Đề tài Tăng cường thu hút vốn FDI của Mỹ vào Việt Nam

Các cơ quan cấp Giấy phép đầu tư phải thường xuyên rà soát, phân loại các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài đã được cấp giấy phép đầu tư để có những biện pháp thích hợp, kịp thời tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài. Đối với các doanh nghiệp đã đi vào sản xuất, kinh doanh, các Bộ, ngành và Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, trong phạm vi thẩm quyền của mình, cần động viên khen thưởng kịp thời để khuyến khích các doanh nghiệp hoạt động tốt tiếp tục phát triển, đồng thời cần có biện pháp thích hợp để tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp, đặc biệt là các vấn đề liên quan đến thị trường tiêu thụ sản phẩm, các nghĩa vụ thuế. Đối với các dự án đang triển khai thực hiện, các Bộ, ngành và Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh tích cực hỗ trợ doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn, nhất là trong khâu đền bù, giải phóng mặt bằng để nhanh chóng hoàn thành xây dựng cơ bản, đưa doanh nghiệp vào sản xuất, kinh doanh. Đối với các dự án chưa triển khai, song xét thấy vẫn còn có khả năng thực hiện, cần thúc đẩy việc triển khai trong một thời gian nhất định và giải quyết các vướng mắc, kể cả việc điều chỉnh mục tiêu và quy mô hoạt động của dự án.

doc77 trang | Chia sẻ: haianh_nguyen | Lượt xem: 1267 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tăng cường thu hút vốn FDI của Mỹ vào Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
velopment (của Việt kiều tại Hoa Kỳ), vốn đầu tư 50 triệu USD. Dự án đã nhiều lần được gia hạn tiến độ góp vốn pháp định. UBND thành phố Hà Nội trong tháng 5/2001 đã hoàn thành thủ tục cho thuê đất. Hiện Bệnh viện quốc tế Hoa Kỳ đã được cấp đất, cắm mốc đất và cấp mã số thuế. Bộ Kế hoạch và Đầu tư đang đốn đốc để chủ đầu tư triển khai dự án. 21. Trường quốc tế Hà Nội, vốn đầu tư 2,72 triệu USD, là Liên doanh giữa Trung tâm Công nghệ giáo dục với Bên nước ngoài là một Việt Kiều tại Hoa Kỳ. Do không giải quyết được mâu thuẫn cá nhân giữa các thành viên HĐQT làm ảnh hưởng tới hoạt động chung của liên doanh, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cùng Bộ Giáo dục và Đào tạo đã trình Thủ tướng Chính phủ cho phép chuyển thành 100% vốn nước ngoài. Hiện đang chờ ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ. 22. Hợp đồng dầu khí lô 07-08 - Nhà thầu Việt Nam- American Exp. Inc được cấp giấy phép thăm dò khai thác dầu khí số 2127/GP ngày 28/7/1999. Vốn đăng ký 1 triệu đôla Mỹ, mới thực hiện được 0,5 triệu đôla Mỹ. Dự tính thăm dò địa chấn 1.000km (EC2), nhưng hiện nay dự án chưa triển khai được vì thuộc vùng tranh chấp với Indonesia. 23. Công ty TNHH Cargill Việt Nam, vốn đầu tư 76,3 triệu USD, để sản xuất, chế biến các loại nông sản thực phẩm, dầu thực vật (dầu dừa, dầu đậu tương, dầu vừng, dầu lạc... trừ dầu cọ), bột có độ đạm cao, các loại a-xít béo; sản xuất thức ăn gia súc, thức ăn thuỷ sản; chăn nuôi gà giống; sản xuất ngô lai giống, xây dựng kho chứa hàng nội bộ; thành lập trung tâm hướng dẫn chăn nuôi và thu mua, chế biến cà phê xuất khẩu. Công ty hoạt động tốt, doanh thu cao, bắt đầu có lãi. Công ty TNHH Cargill Việt Nam là một đối tác trong dự án Cảng Bà rịa-Serece. Việc tham gia của Công ty trong dự án này đã được Bộ KH & ĐT chấp thụn, nhưng hiện còn tranh chấp về giá chuyển nhượng vốn trong Hợp đồng, có thể không thực hiện được. Thêm vào đó, Công ty chưa triển khai được Chi nhánh sản xuất tại tỉnh Hưng Yên do vướng mắc về đền bù và giải phóng mặt bằng. 3, So sánh đầu tư của Mỹ với đầu tư của các nước khác tại Việt Nam: Mặc dù là nước có nền kinh tế phát triển bậc nhất, mỗi năm đầu tư ra nước ngoài hàng tỷ USD (năm 1993: 50 tỷ $; năm 1994: 45 tỷ $; năm 1995: 97 tỷ$; năm 1996: 88 tỷ $; năm 1999: 152,16 tỷ $ - nguồn UNTAC) nhưng đầu tư của Mỹ vào Việt Nam chiếm tỷ trọng rất nhỏ (2,8% tổng vốn đầu tư); xếp thứ 12 trong tổng số 60 nước và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam. Chương III: Một số giải pháp nhằm tăng cường thu hút vốn FDI của Hoa Kỳ vào Việt Nam I. Mục tiêu và định hướng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài 1, Mục tiêu Để thực hiện chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2001-2010 và phương hướng nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 2001-2005, Nghị quyết 09 của Chính phủ “Về tăng cường thu hút và nâng cao hiệu quả đầu tư trực tiếp nước ngoài thời kỳ 2001 - 2005” nêu rõ: khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài phải phát triển ổn định hơn, đạt kết quả cao hơn, đặc biệt là về chất lượng, so với thời kỳ trước, để đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Cụ thể hơn, hoạt động đầu tư nước ngoài trong thời kỳ 2001-2005 phải đạt được các mục tiêu sau: Vốn đăng ký của các dự án cấp giấy phép mới: khoảng 12 tỷ USD. b. Vốn thực hiện: khoảng 11 tỷ USD. c. Đến năm 2005 đóng góp khoảng 15% GDP, 25% tổng kim ngạch xuất khẩu vào khoảng 10% tổng thu ngân sách của cả nước (không kể dầu khí). 2, Định hướng a. Khuyến khích mạnh mẽ việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các ngành công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu, công nghiệp chế biến; công nghiệp phục vụ phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn; các dự án ứng dụng công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, dầu khí, điện tử, vật liệu mới, viễn thông, sản xuất phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội và các ngành mà Việt Nam có nhiều lợi thế cạnh tranh gắn với công nghệ hiện đại, tạo thêm nhiều việc làm, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế. b. Tiếp tục thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào những địa bàn có nhiều lợi thế để phát huy vai trò của các vùng động lực, tạo điều kiện liên kết phát triển các vùng khác trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh. Khuyến khích và dành các ưu đãi tối đa cho đầu tư trực tiếp nước ngoài vào những vùng và địa bàn có điều kiện kinh tế-xã hội khó khăn và đẩy mạnh đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng ở các địa bàn này bằng nguồn vốn khác để tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài. Tập trung thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các Khu công nghiệp tập trung đã hình thành theo quy hoạch được phê duyệt. c. Khuyến khích các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài từ tất cả các nước và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam, nhất là các nhà đầu tư nước ngoài có tiềm năng lớn về tài chính và nắm công nghệ nguồn từ các nước công nghiệp phát triển; tiếp tục thu hút các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài ở khu vực. Có kế hoạch vận động các tập đoàn, công ty lớn đầu tư vào Việt Nam, đồng thời chú ý đến các công ty có quy mô vừa và nhỏ, nhưng công nghệ hiện đại; khuyến khích, tạo thuận lợi cho người Việt Nam định cư ở nước ngoài đầu tư về nước. Bảng 7: Dự báo kế hoạch FDI giai đoạn 2001-2005: (đơn vị:1000$) Chỉ tiêu Thực hiện 2000 Kế hoạch 2002-2005 Tổng cộng 2001 2002 2003 2004 2005 1, Vốn thực hiện 2153 2300 2500 2500 2600 2700 12600 2, Vốn tăng thêm 431 600 700 700 700 700 3400 3, Doanh thu 7000 8000 8500 9200 9500 11300 46900 4, xuất khẩu 3308 3900 4500 5300 6300 7500 27500 5, Nhập khẩu 4352 4800 5500 6400 7300 8400 32400 6, Nộp ngân sách 280 340 350 400 450 500 2004 7, Số lao động 349000 (ngưòi) 384120 390000 400000 410000 420000 Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư II Chính sách kinh tế của Mỹ đối với Việt nam trong thời gian tới. Chính sách kinh tế Mỹ đối với Việt nam bao hàm trong 3 định hướng chủ yếu sau: Thứ nhất, Trong lĩnh vực kinh tế, việc duy trì và tăng cường các quan hệ kinh tế ngày càng có hiệu qủa với ASEAN là một định hướng ưu tiên của Mỹ sau chiến tranh lạnh. Mỹ rất quan tâm đến các nước ASEAN. Các nhà chiến lược Mỹ cho rằng ASEAN có tiềm năng phát triển thành một thị trường lớn, năng động trong khu vực Châu á- Thái Bình Dương. Chính vì vậy, Mỹ đã mở rộng danh sách “các thị trường đang nổi lên” sang cả các nước thành viên khối ASEAN. Danh sách này thể hiện sự đánh giá lại của Mỹ đối với các thị trường bên ngoài, xem đây là điều kiện quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế Mỹ. Thứ hai, chính sách kinh tế của Mỹ đối với khu vực ASEAN là xúc tiến