Đề tài Tăng cường quản lý nợ xấu tại Ngân hàng thương mại cổ phần Bắc Á – Chi nhánh Hàng Đậu

Bước này đòi hỏi ngân hàng phải xem xét các khả năng và điều kiện cụ thể của khách hàng để đưa ra các phương án cơ cấu lại. Ngay khi quyết định cơ cấu lại khoản nợ, ngân hàng cần tính tới việc thu hồi nợ sẽ như thế nào (thu từ nguồn nào, bao nhiêu, khi nào thì thu hết nợ) và phải vạch ra được rõ ràng các kỹ thuật, nghiệp vụ để xử lý đối với phần nợ không thể thu hồi.

doc81 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1276 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tăng cường quản lý nợ xấu tại Ngân hàng thương mại cổ phần Bắc Á – Chi nhánh Hàng Đậu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
85/2002/NĐ-CP của Chính phủ và các văn bản có liên quan. Theo đó, tài sản bảo đảm tiền vay phải được xử lý theo các phương thức mà các bên đã thoả thuận trong hợp đồng, trường hợp các bên không xử lý được theo các phương thức đã thoả thuận thì TCTD có quyền bán, chuyển nhượng tài sản cầm cố, thế chấp để thu hồi nợ, yêu cầu bên bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh, nếu bên bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ thì xử lý tài sản của bên bảo lãnh để thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh. TCTD có quyền chuyển giao quyền thu hồi nợ và ủy quyền cho bên thứ ba xử lý tài sản bảo đảm tiền vay. Ba là, đối với các khoản nợ có vấn đề, khách hàng có đề nghị gia hạn nợ, giãn nợ, cán bộ tín dụng phải thẩm định, kiểm tra thực tế và lập tờ trình cho Giám đốc. Giám đốc được quyền quyết định theo đúng nguyên tắc, cơ chế quy định hiện hành và giới hạn uỷ quyền của Tổng giám đốc ngân hàng. Tất cả các công văn nói trên phải lưu giữ vào hồ sơ cụ thể để đề phòng kiện tụng. Bốn là, thu hồi một phần hoặc toàn bộ nợ vay trước hạn đối với trường hợp khách hàng có những vi phạm trong việc thực hiện các cam kết đã ký trong hợp đồng tín dụng. Nếu các khoản nợ không trả được đúng hạn và không được gia hạn nợ, giãn nợ thì tiến hành chuyển nợ quá hạn và phải áp dụng các biện pháp kiên quyết để thu hồi nợ gốc và lãi, kể cả các biện pháp thu hồi, pháp mại tài sản theo các quy định hiện hành của pháp luật về xử lý tài sản đảm bảo hoặc khởi kiện ra các cơ quan pháp luật. Đánh giá về công tác quản lý nợ xấu tại NHTMCP Bắc Á - Chi nhánh Hàng Đậu Xuất phát từ thực trạng hoạt động quản lý nợ xấu của chi nhánh Hàng Đậu trong những năm vừa qua, có thể đưa ra một số nhận xét như sau: Những kết quả đạt được trong công tác quản lý nợ xấu của chi nhánh Về công tác hạn chế nợ xấu: Trong hoạt động tín dụng, hoạt động tiềm ẩn rủi ro nhất của ngân hàng, chi nhánh luôn kiên trì theo đuổi chính sách tín dụng an toàn, hướng đến đối tượng phục vụ khách hàng là các doanh nghiệp vừa, nhỏ và các cá nhân, trên nguyên tắc tín dụng có đảm bảo. Chi nhánh đã xây dựng, duy trì và phát triển hệ thống phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro theo đúng quy định của NHNN để đảm bảo đánh giá đúng thực trạng tín dụng và có chính sách xử lý phù hợp. Chi nhánh cũng đã chú trọng phát triển nguồn lực cả về chất lượng và số lượng, không ngừng chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho người lao động. Cán bộ tín dụng của chi nhánh được đào tạo chuyên sâu về nghiệp vụ, với hình thức quản lý phân tổ, mỗi chuyên viên tín dụng phụ trách một nhóm khách hàng nhất định giúp cho việc tìm hiểu về doanh nghiệp là khá sâu sát, giảm thiểu được rủi ro và phục vụ khách hàng một cách tận tình. Về công tác xử lý nợ xấu: Các cơ sở pháp lý liên quan đến hoạt động xử lý nợ xấu như quyết định, thông tư, văn bản hướng dẫn của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước và các cơ quan có thẩm quyền luôn được phổ biến, hướng dẫn kịp thời cho cán bộ và nhân viên chi nhánh, vì vậy công tác xử lý nợ xấu được tiến hành tương đối nhanh chóng do hồ sơ thủ tục luôn được bổ sung kịp thời và cán bộ xử lý nợ nắm bắt được các quy định liên quan.Chi nhánh cũng đã lập được phương án xử lý nợ cụ thể đối với từng trường hợp, làm tăng hiệu quả thu nợ. Kết quả đạt được trong công tác phòng ngừa và xử lý nợ xấu của chi nhánh là tỷ lệ nợ xấu trong những năm qua luôn được duy trì ở mức cho phép, đặc biệt tỷ lệ nợ nhóm 5 (nợ có khả năng mất vốn) rất nhỏ và các khoản vay đều có bảo đảm, giúp ngân hàng có cơ sở pháp lý và kinh tế để thu hồi nợ. Nhìn chung, tỷ lệ nợ xấu của ngân hàng chưa nằm trong tình trạng đáng báo động. 2.3.2 Những hạn chế và nguyên nhân 2.3.2.1Một số hạn chế trong công tác quản lý nợ xấu của chi nhánh Tuy đã đạt được những kết quả khá tốt trong việc hạn chế và xử lý nợ xấu nhưng xét một cách khách quan thì công tác này ở chi nhánh Hàng Đậu vẫn còn một số hạn chế như sau: Thứ nhất, về công tác kiểm soát và hạn chế nợ xấu: Công tác phân tích, đánh giá khách hàng có khi còn sơ sài, chưa toàn diện, chưa quan tâm thích đáng tới việc phân tích dòng tiền, diễn biến nguồn vốn làm giảm độ chính xác của công tác thẩm định, việc theo dõi, giám sát khoản vay sau khi giải ngân có khi còn lơ là, chưa sát sao, nhất là vào những dịp cuối năm khi khối lượng công việc lớn, chưa đưa ra các dự báo, kế hoạch cụ thể cho hoạt động tín dụng. Đa dạng hoá khách hàng kém. Khách hàng đến với chi nhánh chủ yếu là những doanh nghiệp rất nhỏ hay khách hàng cá nhân, với quy mô vốn nhỏ bé, sức cạnh tranh thấp và chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp. Với những đối tượng khách hàng nhỏ như vậy, công tác quản lý khách hàng và kiểm soát rủi ro của ngân hàng sẽ gặp nhiều khó khăn. Hơn nữa, tình trạng nợ xấu của chi nhánh lại đang tập trung chủ yếu ở nhóm khách hàng này. Khi xét duyệt cho vay, chi nhánh quá coi trọng yếu tố TSĐB, xem nó như là điều kiện tiên quyết và duy nhất để quyết định cho vay hay không. Điều này có thể khiến ngân hàng đưa ra những quyết định sai lầm như bỏ lỡ mất những khách hàng tốt, những dự án hiệu quả nhưng thiếu TSĐB hoặc cho những khách hàng có TSĐB vay nhưng năng lực yếu kém, hoạt động không hiệu quả… Hoạt động kiểm tra, kiểm soát nội bộ còn nhiều hạn chế, chưa phù hợp với các quy định pháp luật như chưa có bộ phận kiểm soát nội bộ chuyên trách, dẫn đến các hành vi sai phạm có khi chưa được phát hiện và xử lý kịp thời. Thứ hai, về hoạt động xử lý nợ xấu: Phương án xử lý nợ xấu chưa đa dạng, chi nhánh chủ yếu tiến hành thu hồi vốn bằng biện pháp xử lý TSĐB. Nhiệm vụ xử lý nợ xấu của chi nhánh vẫn chủ yếu thuộc về các cán bộ tín dụng, trong khi nếu công tác này được giao cho