỏ qua chủ nghĩa tư bản tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội. loại hình quá độ này phản ánh quy luật nhảy vọt với hai điều kiện: Đảng kiểu mới của giai cấp vô sản nắm quyền lãnh đạo (trở thành Đảng cầm quyền) và được một hay nhiều nước tiên tiến giúp đỡ. Đây là loại hình quá độ dài trải qua nhiều bước quá độ. 1.2.2. Nền kinh tế trong thời kỳ quá độ Sự tồn tại khách quan của nhiều thành phần kinh tế trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội đã được V.I.Lênin đề cập ngay từ những ngày đầu của chính quyền Xô viết. Theo Lênin, trong nền kinh tế của thời kỳ quá độ có sự xen kẽ của “những yếu tố, những bộ phận nhỏ, những mảnh của chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội”. Nền kinh tế trong thời kỳ quá độ sẽ không thuần nhất và ở đó vẫn tồn tại nhiều thành phần kinh tế đan xen và tác động lẫn nhau. 2. Thực tiễn 2.1. Thực tiễn Liên Xô 2.1.1. Chính sách kinh tế mới (NEP) Ngày 8-3-1921, tại Đại hội X Đảng Cộng sản (b) Nga, V.I.Lê-nin - lãnh tụ thiên tài của giai cấp công nhân Nga và cách mạng thế giới đã đề xướng với Đảng việc áp dụng Chính sách kinh tế mới (NEP) và đã được Đại hội chấp thuận. NEP bao gồm nhiều nội dung liên quan đến các lĩnh vực kinh tế, chính trị và xã hội, biểu hiện tập trung nhất trên năm vấn đề cơ bản, đó là: 1) Thực hiện chế độ thu thuế lương thực, cho phép tự do buôn bán lúa mì, coi thương nghiệp là mắt xích chủ yếu, là hình thức cơ bản của các mối liên hệ kinh tế giữa công nghiệp với nền nông nghiệp hàng hoá, giữa thành thị với nông thôn, và sự liên minh giai cấp về kinh tế giữa công nhân với nông dân. 2) Áp dụng những hình thức khác nhau của chủ nghĩa tư bản nhà nước, coi đó là mắt xích trung gian để xây dựng chủ nghĩa xã hội. 3) Sử dụng các các quan hệ hàng hoá - tiền tệ, thực hiện khuyến khích lợi ích vật chất và tinh thần đối với mọi người lao động, khai thác mọi nguồn lực để phát triển lực lượng sản xuất, củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới; 4) Thực hiện kế hoạch điện khí hoá nước Nga, coi đó như một trong những điều kiện tiên quyết cho sự ra đời của chế độ xã hội chủ nghĩa 5) Củng cố Chính quyền Xô viết, tăng cường vai trò của quản lý, kết hợp chặt chẽ các biện pháp hành chính, tổ chức và kinh tế; thực hiện chế độ kiểm kê kiểm soát của nhà nước chuyên chính vô sản đối với đời sống kinh tế - xã hội, trên cơ sở liên minh kinh tế để tăng cường củng cố liên minh công nông về chính trị. Xét một cách tổng quát, NEP chính là sự thực hiện những nguyên lý của chủ nghĩa Mác về cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa trong điều kiện của một nước tiểu nông, ở đó những quan hệ kinh tế tư sản tuy đã hình thành nhưng chưa thể chiến thắng các quan hệ kinh tế cũ, các quan hệ kinh tế của nền sản xuất tiểu nông còn chiếm đại bộ phận trong nền sản xuất xã hội. Muốn thực hiện tư tưởng xoá bỏ chế độ tư hữu với tính cách là "chế độ sở hữu cổ truyền" không thể "tiến công trực diện", phải có cách làm khác. Theo cách diễn đạt của V.I.Lê-nin, đó là "thực hiện những bước lùi cần thiết". Bước lùi đó chính là việc thiết lập một hệ thống sở hữu hợp quy luật làm cơ sở cho các thành phần kinh tế còn tồn tại khách quan, giải phóng tối đa sức sản xuất của xã hội đang bị kìm hãm… 2.1.2. Sự thành công của chính sách kinh tế mới Trong giai đoạn NEP, sản lượng nông nghiệp không chỉ hồi phục ở mức đã đạt được trước cách mạng Bolshevik