tự do hoá thương mại hơn nữa nhằm thúc đâỷ những lợi ích kinh tế từ sự tăng trưởng kinh tế của khu vực. Thứ ba, trong báo cáo chiến lược an ninh quốc gia Mỹ cho thế kỷ 21, Mỹ xem việc “duy trì một ASEAN mạnh, đoàn kết, có khả năng bảo đảm ổn định và thịnh vượng trong khu vực” là một trong những mục tiêu của chính sách Mỹ ở Đông Nam á. Tuy nhiên, do những vấn đề lịch sử để lại từ cuộc chiến tranh Việt Nam, chính sách kinh tế của Mỹ đối với Việt Nam không chỉ phụ thuộc vào những nhân tố kinh tế mà còn gắn chặt với những nhân tố khác. Trong nội bộ nước Mỹ “hội chứng Việt Nam” vẫn còn là vấn đề nội bộ nhạy cảm. Mặc dù vậy, bằng sự nỗ lực của cả hai phía Việt Nam - Mỹ, tháng 7/2000 hiệp định thương mại giữa hai nước đã được ký kết “...là một hiệp định toàn diện mở cửa thị trường của Việt nam cho các hàng hoá và dịch vụ Mỹ..”. Trong thời gian tới, Mỹ chủ trương tiếp tục làm việc với Việt nam để thực hiện hiệp định này. Đồng thời Mỹ cũng sẽ duy trì áp lực mở rộng cải cách kinh tế sang các lĩnh vực khác, trong đó có tư nhân hoá các doanh nghiệp nhà nước, cải cách lĩnh vực tài chính và chuyển sang một chế độ tỷ giá hối đoái linh hoạt. III. Hiệp định thương mại Việt Nam-Hoa Kỳ: Cơ hội và thách thức trong thu hút đầu tư của Mỹ vào Việt Nam Trong những năm qua, cùng với việc xây dựng và từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách về đầu tư trực tiếp nước ngoài, Việt Nam đã ký kết hiệp định song phương về khuyến khích và bảo hộ đầu tư với 41 nước và vùng lãnh thổ (tính đến hết 8/2001-số liệu của Bộ kế hoạch và đầu tư), đã tham gia công ước về bảo đảm đầu tư đa biên (MIGA) và hiệp định khung về khu vực đầu tư ASEAN. Đặc biệt, bằng việc ký kết hiệp định về quan hệ thương mại với Hợp chủng quốc Hoa Kỳ vào tháng 7 năm 2000, Việt Nam đã cam kết thực hiện tiêu chuẩn quốc tế về đầu tư ở phạm vi và mức độ cao nhất so với các điều ước trước đó. Đây là hiệp định mang tính tổng thể, nó không chỉ đề cập đến thương mại hàng hoá (chương I) mà bao trùm cả thương mại dịch vụ (chương II); quan hệ đầu tư (chương IV); Bản quyền-tài sản trí tuệ (chương III); Các quy định về xúc tiến thương mại (chương V); Các vấn đề về minh bạch hoá trong chính sách (chương VI). Đây là Hiệp định có thời giam đàm phán lâu nhất (trải qua 11 vòng đàm phán trong suốt 4 năm, từ 9/1996 đến 7/2000) và phức tạp nhất (gồm 72 điều) trong lịch sử Việt Nam, là Hiệp định đầu tiên mà chúng ta đàm phán theo các tiêu chuẩn của WTO, do đó bao gồm cả những cam kết và lộ trình thực hiện cụ thể. Lý do giải thích cho sự kéo dài thời gian ký kết hiệp định là: quan hệ Việt Nam-Mỹ có một lịch sử phức tạp gắn liền với cuộc chiến tranh ở Việt Nam; giữa hai nước có rất nhiều điểm khác biệt căn bản về định hướng và mức độ phát triển kinh tế, về hệ thống huật pháp... Mặc dù chỉ là một nội dung trong Hiệp định thương mại song chương phát triển quan hệ đầu tư (chương IV) có nội dung tương tự như một hiệp thương mại song phương hoàn chỉnh về khuyến khích và bảo hộ đầu tư giữa 2 nước. Theo đó 2 bên cam kết các vấn đề sau: + Nguyên tắc khuyến khích và bảo hộ đầu tư. + Cam kết cụ thể về đối xử quốc gia và đối xử tối huệ quốc. + Các quy định về bảo hộ và tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động đầu tư; minh bạch hoá pháp luật, chính sách về đầu tư nước ngoài bằng cách công bố công khai và nhanh chóng các luật, các quy định và thủ tục hành chính liên quan đến đầu tư; không áp đặt các yêu cầu đối với chuyển giao công nghệ, quy trình sản xuất... Như vậy, các cam kết về đầu tư trong Hiệp định đã được xây dựng với mục tiêu tổng thể là tạo môi trường đầu tư, kinh doanh thông thoáng và thuận lợi hơn nữa cho thu hút đầu tư trực tiếp của Mỹ vào Việt Nam. 1. Cơ hội thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam khi thực hiện Hiệp định Cơ hội tăng tiếp nhận vốn đầu tư Khi Chính phủ Mỹ chấp thuận cho các doanh nghiệp của mình đầu tư vào Việt Nam với những quyền lợi không kém gì so với đầu tư vào các thị trường khác, một số chuyên gia kinh tế trong và ngoài nước dự báo rằng: khả năng đầu tư của Mỹ và Việt Nam sẽ tăng lên cả về quy mô và giá trị nhất là về trung và dài hạn. Riêng các dự án về công nghiệp, hạ tầng