một bộ phận chuyên trách thực hiện thì có thể tăng tính chuyên môn hoá trong công tác xử lý nợ và tạo điều kiện cho cán bộ tín dụng tập trung vào nhiệm vụ chính của mình là tăng trưởng tín dụng đi đôi với hạn chế nợ quá hạn, nợ xấu. Quy mô quỹ dự phòng rủi ro còn tương đối nhỏ. 2.3.2.2 Nguyên nhân gây nên những hạn chế trong hoạt động quản lý nợ xấu của chi nhánh Nguyên nhân từ phía ngân hàng Chính sách tín dụng còn chưa hợp lý và thiếu linh hoạt: Chưa xây dựng được một mô hình đánh giá, xếp hạng khách hàng mang tính chuẩn hoá làm cơ sở cho công tác thẩm định, chưa chú trọng đa dạng hoá danh mục tín dụng, chưa có sự chủ động tìm kiếm, mở rộng đối tượng khách hàng mà chủ yếu là khách hàng tự tìm đến với ngân hàng. Năng lực tài chính hạn chế: Với năng lực tài chính thấp, khả năng cạnh trạnh của chi nhánh bị giảm sút, nhất là khi ngày càng có nhiều ngân hàng nước ngoài tham gia vào thị trường ngân hàng Việt Nam. Năng lực tài chính thấp cũng làm hạn chế khả năng trích lập các quỹ DPRR, gây khó khăn cho công tác xử lý nợ xấu. Chất lượng cán bộ tín dụng còn hạn chế: Đội ngũ cán bộ tín dụng của chi nhánh đều là những người còn rất trẻ, tuy được đào tạo đúng chuyên môn, nhiệt huyết với công việc nhưng thiếu kinh nghiệm thực tiễn và bản lĩnh thương trường nên gặp nhiều khó khăn, thiếu sót khi làm việc trong lĩnh vực đầy rủi ro này, năng lực nhận biết gian lận còn yếu kém. Bên cạnh yếu tố chuyên môn, những kinh nghiệm thực tế, sự từng trải là nhân tố quan trọng giúp cho người cán bộ tín dụng có thể đánh giá chính xác những thông tin do khách hàng cung cấp, tránh được sự thao túng, áp đảo của những khách hàng lão luyện, dày dặn kinh nghiệm thương trường. Nguyên nhân từ phía khách hàng Chiến lược phát triển chung của ngân hàng Bắc Á là trở thành một ngân hàng bán lẻ đa năng, do đó khách hàng chủ yếu của ngân hàng là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Những đối tượng khách hàng này có nhiều hạn chế như: quy mô vốn tự có thấp, trình độ hạn chế, năng lực công nghệ kém, thông tin không minh bạch, khó quản lý… Những đặc điểm này gây nhiều khó khăn cho công tác quản lý nợ xấu của chi nhánh. Năng lực và thiện chí trả nợ của khách hàng đôi khi còn yếu, làm gia tăng tình trạng nợ xấu. Một số khách hàng có biểu hiện chây ỳ, dây dưa không chịu trả nợ khi đến hạn mặc dù cán bộ tín dụng đã liên tục đốc thúc. Các nguyên nhân khác Hệ thống thông tin tín dụng còn bất cập: Hiện nay ở Việt Nam chưa có một cơ chế công bố thông tin đầy đủ về doanh nghiệp và ngân hàng. Trung tâm thông tin tín dụng ngân hàng của NHNN (CIC) đã đạt được những kết quả bước đầu đáng khích lệ trong việc cung cấp thông tin về tình hình hoạt động tín dụng nhưng chưa phải là cơ quan định mức tín nhiệm doanh nghiệp một cách độc lập và hiệu quả, thông tin cung cấp còn đơn điệu và thiếu cập nhật. Qua đối chiếu giữa thông tin tín dụng và thực tế khách hàng có quan hệ tín dụng với một số ngân hàng, còn nhiều trường hợp khách hàng có quan hệ với nhiều TCTD hoặc đã có nợ quá hạn tại một TCTD nào đó nhưng hệ thống thông tin tín dụng chưa phản ánh đầy đủ, dẫn đến rủi ro cho ngân hàng. Sản phẩm của CIC chưa đáp ứng được yêu cầu của các TCTD, nhất là nhóm sản phẩm về nợ xấu, nợ ngoại bảng, tài sản đảm bảo tiền vay, thông tin cảnh báo, sản phẩm về tín dụng tiêu dùng, tín dụng thẻ. Điều này một phần làm cho các TCTD chưa thật sự quan tâm đến việc khai thác thông tin từ CIC. Nhưng ở đây, lỗi không hoàn toàn thuộc về Trung tâm thông tin tín dụng mà các TCTD cũng có một phần trách nhiệm là chưa báo cáo đầy đủ về khách hàng, còn xảy ra tình trạng che giấu bớt thông tin. Môi trường kinh tế không ổn định: Quá trình tự do hóa tài chính và hội nhập quốc tế tạo ra môi trường cạnh tranh khốc liệt, khiến hầu hết các doanh nghiệp - những khách hàng thường xuyên của ngân hàng phải đối mặt với nguy cơ thua lỗ và quy luật chọn lọc khắc nghiệt của thị trường. Đơn cử là năm 2008, đầu tiên là tình trạng lạm phát tăng cao gây bất lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, khả năng tiếp cận nguồn vốn ngân hàng hạn chế do NHNN thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ, đẩy lãi suất ngân hàng lên rất cao, chưa kể những biến động bất thường của tỷ giá. Nhiều doanh nghiệp lâm vào tình trạng khó khăn, vỡ nợ ngân hàng. Khi mà lạm phát còn chưa bị đẩy lùi thì cuộc khủng hoảng tài chính bắt nguồn từ nước Mỹ và nhanh chóng lan rộng ra toàn thế giới cũng đã có những ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế Việt Nam nói chung và hoạt động của các ngân hàng nói riêng. Trong năm qua, chi nhánh đã thực hiện chính sách tín dụng an toàn, siết chặt quản lý hoạt động tín dụng thế nhưng tình trạng nợ xấu vẫn gia tăng cả về quy mô và tỷ trọng, do hoạt động của các doanh nghiệp trong nước gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ, năng lực cạnh tranh thấp. Thanh toán không dùng tiền mặt còn hạn chế, gây khó khăn cho ngân hàng trong việc kiểm soát dòng tiền và đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng. Tuy ở Việt Nam một số năm trở lại đây, tỷ trọng tiền mặt trên tổng phương tiện thanh toán xã hội đang có xu hướng giảm dần qua từng năm nhưng mức độ thanh toán bằng tiền mặt vẫn là phổ biến. Môi trường pháp lý cho hoạt động tín dụng chưa ổn định và còn nhiều bất cập: Những kẽ hở của pháp luật không chỉ tạo cơ hội cho khách hàng lừa đảo, chiếm dụng vốn của ngân hàng mà còn gây khó khăn cho công tác xử lý nợ xấu, thu hồi vốn. Các khoản nợ xấu của chi nhánh đều có TSĐB nhưng việc xử lý nó để thu hồi nợ là rất khó khăn. Phần lớn TSĐB cho các món vay có giá trị lớn tại ngân hàng là đất đai, nhà cửa. Sự chồng chéo của các văn bản pháp luật gây không ít lung túng cho ngân hàng trong quá trình xử lý. Chẳng hạn, Thông tư liên tịch số 03/2001/TTLT-NHNN-BTP-BCA-BTC-TCĐC giữa Liên bộ Ngân hàng Nhà nước, Bộ tư pháp, Bộ công an, Bộ tài chính, Tổng cục địa chính ngày 29.4.2001 quy định TCTD không được trực tiếp bán hay được trực tiếp nhận quyền sử dụng đất để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm. Và theo khoản 2, mục III của thông tư này, nếu không đạt được sự thỏa thuận của các bên thì TCTD phải đưa ra bán đấu giá hay khởi kiện ra Tòa. Trong khi đó, Nghị định 178 lại cho phép TCTD có quyền xử lý tài sản bảo đảm nói chung và tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất nói riêng nếu không đạt được sự thỏa thuận giữa các bên. Khi xử lý tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất, theo khoản 3, mục