Đề tài Tăng cường quản lý rủi ro tín dụng tại ngân hàng xuất nhập khẩu Việt Nam - Chi nhánh Hà Nội

Trong kinh doanh ngân hàng, việc đương đầu với rủi ro tín dụng là điều không thể tránh khỏi trong khi ảnh hưởng của rủi ro tín dụng đến hoạt động của ngân hàng và cả nền kinh tế là rất nặng nề. Do đó, thừa nhận một tỷ lệ rủi ro tự nhiên trong hoạt động kinh doanh ngân hàng là yêu cầu khách quan hợp lý nhưng vấn đề ở đây là làm thế nào để hạn chế rủi ro này ở một tỷ lệ thấp nhất có thể chấp nhận được. Để làm được điều đó, các NHTM nói chung và chi nhánh ngân hàng xuất nhập khẩu Hà Nội nói riêng cần tăng cường hơn nữa công tác quản lý rủi ro tín dụng.

doc62 trang | Chia sẻ: ndson | Lượt xem: 896 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tăng cường quản lý rủi ro tín dụng tại ngân hàng xuất nhập khẩu Việt Nam - Chi nhánh Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t động tín dụng Là một chi nhánh NHTM, hoạt động mang lại lợi nhuận chính cho Eximbank Hà Nội là hoạt động tín dụng. Trong những năm qua, mặc dù phải trải qua một thời gian thực hiện cơ cấu lại hoạt động tín dụng và đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt của nhiều chi nhánh ngân hàng khác trên cùng địa bàn song hoạt động tín dụng của Eximbank Hà Nội vẫn đạt được sự tăng trưởng nhất định. Năm 2006 chi nhánh tập trung cho vay các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các công ty cổ phần, các khách hàng có uy tín, có quan hệ tốt với Ngân hàng, có tài sản đảm bảo, vay trả đúng hạn. Trong tổng số dư nợ 763.539,40 triệu đồng, dư nợ của các doanh nghiệp, công ty cổ phần là 667.812,90 triệu đồng, chiếm 87,46% tổng dư nợ cho vay. Dư nợ cho vay cá nhân là 95.726,50 triệu đồng, chiếm 12,54% tổng dư nợ cho vay. Đặc biệt, trong thời gian qua, chi nhánh đã tập trung vào củng cố, năng cao chất lượng tín dụng, theo dõi sát các khoản nợ để đôn đốc khách hàng trả nợ gốc, lãi đúng hạn, hạn chế nợ quá hạn phát sinh đồng thời tiến hành xử lý các khoản nợ quá hạn tồn đọng từ những năm trước. Tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ của chi nhánh đã giảm từ 5,2% năm 2003 xuống còn 1,5% năm 2006. Đây quả thực là một thành công lớn của chi nhánh trong quản lý rủi ro tín dụng. Thành công này của chi nhánh bắt nguồn từ việc thực hiện đầy đủ, nghiêm túc quy chế cho vay nhằm hạn chế rủi ro, quan tâm đến việc nâng cao trình độ chuyên môn cho đội ngũ cán bộ tín dụng giúp họ kiểm soát tốt hơn đồng vốn vay... * Các hoạt động khác * Kinh doanh ngoại tệ Tiếp tục phát huy thế mạnh kinh doanh ngoại tệ, trong những năm qua,chi nhánh đã chủ động khai thác được những nguồn ngoại tệ phù hợp nhằm phục vụ nhu cầu của khách hàng. Doanh số mua bán ngoại tệ của chi nhánh không ngừng tăng lên từ 201,73 triệu USD năm 2000 lên 276,26 triệu USD năm 2003 và năm 2006 đạt 406,86 triệu USD. Thu nhập từ kinh doanh ngoại tệ đã đóng góp một tỷ trọng không nhỏ vào tổng lợi nhuận của chi nhánh. Năm 2000, lãi từ kinh doanh ngoại tệ đạt 1.565 triệu đồng, năm 2003 đạt 1.516 triệu và năm 2006 đạt 2.361 triệu đồng, chiếm khoảng 10% lợi nhuận của chi nhánh. * Thanh toán quốc tế Thanh toán Xuất Nhập Khẩu cũng là một thế mạnh của Eximbank cũng như chi nhánh Hà Nội. Trong những năm qua, hoạt động thanh toán XNK của chi nhánh có sự phát triển khá vững chắc. Doanh số thanh toán ngày càng tăng. Năm 2003 doanh số XNK là 125.555 ngàn USD, đến năm 2005 tăng lên là 185.219 ngàn USD (tăng 47,5%). Trong thời gian tới, chi nhánh sẽ tiếp tục đưa ra nhiều gói sản phẩm mới để khách hàng lựa chọn nhằm phục vụ tốt hơn nhu cầu thanh toán của khách hàng, xứng đáng với sự tin tưởng của khách hàng trong nước và quốc tế. * Hoạt động thẻ Đối với Eximbank, công nghệ luôn là một trong những ưu tiên của ngân hàng trong chiến lược phát triển của ngân hàng để đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của khách hàng, đem đến sự hài lòng về chất lượng dịch vụ từ đó khẳng định vị thế của Eximbank là một ngân hàng đồng hành với các doanh nghiệp và nhà đầu tư. Do nhu cầu thanh toán thẻ ngày càng tăng, Eximbank cũng đã phát hành nhiều loại thẻ, bao gồm cả thẻ quốc tế (Visacard, Mastercard, Visadebit) và thẻ nội địa. Trong năm 2005, doanh số phát hành thẻ Eximbank Mastercard và Visacard của chi nhánh Eximbank Hà Nội đạt 19,52 tỷ đồng, tăng 27% so với năm 2004. Doanh số thanh toán thẻ quốc tế năm 2005 đạt 1,21 triệu USD, đến năm 2006 tăng 15%, đạt 1,39 triệu USD. Hệ thống thanh toán thẻ ATM từ khi đưa vào hoạt động năm 2004 đến nay đã tương đối phát triển. Doanh số giao dịch qua máy ATM năm 2006 đạt được khoảng 104 tỷ đồng và chi nhánh vẫn đang xây dựng kế hoạch để khai thác dịch vụ đầy tiềm năng này trong tương lai. 2.1.3.2. Đánh giá chung về hoạt động của chi nhánh Eximbank Hà Nội Được thành lập sớm nhất trong số các NHTMCP Việt Nam, Eximbank đã trỏ thành một trong những NHCP lớn nhất và đã tạo được hình ảnh và vị thế nhất định trong tâm trí khách hàng. Trong các dịch vụ mà ngân hàng cung cấp thì kinh doanh ngoại tệ, thanh toán quốc tế và tài trợ xuất nhập khẩu là thế mạnh của Eximbank cũng như chi nhánh Hà Nội. Eximbank cùng với ngân hàng Ngoại Thương đã trở thành những địa chỉ quen thuộc và tin cậy đối với các DN xuất nhập khẩu khi có nhu cầu về vốn cũng như nhu cầu thanh toán quốc tế. Đội ngũ lãnh đạo chủ chốt của ngân hàng đều là những người có kinh nghiệm trong lĩnh vực kinh doanh ngân hàng, đặc biệt là trong các nghiệp vụ chủ chốt của Eximbank. Sự thành công của Eximbank sau thời gian chấn chỉnh và củng cố vừa qua đã khẳng định năng lực điều hành của cán bộ lãnh đạo chi nhánh và đó sẽ là những kinh nghiệm quý báu giúp chi nhánh phát triển vững chắc trong thời gian tới. Năm 2005 là một mốc quan trọng của Eximbank khi chính thức hoàn thành giai đoạn chấn chỉnh củng cố, bắt đầu chia cổ tức cho cổ đông, lấy lại niềm tin của các nhà đầu tư. Thành công của ngân hàng trong giai đoạn này chủ yếu là từ hoạt động tín dụng khi ngân hàng tập trung đẩy mạnh công tác tín dụng đối với các DN vừa và nhỏ, tăng cường công tác tiếp thị khách hàng, chủ động giảm dư nợ tín dụng đối với khu vực kinh tế nhà nước và các đối tượng cho vay tín chấp cũng như một số DN hoạt động trong các lĩnh vực có rủi ro cao. Nhờ đó, tỷ lệ nợ quá hạn của ngân hàng đã giảm đi đáng kể, ngân hàng đã thu hồi được nhiều món nợ đọng từ các năm trước để lại. Đội ngũ cán bộ nhân viên chi nhánh trẻ trung, trình độ chuyên môn cao và có nhiệt huyết là nhân tố vô cùng quan trọng đóng góp vào thành công chung của chi