cơ sở do phía OPIC cũng như các công ty Mỹ đã chuẩn bị đầu tư có thể đạt hơn 2 tỷ USD. Theo nguồn tin từ sở thương mại thuộc đại sứ quán Mỹ tại Việt Nam, hiện nay Mỹ đang có ý định đầu tư vào các lĩnh vực xây dựng cảng và hoạt động vận tải biển, ngành nghề tạo chất dẻo, xây dựng cầu đường, đánh bắt cá thương mại, lĩnh vực chế biến thực phẩm hàng không, dầu khí, điện lực, máy công cụ, thiết bị y tế, dịch vụ tài chính, kế toán, dịch vụ máy tính, dịch vụ bảo hiểm. Ông Walterr Blocker, phó chủ tịch hiệp hội doanh nhân Mỹ cũng đã nhận xét rằng Hiệp định thương mại này sẽ mở đường cho một làn sóng đầu tư mới từ Mỹ vào Việt Nam. Cơ sở cho dự đoán này là nhiều lĩnh vực Việt Nam cam kết: “mở cửa” trong Hiệp định thương mại rất hợp với “gu” đầu tư của các doanh nghiệp Mỹ. Ngay từ những ngày đầu sau khi hiệp định thương mại Việt-Mỹ được ký kết nhiều dự án đầu tư trị giá vài trăm triệu USD đến vài tỷ USD đang được hai bên xúc tiến tích cực. Ngoài ra không thể không kể đến tác động của “hiệu ứng dây chuyền”, đó là việc các doanh nghiệp Mỹ tăng cường đầu tư vào Việt Nam sẽ là tín hiệu “đèn xanh” đối với các doanh nghiệp đầu tư từ các nước khác, làm cho họ vững tin hơn khi đầu tư vào Việt Nam. Nhiều nước mà trước hết là các nước trong khu vực thuộc khối ASEAN, Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan... sẽ gia tăng mạnh đầu tư vào Việt Nam cạnh tranh với các nhà đầu tư Mỹ và qua Việt Nam xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ vào thị trường Mỹ với thuế suất thấp. Không chỉ thế, bản thân các doanh nghiệp trong nước cũng phải tăng mạnh đầu tư (cả chiều rộng và chiều sâu) nhằm tăng cường khả năng cạnh tranh với các nhà đầu tư Mỹ và các nhà đầu tư khác tại Việt Nam. Từ đó, Việt Nam sẽ thu hút được vốn đầu tư trong và ngoài nước cần thiết cho công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá của mình. Cơ hội tăng nhanh xuất khẩu và mở rộng thị trường Mỹ có một nền kinh tế lớn nhất hành tinh, có thị trường rộng lớn, đa dạng. Tỷ lệ tiết kiệm đầu người ở Mỹ thấp thậm chí có lúc âm. Hàng Việt Nam gần đây mới thâm nhập vào thị trường này (sau khi Mỹ bỏ lệnh cấm vận Việt Nam-1994) nhưng còn bị hạn chế vì thuế nhập khẩu quá cao (tính trung bình khoảng 40%; gấp 10 lần so với mức áp dụng cho các quốc gia được hưởng quy chế tối huệ quốc của Mỹ). Sau khi Hiệp định có hiệu lực, thuế nhập khẩu đánh trên hàng hoá và dịch vụ Việt Nam sẽ giảm từ 40% xuống còn 4,9%. Theo dự tính của Ngân hàng thế giới, xuất khẩu của Việt Nam vào Mỹ sẽ tăng lên khoảng 1,6 tỷ $ vào năm 2002; 3 tỷ $ vào năm 2005 và 8 tỷ $ vào năm 2010. Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam sang Hoa Kỳ chủ yếu là nông-lâm-thuỷ sản chế biến; hàng dệt may, giầy dép và dầu thô. Trong đó, những năm gần đây, tỷ trọng xuất khẩu của nhóm hàng giầy dép, dệt may và khoáng sản chiếm hơn 50% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Cơ hội tiếp nhận công nghệ nguồn hiện đại Cho tới nay các công nghệ được đưa vào Việt Nam phần lớn chưa phải là những công nghệ nguồn từ Mỹ hoặc Châu Âu. Hiệp định thương mại Vịêt-Mỹ ra đời, Việt Nam có thể tiếp cận được với tiến bộ công nghệ hiện đại của Mỹ thông qua các dự án đầu tư trực tiếp quan trọng cuả Hoa Kỳ tại Việt Nam hoặc theo phương thức mua bản quyền để hiện đại hoá nền kinh tế và dịch chuyển cơ cấu kinh tế theo chiều hướng có lợi về lâu dài. Tuy chưa hẳn là một ví dụ về tiếp nhận công nghệ nguồn, nhưng với sự có mặt ban đầu của Intell-một công ty lớn trong lĩnh vực công nghệ thông tin chuyên sản xuất các bộ vi xử lý, do một công dân Mỹ gốc Việt Nam làm trưởng đại diện tại Việt Nam- trong thời gian gần đây, chúng ta đã lắp ráp máy tính cá nhân xách tay ở Việt Nam với giá cả rất cạnh tranh so với máy lắp ráp ngay tại Đài Loan. Cơ hội cho sử dụng lao động và đào tạo nhân lực Cùng với những cơ hội trên là khả năng tạo ra công ăn việc làm mới và khả năng đào tạo nguồn nhân lực có nghiệp vụ và tay nghề, góp phần thực hiện những chỉ tiêu về đào tạo nguồn nhân lực theo Nghị quyết Đại hội IX. Chẳng hạn, khi Hiệp định thực thi sẽ tạo cơ hội cho xuất khẩu và do dó tạo điều kiện mở rộng sản xuất, đa dạng hoá ngành nghề, tăng cơ hội việc làm