III, phần B của Thông tư liên tịch số 03, thì TCTD phải xin phép Ủy ban Nhân dân cấp có thẩm quyền cho phép bán đấu giá, làm cho quy trình bán đấu giá càng mất nhiều thời gian và thủ tục, cụ thể là: 15 ngày xin cơ quan có thẩm quyền cho phép bán đấu giá tài sản, 15 ngày thực hiện việc đăng ký bán đấu giá tài sản, 30 ngày niêm yết tài sản bán đấu giá, 60 ngày cho thời gian cấp giấy chứng nhận cho người mua tài sản. Một hệ thống pháp luật đồng bộ với các cơ chế, chính sách minh bạch, rõ ràng sẽ góp phần đẩy nhanh tốc độ xử lý nợ xấu cho ngân hàng. Thị trường mua bán nợ kém phát triển, thị trường bất động sản vẫn chưa tan băng gây ảnh hưởng không nhỏ tới hiệu quả hoạt động xử lý nợ xấu ngân hàng. Ở Việt Nam có một công ty mua bán nợ hoạt động chuyên nghiệp đó là Công ty mua bán nợ và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp (DATC) trực thuộc Bộ Tài chính. Tuy nhiên, công ty này chủ yếu tập trung hỗ trợ tiến trình cải cách DNNN, giải quyết các khoản nợ tồn đọng của các DNNN. Ngoài ra, còn có tình trạng thiếu sự phối hợp, giúp đỡ của các cơ quan có thẩm quyền trong quá trình xử lý nợ xấu ngân hàng. Một số cơ quan, tổ chức vẫn chưa nhận thức được việc xử lý nợ xấu không phải là nhiệm vụ của riêng ngành ngân hàng mà là trách nhiệm chung của các ngành có liên quan, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế cả nước. CHƯƠNG 3 GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ NỢ XẤU TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN BẮC Á – CHI NHÁNH HÀNG ĐẬU 3.1 Định hướng phát triển của chi nhánh trong thời gian tới 3.1.1 Định hướng chung Trong xu thế hội nhập và phát triển, NHTMCP Bắc Á xác định chiến lược phát triển chung của NHTMCP Bắc Á là trở thành một ngân hàng hoạt động phát triển, an toàn, có hiệu quả và phấn đấu trở thành ngân hàng bán lẻ đa năng với chất lượng dịch vụ tốt, phong cách phục vụ văn minh, chuyên nghiệp. Căn cứ vào kết quả hoạt động kinh doanh năm 2008 và tình hình thực tế của đơn vị, chi nhánh Hàng Đậu xác định phương hướng phát triển của chi nhánh trong năm 2009 và các năm tiếp theo là duy trì hoạt động ổn định, phát triển vững chắc và có hiệu quả, nâng cao chất lượng các sản phẩm dịch vụ hiện có, triển khai phát triển các sản phẩm mới và các dịch vụ tiện ích mới. Cụ thể là: Hoạt động huy động vốn: Đa dạng hóa hình thức huy động vốn, trong đó đẩy mạnh huy động vốn dưới hình thức tiền gửi tiết kiệm dân cư và tiền gửi của các tổ chức, đảm bảo đủ vốn cho hoạt động tín dụng và điều chuyển vốn về Hội sở chính theo kế hoạch và triển khai thêm nhiều sản phẩm huy động vốn mới. Hoạt động tín dụng: Mở rộng hoạt động tín dụng, trong đó chú trọng cho vay đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, củng cố chất lượng tín dụng, kiểm soát chặt chẽ các khoản vay mới, tăng cường công tác kiểm soát nội bộ. Về chất lượng tín dụng, tăng cường các biện pháp quản lý để giảm tỷ lệ nợ quá hạn, nợ xấu, phấn đấu giảm tỷ lệ nợ xấu xuống dưới 1%. Các dịch vụ thanh toán, ngân quỹ và dịch vụ khác: Tiếp tục nâng cao chất lượng dịch vụ thanh toán, ngân quỹ và dịch vụ khác, tăng cường hoạt động thanh toán quốc tế và triển khai thêm dịch vụ như thanh toán thẻ, chuyển tiền nhanh, thu - chi hộ tại nhà, quản lý giữ hộ các loại tài sản quý, giấy tờ, v.v……. Công tác tổ chức nhân sự: Bổ sung thêm nhân sự mới để đáp ứng hoạt động theo mô hình chi nhánh cấp I, tăng cường công tác quản lý nhân sự, tổ chức đào tạo và đào tạo lại nhằm nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ và đạo đức nghề nghiệp cho cán bộ, nhân viên ngân hàng. Tạo môi trường để cán bộ, nhân viên chi nhánh tích cực lao động sáng tạo, đoàn kết vì sự phát triển của ngân hàng. Công tác phát triển thị trường và tiếp thị: Triển khai phát triển thị trường và tiếp thị theo kế hoạch của ngân hàng, xúc tiến việc đưa 5 phòng giao dịch trực thuộc đi vào hoạt động, phối hợp với công ty chứng khoán để tăng thêm dịch vụ ngân hàng - chứng khoán - bảo hiểm. Công tác quản lý tài chính: Phối hợp với phòng kế toán chi nhánh Hà Nội, phòng tin học để triển khai công tác kế toán theo đúng quy định là hạch toán phụ thuộc có bảng cân đối riêng, hoạch toán thu nhập – chi phí để phản ánh chính xác kết quả kinh doanh của đơn vị. 3.1.2 Một số chỉ tiêu kế hoạch kinh doanh năm 2009 Huy động vốn: Phấn đấu đưa nguồn vốn huy động trong năm 2009 đạt 650 tỷ VND (nội tệ) và 2 triệu USD (vốn ngoại tệ). Sử dụng vốn: Tăng dư nợ tín dụng và lựa chọn các dự án có hiệu quả, các loại hình cho vay mới đảm bảo tăng trưởng an toàn kế hoạch dư nợ 100 tỷ VND và điều chuyển vốn cho HHHHhội sở là 250 tỷ VND và 1 triệu USD. Đồng thời năm 2009, chi nhánh Hàng Đậu cũng kết hợp với Ngân hàng Quân đội, Ngân hàng Hàng hải thực hiện nghiệp vụ cho vay uỷ thác và đồng tài trợ. Thu nhập chi phí: Xin ý kiến chỉ đạo của Tổng giám đốc và thống nhất với chi nhánh Hà Nội để tổ chức hoạch toán kinh doanh riêng của chi nhánh Hàng Đậu theo quy định chi nhánh hoạch toán phụ thuộc, đảm bảo kinh doanh có lãi. Phấn đấu đưa định mức lợi nhuận của chi nhánh lên mức 120 triệu/người/năm. Công tác tổ chức nhân sự: Trong năm 2009, quy mô hoạt động của chi nhánh sẽ được mở rộng, cụ thể có 5 phòng giao dịch mới được thành lập trực thuộc chi nhánh. Do đó chi nhánh sẽ có nhu cầu tuyển dụng thêm từ 20 - 25 nhân sự. Một số giải pháp tăng cường quản lý nợ xấu tại NHTMCP Bắc Á - Chi nhánh Hàng Đậu Tuy tình trạng nợ xấu của chi nhánh chưa ở mức “đèn đỏ” nhưng năm 2008 tỷ lệ nợ xấu đã có sự gia tăng trở lại sau nhiều năm liên tục giảm. Trong năm 2009, ngành ngân hàng Việt Nam nói chung và chi nhánh Hàng Đậu nói riêng sẽ phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức hơn là các cơ hội, nguy cơ nợ xấu tăng cao là rất lớn. Vì vậy, việc xây dựng và thực hiện các biện pháp để tăng cường quản lý nợ xấu trong bối cảnh hiện nay là điều vô cùng cần thiết cho sự phát triển bền vững của chi nhánh. Các giải pháp tăng cường hạn chế nợ xấu tại chi nhánh Hàng Đậu 3.2.1.1 Hoàn thiện chính sách tín dụng Định kỳ, thực hiện phân tích, đánh giá lại sự phù hợp của chính sách tín dụng với những diễn biến vĩ mô cũng như chiến lược của ngân hàng trong từng giai đoạn. Xây dựng hạn mức tín dụng và đa dạng hoá danh mục tín dụng dựa trên cơ sở phân tích cơ cấu nguồn vốn, phân tích và dự báo xu hướng phát triển đối với các lĩnh vực, ngành nghề, thành phần kinh tế mà ngân hàng dự định cho vay. Đối với các nhóm khách hàng có tình trạng nợ xấu cao, chi nhánh có thể xem xét hạn chế cho vay hoặc