nhánh. Đây là nguồn tài sản vô cùng quý báu của ngân hàng, là nhân tố trực tiếp quyết định thành công của chi nhánh trong tương lai. - Eximbank là NHTMCP đầu tiên được chọn tham gia vào dự án "Hệ thống thanh toán và hiện đại hóa ngân hàng Việt Nam", Eximbank có nhiều cơ hội tiếp cận với công nghệ hiện đại như quản lý rủi ro, quản lý khách hàng, quản lý nhân sự và công nghệ tin học... Điều này tạo điều kiện để ngân hàng đáp ứng đầy đủ hơn nhu cầu của khách hàng và nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của chi nhánh. Tuy nhiên, cũng giống như các NHTM CP khác, mặc dù đã có những bước tăng trưởng vững chắc nhưng Eximbank Hà Nội cũng gặp khó khăn về vốn. Qui mô vốn điều lệ còn khá nhỏ so với các NHTM quốc doanh đã hạn chế ngân hàng cũng như chi nhánh Hà Nội trong các hoạt động cho vay, bảo lãnh, đầu tư... Vì vậy, trong thời gian tới ngân hàng cần có các biện pháp nhằm gia tăng qui mô vốn nhằm tạo điều kiện để giữ vững và mở rộng thị phần của ngân hàng cũng như chi nhánh. Mạng lưới các chi nhánh trực thuộc, phòng giao dịch của chi nhánh còn tương đối mỏng so với các ngân hàng khác trên cùng địa bàn. Tại khu vực miền Bắc,Eximbank mới chỉ có 1 chi nhánh cấp 1 là Eximbank Hà Nội và 3 chi nhánh cấp 2 cùng tập trung trên địa bàn Hà Nội. Trong khi đó, nhu cầu giao dịch của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu với ngân hàng là rất lớn, đặc biệt là các tỉnh thành như Hải Phòng, Quảng Ninh... Đây chính là một trong những trở ngại lớn của chi nhánh cũng như cả ngân hàng trong việc tiếp cận khách hàng. Do vậy, trong thời gian tới, ngân hàng cần có những biện pháp để mở rộng phạm vi hoạt động, phục vụ tốt hơn nữa các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, đồng thời gia tăng nguồn thu cho ngân hàng, phát huy đúng vai trò, chức năng của một ngân hàng Xuất nhập khẩu. 2.2. Thực trạng quản lý rủi ro tín dụng tại chi nhánh Eximbank Hà Nội 2.2.1. Thực trạng hoạt động tín dụng tại chi nhánh Eximbank Hà Nội Trong những năm qua, hoạt động tín dụng của Eximbank cũng như chi nhánh Hà Nội đã có những bước tăng trưởng vững chắc cả về số lượng và chất lượng các khoản vay. Ngoài những sản phẩm cho vay truyền thống là thế mạnh của ngân hàng như tài trợ xuất nhập khẩu, cho vay vốn lưu động chủ yếu phục vụ doanh nghiệp... chi nhánh đã nỗ lực thực hiện đa dạng hóa với các sản phẩm mới như cho vay tiêu dùng cá nhân, hỗ trợ du học... Doanh số cho vay năm 2004 đạt 2.031.000 triệu đồng, tăng 55,57% so với năm 2003. Sang năm 2005, doanh số cho vay đạt 2.450.000 triệu đồng, tăng 20,63% so với năm 2004. Năm 2006, doanh số cho vay của chi nhánh giảm 310.000 triệu đồng so với năm 2005, đạt 2.140.000 triệu đồng. Sự sụt giảm này là do trong năm 2006, chi nhánh thực hiện thắt chặt hơn hoạt động tín dụng, giảm dư nợ tín dụng đối với khu vực kinh tế nhà nước và các đối tượng cho vay tín chấp cũng như một số doanh nghiệp hoạt động trong những ngành nghề có rủi ro cao. Bảng 2: Doanh số cho vay của chi nhánh Eximbank Hà Nội qua các năm Năm Doanh số cho vay Dư nợ Trị giá (tr.đ) % tăng giảm Trị giá (tr.đ) % tăng giảm 2003 1.297.200 474.673 2004 2.031.000 +55,57% 663.503 +39,78% 2005 2.450.000 +20,63% 710.884 +7,14% 2006 2.140.000 -12,65% 763.538 +7,41% (Nguồn: Phòng tín dụng - Chi nhánh Eximbank Hà Nội) Mặc dù doanh số cho vay năm 2006 có sự giảm sút so với năm 2005 nhưng dư nợ cho vay của chi nhánh vẫn tăng đều đặn qua các năm. Tính đến thời điểm 31/12/2006 tổng dư nợ của chi nhánh đạt 763.538 triệu đồng, tăng 52.654 triệu đồng (7,41%) so với năm 2005. Trong năm qua, chi nhánh cũng có sự chuyển hướng cho vay khi giảm tỷ trọng cho vay đối với các doanh nghiệp nhà nước. Tỷ trọng dư nợ cho vay đối với doanh nghiệp nhà nước trong tổng dư nợ giảm từ 14,5% năm 2005 xuống còn 5,9% năm 2006, đạt 44.670 triệu đồng. Thay vào đó, chi nhánh tập trung cho vay các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các công ty cổ phần, các khách hàng có uy tín, có quan hệ tốt với Ngân hàng, có tài sản đảm bảo, vay trả đúng hạn. Biểu đồ: Tình hình tăng trưởng dư nợ của chi nhánh Eximbank Hà Nội Xét theo thời hạn vay, ta thấy tỷ trọng cho vay trung và dài hạn của chi nhánh trong năm qua tuy đã có tăng song vẫn còn ở mức thấp so với toàn ngân hàng. Tỷ lệ này của chi nhánh năm 2006 đạt 9,3% trong khi toàn ngân hàng là 24,5%. Cho vay ngắn hạn vẫn là hoạt động chủ chốt của chi nhánh, chiếm trên 90% tổng dư nợ cho vay. Bảng 3: Tình hình dư nợ của chi nhánh phân theo thời hạn vay Đơn vị: triệu đồng Năm 2005 Năm 2006 Giá trị % tổng dư nợ Giá trị % tổng dư nợ Cho vay ngắn hạn 660.577 92,9% 692.795 90,7% Cho vay trung và dài hạn 50.307 7,1% 70.743 9,3% Nguồn: phòng tín dụng – Chi nhánh Eximbank Hà Nội Bên cạnh sự chuyển dịch kỳ hạn vay, dư nợ của chi nhánh cũng có sự chuyển dịch về loại tiền. Năm 2006, cho vay bằng VNĐ đạt 426.060 triệu đồng, chiếm 55,8% tổng dư nợ, tăng 103.603 triệu đồng so với năm 2005. Bảng 4: Tình hình dư nợ của chi nhánh phân theo loại tiền Đơn vị: triệu đồng Năm 2005 Năm 2006 Giá trị % tổng dư nợ Giá trị % tổng dư nợ VNĐ 322.457 45,4% 426.060 55,8% Ngoại tệ 388.427 54,6% 337.478 44,2% Nguồn: phòng tín dụng – Chi nhánh Eximbank Hà Nội Sự gia tăng tỷ trọng cho vay trung dài hạn cùng với sự tăng tỷ trọng cho vay bằng VNĐ trong tổng dư nợ cho thấy trong năm qua, bên cạnh tài trợ vốn lưu động cho các doanh nghiệp (chủ yếu là các DN xuất nhập khẩu), chi nhánh đã mở rộng sang cho vay tài trợ tài sản cố định DN và cho vay tiêu dùng cá nhân. Hoạt động tín dụng tại chi nhánh Hà Nội tuân thủ chặt chẽ chính sách tín dụng nội bộ của Eximbank (được xây dựng phù hợp với những qui định của NHNN và thực trạng ngân hàng) về tài sản đảm bảo tiền vay, về hạn mức quyết định tín dụng, về mức cho vay tối đa với một khách hàng, nhóm khách hàng, về mức cho vay tối đa không có tài sản đảm bảo... - Giới hạn tín dụng tối đa đối với một khách hàng có đảm bảo bằng tài sản là 40 tỷ đồng, không có đảm bảo bằng tài sản là 10 tỷ đồng. - Giới hạn tín dụng tối đa đối với một nhóm khách hàng có liên quan có đảm bảo bằng tài sản là 80 tỷ đồng, không có đảm bảo bằng tài sản là 20 tỷ đồng. - Tổng mức cho vay và bảo lãnh không có đảm bảo bằng tài sản của cả chi nhánh tối đa là 60 tỷ đồng. 2.2.2. Đánh giá tình hình quản lý rủi ro tín dụng tại chi nhánh 2.2.2.1. Những kết quả đạt được Nhìn chung, công tác quản trị rủi ro tín dụng của chi nhánh trong thời gian qua đã có những chuyển biến tích cực. Cùng với sự tăng trưởng về qui mô tín dụng, chất lượng tín