mà còn tăng trưởng mạnh. Việc phá bỏ các lãnh địa gần như phong kiến tại các vùng nông thôn ở thời Sa Hoàng trước đây cho phép nông dân có được sự khích lệ lớn nhất từ trước tới nay để tăng cao sản xuất. Khi đã có thể bán thặng dư của họ ra thị trường tự do, sự chi tiêu của nông dân tạo ra một sự bùng nổ trong các lĩnh vực sản xuất tại các vùng đô thị. Kết quả của NEP và sự xoá bỏ lãnh địa trong thời gian Đảng cộng sản củng cố quyền lực từ 1917-1921 là Liên bang sô viết trở thành nhà sản xuất lúa gạo lớn nhất thế giới. Nhờ NEP, nước Cộng hoà được giải thoát khỏi một cuộc khủng hoảng để thực hiện những công việc của một đất nước vừa thoát khỏi chiến tranh bắt tay vào công việc cải tạo và xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chế độ mới, xây dựng nhà nước chuyên chính vô sản, củng cố liên minh công nông… những công việc chủ yếu của một đất nước khi bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. 2.2. Thực tiễn Trung Quốc 2.2.1. Chính sách cải cách kinh tế của Đặng Tiểu Bình Đặng Tiểu Bình là người đầu tiên đề xuất rằng Trung Quốc nên tiến hành cải cách, thừa nhận chính sách mở cửa và tiếp thêm sinh lực cho nền kinh tế. Từ năm 1978, ông đã thúc đẩy việc cải cách. Trong khi còn khoảng 80% dân số Trung Quốc sống ở vùng nông thôn, ông chỉ ra rằng: việc cải cách nên tiến hành ở nông thôn trước khi tiến hành ở các thành phố. Công cuộc cải cách các khu đô thị thường phức tạp hơn ở vùng nông thôn, ông khuyến khích nên khám phá các tiềm năng này một cách táo bạo nhưng cũng bằng sự quan tâm và cẩn trọng. Theo đề xuất của ông, 4 đặc khu kinh tế đã được hình thành và 14 thành phố duyên hải mở cửa với thế giới. Trên cơ sở bình đẳng đôi bên cùng có lợi, ông tuyên bố Trung Quốc nên mở rộng hợp tác kinh tế với các nước bên ngoài, thu hút vốn và giới thiệu các kỹ thuật và kỹ năng quản lý tiên tiến của họ để thúc đẩy việc phát triển kinh tế riêng của mình. 2.2.2. Thành tựu đạt được sau cải cách Từ khi đất nước thực hiện quốc sách chiến lược cải cách - mở cửa đồ Hội nghị Trung ương lần thứ 3 khoá XI ĐCS Trung Quốc (họp tháng 12-1978) vạch ra, Trung Quốc mới thực sự bước vào con đường xây đựng và phát triển ổn định, tiến tới hiện đại hoá, thực hiện dân giàu nước mạnh, đạt được nhiều thành tựu huy hoàng và để lại những bài học sâu sắc cho các quốc gia có nền kinh tế chuTừ chế độ công hữu đơn nhất chuyển sang chế độ kinh tế lấy công hữu làm chủ thể, kinh tế nhiều loại sở hữu cùng phát triển. Trước cải cách, kinh tế Trung Quốc gần như hoàn toàn thuộc sở hữu công cộng, chiếm tới 99,1% tổng sản phẩm trong nước vào năm 1978. Kinh tế cá thể và kinh tế tư nhân được khuyến khích phát triển, nên đến cuối năm 1979, số hộ đăng ký kinh doanh là 29,47 triệu, với 67,91 triệu lao động. Sự lớn mạnh của các loại hình kinh tế này ngày càng có tác dụng tích cực rõ trong việc đáp ứng đòi hỏi về đời sống cho nhân dân, làm cho đời sống kinh tế xã hội của cả nước thêm sôi động, từ chỗ được coi là sự "bổ sung" cho kinh tế công hữu, nay các loại hình kinh tế này đã được Quốc hội Trung Quốc dự kiến đưa vào Hiến pháp sửa đổi, quy định đó “là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường XHCN” được Nhà nước bảo hộ quyền lợi và lợi ích hợp pháp. Điều đó cho phép các loại hình kinh tế phi công hữu này sẽ còn phát huy được tiềm nàng to lớn của mình trong phát triển kinh tế. Với chủ trương đa dạng hoá các loại hình kinh tế như