cho thị trường lao động Việt Nam. f. Cơ hội thuận lợi cho việc tham gia WTO và hội nhập kinh tế. Hiệp định thương mại đã được xây dựng trên nền tảng các quy định của WTO nên xét về mặt kỹ thuật, sau khi ký kết hiệp định Việt Nam đã đáp ứng đương nhiên các yêu cầu căn bẳn của tổ chức thưông mại quốc tế (WTO), giảm đi đáng kể các khó khăn trong tiến trình cam kết và thực hiện cam kết để sớm trở thành thành viên WTO; vả lại, Mỹ có vai trò quan trọng trong các tổ chức thế giới như WTO hay IMF, Do đó, khi Việt nam tiến lên được nấc cuối cùng của quá trình bình thường hoá quan hệ với Mỹ thì các quan hệ với các đối tác khác cũng sẽ trở nên suôn sẻ hơn, ít nhất cũng không bị Mỹ cản trở. Vì vậy, có thẻ nói rằng ký kết hiệp định thương mại Việt- Mỹ là bước đi có nghĩa chiến lược và không thể thiếu được của Việt nam trong tiến trình trở thành thành viên của tổ chức WTO.. g. Cơ hội cho cộng đồng người Việt tại Mỹ (hơn 1 triệu người) Việc thực hiện hiệp định sẽ làm cho mối quan hệ Việt-Mỹ tiếp tục được cải thiện và phát triển mọi mặt, mở ra cơ hội phát triển du lịch, văn hoá, giáo dục-đào tạo, giúp Việt Nam khai thác có hiệu quả tiềm năng về vốn và chất xám của lực lượng Việt Kiều đang sống và làm việc tại Mỹ phục vụ công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. h. Một số cơ hội khác: cũng rất quan trọng đối với Việt Nam khi chúng ta thực hiện các cam kết trong hiệp định đó là: + Có điều kiện hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách nhằm tạo dựng một môi trường đầu tư có tính hấp dẫn và cạnh tranh cao so với các nước trong khu vực. + Phát triển một nền kinh tế lành mạnh có cạnh tranh, xoá bỏ các phân biệt đối xử có lợi cho kinh tế quốc doanh, và do đó tạo sân chơi bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Nói tóm lại, thực hiện HĐTM, Việt Nam không những có cơ hội tiếp cận được với một nền kinh tế lớn nhất hành tinh, có thị trường rộng lớn đa dạng và trình độ KHCN tiên tiến, mà còn tiếp cận được với thị trường khu vực và thế giới tiếp cận được với các tổ chức thương maij và các tổ chức tài chính thế giới, từ đó thúc đẩy xuất khẩu, ổn định nền kinh tế từng bước hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Tuy nhiên, HĐTM cũng đặt ra cho doanh nghiệp và bộ máy nhà nước của Việt Nam nhiều thách thức. 2, Những thách thức trong thu hút FDI vào Việt Nam khi Hiệp định có hiệu lực: a, Thách thức đối với bộ máy nhà nước: Hiện nay hệ thống pháp luật, chính sách về ĐTNN của Việt Nam còn thiếu đồng bộ, chưa đủ mức cụ thể, còn nhiều quy định mâu thuẫn chồng chéo, việc thực thi chính sách còn tuỳ tiện, không nhất quán. Một số văn bản pháp luật liên quan đến hoạt động ĐTNN thường xuyên thay đổi, chưa tính đến lợi ích chính đáng của nhà đầu tư. Để có thể thực hiện được HĐTM, Việt Nam cần sửa đổi, bổ sung 24 văn bản trong đó có 8 bộ luật và luật, 4 pháp lệnh; cần ban hành mới 29 văn bản trong đó dự kiến có 4 luật và 11 pháp lệnh; dự kiến huỷ bỏ một quyết định của Thủ tướng chính phủ và 5 quyết định cấp bộ; cần tham gia 5 điều ước quốc tế mới và sửa đổi bảo lưu một điều ước đã ký kết. Lịch trình đối với các Luật và Pháp lệnh theo đề xuất cần làm xong từ năm 2002 đến 2004. Việc đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng và nguồn nhân lực không theo kịp với tốc độ tăng trưởng KTXH. Các dịch vụ cơ sở hạ tầng như viễn thông, giao thông vận tải, điện, nước, xử lý chất thải.... đang ngày càng trở nên quá tải và lạc hậu so với các nước trong khu vực, làm giảm sức hấp dẫn với ĐTNN. Nước ta đang trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ nông nghiệp sang công nghiệp, dịch vụ, lao động nông nghiệp còn chiếm khoảng 80%, sản xuất nông nghiệp còn nghèo nàn lạc hậu, chưa chuyển mạnh sang sản xuất hàng hoá. Hiện tại, Việt nam vẫn còn là một trong số những nước thuộc nhóm nghèo nhất thế giới, Với điểm xuất phát như vậy thì việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế và xây dựng nề kinh tế tri thức để có sự tương đồng với các đối tác sẽ là thách thức và khó khăn không nhỏ đối với Việt nam. b, Thách thức đối với các doanh nghiệp Việt Nam Khi HĐTM có hiệu lực (năm 2003), hàng hoá sản xuất tại Mỹ hay sản xuất theo