dụng cũng được tăng cường. Tỷ lệ nợ quá hạn giảm, ngân hàng tăng cường xử lý, thu hồi các khoản nợ tồn đọng từ các năm trước để lại. Thành công của chi nhánh trong quản lý rủi ro tín dụng đã góp phần không nhỏ vào thành công chung của chi nhánh cũng như toàn ngân hàng trong suốt 4 năm chấn chỉnh củng cố vừa qua. Có thể thấy kết quả quản lý rủi ro tín dụng của chi nhánh thông qua theo dõi chỉ tiêu nợ quá hạn và tỷ trọng nợ quá hạn trong tổng dư nợ trong những năm qua. Bảng 5: Tình hình nợ quá hạn của chi nhánh Eximbank Hà Nội Đơn vị: triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 Tổng dư nợ 474.673 663.503 710.884 763.538 Nợ quá hạn (NQH) 24.683 21.232 12.938 11.061 NQH/tổng dư nợ (%) 5,2 3,2 1,8 1,5 Nguồn: Phòng tín dụng – Chi nhánh Eximbank Hà Nội Biều đồ: Tỷ trọng nợ quá hạn trên tổng dư nợ qua các năm Nhìn vào bảng số liệu trên, ta có thể thấy cùng với sự tăng liên tục của tổng dư nợ qua các năm thì nợ quá hạn cũng giảm tương ứng. Trong vòng 4 năm, nợ quá hạn của chi nhánh đã giảm được 13.622 triệu đồng (tức 55,2%) từ 24.683 triệu đồng năm 2003 xuống còn 11.061 triệu đồng năm 2006. Tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ của chi nhánh trong 2 năm qua đã có sự sụt giảm đáng kể, đạt tiêu chuẩn cho phép dưới 2%. Năm 2003 tỷ lệ này là 5,2%, đến năm 2006 giảm được 3,7% còn 1,5%. Đặc biệt, trong năm 2006 chi nhánh còn thu được 1.785 triệu đồng nợ quá hạn đã xử lý bằng quỹ dự phòng rủi ro. Như vậy, thành công trong việc quản lý rủi ro tín dụng của chi nhánh trong thời gian không chỉ là hạn chế được sự phát sinh mới của các khoản nợ quá hạn mà còn thực hiện tốt công tác thu hồi các khoản nợ đọng từ các năm trước để lại. Cho vay phục vụ xuất nhập khẩu có rủi ro khá cao do khả năng hoàn trả món vay của khách hàng chịu tác động rất lớn bởi các nhân tố xuất phát từ môi trường bên ngoài. Bởi vậy, trong thời gian qua chi nhánh đã đa dạng hóa các khoản cho vay bằng cách mở rộng cho vay tiêu dùng, cho vay đồng tài trợ... để hạn chế rủi ro. Để có được những kết quả trên, nguyên nhân chủ yếu là do chi nhánh đã thực hiện được những biện pháp hữu hiệu để quản lý rủi ro tín dụng: - Cán bộ ngân hàng đã thực hiện nghiêm túc và đầy đủ qui trình tín dụng, từ khâu xét duyệt cho vay đến theo dõi khách hàng sau khi cho vay. Bên cạnh đó, việc chuyển những khoản vay phức tạp, nhu cầu vốn lớn sang hội đồng thẩm định xem xét, đánh giá cũng giúp nâng cao chất lượng tín dụng, hạn chế rủi ro. - Ngân hàng đã chú trọng hơn trong việc xây dựng và duy trì mối quan hệ tốt, thường xuyên và chặt chẽ với các doanh nghiệp vay vốn theo phương châm khách hàng là bạn,cùng nhau phát triển. ngân hàng còn thường xuyên cung cấp cho khách hàng những thông tin có liên quan, những kinh nghiệm trong việc tháo gỡ khó khăn, giải thích và tư vấn cho khách hàng những qui định và thông lệ quốc tế... Nhờ đó, nhiều khó khăn đối với doanh nghiệp vay vốn đã được nhanh chóng cùng thảo luận và tháo gỡ, hạn chế rủi ro cho khách hàng và cả ngân hàng. - Các phòng ban trong chi nhánh đã có sự phối hợp chặt chẽ với nhau, đặc biệt là giữa phòng tín dụng, thẩm định với phòng thanh toán quốc tế trong việc kiểm tra thông tin về khách hàng, tư vấn cho khách hàng, quản lý nợ vay và thu lãi. 2.2.2.2. Những vấn đề còn tồn tại và nguyên nhân Bên cạnh những kết quả đạt được như trên, công tác quản lý rủi ro tín dụng của chi nhánh vẫn còn tồn tại một số hạn chế sau: - Trải qua một thời gian dài ngân hàng bị đặt trong tình trạng kiểm soát đặc biệt vì nợ quá hạn cao và kinh doanh không có lãi, mặc dù thời gian qua chi nhánh đã đạt được những thành công nhất định trong kiểm soát nợ quá hạn nhưng đây vẫn luôn là một vấn đề cần được quan tâm. Năm 2006, chi nhánh thực hiện thắt chặt cho vay, doanh số cho vay giảm 12,65% nên tỷ lệ nợ quá hạn đã được kiểm soát ở mức 1,5%. Trong thời gian tới, với việc mở rộng qui mô tín dụng, chi nhánh cần phải tiếp tục tăng cường kiểm soát rủi ro để không làm tăng tỷ lệ nợ quá hạn. - Mặc dù tỷ trọng cho vay trung dài hạn của chi nhánh có chiều hướng tăng lên nhưng còn chậm và tỷ trọng này còn khá thấp so với mức trung bình toàn hệ thống. Năm 2006, tỷ trọng cho vay trung dài hạn chiếm 9,3% tổng dư nợ, thấp hơn so với toàn hệ thống Eximbank 15,2%. Như vậy, hoạt động chính đem lại lợi nhuận cho chi nhánh vẫn là tài trợ vốn lưu động cho các doanh nghiệp, chủ yếu là các doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Việc chậm đa dạng hóa các khoản cho vay theo thời hạn, ngành nghề... khiến cho nguy cơ rủi ro xảy ra đối với ngân hàng là khá cao, đặc biệt là khi rủi ro xuất phát từ môi trường bên ngoài xảy ra như rủi ro chính sách, chu kì kinh tế... - Một số khoản cho vay chưa được đánh giá đúng mức độ rủi ro. Mặc dù những khoản vay này chưa thực sự làm phát sinh nợ quá hạn và phải trích lập dự phòng rủi ro nhưng nếu không kịp thời giải quyết sẽ làm ảnh hưởng lớn đến chất lượng tín dụng của chi nhánh. Do chưa đánh giá được tầm quan trọng của việc xếp hạng và cho điểm khách hàng theo một số tiêu chí được theo dõi thường xuyên nên việc theo dõi khách hàng vẫn còn phụ thuộc nhiều vào tính chủ động của cán bộ tín dụng. Hạn chế trong quản lý rủi ro tín dụng ở chi nhánh bắt nguồn từ những nguyên nhân sau: * Nguyên nhân thuộc về ngân hàng - Qui trình cấp tín dụng chưa có sự tách bạch giữa các khâu: Hiện nay tại chi nhánh, một cán bộ tín dụng vẫn thực hiện toàn bộ các khâu từ xét duyệt, quyết định cho vay đến kiểm tra, thu hồi vốn vay. Điều này dễ gây quá tải và gia tăng nguy cơ xảy ra rủi ro đạo đức ở các cán bộ tín dụng. - Trình độ năng lực của cán bộ tín dụng chưa cao: Phần lớn cán bộ tín dụng tại chi nhánh đều là những nhân viên trẻ, có kiến thức nhưng chưa có nhiều kinh nghiệm trong việc tìm kiếm khách hàng, thẩm định cho vay. Trong khi đó, công tác đào tạo, tập huấn nhằm nâng cao trình độ chuyên môn cho đội ngũ cán bộ còn chưa được thực hiện thường xuyên, liên tục. Điều này đã hạn chế rất lớn đến chất lượng các khoản cho vay, là nguyên nhân trực tiếp gây ra tình trạng nợ xấu, nợ quá hạn. - Chính sách đãi ngộ chưa hợp lý: Do ngân hàng chưa xây dựng được một cơ chế khoán tài chính nên không tạo được động lực thúc đẩy cán bộ phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ với năng suất, chất lượng và hiệu quả. Cán bộ tín dụng là những người trực tiếp thực hiện các khoản cho vay và phải chịu trách nhiệm đối với các khoản cho vay có vấn đề,nhưng đối với những khoản cho vay có chất lượng tốt, đem lại lợi nhuận cho ngân hàng thì