trên, đến cuối năm 1997, tỷ trọng của các loại hình kinh tế phi công hữu trong tổng sản phẩm trong nước đã từ 0,9% vào năm 1978 tăng lên 24,20% còn mức giảm tương ứng của kinh tế công hữu thời gian trên đã từ 99,1% xuống 75,8%. Tuy nhiên, vai trò chủ thể của kinh tế công hữu không vì thế mà giảm đi. Về mặt bảo vệ an ninh đất nước, thoả mãn nhu cầu công ích của nhân dân, bảo đảm hài hoà trong phát triển, kinh tế Nhà nước có một vai trò mà kinh tế phi Nhà nước không thể thay thế. Chủ trương lấy kinh tế công hữu làm chủ thể, nhiều loại sở hữu cùng) tồn phát triển là một chủ trương phù hợp với tình hình đất nước, mang lại lợi ích to lớn, do đó sẽ được Trung Quốc duy trì lâu dài. 2.3. Thực tiễn Việt Nam 2.3.1. Hoàn cảnh của Việt Nam Đặc điểm Hồ Chí Minh khẳng định lớn nhất khi nước ta bước vào quá độ là từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến lên chủ nghĩa xã hội không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Do vậy lực lượng sản xuất còn ở trình độ thủ công, tính chất cá nhân hóa. Đặc điểm này thâu tóm đầy đủ những mâu thuẫn, khó khăn, phức tạp và chi phối tất cả những đặc điểm khác, thể hiện trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội và làm cơ sở nảy sinh nhiều mâu thuẫn. Trong đó, Hồ Chí Minh đặc biệt lưu ý đến mâu thuẫn cơ bản của thời kỳ quá độ, đó là mâu thuẫn giữa nhu cầu phát triển cao của đất nước theo xu hướng tiến bộ và thực trạng kinh tế xã hội quá thấp kém của nước ta. 2.3.2. Nhiệm vụ của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam Theo Hồ Chí Minh, thực chất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là quá trình cải biến nền sản xuất lạc hậu thành nền sản xuất tiên tiến, hiện đại. Điều này đòi hỏi áp dụng toàn diện các hình thức đấu tranh cả về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội nhằm chống lại các thế lực đi ngược lại con đường xã hội chủ nghĩa. Theo Hồ Chí Minh, do những đặc điểm và tính chất quy định, quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một quá trình dần dần, khó khăn, phức tạp và lâu dài. Nhiệm vụ lịch sử của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam bao gồm hao nội dung lớn: Một là, xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, xây dựng các tiền đề về kinh tế, chính trị, văn hóa, tư tưởng cho chủ nghĩa xã hội. Hai là, cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, kết hợp cải tạo và xây dựng, trong đó lấy xây dựng làm trọng tâm, làm nội dung cốt yếu nhất, chủ cốt, lâu dài. 2.3.3. Quan điểm Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam Trên cơ sở tiếp thu chủ nghĩa Mác-Lênin và nghiên cứu thực tiễn các nước khác cũng như thực tiễn Việt Nam trong thời kỳ quá độ, Hồ Chí Minh nhận thức rõ tính tất yếu của của nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ, để xây dựng nền kinh tế trong thời  kỳ kháng chiến chống Pháp thực hiện đường lối kháng chiến “ toàn dân, toàn diện , trường kỳ và tự lực cánh sinh” bảo đảm cơ sở vật chất kỹ thuật, trước hết là lương thực thực phẩm cho cuộc kháng chiến, Hồ Chí Minh đã xác định nước ta phải phát triển 6 thành phần kinh tế khác nhau ,gồm: - kinh tế địa chủ phong kiến bóc lột địa tô - kinh tế quốc doanh có tính chất xã hội chủ nghĩa - kinh tế hợp tác xã tiêu thụ và hợp tác xã cung cấp, các hội đổi công nông thôn, có tính chất nửa xã hội chủ nghĩa - kinh tế cá nhân của nông dân và của thủ công nghệ - kinh tế tư