tiêu chuẩn Mỹ sẽ nhanh chóng tràn ngập thị trường Việt Nam do nguyên chính là các hàng rào bảo hộ đã bị dỡ bỏ. Trong khi đó, Mỹ có thể “nuốt chửng” bất cứ ngành sản xuất nào của Việt Nam chỉ bằng con đường chất lượng sản phẩm, chưa kể đến quy mô khổng lồ của các công ty Mỹ. Một số dự báo cho rằng, khi HĐTM có hiệu lực, khoảng 30%- 40% các loại sản phẩm hiện có của Việt Nam ngay lập tức sẽ trực tiếp mất sức chiến đấu chỉ vì lý do hàng rào ngăn cản bị dỡ bỏ sẽ làm giảm giá bán khoảng 40%-50% so với gía hiện tại. Chỉ riêng mức giá giảm cũng đủ làm cho cuộc chiến không cân sức nhanh chóng kết thúc chưa kể đến chất lượng, mẫu mã và tâm lý chuộng hàng ngoại của người tiêu dùng. Đây thực sự là thách thức lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam. + Các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam cũng sẽ gặp những khó khăn sau: - Về tiêu chuẩn chất lượng: Các mặt hàng công nghiệp Việt Nam xuất khẩu sang các nước công nghiệp phát triển đều phải đạt tiêu chuẩn quốc tế ISO hoặc tiêu chuẩn tương đương của các nước Đức, Mỹ, Nhật Bản. trong khi đó hiện tại, số các doanh nghiệp Việt Nam được cấp công nhận những tiêu chuẩn này còn rất ít. - Các mặt hàng công nghệ, thực phẩm, may mặc, giày dép, mỹ nghệ... của Việt Nam trước đây vào thị trường Mỹ phần lớn là gia công, nay có thể tăng kim ngạch xuất khẩu nhờ nhiều hình thức xuất khẩukhác nhưng sẽ phải cạnh tranh mạnh mẽ với hàng hoá cùng loại của các nước Châu á khác, đặc biệt là Trung quốc và các nước Nam Mỹ. - Để doanh nghiệp và hàng hóa Việt Nam vào được thị trường Mỹ, ngoài việc nắm vững nhu cầu thị trường, các doanh nghiệp Việt Nam phải làm quen với tập quán, tác phong khi đàm phán, ký kết hợp đồng với các nhà kinh doanh Mỹ; phảI tìm hiểu và nắm vững luật pháp, chính sách ngoại thương của Hoa Kỳ. Đây là nước có hệ thống luật pháp, chính sách về thương mại khá rắc rối và phức tạp. c, Thách thức về nhân lực trong rất nhiều lĩnh vực, khoa học công nghệ, luật pháp, kinh doanh, hành chính nhà nước... . Hiện nay, đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật và công nhân lành nghề quá thiếu cả về số lượng và chất lượng. Trong số 44 triệu người lao động, chỉ có khoảng 7,5% được đào tạo với các cấp độ khác nhau, số còn lại không qua đào tạo, chỉ là lao động giản đơn. Ngoài ra, trong số lao động được đào tạo, không ít người làm trái ngành nghề vì lý do này, lý do khác, gây lãng phí trong đào tạo. Mặc dù được đánh giá là có chất lượng cao hơn lao động trong các doanh nghiệp nhà nước nhưng theo kết quả điều tra từ cơ quan quản lý lao động thăm dò ý kiến của 32 doanh nghiệp FDI thì 18 đơn vị (chiếm 56,25%) cho rằng lao động Việt Nam vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của công việc. Cụ thể: + Đối với lao động quản lý thì thiếu kinh nghiệm và kỹ năng cần thiết trong công việc, yếu ngoại ngữ, một số ít chỉ quan tâm tới lợi ích cá nhân nên chưa phát huy được vai trò đại diện chủ sở hữu nhà nước trong doanh nghiệp FDI. + Đối với công nhân chủ yếu do trình độ nghề nghiệp còn thấp, thiếu tác phong làm việc công nghiệp và một số trường hợp do sức khỏe không đảm bảo. Chính vì những hạn chế trên của lực lượng lao động Việt Nam nên cấc doanh nghiệp FDI thường phải bỏ chi phí khá lớn để đào tạo chung cho cả lao động quản lý lẫn công nhân. Mặt khác, việc đào tạo không gắn với yêu cầu thực tế của chủ đầu tư nên chất lượng lao dộng chưa cao. Theo khảo sát tình hình lao động trong khu vực FDI từ 30 tỉnh, thành phố cho thấy: tỷ lệ đại học, trên đại học chiếm 11,6%, tỷ lệ này phản ánh một thực tế là thợ lành nghề, kỹ thuật viên giỏi còn quá ít. Tại nhiều nước, tỷ lệ này chỉ chiếm khoảng 5% đến 7%, còn lạo là thợ lành nghề, công nhân kỹ thuật. Không ít cán bộ trong bộ máy quản lý nhà nước còn tham nhũng, sách nhiễu, tiêu cực trong quá trình thực thi pháp luật đã làm biến dạng các chủ trương, chính sách của nhà nước, làm giảm đi những thuận lợi, khuyến khích đối với nhà đầu tư nước ngoài. III, Một số giải pháp nhằm tăng cường thu hút vốn FDI của Mỹ vào Việt Nam 1, Bài học kinh nghiệm của một số nước trong thu hút FDI của Mỹ: a, Bài học kinh nghiệm của Singapore: Đối với Mỹ, Singapore thực hiện chính