họ lại không được hưởng những chế độ đãi ngộ khác. Điều này làm giảm sự nhiệt tình và tinh thần trách nhiệm của cán bộ tín dụng, khiến họ không nỗ lực, phấn đấu hết sức vì ngân hàng. - Thông tin về khách hàng không đầy đủ: Nguồn thông tin mà chi nhánh sử dụng để phân tích và đánh giá mức độ rủi ro của khách hàng còn thiếu và có chất lượng chưa cao do những thông tin này chủ yếu là do khách hàng cung cấp. Việc liên kết đồng bộ hệ thống ngân hàng để trao đổi thông tin chưa được chú trọng đúng mức nên hiệu quả chưa cao. Vì vậy, cán bộ tín dụng thường phải mất khá nhiều thời gian và công sức để tự đi điều tra trong khi chí phí cho hoạt động này lại hầu như không có. Theo nguyên tắc, để hạn chế rủi ro thì trước khi quyết định cho vay, cán bộ tín dụng cần thâm nhập sâu vào hoạt động của doanh nghiệp, phân tích khách hàng trên nhiều yếu tố nhưng thực tế công việc này chưa được thực hiện theo một hệ thống các chỉ tiêu được xây dựng đầy đủ và phù hợp. Chi nhánh nhìn chung còn ít tìm hiểu và không đủ thông tin về các yếu tố phi tài chính như đạo đức, ý muốn chủ quan của khách hàng trước và sau cho vay. * Nguyên nhân thuộc về phía khách hàng - Báo cáo tài chính không minh bạch: Trong phân tích khách hàng trước khi ra quyết định cho vay, cán bộ tín dụng thường tập trung vào phân tích tình hình tài chính của khách hàng thông qua các báo cáo tài chính mà khách hàng cung cấp. Tuy nhiên, nhiều báo cáo không được kiểm toán, độ chính xác của thông tin không cao khiến cán bộ tín dụng khó có thể đưa ra được những quyết định hợp lý, khiến cho rủi ro từ khoản cho vay sẽ tăng lên. - Tư cách đạo đức và năng lực quản trị kém: Năng lực kinh doanh, khả năng quản lý của cán bộ lãnh đạo là yếu tố quan trọng nhất, quyết định sự thành bại của doanh nghiệp. Năng lực kém sẽ khiến cho nhà quản trị đưa ra những quyết định sai lầm trong chiến lược kinh doanh, lựa chọn ngành nghề không phù hợp... khiến doanh nghiệp thua lỗ, không có khả năng trả nợ ngân hàng, làm phát sinh các khoản nợ quá hạn cho ngân hàng. Bên cạnh đó, một số khách hàng có tư cách, phẩm chất đạo đức kém, cố ý lừa đảo chiếm dụng vốn của ngân hàng. Đây cũng là một trong những lý do gây ra nợ quá hạn cho chi nhánh. * Nguyên nhân xuất phát từ môi trường bên ngoài - Rủi ro chính sách: Các chính sách kinh tế vĩ mô của chính phủ đang trong quá trình đổi mới và hoàn thiện khiến cho một số doanh nghiệp không theo kịp với những sự thay đổi đó rơi vào tình huống bất lợi. Việc thay đổi mức thuế suất, hạn ngạch khiến cho nhiều doanh nghiệp xuất nhập khẩu không thực hiện được giao dịch, không thu được vốn để trả nợ ngân hàng. Đồng thời, sự thay đổi trong chính sách kinh tế của các nước cũng ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, đồng thời cũng ảnh hưởng đến khả năng thu hồi nợ của ngân hàng. Khách hàng chủ yếu của chi nhánh là các doanh nghiệp kinh doanh XNK trong khi tình hình kinh doanh của các doanh nghiệp này lại chịu tác động rất lớn từ môi trường bên ngoài. Sự thay đổi chính sách, biểu thuế, sự biến động tỷ giá... là rất khó lường và ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng hoàn trả nợ đúng hạn của khách hàng khiến cho nợ quá hạn của ngân hàng cũng tăng theo. - Môi trường tài chính chưa minh bạch: Đây cũng là một yếu tố tác động tiêu cực tới hoạt động tín dụng của chi nhánh. Thị trường tài chính trong nước chưa phát triển, thị trường chứng khoán mới đi vào hoạt động chưa thu hút được nhiều doanh nghiệp tham gia và phần lớn các doanh nghiệp ý thức được tầm quan trọng của việc minh bạch hóa tài chính. Điều này gây rất nhiều khó khăn cho ngân hàng trong việc đánh giá chính xác năng lực tài chính của khách hàng, khiến ngân hàng thực hiện những món cho vay chất lượng kém, rủi ro cao. Chương 3: Giải pháp tăng cường quản lý rủi ro tín dụng tại chi nhánh Eximbank Hà Nội 3.1. Định hướng quản lý rủi ro tín dụng tại chi nhánh Eximbank Hà Nội Năm 2007, chi nhánh mở rộng và phát triển tất cả các nghiệp vụ kinh doanh, trong đó đặc biệt quan tâm đến việc mở rộng mạng lưới các phòng giao dịch để tăng trưởng nghiệp vụ: huy động vốn từ các tổ chức kinh tế, dân cư, tăng dư nợ cho vay, tăng doanh số thanh toán xuất nhập khẩu . . . Về hoạt động tín dụng, chi nhánh có những định hướng cụ thể như sau: - Tiếp tục tập trung mở rộng qui mô hoạt động tín dụng cùng với việc nâng cao chất lượng tín dụng, hạn chế sự phát sinh các khoản nợ quá hạn mới, cụ thể là tổng dư nợ đạt 890.000 triệu đồng, khống chế tỷ lệ nợ quá hạn dưới 2% tổng dư nợ. - Thực hiện đa dạng hóa cho vay về thời hạn cũng như lĩnh vực kinh doanh, đồng thời vẫn chú trọng cho vay các doanh nghiệp vừa và nhỏ, có tình hình tài chính lành mạnh. Bảng 6: Kế hoạch tăng trưởng tín dụng năm 2007 Đơn vị: triệu đồng Năm 2007 Tăng giảm so với năm 2006 Giá trị % Tổng dư nợ 890.000 126.462 16,6% Cho vay ngắn hạn 765.500 72.705 10,5% Cho vay trung, dài hạn 133.500 62.757 88,7% Nguồn: Phòng tín dụng – Chi nhánh Eximbank Hà Nội - Bên cạnh việc tăng cường quản lý rủi ro, hạn chế sự phát sinh của các khoản nợ quá hạn, nợ có vấn đề, chi nhánh tiếp tục đẩy mạnh công tác thu hồi các khoản nợ đọng của các năm trước đã bù đắp bằng quỹ dự phòng rủi ro (đã chuyển ra theo dõi ngoại bảng). - Thực hiện nghiêm túc qui trình nghiệp vụ cho vay và các qui định an toàn tín dụng, phân loại và trích lập đầy đủ dự phòng rủi ro. Quyết định 457/2005/QĐ-NHNN qui định các tỷ lệ an toàn trong hoạt động tín dụng như sau: + Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu được qui định là 8% giữa vốn tự có và toàn bộ tài sản rủi ro của NH. + Tổng dư nợ cho vay của TCTD đối với một khách hàng không được vượt quá 15% vốn tự có của TCTD, tổng dư nợ cho vay và bảo lãnh không được vượt quá 25% vốn tự có của TCTD. Đối với một nhóm khách hàng có liên quan thì các tỷ lệ này lần lượt là 50% và 60%. Qui tắc này đòi hỏi các NH phải phân tán vốn khi cho vay, tránh trường hợp đầu tư vốn quá nhiều vào một hoặc một nhóm khách hàng. + Mức đầu tư vào một khoản đầu tư thương mại của TCTD tối đa không được vượt quá 11% vốn điều lệ của doanh nghiệp, quĩ đầu tư hoặc 11% giá trị dự án đầu tư. Tổng mức đầu tư trong tất cả các khoản đầu tư thương mại của TCTD không được vượt quá 40% vốn điều lệ và quĩ đầu tư của TCTD... Theo quyết định 493/2005/QĐ-NHNN về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro, NHTM phải phân loại nợ thành 5 nhóm với mức độ rủi ro khác nhau và trích lập dự phòng như sau: - Nhóm 1 (Nợ đủ tiêu chuẩn): là các khoản nợ trong hạn mà TCTD đánh