bản của tư nhân - kinh tế tư bản quốc gia. Không những chỉ ra 6 thành phần kinh tế mà Hồ Chí Minh còn nói rõ xu hướng phát triển của các thành phần kinh tế đó. Hồ Chí Minh rất coi trọng thành phần kinh tế quốc doanh tồn tại ở các cơ sở sản xuất kinh doanh của Nhà nước. Đây là thành phần kinh tế mới ra đời trong chế độ dân chủ mới. Theo Hồ Chí Minh “Nó là nền tảng và sức lãnh đạo của nền kinh tế dân chủ mới, Cho nên chúng ta phải ra sức phát triển nó và nhân dân ta phải ủng hộ nó”. Thành phần kinh tế tư bản tư nhân, theo Hồ Chí Minh là thành phần kinh tế của giai cấp tư sản dân tộc, mặc dù giai cấp tư sản có bóc lột đối với giai cấp công nhân, nhưng họ cũng góp phần vào phát triển kinh tế, góp công góp của cho cuộc kháng chiến. Đối với thành phần kinh tế tư bản tư nhân và tư bản nhà nước , quan điểm nhất quán của Hồ Chí Minh là : Chính phủ cần phải giúp họ phát triển. Nhưng họ phải phục tùng sự lãnh đạo của kinh tế quốc gia, phải hợp với lợi ích của đại đa số nhân dân. Ở Việt Nam, ngay sau khi giành được độc lập, Nhà nước non trẻ của chúng ta vừa phải kháng chiến chống thù trong giặc ngoài, vừa tiến hành 'kiến quốc'. Trong qúa trình cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, Hồ Chí Minh cũng chủ trương cải tạo hoà bình đối với  công thương nghiệp tư bản tư doanh. Khi chế độ dân chủ mới ra đời và phát triển thì thành phần kinh tế địa chủ phong kiến sẽ bị thủ tiêu. Vì vậy,  Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng trong chế độ mới còn sự tồn tại của năm thành phần kinh tế khác nhau. Đó là: A - Nền kinh tế quốc doanh (thuộc CNXH, vì nó là của chung của nhân dân). B - Các hợp tác xã (nó là nửa CNXH và sẽ tiến đếnCNXH) C - Kinh tế cá nhân, nông dân và thủ công nghệ (có thể tiến dần vào HTX tức là nửa CNXH). D - Tư bản tư nhân. E - Tư bản của Nhà nước (như Nhà nước hùn vốn với tư bản tư nhân để kinh doanh). Trong năm loại ấy, loại A là kinh tế lãnh đạo và phát triển mau hơn cả. Cho nên kinh tế nước ta sẽ phát triển theo hướng CNXH chứ không theo hướng chủ nghĩa tư bản. 3. Thực tế đã chứng minh phát triển kinh tế nhiều thành phần là hoàn toàn đúng đắn 3.1. Kinh tế Việt Nam trước đổi mới Trong một khoảng thời gian khá dài sau khi miền Bắc được giải phóng, một phần do bối cảnh toàn dân phải tập trung sức người sức của cho cuộc kháng chiến giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, một phần do nhiều tác động từ cục diện chung của phong trào quốc tế và phe XHCN, chúng ta đã nóng vội tiến hành cải tạo XHCN, nôn nóng muốn xoá bỏ ngay các thành phần kinh tế phi XHCN, xây dựng nền kinh tế XHCN dựa trên hai hình thức sở hữu toàn dân và tập thể. Hội nghị Trung ương lần thứ 24 (khoá III, ngày 20-9-1975) đã thừa nhận sự tồn tại của các thành phần kinh tế ở mỗi miền. Miền Bắc có 3 thành phần kinh tế: quốc doanh, tập thể và cá thể. Ở miền Nam, Nghị quyết nêu rõ trong một giai đoạn nhất định, còn  tồn tại các thành phần kinh tế: kinh tế quốc doanh XHCN, kinh tế tập thể XHCN, kinh tế công tư hợp doanh nửa XHCN, kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư doanh. Nhưng trong thực tế chúng ta đã không nhất quán thực hiện theo tư tưởng đó. Đến cuối những năm 70, nền kinh tế nước ta đã bộc lộ rõ sự yếu kém về mọi mặt, mất cân đối nghiêm trọng. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng (3.1982) đã chỉ ra những khó khăn và yếu kém của đất nước và nhấn mạnh khó khăn đó là do khuyết điểm và sai lầm của các cơ quan Đảng và Nhà nước ta từ Trung ương đến cơ sở về lãnh đạo và quản lý kinh tế, quản lý xã hội. Đây là sự chuyển đổi trong nhận thức về đường lối và chính sách kinh tế của Đảng ta: chủ trương sử dụng một cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ để tận dụng mọi năng lực sản xuất sẵn có. Tuy vậy do vẫn còn hạn chế bởi tư duy cũ về CNXH và còn chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của những quan điểm mang nặng tính chủ quan duy ý chí nên những giải pháp mà Đại hội đề ra vẫn chưa thực sự sát với thực tiễn và với yêu cầu của cuộc sống. Đại hội đặt ra mục tiêu trong kế hoạch 5 năm (1981-1985): Hoàn thành công cuộc cải tạo XHCN ở các tỉnh miền Nam, tiếp tục hoàn thiện quan hệ sản xuất XHCN ở miền Bắc, củng cố quan hệ sản xuất XHCN trong cả nước. Sau Đại hội V(3.1982), trước thực trạng kinh tế - xã hội  của đất nước, Đảng ta đã nhìn nhận, xem xét lại tư duy kinh tế trên những vấn đề chủ yếu và đặc biệt là vấn đề thừa nhận hay không thừa nhận chính sách kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH ở nước ta. Nhìn chung thời kỳ 1975-1985 là thời kỳ sử dụng mô hình kinh tế cũ mà đặc trưng là: cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, các thành phần kinh tế phi XHCN sớm bị xoá bỏ ở mức cao và mở rộng trong phạm vi cả nước. Những nhược điểm và khuyết điểm của mô hình đó đã trở thành sức cản lớn đối với sự phát triển kinh tế - xã hội, dẫn đến cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội gay gắt. 3.2. Kinh tế Việt Nam sau đổi mới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (12.1986) là một trong các mốc quan trọng đánh dấu sự đổi mới căn bản trong nhận thức của Đảng ta về mô hình kinh tế mới: nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Đảng chủ trương đổi mới toàn diện và sâu sắc để đi tới chủ nghĩa xã hội một cách vững chắc. Trọng tâm là đổi mới kinh tế, mà trước hết là đổi mới tư duy kinh tế. Từ tổng kết sâu sắc thực tiễn quá trình cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với các thành phần kinh tế , Đai hội VI khẳng định: “Muốn phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, đi đôi với việc bố trí lại cơ cấu sản xuất, cơ cấu đầu tư theo ngành và theo vùng, phải xác định đúng cơ cấu thành phần kinh tế”. Đảng ta cho rằng, chính sách sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành phần kinh tế cho phép các hình thức kinh tế với quy mô và trình độ kỹ thuật thích hợp trong từng khâu của quá trình sản xuất và lưu thông phát triển, nhằm khai thác mọi khả năng của các thành phần kinh tế, trong đó kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo. Giải  pháp đó xuất phát từ thực tế của nước ta và là sự vận dụng quan điểm của Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh coi nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ. Đại hội VI xác định các thành phần đó là: Kinh tế XHCN bao gồm khu vực quốc doanh và khu vực tập thể, cùng với bộ phận kinh tế gia đình gắn liền với thành phần đó. Các thành phần kinh tế khác (thực chất là phi XHCN) gồm: Kinh tế tiểu sản xuất hàng hoá (thợ thủ công, nông dân cá thể, những ngời buôn bán và kinh doanh dịch vụ cá thể). Kinh tế tư bản tư nhân. Kinh tế tư bản Nhà nước dưới nhiều hình thức mà cao nhất là công tư hợp doanh. Kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự túc trong một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên và các vùng núi cao khác. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (6.1991) của Đảng ta đã khẳng định đường lối đổi mới đúng đắn do Đại hội VI (12.1986) đề ra và nhấn mạnh cần thiết phải thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH thông qua tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (1991) nêu rõ nền kinh tế nước ta có 5 thành phần. Đó là: Kinh tế quốc doanh có vai trò chủ đạo. Kinh tế tập thể không ngừng được củng cố và mở rộng. Kinh tế cá thể có phạm vi tương đối lớn, từng bước đi vào con đờng làm ăn hợp tác trên nguyên tắc tự nguyện, dân chủ và cùng có lợi. Tư bản tư nhân được kinh doanh trong những ngành có lợi cho quốc kế dân sinh do pháp luật quy định. Phát triển kinh tế tư bản nhà nước dưới nhiều hình thức. Đại hội VIII (6.1996) của Đảng  đã xác định nền kinh tế nước ta có 5 thành phần kinh tế gồm: kinh tế nhà nước, kinh tế hợp tác xã, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế cá thể tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân. Quan điểm phát triển nền kinh tế nhiều thành phần tiếp tục được Đảng ta khẳng định và phát triển trong Đai hội IX của Đảng: “Thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh”. Theo đó, nền kinh tế ở nước ta bao gồm 6 thành phần, trật tự sắp xếp các thành phần cũng có sự thay đổi, đó là: kinh tế nhà nước; kinh tế tập thể ( thay cho kinh tế hợp tác trước đây) với nhiều hình thức đa dạng, trong đó nòng cốt là kinh tế hợp tác xã; kinh tế cá thể tiểu chủ; kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Đại hội X tiếp tục khẳng định trên cơ sở ba chế độ sở hữu( toàn dân, tập thể, tư nhân), hình thành nhiều hình thức sở hữu và nhiều thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh tế tư nhân( cá thể ,tiểu chủ, tư bản tư nhân), kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Hơn 20 năm đối với lịch sử của một đất nước chưa phải là dài nhưng, với quan điểm đúng đắn về phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dựa trên cơ cấu kinh tế nhiều thành phần đã tạo nên những thành tựu to lớn, quan trọng, tạo vị thế, diện mạo mới cho việt Nam trên trường quốc tế. Lý luận cũng như thực tiễn của những năm đổi mới đã chứng minh sức sống và vai trò to lớn của các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Từ những thành công bước đầu, càng khẳng định rõ hơn  sự đúng đắn của chủ nghĩa Mác- Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh cũng như vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong công cuộc đổi mới phấn đấu vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh ,xã hội công bằng ,dân chủ, văn minh. Kết luận Vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin và nghiên cứu tình hình thực tiễn của Việt Nam cũng như của các nước khác trong giai đoạn quá độ, Hồ Chí Minh đã chủ trương thực hiện cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Tư tưởng ấy của Người là hoàn toàn đúng đắn, thực tế đã chứng minh điều đó. Thực hiện cơ cấu kinh tế nhiều thành phần không chỉ phù hợp trong quá khứ mà ngay cả hiện tại và tương lai cũng là con đường đi đúng đắn cho sự nghiệp phát triển kinh tế của Việt Nam. Điều đó đòi hỏi chúng ta phải liên tục nghiên cứu, học tập và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn để đưa nước ta phát triển lên một tầm cao mới.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc25422.doc
Tài liệu liên quan