sách hợp tác toàn diện, xem đây là phương hướng ưu tiên hàng đầu. Việc tăng cường quan hệ với Mỹ thời kỳ (1965-1990) đã mang lại cho Singapore nhiều lợi thế. Cụ thể: Singapore đã nhận được nguồn viện trợ và đầu tư khổng lồ từ Mỹ: ngoài những khoản viện trợ không hoàn lại (từ 1965-1985) là 20 triệu USD, từ (1970-1985) Mỹ đầu tư trực tiếp vào Singapore 7,9 tỷ USD. Năm 1980 có 557 chi nhánh của các công ty xuyên quốc gia Mỹ hoạt động tại Singapore. Năm 1997, tổng FDI của Mỹ vào Singapore là 17,5 tỷ USD. Đến cuối năm 1999, FDI của Mỹ vào Singapore lên tới 24 tỷ USD, chủ yếu tập trung vào các ngành sản xuất và dịch vụ kỹ thuật công nghệ cao, tăng hơn 5 lần so với đầu những năm 90. Singapore được Mỹ cho hưởng quy chế tối huệ quốc về thương mại trong suốt một thời gian dài. Hiện nay, Singapore là bạn hàng lớn nhất của Mỹ ở Đông Nam á. b, Bài học kinh nghiệm của Trung quốc Trung Quốc cũng có chính sách xem Mỹ là đối tác chiến lược và đã cam kết mở cửa sâu rộng kinh tế với Mỹ. Sau khi ký hiệp định thương mại với Mỹ (năm 1999), FDI vào Trung Quốc đã tăng lên rõ rệt và sẽ còn tăng khi Trung Quốc thực hiện các cam kết đa phương về đầu tư. Ngoài ra, Trung Quốc còn chủ động đẩy mạnh việc xây dựng cơ sở hạ tầng; xây dựng môi trường lập pháp để tiếp nhận dầu tư nước ngoài; Từng bước mở rộng địa bàn để thu hút vốn từ bên ngoài, hình thành nên cục diện mở cửa toàn diện từ Nam lên Bắc, từ đông sang tây, từ ven biển vào nội địa. Trung Quốc thực hiện đa dạng hoá hình thức đầu tư, thi hành chính sách ưu đãi thuế để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt chú ý khuyến khích việc đầu tư của các công ty xuyên quốc gia, các nhà tư bản lớn. Trung Quốc khuyến khích thu hút các TNCs đầu tư vào các dự án sử dụng kỹ thuật cao. Để đạt được điều này, Chính phủ Trung Quốc đã nới lỏng kiểm soát việc thành lập các xí nghiệp 100% vốn nước ngoài và các doanh nghiệp do người nước ngoài diều phối. Trung Quốc cải thiện môi trường đầu tư bằng cách áp dụng các mức giá dịch vụ thống nhất khiến các doanh nghiệp có vốn ĐTNN cùng nhân viên của họ được hưởng mọi quy chế như các doanh nghiệp và công nhân Trung Quốc đối với vấn đề về thị trường; tăng cường hiệu quả làm việc của các cấp chính quyền địa phương thông qua đơn giản hoá các thủ tục phê chuẩn dự án, phục vụ tốt hơn các doanh nghiệp có vốn ĐTNN. c, Bài học kinh nghiệm của ấn Độ Cho phép công ty nước ngoài được tham gia đầu tư tới 51% cổ phần đối với các công trình thuộc 35 lĩnh vực ưu tiên, có thể đầu tư 100% vào các công trình điện và các công trình sản xuất xuất khẩu. Việc xét duyệt dự án đơn giản nhanh chóng; thuế thu nhập công ty đánh vào công ty nước ngoài thấp hơn đối với các công ty của người ấn Độ: 15% so với 45% Công ty nước ngoài được mua bất động sản ở ấn Độ. Các hiệp định chuyển giao công nghệ nước ngoài được khuyến khích với các ngành ưu tiên cao và được hưởng các khoản ưu dãi về thuế. Tham gia ký công ước quốc tế về đảm bảo đầu tư đa phương (MIGA) nhằm thúc đẩy đầu tư nước ngoài Thành lập cục thúc đẩy ĐTNN với chức năng giới thiệu chính sách đầu tư, kêu gọi các công ty nước ngoài đầu tư vào ấn Độ; đàm phán và giải quyết các thủ tục ban đầu trước khi đưa dự án lên xét duyệt. Kết quả mà ấn Độ đạt được trong thu hút FDI của Mỹ cũng rất khả quan: Mỹ đứng đầu trong danh sách các nhà đầu tư nước ngoài vào ấn Độ, trong 538 nhà đầu tư nước ngoài đăng ký với SEBI thì 220 là của Mỹ. Đến 7/2001, FDI của Mỹ vào ấn Độ là 15 tỷ USD, dự tính trong 10 năm nữa con số này sẽ là 25 tỷ USD. Các công ty của Mỹ ở ấn Độ tham gia vào mọi lĩnh vực mở cửa đối với đầu tư tư nhân, từ cơ sở hạ tầng tới sản xuất hàng tiêu dùng, từ công nghệ thông tin tới dịch vụ tư vấn. Không chỉ có vậy, ở một số lĩnh vực mà hợp tác đầu tư Mỹ- ấn Độ còn có thể tiến xa hơn như công nghệ thông tin, năng lượng, công nghệ sinh học,....Các nhà đầu tư Mỹ ngày càng chia sẻ niềm tin của họ đối với tương lai kinh tế, những cải cách trong môi trường đầu tư của - ấn Độ. ảnh hưởng của những cải cách trong quan hệ thương mại và đầu tư với Mỹ đã đưa Mỹ không những là nhà đầu tư lớn nhất mà còn là đối tác thương mại lớn nhất của ấn Độ. d, Bài học kinh ngiệm của Hồng Kông Sớm