giá là đủ khả năng thu hồi đầy đủ cả gốc lẫn lãi đúng thời hạn. Tỷ lệ trích lập dự phòng với nhóm này là 0%. - Nhóm 2 (Nợ cần chú ý): bao gồm các khoản nợ quá hạn dưới 90 ngày và các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ trong hạn theo thời hạn đã cơ cấu lại. Tỷ lệ trích lập đối với nhóm này là 5%. - Nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn): bao gồm các khoản nợ quá hạn từ 91 đến 180 ngày và các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn dưới 90 ngày theo thời hạn đã cơ cấu lại. Tỷ lệ trích lập dự phòng đối với nhóm này là 20%. - Nhóm 4 (Nợ nghi ngờ): bao gồm các khoản nợ quá hạn từ 181 đến 360 ngày và các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn từ 90 đến 180 ngày theo thời hạn đã cơ cấu lại. Tỷ lệ trích lập dự phòng đối với nhóm này là 50%. - Nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn): bao gồm các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày, các khoản nợ khoanh chờ Chính Phủ xử lý, các khoản nợ đã cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn trên 180 ngày theo thời hạn đã cơ cấu lại. Tỷ lệ trích dự phòng rủi ro cho nhóm này là 100%. Trường hợp khách hàng có nhiều hơn một khoản nợ đối với TCTD mà có bất kì khoản nợ nào bị chuyển sang nhóm nợ rủi ro cao hơn thì TCTD bắt buộc phải phân loại các khoản nợ còn lại của khách hàng đó vào các nhóm nợ rủi ro cao hơn tương ứng với mức độ rủi ro. 3.2. Giải pháp tăng cường quản lý rủi ro tín dụng tại chi nhánh Eximbank Hà Nội 3.2.1. Thực hiện tốt các biện pháp ngăn ngừa rủi ro tín dụng 3.2.1.1. Hoàn thiện chính sách tín dụng và qui trình phân tích tín dụng Chính sách tín dụng thể hiện quan điểm, phương hướng chung của cả ngân hàng, có tác dụng chỉ đạo, hướng dẫn cho hoạt động tín dụng và là một công cụ hữu hiệu để quản lý rủi ro tín dụng. Trong thời gian qua, Eximbank đã xây dựng được một chính sách tín dụng nhưng chính sách này vẫn còn mang tính chung chung và kém linh hoạt. Thời gian tới, ngân hàng cần hoàn thiện chính sách tín dụng trên cơ sở quan tâm thích đáng đến việc đa dạng hoá danh mục đầu tư, chính sách về tài sản đảm bảo, chính sách bảo lãnh... Đồng thời, để xây dựng được một chính sách tín dụng hợp lý và mang lại hiệu quả cao thì ngân hàng cần chú trọng hơn nữa vào công tác dự báo diễn biến tình hình kinh tế, chính trị, tiến bộ khoa học kỹ thuật... ở tầm vĩ mô bởi những nhân tố này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với mỗi ngành kinh tế, một biến động rất nhỏ của các nhân tố này sẽ tác động rất lớn lên toàn ngành ngân hàng nói chung và Eximbank nói riêng. Qui trình cấp tín dụng của ngân hàng hiện vẫn còn khá nhiều bất cập do tập trung quá mức vào cán bộ tín dụng, dễ gây rủi ro. Thời gian tới, qui trình cấp tín dụng cần phải được rà soát thường xuyên đảm bảo tuân thủ các qui định và có sự phân định chức năng rõ ràng giữa bộ phận giao dịch với khách hàng, bộ phận thẩm định, bộ phận giám sát sau cho vay nhằm nâng cao chất lượng tín dụng,giảm thiểu khả năng rủi ro đạo đức của các cán bộ ngân hàng móc ngoặc với khách hàng nhằm mưu lợi riêng. 3.2.1.2. Đa dạng hóa danh mục cho vay Đa dạng hóa là một chiến lược giảm thiểu rủi ro được sử dụng khá phổ biến trong quản trị rủi ro nói chung và trong tín dụng ngân hàng nói riêng. Đa dạng hóa trong tín dụng ngân hàng là việc ngân hàng thực hiện cho vay đối với nhiều ngành nghề khác nhau, phục vụ các mục đích khác nhau, thời hạn cho vay khác nhau và rủi ro cũng khác nhau... Rủi ro trong các khoản tín dụng thương mại liên quan đến khả năng đánh giá tình trạng kinh doanh, tài chính của người vay. Rủi ro trong cho vay tiêu dùng liên quan đến thu nhập của người vay và khả năng kiểm soát thông tin về người vay. Cho vay tiêu dùng rủi ro cao do khách hàng thường thế chấp bằng chính hàng hoá mua được từ món vay. Rủi ro trong cho vay các trung gian tài chính khác như các NHTM, các tổ chức tài chính phi ngân hàng lại liên quan đến vị thế của tổ chức tài chính đi vay và thường là thấp. Rủi ro cho vay đối với Nhà nước hầu như là không có tuy nhiên trong khủng hoảng kinh tế toàn cầu và khu vực thì các khoản cho vay này cũng bị ảnh hưởng. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là ngân hàng cho vay tràn lan, không theo một định hướng cụ thể nào. Hạn chế rủi ro bằng đa dạng hóa phải được thực hiện trên cơ sở ngân hàng xác định được vị thế, thế mạnh của ngân hàng mình. Eximbank với thế mạnh là tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu thì việc đa dạng hóa cần thực hiện là đa dạng hóa thời hạn cho vay, khu vực tài trợ, loại hàng hóa tài trợ... Bên cạnh đó, ngân hàng cần mở rộng sang lĩnh vực cho vay tiêu dùng: mua nhà, du học... Cùng với xu thế tiêu dùng hiện đại, lĩnh vực này hứa hẹn sẽ mang lại nhiều lợi nhuận cho ngân hàng. 3.2.1.3. Phân tích khách hàng để đưa ra những quyết định tín dụng hợp lý Rủi ro trong hoạt động tín dụng của ngân hàng chủ yếu là xuất phát từ phía người vay. Do đó, công tác phân tích khách hàng trước khi ra quyết định cho vay là đặc biệt quan trọng, ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng khoản vay. Trước khi đưa ra quyết định tín dụng, chi nhánh cần nghiêm túc phân tích tình hình tài chính của người vay, năng lực kinh doanh cũng như đạo đức uy tín của doanh nghiệp... theo một hệ thống các chỉ tiêu được xây dựng đầy đủ và phù hợp. Quá trình này nên được thực hiện theo mô hình chất lượng, dựa trên yếu tố 6C: - Tư cách người vay (Character): Cán bộ tín dụng phải làm rõ mục đích xin vay của khách hàng, mục đích vay của khách hàng có phù hợp với chính sách tín dụng hiện hành của ngân hàng hay không, đồng thời xem xét về lịch sử đi vay và trả nợ đối với khách hàng cũ; còn khách hàng mới thì cần thu thập thông tin từ nhiều nguồn khác như trung tâm phòng ngừa rủi ro … - Năng lực của người vay (Capacity): Cán bộ tín dụng khi ký kết phải chắc chắn khách hàng có đủ năng lực vay vốn và đủ tư cách pháp lý để ký hợp đồng vay vốn. Theo luật định, cá nhân dưới 18 tuổi không đủ tư cách ký hợp đồng tín dụng còn đối với doanh nghiệp, phải căn cứ vào giấy phép kinh doanh, quyết định thành lập, quyết định bổ nhiệm người điều hành... để xem xét tư cách pháp lý. - Thu nhập của người vay (Cash): Trước hết phải xác định được nguồn trả nợ của người vay như luồng tiền từ doanh thu bán hàng hay từ thu nhập, tiền từ bán thanh lý tài sản, hoặc tiền từ phát hành chứng khoán … Sau đó cần phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp vay vốn thông qua các tỷ số tài chính như: chỉ tiêu