tăng cường các biện pháp bảo đảm tiền vay và thực hiện việc đánh giá, xét duyệt cho vay cẩn trọng hơn các khách hàng khác. Xây dựng một mô hình xếp hạng tín dụng bao gồm nhiều chỉ tiêu tổng hợp (chỉ tiêu tài chính và phi tài chính) để làm cơ sở cho việc chấm điểm, xếp loại khách hàng, đánh giá mức độ rủi ro và đưa ra quyết định cho vay hay không. Ngân hàng có thể tham khảo mô hình xếp hạng tín dụng của các ngân hàng khác và trên cơ sở điều kiện thực tế của chi nhánh để xây dựng mô hình phù hợp. Ngân hàng không nên chỉ giao chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng, đặt gánh nặng thành tích cho cán bộ tín dụng mà quan trọng hơn là phải nâng cao chất lượng tín dụng. Bên cạnh đó nên có phần thưởng thích đáng cho những cán bộ vượt kế hoạch tăng trưởng đề ra mà vẫn đảm bảo chất lượng tín dụng. Với sự khuyến khích như vậy, cán bộ tín dụng không chỉ chú trọng gia tăng dư nợ tín dụng mà sẽ tích cực thực hiện các biện pháp để nâng cao chất lượng khoản vay. Đánh giá đúng mức vai trò của TSĐB đối với quyết định cho vay, hạn chế tư tưởng quá coi trọng TSĐB mà coi nhẹ hiệu quả và tính khả thi của dự án. Quyết định cho vay có TSĐB hay không cần được xem xét trong mối quan hệ với uy tín, năng lực của khách hàng và hiệu quả của dự án cũng như tình hình kinh tế vĩ mô. Trong giai đoạn kinh tế ổn định và phát triển hay ngành nghề hoạt động của khách hàng đang có sự phát triển vượt bậc thì ngân hàng có thể nới lỏng điều kiện TSĐB. Ngược lại, khi nền kinh tế suy thoái, khủng hoảng hay ngành nghề của khách hàng đang lâm vào tình trạng khó khăn thì yếu tố TSĐB cần được coi trọng hơn. Thực ra, việc áp dụng các biện pháp bảo đảm tiền vay cũng góp phần hạn chế rủi ro đạo đức từ phía khách hàng, tuy nhiên ngân hàng cần có sự vận dụng linh hoạt, tránh lạm dụng. Tăng cường vận động khách hàng mua bảo hiểm cho đối tượng cho vay (máy móc, thiết bị, cây trồng, vật nuôi, hàng hóa, v.v…) của ngân hàng và có chính sách ưu tiên đối với các khách hàng có mua bảo hiểm trong thời gian vay vốn tại ngân hàng. Việc làm này sẽ giúp tạo nguồn vốn trả nợ cho người vay, từ đó hạn chế tổn thất cho ngân hàng trong trường hợp khách hàng không may gặp các rủi ro bất khả kháng. 3.2.1.2 Tăng cường kiểm tra, giám sát hoạt động tín dụng Công tác kiểm tra, giám sát là một công cụ vô cùng quan trọng để nâng cao chất lượng tín dụng. Thông qua hoạt động này có thể phát hiện, ngăn ngừa, chấn chỉnh và xử lý kịp thời những vi phạm của khách hàng trong việc thực hiện nghĩa vụ với ngân hàng cũng như những sai sót trong quá trình thực hiện nghiệp vụ tín dụng và những rủi ro đạo đức do chính cán bộ tín dụng gây ra. Trước hết, phải thành lập phòng kiểm soát nội bộ của chi nhánh có chức năng nghiên cứu soạn thảo, bổ sung các quy trình, quy chế nghiệp vụ của ngân hàng và tiến hành kiểm tra, giám sát hoạt động nghiệp vụ của chi nhánh trên cơ sở các văn bản chế độ hiện hành. Bộ phận này có thể có từ hai đến ba thành viên, hoạt động chuyên trách và chịu sự chỉ đạo trực tiếp từ Hội sở chính. Cần lựa chọn những cán bộ có trình độ, đạo đức tốt, đã qua nghiệp vụ tín dụng cho hoạt động này. Hệ thống kiểm soát nội bộ sẽ là công cụ quan trọng để kiểm soát, phát hiện và xử lý kịp thời những hành vi sai phạm ngay trong nội bộ chi nhánh. Kiểm tra nội bộ hoạt động tín dụng bao gồm các nội dung cơ bản như: Kiểm tra việc chấp hành các chỉ tiêu tín dụng, chấp hành các thể lệ, quy trình tín dụng, chấp hành các quy định về bảo đảm tiền vay, chế độ thông tin báo cáo tín dụng, kiểm tra việc chấp hành các chỉ đạo, định hướng của ngân hàng cấp trên, v.v… Có sự giám sát thường xuyên đối với khách hàng cả trước, trong và sau khi cho vay nhằm phát hiện sớm và khắc phục kịp thời những rủi ro có thể xảy ra. Khoản vay càng lớn, khách hàng càng có nhiều biểu hiện nghi vấn hoặc khách hàng vay vốn lần đầu tại ngân hàng thì việc giám sát càng phải chặt chẽ và thường xuyên hơn. Cần xây dựng các chương trình kiểm tra định kỳ và đột xuất, đổi mới và thực hiện linh hoạt các phương pháp kiểm tra để có thể phát hiện mọi sai sót, vi phạm, tránh được sự đề phòng, đối phó của người bị kiểm tra. 3.2.1.3 Cải thiện chất lượng công tác thẩm định Quá trình thẩm định tín dụng về bản chất là việc xác minh tính trung thực và đầy đủ của thông tin, trên cơ sở những thông tin này, đánh giá khả năng trả nợ của dự án đó để đưa ra quyết định có chấp nhận việc cho vay hay không. Nếu việc đánh giá được thực hiện tốt, ngân hàng có thể ngăn ngừa được những rủi ro ngay từ đầu bằng cách từ chối cho vay hoặc yêu cầu các biện pháp bảo đảm an toàn hiệu quả. Nếu việc đánh giá này được thực hiện không nghiêm túc, có sự móc nối, câu kết nhằm tư lợi hoặc đơn giản là sự cẩu thả, thiếu thận trọng sẽ dẫn đến nguy cơ không thu hồi được khoản nợ đã cho vay. Để thực hiện tốt công tác này đòi hỏi cán bộ thẩm định phải phân tích đánh giá khách hàng một cách toàn diện và khách quan. Trong quá trình thẩm định phải quan tâm tới các chỉ số như tỷ giá, tỷ lệ lạm phát, giá vàng, giá dầu và các biến cố có thể dự đoán về kinh tế, chính trị và xã hội có liên quan. Hiện đại hóa quy trình thẩm định dự án, ứng dụng các phần mềm, sản phẩm công nghệ phục vụ cho công tác phân tích tài chính, truy cập thông tin. Việc đầu tư trang thiết bị phải chú trọng chiều sâu, thực hiện từng bước, tránh đầu tư dàn trải, đồng thời phải tập huấn cho nhân viên sử dụng các công nghệ đó sao cho hiệu quả. Trong quá trình thẩm định, nên phân tích, đánh giá dự án trên quan điểm động, đặt ra các tình huống để so sánh và đánh giá một cách toàn diện. Thẩm định dự án đồng thời cũng là tư vấn cho khách hàng trong việc sử dụng vốn sao cho đạt hiệu quả cao nhất. Việc đòi hỏi cán bộ tín dụng phải am tường sâu sắc về ngành nghề, lĩnh vực hoạt động kinh doanh của khách hàng là một điều rất khó. Do vậy, ngân hàng có thể phối hợp, xin ý kiến của các chuyên gia, nhà tư vấn để có thể đánh giá và đưa ra quyết định chính xác. 3.2.1.4 Nâng cao chất lượng cán bộ tín dụng Ngân hàng cần chú trọng nâng cao chất lượng của đội ngũ cán bộ tín dụng theo hướng giỏi chuyên môn nghiệp vụ, có phẩm chất đạo đức nghề nghiệp tốt. Đây là yếu tố có tính chất quyết định đến chất lượng tín dụng, là cơ sở hạn chế nợ xấu phát sinh. Để làm được điều đó, ngay trong khâu tuyển chọn nhân sự cho công tác tín dụng, ngân hàng cần phải đặt ra và thực hiện nghiêm túc các tiêu chuẩn cơ bản như: cán bộ tín dụng phải có phẩm chất đạo đức tốt, được đào tạo chính quy, đúng chuyên ngành ở các trường đại