thanh khoản, chỉ tiêu đòn cân nợ, nhóm chỉ tiêu hoạt động, nhóm chỉ tiêu khả năng sinh lời... Tuỳ theo từng loại hình tín dụng mà ngân hàng quan tâm đến các chỉ số khác nhau: cho vay ngắn hạn thì lưu ý đến các chỉ số lưu động, chỉ số về nợ; cho vay dài hạn thì quan tâm đến chỉ số sinh lời, khả năng trả nợ... - Bảo đảm tiền vay (Collateral): Khi thực hiện các khoản cho vay có tài sản đảm bảo, cán bộ tín dụng phải đặt ra các câu hỏi: Tài sản đảm bảo có tương xứng với món vay không? Tình trạng tài sản đảm bảo? Trị giá tài sản đảm bảo? Tỷ lệ cho vay trên tài sản đảm bảo là bao nhiêu?... - Các điều kiện (Conditions): Ngân hàng quy định các điều kiện tuỳ theo chính sách tín dụng theo từng thời kỳ như cho vay hàng xuất khẩu với điều kiện thanh toán, thu ngân phải qua ngân hàng nhằm thực thi chính sách tiền tệ của NHTW quy định theo từng thời kỳ... - Kiểm soát (Control): Tập trung vào những vấn đề như các thay đổi trong pháp luật và quy chế có ảnh hưởng xấu đến người vay? Yêu cầu tín dụng của người vay có đáp ứng được tiêu chuẩn của các cơ quan quản lý ngân hàng ?... Thông qua việc phân tích khách hàng, ngân hàng sẽ thấy được mức độ rủi ro của khoản vay, ra quyết định có nên cho vay không, cho vay với mức lãi suất như thế nào để bù đắp được rủi ro và cần quản lý khách hàng sau khi cho vay như thế nào để đảm bảo chất lượng tín dụng. 3.2.1.4. Nâng cao chất lượng cán bộ tín dụng Thực tế cho thấy muốn ngăn ngừa, hạn chế rủi ro tín dụng thì việc đầu tiên là phải hạn chế những mặt yếu từ phía TCTD, trong đó công tác đào tạo cán bộ, cả về chuyên môn nghiệp vụ và phẩm chất đạo đức, có vai trò quan trọng hàng đầu. Muốn nâng cao chất lượng tín dụng thì phải có đội ngũ cán bộ tín dụng được đào tạo có hệ thống, có kiến thức phong phú về nhiều ngành kinh tế, nhiều lĩnh vực, có khả năng nắm bắt những thay đổi của thị trường. Do đó, chi nhánh cần thường xuyên mở các khoá đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ tín dụng để đáp ứng được yêu cầu công tác. Sống trong môi trường "tiền bạc", nhiều cán bộ tín dụng không tránh khỏi sức cám dỗ của đồng tiền, tiếp tay khách hàng rút ruột ngân hàng. Do vây, chi nhánh cần định kì hoặc đột xuất thay đổi địa bàn, khách hàng phụ trách cho vay để phòng ngừa trường hợp thông đồng giữa cán bộ ngân hàng với khách hàng, đảo nợ, tự ý gia hạn nợ, thu nợ, thu lãi nhưng không nộp vào ngân hàng hoặc nhờ khách hàng vay hộ hay vay ghi vào sổ khế ước của khách hàng. Bên cạnh đó, chi nhánh cần có chế độ đãi ngộ, khen thưởng một cách hợp lý, gắn kết lợi ích của cán bộ tín dụng với chất lượng các khoản cho vay để nâng cao tinh thần làm việc của họ, tạo động lực cho họ phấn đấu làm việc trong sạch, nghiêm túc. 3.2.1.5. Tăng cường hệ thống thông tin liên ngân hàng Trong nhiều giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng, hầu như các NHTM quan tâm nhiều đến việc xây dựng giải pháp phòng ngừa hay kiểm soát rủi ro trong nội bộ ngân hàng mình mà chưa quan tâm thích đáng đến việc xây dựng hệ thống thông tin giữa các ngân hàng. Thời gian qua, Eximbank đã sử dụng khá tốt hệ thống thông tin nội bộ trong việc quản lý các khoản vay nhưng chưa thực sự chú trọng đến việc thu thập thông tin từ các nguồn tin cậy bên ngoài nên dẫn tới hiện tượng một khách hàng sử dụng cùng một dự án để vay vốn ở nhiều ngân hàng khác nhau. Do vậy, trong thời gian tới, bên cạnh nguồn thông tin khách hàng cung cấp, chi nhánh cần thu thập thêm thông tin từ các ngân hàng khác, từ các cơ quan chuyên cung cấp thông tin như: Trung tâm thông tin tín dụng của ngân hàng nhà nước (CIC), thông tin từ các bộ, ban ngành quản lý doanh nghiệp, từ các tổ chức xếp hạng doanh nghiệp... Thông qua đó, ngân hàng có được những thông tin quý báu để nhìn nhận đánh giá khách hàng đúng đắn hơn; ngăn ngừa sự ham muốn mưu lợi bất chính của khách hàng; nâng cao chất lượng tín dụng, nâng cao nghiệp vụ thông tin giữa các bộ phận chuyên môn của các NHTM, tăng cường năng lực cạnh tranh với các tổ chức tài chính nước ngoài trong giai đoạn hội nhập... 3.3.1.6. Mở rộng hoạt động đồng tài trợ Nhằm hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng của các NHTM, NHNN đã ra quyết định 457/2005/QĐ-NHNN qui định các tỷ lệ an toàn trong hoạt động tín dụng. Theo qui định này, tổng dư nợ cho vay của NHTM đối với một khách hàng không được vượt quá 15% vốn tự có của NHTM, tổng dư nợ cho vay và bảo lãnh không được vượt quá 25% vốn tự có của NHTM. Đối với một nhóm khách hàng có liên quan thì các tỷ lệ này lần lượt là 50% và 60%. Qui tắc này đòi hỏi các ngân hàng phải phân tán vốn khi cho vay, tránh trường hợp đầu tư vốn quá nhiều vào một hoặc một nhóm khách hàng đề phòng trường hợp rủi ro xảy ra đối với nhóm khách hàng này sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động của ngân hàng. Do vậy, đối với những doanh nghiệp có nhu cầu vốn vay lớn, một giải pháp được đưa ra cho các ngân hàng là tiến hành đồng tài trợ. Đồng tài trợ là quá trình cho vay – bảo lãnh của một nhóm tổ chức tín dụng cho một dự án, do một tổ chức tín dụng làm đầu mối phối hợp các bên tài trợ để thực hiện, nhằm nâng cao năng lực và hiệu quả trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và của tổ chức tín dụng. Chủ thể tham gia đồng tài trợ chủ yếu là các NHTM vì chỉ các NHTM mới đủ khả năng, uy tín đứng ra thu xếp các khoản vay có quy mô lớn và độ phức tạp cao. Trong hoạt động đồng tài trợ các ngân hàng phải cùng nhau ký kết hợp đồng đầu tư và có sự phân định rõ ràng trách nhiệm của từng thành viên khi thẩm định, cấp vốn, thu hồi nợ và phát sinh nợ quá hạn. Do vậy, tham gia đồng tài trợ vừa mở rộng khả năng cho vay của ngân hàng, vừa giảm thấp nguy cơ rủi ro tín dụng hoặc san sẻ tổn thất do rủi ro tín dụng gây ra. 3.2.2. Tăng cường các biện pháp hạn chế tổn thất khi rủi ro tín dụng xảy ra 3.2.2.1. Áp dụng biện pháp khai thác đối với những khách hàng còn khả năng và ý chí trả nợ Đối với những khách hàng gặp khó khăn tài chính tạm thời nhưng vẫn còn khả năng và thiện chí trả nợ thì ngân hàng cần áp dụng các biện pháp khai thác khác nhau tùy vào đánh giá của ngân hàng đối với khách hàng: - Ngân hàng có thể đưa ra lời khuyên cho khách hàng trên nhiều chủ đề nhằm tác động đến khả năng tạo ra lợi tức của người vay như: bán bớt tài sản hay một phần doanh nghiệp; thực hiện một số chương trình định giá lại sản phẩm, thay đổi phương thức bán, tăng sản phẩm mới; loại bỏ một số hoạt động không sinh lời... - Ngân hàng áp dụng chính sách gia hạn nợ, giảm lãi hoặc cho vay thêm để hỗ trợ phương án thu hồi tài sản. Phương án này gặp nhiều thách thức khi thực hiện nên ngân hàng cần phải cân nhắc kỹ, đảm bảo món vay bổ sung sẽ góp phần củng cố khả năng thanh toán toàn bộ các khoản vay nợ đồng thời phải được bổ sung thêm tài sản bảo đảm, thời hạn vay là chấp nhận được... Việc thực hiện các biện pháp trên sẽ giúp cho các doanh nghiệp có tình hình tài chính tốt nhưng vướng phải những khó khăn tạm thời có thể tiếp tục kinh doanh, trả nợ cho ngân hàng. Việc ngân hàng giúp đỡ giải quyết khó khăn cho khách hàng cũng chính là việc ngân hàng giải quyết khó khăn cho chính mình. 3.2.2.2. Thành lập công ty quản lý nợ và khai thác tài sản Khi ngân hàng nhận thấy khả năng cải thiện tình hình của khách hàng là không thể, ngân hàng buộc phải áp dụng các biện pháp thanh lý tín dụng. Thanh lý tín dụng gồm có: phát mại tài sản đảm bảo, thanh lý doanh nghiệp và phá sản doanh nghiệp. Trong đó, phát mại tài sản bảo đảm là biện pháp được sử dụng đầu tiên. Khi cho vay, ngân hàng thường yêu cầu phải có tài sản đảm bảo để khi khách hàng không trả được nợ, ngân hàng sẽ sử dụng chúng như nguồn thứ cấp để trả nợ cho ngân hàng bằng cách phát mại chúng. Tuy nhiên, việc phát mại tài sản đảm bảo là khá phức tạp, đòi hỏi nhiều thủ tục, mất nhiều thời gian và khá tốn kém. Đối với tài sản đảm bảo là nhà ở thì thủ tục còn phức tạp hơn nữa. Do vậy, trong thời gian tới, ngân hàng cần xem xét thành lập một bộ phận chuyên trách thực hiện công việc này nhằm giúp tiết kiệm được thời gian và chi phí cho ngân hàng trong việc phát mại tài sản đảm bảo, thu hồi nợ vay. Các công ty quản lý nợ và khai thác tài sản thuộc NHTM được thành lập theo quyết định số 150/2001/QĐ-TTg của thủ tướng Chính Phủ có chức năng thay mặt ngân hàng giải quyết nợ quá hạn bằng cách phân công và qui trách nhiệm đòi nợ, liên kết các bên ngân hàng - khách hàng - chính quyền địa phương trong việc xử lý nợ, tiến hành phát mại tài sản đảm bảo tiền vay để thu hồi vốn vay cho ngân hàng... Hoạt động của các công ty này sẽ giúp cho ngân hàng tăng cường khả năng thu hồi nợ và giảm tổn thất cho ngân hàng do hoạt động của nó được qui định cụ thể và chuyên môn hoá rõ ràng. 3.2.2.3. Trích lập quỹ dự phòng rủi ro hợp lý Sau khi thực hiện các biện pháp thanh lý mà ngân hàng vẫn không bù đắp được tổn thất mà rủi ro tín dụng mang lại thì ngân hàng cần sử dụng quỹ dự phòng để xử lý rủi ro nhằm đảm bảo cho hoạt động của ngân hàng được bình thường và đảm bảo chấp hành các qui định của NHTW. Trong thực tế, quỹ dự phòng rủi ro được hình thành sau khi phân loại các khoản cho vay trên cơ sở đánh giá mức độ rủi ro và được hạch toán vào chi phí hoạt động của ngân hàng. Nếu giá trị tổn thất nhỏ hơn dự phòng rủi ro thì ngân hàng tiến hành thanh lý nợ bằng quĩ dự phòng. Tuỳ vào nguyên nhân dẫn đến rủi ro tổn thất mà có cách xử lý thích hợp, có thể sau khi sử dụng quĩ dự phòng rủi ro để bù đắp sẽ tiến hành thanh lý hợp đồng tín dụng, cũng có thể chỉ xoá khoản tín dụng trong nội bảng và tiếp tục theo dõi ở ngoại bảng trong một thời gian nhất định để tiếp tuc truy đòi người đi vay và các bên có liên quan. Trong trường hợp giá trị tổn thất lớn hơn dự phòng rủi ro thì cần dùng các nguồn khác để thanh lý tín dụng như quĩ dự phòng tài chính, hạch toán vào chi phí bất thường... 3.3. Kiến nghị 3.3.1. Kiến nghị với ngân hàng nhà nước 3.3.1.1. NHNN cần hoàn thiện các văn bản qui định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro nhằm hướng dẫn hoạt động tín dụng cho các ngân hàng Hiện nay, việc phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng được thực hiện theo quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN của thống đốc ngân hàng nhà nước ban hành ngày 22/4/2005. Ra đời thay thế cho quyết định 488/2000/QĐ-NHNN, quyết định 493 đã khắc phục được một số hạn chế của quyết định 488 trong việc hướng dẫn hoạt động tín dụng trong các ngân hàng thương mại. Tuy nhiên, các NHTM còn khá lúng túng trong việc triển khai và nhiều ý kiến cho rằng việc phân loại nợ chỉ dựa vào thời gian quá hạn là chưa phản ánh chính xác rủi ro tín dụng của các ngân hàng. Do vậy, trong thời gian tới, NHNN cần ban hành các thông tư hướng dẫn cụ thể hơn nữa việc thực hiện quyết định 493, đồng thời xem xét việc tiến tới trích lập dự phòng theo mức độ rủi ro của khoản vay. Việc trích lập dự phòng rủi ro theo nợ quá hạn như hiện tại là không hợp lý vì có những khoản vay mặc dù chưa tới hạn nhưng đã tiềm ẩn khả năng mất vốn rất cao, cần được dự phòng rủi ro song lại không được trích lập. 3.3.1.2. Liên kết đồng bộ các tổ chức tín dụng, nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống thông tin tín dụng ngân hàng nhà nước Hiện nay, việc một khách hàng có quan hệ với nhiều ngân hàng là khá phổ biến. Tuy nhiên, các ngân hàng vẫn thực hiện độc lập nhau việc thu thập thông tin, đánh giá khách hàng mà chưa thực sự liên kết chặt chẽ vỡi nhau để giảm thời gian và chi phí thẩm định khách hàng, đánh giá được khách hàng một cách chính xác hơn. Sự ra đời của hệ thống thông tin tín dụng nhà nước chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu thông tin của các ngân hàng. Hệ thống này được thiết lập nhằm hình thành một cơ sở dữ liệu tập trung về khách hàng để phục vụ cho quá trình phân tích, ra quyết định và quản lý tín dụng thông qua một cơ chế thu thập, xử lý, lưu trữ và chia sẻ thông tin tín dụng trong hệ thống các ngân hàng thương mại. Tuy nhiên, trong những năm qua, hoạt động của hệ thống thông tin này chưa thực sự hiệu quả trong việc phát hiện và ngăn ngừa rủi ro tín dụng. Nguyên nhân là do chất lượng thông tin thấp, thông tin sơ sài, chủ yếu là về quan hệ của khách hàng đó với ngân hàng khác, thông tin pháp lý, lịch sử tín dụng, môi trường cạnh tranh... Trong khi đó, những thông tin về phẩm chất đạo đức, năng lực kinh doanh, tình trạng tài chính của khách hàng, tài sản đảm bảo… thì thường không đầy đủ hoặc quá cũ nên không còn phù hợp. Do vậy, yêu cầu đặt ra là ngân hàng Nhà nước cần phải nâng cấp hệ thống thông tin tín dụng, tạo điều kiện cho các ngân hàng thương mại quản lý rủi ro hiệu quả hơn. 3.3.1.3. Tăng cường hoạt động thanh tra, giám sát và đánh giá an toàn đối với các ngân hàng thương mại Để đảm bảo sự an toàn của hệ thống ngân hàng, NHNN cần phát huy vai trò kiểm tra, giám sát và đưa ra được đánh giá độc lập về chiến lược, chính sách, quy trình cấp tín dụng và quản trị danh mục của các NHTM. Tuy nhiên, hiện nay thanh tra NHNN mới chỉ dừng lại ở việc xem xét các ngân hàng có làm đúng các