học có uy tín, có khả năng ngoại ngữ và trình độ tin học tốt để có thể nghiên cứu tài liệu và sử dụng các sản phẩm công nghệ, có hiểu biết xã hội và khả năng giao tiếp tốt nhằm giúp khách hàng và ngân hàng hiểu nhau hơn, làm cho khách hàng có thiện cảm và gắn bó lâu dài với ngân hàng. Do hoạt động tín dụng liên quan đến nhiều lĩnh vực, ngành nghề khác nhau nên cán bộ tín dụng phải không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn, thường xuyên tìm hiểu các ngành nghề, lĩnh vực khác để phục vụ cho hoạt động tín dụng. Ngân hàng cũng cần khuyến khích và tạo điều kiện cho cán bộ tín dụng tiếp tục đi học để nâng cao kiến thức nghiệp vụ. Thường xuyên tuyên truyền, giáo dục ý thức để những người làm tín dụng hiểu và tự giác chấp hành quy trình nghiệp vụ cũng như các quy định, quy chế khác của pháp luật và ngân hàng. Chú trọng công tác đào tạo cán bộ, bồi dưỡng và cập nhật những kiến thức mới cho cán bộ tín dụng để đáp ứng được yêu cầu hiện đại hóa ngân hàng. Cử cán bộ tín dụng tham gia các lớp tập huấn về phòng chống rủi ro, về công nghệ thông tin, mời các chuyên gia pháp lý, kiểm toán đến trao đổi kinh nghiệm về các tình huống, các vấn đề pháp luật, các thủ thuật gian lận của khách hàng nhằm nâng cao khả năng nhận biết gian lận cũng như kiến thức pháp luật cho cán bộ tín dụng. Ngoài ra, để tạo điều kiện phát huy tối đa năng lực, thế mạnh của từng cán bộ tín dụng, ngân hàng phải có sự bố trí nhân sự đúng người đúng việc, chuyên môn hoá cán bộ tín dụng theo từng ngành nghề, lĩnh vực nhất định để tạo điều kiện cho cán bộ tín dụng tìm hiểu chuyên sâu về lĩnh vực mình phụ trách. Để thu hút người tài và nâng cao hiệu quả làm việc của nhân viên, ngân hàng nên đề ra chế độ lương thưởng và đãi ngộ hợp lý, đúng người, đúng lúc, gắn quyền lợi với trách nhiệm. Đối với những cán bộ có thành tích xuất sắc cần có sự biểu dương, khen thưởng kịp thời cả về vật chất và tinh thần như nâng lương, tăng thưởng, đề bạt…Ngược lại đối với những cán bộ có sai phạm, tùy theo mức độ có thể phê bình, khiển trách hay quy trách nhiệm buộc bồi hoàn, xử lý kỷ luật, sa thải, thậm chí là truy tố trước pháp luật. Chế độ thưởng phạt phải công bằng, minh bạch, có tác dụng khích lệ hay răn đe kịp thời. Tạo cho nhân viên thói quen, ý thức tự giác, làm việc có trách nhiệm mà trước hết người lãnh đạo phải luôn gương mẫu thực hiện. Ngân hàng cũng nên thường xuyên tổ chức các phong trào thi đua làm việc và học tập giữa các cán bộ ngân hàng để tạo không khí làm việc sôi nổi, nâng cao hiệu quả công việc đồng thời giúp phát hiện những cá nhân xuất sắc. 3.2.1.5 Tăng cường hiệu quả thông tin tín dụng Để thực hiện tốt công tác thẩm định tín dụng thì cần phải có hệ thống thông tin đầy đủ, chính xác và kịp thời. Vì vậy, nâng cao chất lượng thông tin tín dụng là vấn đề mà ngân hàng cần quan tâm. Các thông tin thu thập từ phía khách hàng thông qua phỏng vấn trực tiếp, qua các báo cáo tài chính tuy không tốn nhiều chi phí và công sức nhưng không đủ độ tin cậy. Do đó, ngân hàng cần tổ chức thu thập thông tin từ nhiều nguồn khác nhau như: từ hồ sơ vay vốn, từ phỏng vấn, điều tra thực tế khách hàng, từ các hồ sơ chứng từ lưu trữ tại ngân hàng, từ ngân hàng đã có quan hệ với người vay, từ những người có liên quan đến khách hàng… Trước thực tế hệ thống thông tin tín dụng chưa đáp ứng đầy đủ, trong khi công tác tín dụng đòi hỏi một lượng thông tin ngày một toàn diện hơn thì việc thu thập thông tin về khách hàng và môi trường đầu tư tín dụng thông qua báo chí là một kênh thông tin cần thiết và có ý nghĩa thiết thực. Đây là nguồn thông tin bổ sung, hoàn thiện cho hệ thống thông tin tín dụng. Báo chí thực hiện chức năng cung cấp thông tin khách quan cho công chúng nên đã phản ánh đầy đủ về những sự kiện, vấn đề đã và đang diễn ra trong đời sống xã hội. Trên cơ sở những thông tin thu thập được từ nhiều nguồn, đánh giá khách hàng đúng với thực chất vốn có, sẽ góp phần nâng cao chất lượng công tác thẩm định và hạn chế rủi ro cho ngân hàng. Điều cần lưu ý là thông tin đưa vào quá trình phân tích, dù được lấy từ bất cứ nguồn nào, thì cũng cần phải qua sự sàng lọc kỹ càng. Khai thác thường xuyên nguồn thông tin từ CIC để phục vụ cho công tác tín dụng. Bên cạnh đó, ngân hàng cũng phải chú trọng thực hiện nghĩa vụ khai báo, cung cấp thông tin cho CIC một cách đầy đủ, trung thực và đúng hạn. Đẩy mạnh hợp tác và chia sẻ thông tin giữa các ngân hàng. Không chỉ thu thập thông tin về khách hàng mà ngân hàng còn phải quan tâm tới các thông tin ngành, thông tin vĩ mô phục vụ cho công tác dự báo và lập kế hoạch. Sau giai đoạn thu thập thông tin, ngân hàng cần tiến hành tổng hợp và phân tích để thiết lập một phần mềm quản lý khách hàng, thống kê và lưu trữ thông tin. Nếu có điều kiện, ngân hàng nên thành lập một bộ phận chuyên thu thập và xử lý thông tin tín dụng. 3.2.1.6 Đẩy mạnh quảng bá hình ảnh ngân hàng để thu hút khách hàng Việc đẩy mạnh quảng bá, nâng cao hình ảnh và uy tín của ngân hàng sẽ giúp ngân hàng thu hút được nhiều khách hàng hơn cũng như có thể giữ chân được các khách hàng uy tín, từ đó tạo điều kiện cho ngân hàng lựa chọn được những khách hàng tốt để cho vay, góp phần hạn chế nợ xấu. Để làm được điều đó, trước hết các sản phẩm dịch vụ mà ngân hàng cung cấp phải đa dạng và phù hợp với nhu cầu khách hàng. Vì vậy, ngân hàng cần chú trọng triển khai các sản phẩm mới, cải thiện chất lượng dịch vụ với mức phí hợp lý và phong cách phục vụ tận tình, chuyên nghiệp. Để nâng cao chất lượng phục vụ của nhân viên, hàng tháng chi nhánh có thể tổ chức bình bầu về thái độ và phong cách làm việc của nhân viên và có những phần thưởng thích đáng. Chủ động tìm hiểu khách hàng, tiếp cận và gửi các tài liệu giới thiệu về chi nhánh cho các đối tượng khách hàng mà ngân hàng đang nhắm tới, quảng bá hình ảnh ngân hàng trên các phương tiện thông tin đại chúng hay tham gia tài trợ cho các chương trình xã hội, v.v… cũng là các giải pháp để khách hàng biết đến ngân hàng nhiều hơn. Đồng thời để tận dụng nguồn nhân lực sẵn có, ngân hàng nên chú trọng nâng cao mối quan hệ với các khách hàng hiện tại thông qua việc tư vấn về tài chính, về chiến lược kinh doanh cho khách hàng. Giảm lãi suất và giảm phí dịch vụ một cách hợp lý, giảm những thủ tục rườm rà không cần thiết nhằm giữ chân khách hàng. Chất lượng dịch vụ được nâng cao trong khi mức phí dịch vụ không tăng, thậm chí còn giảm, chắc chắn sẽ đem lại sự hài lòng cho khách hàng và ngân hàng sẽ thu hút được nhiều khách hàng hơn, tạo