quy chế, quy định của NHNN hay không, đánh giá hoạt động tín dụng chỉ dựa trên tỷ lệ nợ xấu, nợ quá hạn chứ không phải trên mức độ rủi ro được dự báo của các giao dịch mà ngân hàng đó đang tham gia... Do đó, để tăng cường hiệu quả công tác thanh tra, NHNN cần: + Định kỳ và đột xuất trực tiếp xuống ngân hàng kiểm tra, đánh giá, xem xét thực trạng hoạt động kinh doanh của ngân hàng để sớm nhận ra những vẫn đề còn tồn tại để nhanh chóng có hướng giải quyết. + Đào tạo đội ngũ thanh tra NHNN phẩm chất đạo đức tốt, nắm vững chuyên môn và tạo điều kiện cho họ làm quen, tiếp thu những nguyên tắc kiểm tra, giám sát mang tính quốc tế. + Trang bị các thiết bị tiên tiến, ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động kiểm tra, giám sát để quá trình này diễn ra nhanh chóng, chính xác, ít ảnh hưởng đến hoạt động của các NHTM. 3.3.2. Kiến nghị với Chính phủ 3.3.2.1. Chính phủ cần hoàn thiện hệ thống chính sách, tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho hoạt động của nền kinh tế Một trong những nguyên nhân gây khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, giảm hiệu quả sử dụng vốn dẫn đến khó khăn trong việc thanh toán nợ với ngân hàng là do chính sách quản lý kinh tế vĩ mô của Chính phủ chưa hoàn thiện, thường xuyên có những thay đổi. Điều này khiến các doanh nghiệp phải điều chỉnh hoạt động và nhiều trường hợp, sự điều chỉnh của doanh nghiệp không theo kịp sự thay đổi cơ chế chính sách, dẫn tới kinh doanh thua lỗ, mất khả năng thanh toán. Vì vậy, trong quá trình điều chỉnh cơ chế chính sách, Chính Phủ nên có những bước đệm hoặc những biện pháp tháo gỡ khó khăn do thay đổi cơ chế chính sách gây ra cho doanh nghiệp. Trong lĩnh vực ngân hàng, Luật Ngân hàng Nhà nước, Luật các tổ chức tín dụng cùng với các văn bản luật khác được ban hành đã tạo ra hành lang pháp lý hết sức quan trọng, hướng dẫn hoạt động cho các ngân hàng. Tuy nhiên, hoạt động của các NHTM cũng gặp phải không ít khó khăn do những qui định pháp lý chưa đầy đủ, chặt chẽ, đặc biệt là các qui định trong việc xử lý tài sản đảm bảo của các ngân hàng. Do đó, trong thời gian tới, Chính Phủ cần chỉ đạo việc ban hành, triển khai thực hiện các nghị định, thông tư hướng dẫn một cách nhanh chóng, đồng bộ giữa các cấp, các ngành, tránh gây ách tắc và đảm bảo quyền lợi chính đáng cho các NHTM. Cụ thể: + Theo qui định của Chính phủ, “Việc xử lý tài sản đảm bảo là biện pháp để thu hồi nợ, không phải là hoạt động kinh doanh tài sản của TCTD”. Vì vậy, Bộ tài chính cần phải hướng dẫn cụ thể các cơ quan thuế địa phương trong việc thực hiện chế độ miễn giảm thuế đối với các công ty quản lý nợ và khai thác tài sản thuộc các NHTM. + Đối với các tài sản thế chấp là bất động sản mà công ty Quản lý nợ và Khai thác Tài sản của NHTM cần bán để thu hồi nợ nhưng không có đủ giấy tờ chứng nhận quyền sử dụng đất thì Sở địa chính phải hợp thức hoá thủ tục giấy tờ này, tạo điều kiện thuận lợi cho ngân hàng bán để thu nợ. 3.3.2.2. Ban hành các qui định chặt chẽ hơn trong việc công bố thông tin của các doanh nghiệp Tính chân thực của báo cáo tài chính có ảnh hưởng rất lớn đến kết quả đánh giá khách hàng của ngân hàng. Hiện nay, nhiều khách hàng doanh nghiệp còn chưa tôn trọng pháp lệnh kế toán thống kê gây ra tình trạng các báo cáo tài chính được lập ra rất muộn so với thời điểm báo cáo hoặc lập ra với mục đích đối phó, không phản ánh chính xác tình hình hoạt động của doanh nghiệp. Nhiều doanh nghiệp hiện nay tồn tại hai loại báo cáo: một báo cáo lãi để vay vốn ngân hàng, một báo cáo lỗ nhằm mục đích trốn thuế. Do đó, độ tin cậy của những thông tin mà khách hàng cung cấp là không cao. Yêu cầu đặt ra hiện nay là cần phải nâng cao chất lượng thông tin tín dụng, tạo cơ sở cho các ngân hàng ra quyết định tín dụng hợp lý. Muốn vậy, Chính phủ cần tăng cường hiệu lực pháp lý của pháp lệnh kế toán thống kê, cần đề ra những qui định chặt chẽ hơn nữa trong việc xử lý các doanh nghiệp cung cấp thông tin giả, làm sai lệch hồ sơ. Yêu cầu báo cáo tài chính phải được kiểm toán nên được đặt ra với tất cả các doanh nghiệp chứ không nên chỉ qui định đối với những doanh nghiệp niêm yết. Có như vậy, chất lượng nguồn thông tin mà khách hàng cung cấp cho ngân hàng mới được đảm bảo, mới có thể được sử dụng làm cơ sở để ngân hàng phân tích, đưa ra phán quyết tín dụng cuối cùng. KẾT LUẬN  Trong kinh doanh ngân hàng, việc đương đầu với rủi ro tín dụng là điều không thể tránh khỏi trong khi ảnh hưởng của rủi ro tín dụng đến hoạt động của ngân hàng và cả nền kinh tế là rất nặng nề. Do đó, thừa nhận một tỷ lệ rủi ro tự nhiên trong hoạt động kinh doanh ngân hàng là yêu cầu khách quan hợp lý nhưng vấn đề ở đây là làm thế nào để hạn chế rủi ro này ở một tỷ lệ thấp nhất có thể chấp nhận được. Để làm được điều đó, các NHTM nói chung và chi nhánh ngân hàng xuất nhập khẩu Hà Nội nói riêng cần tăng cường hơn nữa công tác quản lý rủi ro tín dụng. Trên cơ sở những nghiên cứu cơ bản về rủi ro tín dụng và qua quá trình tìm hiểu hoạt động tín dụng cũng như thực trạng quản lý rủi ro tín dụng tại chi nhánh ngân hàng Xuất Nhập Khẩu Hà Nội trong những năm gần đây, chuyên đề đã đưa ra một số giải pháp, kiến nghị nhằm hạn chế phần nào rủi ro tín dụng tại chi nhánh. Mặc dù đã hết sức cố gắng để hoàn thành được đề tài, nhưng vì trình độ hiểu biết còn nhiều hạn chế nên không thể tránh khỏi những sai sót và khiếm khuyết. Do đó, em rất mong nhận được sự quan tâm và góp ý của thầy cô, anh chị và các bạn. Em xin chân thành cám ơn. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. TS Nguyễn Hữu Tài, Giáo trình Lý thuyết tài chính tiền tệ, NXB Thống kê Hà Nội, 2002. 2. Frederic S.Mishkin, Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính, New York, 1992. 3. TS Phan Thị Thu Hà, Giáo trình Ngân hàng thương mại, NXB Thống kê Hà Nội, 2004. 4. Học viện Ngân Hàng, Giáo trình tín dụng ngân hàng, NXB Thống kê Hà Nội, 2001. 5. GS.TS. Lê Văn Tư, Quản trị Ngân hàng Thương mại, NXB Thống kê Hà Nội, 2001. 6. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Nâng cao năng lực quản trị rủi ro của các NHTM Việt Nam, NXB Phương Đông,2006. 7. Tạp chí ngân hàng 8. Tạp chí Thị trường tài chính tiền tệ 9. Báo cáo tổng kết hoạt động của chi nhánh ngân hàng xuất nhập khẩu Hà Nội 2003-2006 và phương hướng hoạt động năm 2007. 10. Các văn bản pháp quy liên quan đến hoạt động ngân hàng của Ngân Hàng Nhà Nước và Ngân hàng Xuất Nhập Khẩu Việt Nam.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0200.doc
Tài liệu liên quan