điều kiện đa dạng hoá khách hàng, giảm thiểu rủi ro. 3.2.2 Các giải pháp nâng cao hiệu quả xử lý nợ xấu tại chi nhánh Hàng Đậu Trên cơ sở phân tích chi tiết thực trạng tài chính khách hàng, các nguyên nhân dẫn đến nợ xấu, những khó khăn, vướng mắc trong quá trình xử lý nợ xấu, thực trạng TSĐB và thiện chí trả nợ của khách hàng, ngân hàng tiến hành phân loại nợ xấu và xây dựng kế hoạch xử lý rõ ràng, cụ thể. Các phương án xử lý nợ xấu mà ngân hàng có thể áp dụng là: 3.2.2.1 Tăng cường đôn đốc thu hồi nợ trực tiếp Thường xuyên gửi các thông báo nợ xấu đến khách hàng và đôn đốc khách hàng trả nợ, nói rõ các biện pháp xử lý cứng rắn có thể áp dụng nếu khách hàng không thực hiện nghĩa vụ của mình. Đồng thời thông báo tình trạng nợ xấu của khách hàng đến người bảo lãnh, cơ quan chủ quản của khách hàng (nếu có) để phối hợp xử lý. Ngân hàng cần chủ động cùng khách hàng rà soát các khoản nợ phải thu, các tài sản không còn sử dụng hoặc sử dụng không hiệu quả của người vay để có biện pháp xử lý, thu hồi nhằm tạo nguồn vốn trả nợ ngân hàng. Áp dụng cơ chế thưởng theo phần trăm giá trị nợ xấu thu hồi được cho cán bộ thu hồi nợ (nếu khoản nợ xấu đó phát sinh không phải do lỗi của người thu hồi). Không chỉ vậy, ngân hàng cũng nên có cơ chế thưởng thích đáng cho những cá nhân và tổ chức khác tích cực tham gia trong quá trình thu hồi nợ của ngân hàng. Đối với các khoản nợ xấu có nguyên nhân xuất phát từ cán bộ, nhân viên ngân hàng thì phải quy trách nhiệm đòi nợ, buộc bồi hoàn đồng thời tiến hành xác minh mức độ nghiêm trọng của hành vi sai phạm để có biện pháp xử lý kỷ luật thích hợp. Đối với những khoản nợ xấu xuất hiện do các nguyên nhân khách quan, bất khả kháng đối với khách hàng thì phải tiến hành xác minh mức độ thiệt hại cụ thể để có biện pháp xử lý đúng đắn. Có thể áp dụng các biện pháp khuyến khích trả nợ như miễn, giảm một phần lãi suất, tính lại lãi, không tính lãi phạt, tạm hoãn việc trả lãi, v.v… cho các khách hàng có thiện chí trả nợ gốc. Ngoài ra, đối với những khách hàng do ảnh hưởng của các nguyên nhân khách quan dẫn đến nợ xấu và có khả năng phục hồi trong tương lai thì ngân hàng có thể xem xét các biện pháp cơ cấu lại nợ trên cơ sở nguồn thu đảm bảo và phương án trả nợ khả thi để tạo điều kiện phục hồi cho khách hàng và cũng chính là tạo cơ hội thu hồi vốn cho ngân hàng. 3.2.2.2 Thành lập Ban xử lý nợ của chi nhánh Ban xử lý nợ chuyên trách hoạt động theo quy chế riêng và giao trách nhiệm cụ thể cho từng thành viên. Các thành viên của Ban xử lý nợ sẽ chịu trách nhiệm xử lý các khoản nợ xấu và không trực tiếp tham gia cho vay. Việc tách bạch giữa hoạt động cho vay với công tác xử lý nợ sẽ tránh được tình trạng cán bộ tín dụng do thân quen với khách hàng hoặc do không muốn mọi người biết khoản cho vay của mình có chất lượng xấu mà cho khách hàng vay them hay gia hạn nợ không hợp lý, làm tăng thêm rủi ro cho ngân hàng. Cán bộ làm công tác xử lý nợ phải là những người giàu kinh nghiệm trong hoạt động tín dụng và xử lý nợ, am tường pháp luật. Đối với cán bộ xử lý nợ cũng cần có chế độ thưởng phạt hợp lý trên cơ sở đánh giá hiệu quả thu hồi nợ. 3.2.2.3 Tiếp tục khai thác, xử lý các khoản nợ xấu có TSĐB Ngay khi một khoản nợ trở thành nợ xấu, ngân hàng cần tiến hành rà soát lại toàn bộ hồ sơ vay vốn, hồ sơ thủ tục đảm bảo tiền vay của các khoản nợ xấu, đồng thời thường xuyên cập nhật các quy định mới có liên quan đến vấn đề TSĐB để yêu cầu khách hàng có biện pháp bổ sung, hoàn thiện hồ sơ kịp thời, làm cơ sở cho việc xử lý tài sản về sau, tránh xảy ra tình trạng tranh chấp, lừa đảo hay hồ sơ giấy tờ không hợp pháp, hợp lệ. Ngân hàng cần đánh giá tính khả mại cũng như tính luân chuyển của TSĐB để lựa chọn phương án xử lý phù hợp: Tự bán trên thị trường, bán qua Trung tâm dịch vụ bán đấu giá hoặc bán cho công ty mua bán nợ. Có thể cho khách hàng tự xử lý tài sản để trả nợ dưới sự giám sát của ngân hàng. Biện pháp này được áp dụng khi khách hàng có thiện chí trả nợ nhằm đơn giản hóa thủ tục, tiết kiệm thời gian và chi phí cho cả ngân hàng và khách hàng. Trong quá trình xử lý TSĐB, ngân hàng cần tranh thủ sự giúp đỡ của các cơ quan chức năng và chính quyền địa phương để việc xử lý dễ dàng hơn, giảm thiểu chi phí cũng như rút ngắn thời gian xử lý nợ. 3.2.2.4 Bán các khoản nợ xấu Kinh nghiệm xử lý nợ xấu của một số quốc gia trên thế giới cho thấy việc các NHTM bán các khoản nợ xấu cho các công ty mua bán nợ tỏ ra là một giải pháp hữu hiệu trong việc xử lý nợ xấu, làm trong sạch bảng cân đối kế toán của các ngân hàng. Khi đó, các ngân hàng có thể tập trung cho hoạt động kinh doanh chính của mình. Do vậy, nếu không muốn kéo dài thời gian thu hồi nợ, ngân hàng có thể tiến hành bán các khoản nợ xấu cho các công ty mua bán nợ, các ngân hàng hoặc các chủ thể kinh tế khác. Theo Quy chế mua bán nợ của các TCTD, một khoản nợ có thể được bán một phần hoặc toàn bộ, bán cho nhiều bên mua nợ và có thể được mua, bán nhiều lần; việc mua, bán nợ được thực hiện trên cơ sở thỏa thuận giữa bên mua nợ và bên bán nợ; việc chuyển giao khoản nợ được tiến hành đồng thời với việc chuyển giao các nghĩa vụ của bên nợ và các bên có liên quan đến khoản nợ từ bên bán nợ sang bên mua nợ. Để có thể thu hồi nợ ở mức tối đa, ngân hàng phải hoàn thiện các loại giấy tờ, hồ sơ cần thiết liên quan đến khoản nợ. Cho đến nay, biện pháp này vẫn chưa được sử dụng nhiều ở chi nhánh, hơn nữa thị trường mua bán nợ ở Việt Nam còn tương đối hạn chế, vì vậy ngân hàng cần có sự nghiên cứu kỹ và học tập kinh nghiệm của các ngân hàng khác. Chuyển nợ thành vốn góp cổ phần Để thực hiện biện pháp này, ngân hàng cần xem xét kỹ về khả năng phát triển trong tương lai của khách hàng. Việc chuyển nợ thành vốn góp của ngân hàng thực chất là việc ngân hàng tiến hành đầu tư vào doanh nghiệp. Do vậy, để hoạt động đầu tư này mang lại hiệu quả ngân hàng cử các cán bộ giỏi đóng vai trò tham mưu, cố vấn cho doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất kinh doanh, đặc biệt là lĩnh vực tài chính. Ngoài ra, ngân hàng cũng cần tìm nguồn vốn đối ứng cho khoản nợ đã chuyển thành vốn góp. Trích lập và sử dụng hợp lý dự phòng rủi ro Việc trích lập dự phòng rủi ro là nhằm tạo ra nguồn tài chính cho việc xử lý nợ xấu của ngân hàng. Về nguyên tắc, việc sử dụng dự phòng rủi ro chỉ được thực hiện cuối cùng, sau khi các biện pháp xử lý nợ xấu khác không mang lại hiệu quả. Do quy mô quỹ dự phòng rủi ro của chi nhánh hiện nay là khá nhỏ bé nên việc sử dụng dự phòng rủi ro để bù đắp cho các khoản nợ xấu cần phải tiến hành hợp lý trên cơ sở đánh giá khả năng thu hồi của món vay. Với các khoản nợ còn có khả năng thu hồi thì nên hạn chế tối đa việc sử dụng quỹ dự phòng rủi ro. Tốt nhất, ngân hàng nên định ra khoảng thời gian tối đa để xử lý nợ bằng các biện pháp xử lý nợ khác trước khi thực hiện biện pháp này, giá trị khoản nợ càng lớn thì thời gian này càng dài. Đồng thời, ngân hàng cần tăng cường giáo dục, nâng cao ý thức cho cán bộ tín dụng trong việc tích cực tận thu nợ sau khi đã chuyển hạch toán ngoại bảng. Ngoài ra, để nâng cao khả năng xử lý nợ xấu bằng dự phòng rủi ro thì cần cải thiện năng lực tài chính của ngân hàng. Chi nhánh có thể xem xét các phương án tăng vốn như vay của các cổ đông hiện hành hay huy động vốn thông qua trái phiếu dài hạn… 3.3 Một số kiến nghị 3.3.1 Kiến nghị với Chính phủ Chính phủ cần có các biện pháp hỗ trợ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ về công nghệ, tín dụng và kỹ năng quản lý, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho loại hình doanh nghiệp này. Doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm 95% tổng số các doanh nghiệp đang hoạt động tại Việt Nam. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của những biến động kinh tế mạnh mẽ trong năm qua, phần lớn các doanh nghiệp này đang gặp khó khăn. Nếu không có sự hỗ trợ kịp thời từ phía Nhà nước, nhiều doanh nghiệp có thể sẽ không còn khả năng bám trụ trong khó khăn kinh tế, đe dọa đến chất lượng tín dụng của nhiều ngân hàng Việt Nam, trong đó có chi nhánh Hàng Đậu. Tạo khuôn khổ pháp lý và môi trường hoạt động phù hợp cho các tổ chức định mức tín nhiệm ra đời và hoạt động tại Việt Nam. Với vai trò là một tổ chức đánh giá trung gian, độc lập và chuyên nghiệp, nó sẽ là sự hỗ trợ đắc lực cho các ngân hàng trong việc cung cấp các thông tin khách quan, chính xác để đánh giá và xếp hạng doanh nghiệp. Cho phép các tổ chức nước ngoài tham gia thị trường mua bán nợ xấu của các ngân hàng Việt Nam. Ngay từ năm 2001, Chính phủ Trung Quốc đã cho phép hình thành thị trường mua bán nợ xấu ngân hàng với sự tham gia của rất nhiều thành phần quốc doanh, tư nhân, trong nước và quốc tế. Trung Quốc quan niệm rằng, nếu chỉ để cho các thành phần quốc doanh mua bán trên thị trường này, quá trình định giá sẽ không thực sự cạnh tranh. Việc mua bán nợ xấu ngân hàng ở Việt Nam hiện nay diễn ra rất khó khăn, phức tạp, kéo dài thậm chí từ hai đến ba năm. Cho phép các lực lượng nước ngoài tham gia thị trường này sẽ là giải pháp thúc đẩy thị trường mua bán nợ Việt Nam phát triển nhanh nhất . Hoàn thiện các văn bản pháp lý về vấn đề xử lý TSĐB khoản vay theo hướng tăng quyền tự chủ cho các NHTM cũng như rút ngắn thời gian xử lý tài sản. Cho phép các NHTM được chủ động hoàn thiện các thủ tục pháp lý đối với TSĐB, nhất là bất động sản, nhằm tạo thuận lợi cho ngân hàng trong việc phát mại, khai thác và sử dụng TSĐB. Đẩy nhanh tiến độ thành lập trung tâm thông tin tín dụng tư nhân theo kế hoạch hợp tác với Tập đoàn tài chính quốc tế (IFC), Chương trình phát triển kinh tế tư nhân (MPDF) và Công ty cổ phần đầu tư PCB (PCBH). Đây được xem là một bước tiến quan trọng đối với ngành ngân hàng Việt Nam. Trung tâm thông tin tín dụng tư nhân đầu tiên tại Việt Nam sẽ cung cấp thông tin tín dụng về các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng như các cá nhân cho các ngân hàng. Theo Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam, các trung tâm thông tin tín dụng tư nhân được hình thành do nhu cầu của thị trường thường hoạt động tốt hơn các trung tâm thông tin tín dụng công trong việc hỗ trợ cho các giao dịch tín dụng. Các trung tâm này sẽ thu thập thông tin từ nhiều nguồn rộng rãi như từ nhà cung cấp tín dụng thương mại, người bán lẻ, Tòa án và các công ty cung ứng dịch vụ, v.v... Hiện nay, các TSĐB cho khoản vay ở các ngân hàng nước ta chủ yếu vẫn là bất động sản. Do vậy, phát triển thị trường bất động sản cũng chính là tạo điều kiện cho các ngân hàng xử lý nợ xấu dễ dàng hơn. Thị trường bất động sản ở nước ta chưa phát triển đúng tầm và còn một số hạn chế: Thị trường phát triển không đồng đều và thiếu ổn định, tính cạnh tranh và minh bạch của thị trường từ khâu tạo lập đến hoạt động giao dịch mua bán còn yếu. Để thúc đẩy thị trường bất động sản phát triển, khắc phục được những khuyết tật, trong thời gian tới Chính phủ cần phải: Hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm thúc đẩy và quản lý thị trường bất động sản phát triển nhanh, hiệu quả, bền vững và lành mạnh; bổ sung hành lang pháp lý để hình thành các định chế tài chính phi ngân hàng như: quỹ đầu tư bất động sản, quỹ phát triển nhà ở, quỹ tiết kiệm nhà ở nhằm thu hút các nguồn vốn cho thị trường; cân đối cung - cầu hàng hoá cho thị trường bất động sản, đặc biệt là bất động sản nhà ở, bảo đảm chủ động bình ổn thị trường theo quy luật cung cầu, thúc đẩy phát triển kinh tế và đảm bảo an sinh xã hội; quản lý và nâng cao năng lực các chủ thể tham gia thị trường bất động sản trong đó có các tổ chức hỗ trợ thị trường như các tổ chức, cá nhân định giá, các tổ chức, cá nhân môi giới, tư vấn về bất động sản; hoàn thiện hệ thống thông tin, dự báo thị trường bất động sản, v.v… Chính phủ cùng NHNN cần tăng cường chỉ đạo và đẩy mạnh thực hiện đề án tái cơ cấu các NHTM Việt Nam, giúp các ngân hàng lành mạnh hoá tình hình tài chính, trong đó bao gồm việc ngăn ngừa và xử lý nợ xấu của các NHTM. Gắn cải cách ngân hàng với cải cách kinh tế toàn diện. 3.3.2 Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước Thúc đẩy hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các ngân hàng quản lý tình hình tài chính khách hàng một cách chặt chẽ hơn: Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho hoạt động thanh toán của nền kinh tế, bao gồm: phân định rõ quyền hạn, trách nhiệm của các bên tham gia thanh toán không dung tiền mặt. Trên cơ sở đó, tiến hành kiểm soát rủi ro pháp lý thích hợp bảo đảm phù hợp với các chuẩn mực thông lệ quốc tế; tạo lập môi trường cạnh tranh công bằng, đảm bảo khả năng tiếp cận thị trường và dịch vụ của các chủ thể tham gia; hình thành cơ chế bảo vệ khách hàng hữu hiệu và bảo đảm quy trình giải quyết tranh chấp khách quan; phổ biến kiến thức và tuyên truyền về thanh toán không dùng tiền mặt; có chính sách ưu đãi về thuế, phí trong lĩnh vực thanh toán, đặc biệt khuyến khích thanh toán không dung tiền mặt bằng chính sách thuế giá trị gia tăng; xây dựng cơ chế tính phí dịch vụ thanh toán hợp lý, v.v... Nâng cao hiệu quả giám sát của Thanh tra NHNN. Quá trình thanh tra cần ngăn chặn xu hướng cạnh tranh không lành mạnh, buông lỏng các điều kiện tín dụng của các ngân hàng. Hiện nay, thẩm quyền của Thanh tra NHNN gắn với chức năng quản lý Nhà nước, do đó việc giám sát mang nặng tính hành chính, nghiêng về xử lý sai phạm, khắc phục hậu quả mà thiếu những khuyến nghị cần thiết và kịp thời đối với NHTM. Mô hình tổ chức và cơ chế điều hành hoạt động thanh tra ngân hàng còn chồng chéo và kém hiệu lực. Thanh tra NHNN còn chịu sự điều chỉnh đồng thời của Luật NHNN và Luật Thanh tra, nghĩa là không có sự khác biệt đáng kể giữa bản chất thanh tra chuyên ngành ngân hàng với cơ quan thanh tra của các bộ, ngành khác. Hoàn thiện khung pháp lý về giám sát tài chính ngân hàng, những nội dung đổi mới Thanh tra NHNN cần được cụ thể hóa trong Luật NHNN sửa đổi. Về lâu dài, cần có Luật Giám sát hoạt động ngân hàng, để có thể xây dựng hệ thống giám sát ngân hàng dựa trên nền tảng của công nghệ thông tin hiện đại. Hoàn thiện phương pháp kiểm toán và kiểm soát nội bộ trong các TCTD, tiến tới các chuẩn mực quốc tế. Hoàn thiện các quy định an toàn trong hoạt động ngân hàng, bao gồm các quy định mang tính ngăn ngừa và các quy định mang tính bảo vệ, các quy định về chính sách quản lý các TCTD và hoạt động ngân hàng. Ban hành quy chế chuyển nợ thành vốn góp cổ phần cho các TCTD nhằm tạo khung pháp lý đầy đủ cho hoạt động này. 3.3.3 Kiến nghị với các Bộ, Ngành có liên quan Với Bộ Tài chính: Hiện nay, cơ quan thuế vẫn yêu cầu các ngân hàng phải nộp thuế sử dụng đất đối với TSĐB trong thời gian đất được giao cho ngân hàng xử lý, thu hồi nợ. Quy định này là chưa hợp lý và cần phải bãi bỏ. Với Tổng cục địa chính, Sở Tư pháp, Toà án, Viện kiểm sát, cơ quan Công an và các cấp chính quyền địa phương: Cần có sự phối hợp và hỗ trợ chặt chẽ hơn nữa với các NHTM trong việc xử lý TSĐB, đẩy nhanh tiến độ thi hành án, nâng cao hiệu quả hoạt động của các Trung tâm bán đấu giá tái sản, đơn giản hoá thủ tục cũng như rút ngắn thời gian xử lý TSĐB liên quan tới các vụ án. KẾT LUẬN Đúng như câu ví von “ngân hàng là mạch máu của nền kinh tế”, các ngân hàng thương mại Việt Nam đang ngày càng có vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế của nước nhà, trở thành kênh huy động và cung ứng vốn chính cho nền kinh tế. Cũng như nhiều ngành kinh tế khác, để thực hiện chiến lược phát triển chung của đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế thành công, các ngân hàng Việt Nam nói chung và NHTMCP Bắc Á – Chi nhánh Hàng Đậu nói riêng đang thực hiện đổi mới mạnh mẽ trên tất cả các khía cạnh, dần hướng tới các chuẩn mực tài chính quốc tế của một ngân hàng hiện đại, hoạt động an toàn và hiệu quả. Hội nhập kinh tế quốc tế cũng buộc các NHTM Việt Nam phải tích cực giải quyết một trong hạn chế lớn nhất của mình là vấn đề nợ xấu. Cho dù còn nhiều tranh luận liên quan đến tỷ lệ nợ xấu thực sự của các ngân hàng Việt Nam nhưng những chuyển biến tích cực trong hoạt động kiểm soát và xử lý nợ xấu của ngành ngân hàng Việt Nam trong những năm gần đây là một kết quả đáng ghi nhận. Tôi hy vọng thông qua việc đi sâu phân tích thực trạng hoạt động quản lý nợ xấu tại NHTMCP Bắc Á – Chi nhánh Hàng Đậu, những đóng góp của khóa luận có thể góp phần tìm ra các giải pháp tối ưu nhằm kiểm soát và xử lý triệt để nợ xấu, lành mạnh hoá tình hình tài chính và đảm bảo sự phát triển ổn định, bền vững của các NHTM Việt Nam trên con đường hội nhập còn nhiều chông gai, thử thách phía trước. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Huỳnh Thế Du (2005), “Thành công và thất bại của các mô hình xử lý nợ xấu”, Tạp chí Thị trường Tài chính Tiền tệ, 1, tr. 55-57. PGS. TS. Phạm Quang Trung (2005), “Kiểm soát nợ khó đòi nhìn từ góc độ ngân hàng”, Tạp chí Ngân hàng, 4, tr. 29-31. Thảo Nguyên (2005), “Bàn về xử lý nợ tồn đọng tại Việt Nam”, Tạp chí Tài chính, 8, tr. 42-44. Trần Thanh Long (2006), “Hoạt động mua bán nợ tại Việt Nam”, Tạp chí Khoa học và Đào tạo Ngân hàng, 11, tr. 74-75. TS. Phan Minh Ngọc (2007), “Nợ khó đòi trong ngành ngân hàng Trung Quốc - Một số liên hệ với Việt Nam”, Tạp chí Ngân hàng, 2, tr. 23-26. Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh chi nhánh Hàng Đậu các năm 2006, 2007, 2008. Học viện Ngân hàng (2002), Giáo trình Tín dụng Ngân hàng, NXB Thống kê, Hà Nội. Peter S. Rose (2004), Quản trị Ngân hàng thương mại, NXB Tài chính, Hà Nội. Viện Nghiên cứu khoa học Ngân hàng (2003), Kỷ yếu Hội thảo khoa học: Giải pháp xử lý nợ xấu trong tiến trình tái cơ cấu các NHTM Việt Nam, NXB Thống kê, Hà Nội. Một số website: http:// www.nasbank.com.vn http:// www.saigontimes.com.vn http:// www.sbv.gov.vn http:// www.vneconomy.com.vn http:// www.vnexpress.net MỤC LỤC DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT DANH MỤC BẢNG, BIỂU, SƠ ĐỒ DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT AMC Công ty quản lý nợ và khai thác tài sản DN Doanh nghiệp DNNN Doanh nghiệp Nhà nước DS Doanh số NHNN Ngân hàng Nhà nước NHTM Ngân hàng thương mại NHTMCP Ngân hàng thương mại cổ phần TNHH Trách nhiệm hữu hạn TSĐB Tài sản đảm bảo TCTD Tổ chức tín dụng USD Đồng đô la Mỹ VND Đồng Việt Nam WTO Tổ chức Thương mại Thế giới WB Ngân hàng Thế giới DANH MỤC BẢNG, BIỂU, SƠ ĐỒ Bảng 2.1: Nguồn vốn huy động bằng nội tệ theo kỳ hạn của NHTMCP Bắc Á - Chi nhánh Hàng Đậu 36 Bảng 2.2: Nguồn vốn huy động bằng ngoại tệ của NHTMCP Bắc Á -Chi nhánh Hàng Đậu 37 Bảng 2.3: Kết cấu dư nợ theo loại hình kinh tế đối với VND của NHTMCP Bắc Á – Chi nhánh Hàng Đậu 38 Bảng 2.4: Cơ cấu tín dụng theo nhóm khách hàng chi nhánh Hàng Đậu 39 Bảng 2.5: Kết cấu dư nợ theo thời gian NHTMCP Bắc Á–Chi nhánh Hàng Đậu 39 Bảng 2.6: Khả năng thu nợ trong hoạt động tín dụng của NHTMCP Bắc Á – Chi nhánh Hàng Đậu 41 Bảng 2.7: Kết quả kinh doanh một số hoạt động trung gian cung cấp dịch vụ tài chính của NHTMCP Bắc Á – Chi nhánh Hàng Đậu 42 Bảng 2.8: Tình hình nợ xấu của NHTMCP Bắc Á - Chi nhánh Hàng Đậu 46 Bảng 2.9: Kết cấu nợ xấu theo đối tượng khách hàng của chi nhánh Hàng Đậu 48 Bảng 2.10: Tác động của nợ xấu kết quả kinh doanh của chi nhánh Hàng Đ ậu 49 Biểu đồ 2.1: Tình hình trích lập dự phòng rủi ro của NHTMCP Bắc Á - Chi nhánh Hàng Đậu 47 Sơ đồ 2.1: Mô hình tổ chức tại NHTMCP Bắc Á - Chi nhánh Hàng Đậu 34 Sơ đồ 2.2: Mô hình tổ chức quản lý tín dụng của chi nhánh 43

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc1910.doc
Tài liệu liên quan