thi hành chính sách mở cửa kinh tế, tăng cường cải thiện môi trường đầu tư, trong đó cơ sở hạ tầng được xây dựng một cách hoàn thiện, tạo điều kiện cho các nhà ĐTNN đầu tư vào Hồng Kông Chính quyền Hồng Kông cũng thi hành chính sách giảm nhẹ thuế thu nhập đối với các công ty nước ngoài trong các ngành kỹ thuật cao để họ đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu triển khai. Ngay từ đầu chính quyền Hồng Kông đã thi hành các chính sách kích thích cạnh tranh và phát triển các thị trường tài chính ngân hàng. Chính quyền đã cho phép sự tự do tham gia của các ngân hàng nước ngoài, do đó hoạt động ngân hàng đã phát triển nhanh chóng và mang tầm cỡ quốc tế. Năm 1993, Hồng Kông đã bãi bỏ việc kiểm soát ngoại tệ, cho phép tự do chuyển đổi ngoại tệ, mọi đồng tiền đều có thể đổi lấy đồng USD và các ngoại tệ khác. Năm 1995 đầu tư của Mỹ vào Hồng Kông đạt 13 tỷ USD, đến 1996, con số này là 13,8 tỷ USD. Năm 1999, FDI của Mỹ vào Hồng Kông lên tới 20,8tỷ USD (tăng 8% so với năm 1998). Hiện nay Mỹ có 1100 công ty đang hoạt động ở Hồng Kông, các ngân hàng của Mỹ tại Hồng Kông có tổng tài sản là 69 tỷ USD; các nhà đầu tư Mỹ đã giải quyết việc làm cho 250000 lao động Hồng Kông. Không những thế, năm 2000 Hồng Kông còn xuất khẩu được 14,6 tỷ USD sang Mỹ. Như vậy, bí quyết cho những thành công của nền kinh tế Hông Kông đó là nền kinh tế thị trường tự do, không có các hàng rào thương mại, hệ thống pháp luật được thiết lập tốt, mạng lưới thông tin sẵn có và tự do. Không chỉ các nước NIEs, các nước đang phát triển có chính sách ngoại giao riêng với Mỹ nhằm thu hút FDI của “siêu cường” này mà ngay cả nước Nhật- nền kinh tế thứ nhì thế giới, hùng mạnh đến vậy, cũng có một chính sách đặc biệt với Mỹ: cho Mỹ đặt căn cứ quân sự, ủng hộ hết mình các chính sách đối ngoại của Mỹ, người Nhật đã xuất khẩu và đầu tư trực tiếp hàng trăm tỷ $ vào Mỹ. 2, Các giải pháp thu hút FDI của Mỹ vào Việt nam Để thực hiện được những mục tiêu phát triển kinh tế xã hội nêu trên và nhận thức đựợc vai trò quan trọng của vốn FDI Mỹ, trên cơ sở những bài học kinh nghiệm của một số nước, chúng ta có các nhóm giải pháp nhằm thu hút FDI của Mỹ vào Việt nam; Xây dựng danh mục dự án kêu gọi đầu tư trực tiếp nước ngoài. - Xây dựng danh mục dự án quốc gia kêu gọi đầu tư trực tiếp nước ngoài làm cơ sở cho việc vận động xúc tiến đầu tư. Các dự án khi được lựa chọn đưa vào danh mục này phải có sự thống nhất trước về chủ trương và quy hoạch và được bố trí vốn làm dự án tiền khả thi. Các bộ, ngành, địa phương chủ động xây dựng và công bố danh mục dự án kêu gọi đầu tư trực tiếp nước ngoài của ngành, địa phương mình sau khi thống nhất với Bộ kế hoạch và đầu tư. - Các Bộ, ngành xây dựng và điều chỉnh quy hoạch ngành và các sản phẩm chủ yếu phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2001-2010 và kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 2001-2005; xác định rõ nhu cầu vể từng loại nguồn vốn, trong đó có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài để đạt được các mục tiêu, sản phẩm đặt ra trong kế hoạch. 2.2 Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách về đầu tư trực tiếp nước ngoài a, Tiếp tục nghiên cứu xây dựng điều chỉnh, hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan dến đầu tư trực tiếp nước ngoài, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài phát triển theo đúng định hướng của chiến lược phát triển kinh tế-xã hội và phù hợp với yêu cầu chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. b, Nghiên cứu, xây dựng và hoàn thiện các văn bản pháp luật về đầu tư trực tiếp nước ngoài theo hướng: + Thiết lập một mặt bằng pháp lý chung áp dụng cho đầu tư trong nước và đầu tư trực tiếp nước ngoài nhằm tạo lập môi trường ổn định, bình đẳng cho sản xuất và kinh doanh; đồng thời áp dụng một số quy định về điều kiện đầu tư và ưu đãi phù hợp với từng đối tượng, lĩnh vực trong từng thời kỳ. + Đa dạng hoá các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài để khai thác thêm các kênh thu hút đầu tư mới; nghiên cứu và thực hiện thí điểm các hình thức đầu tư như công ty hợp danh, công ty quản lý vốn; giao, bán, khoán, cho thuê doanh nghiệp Nhà nước, theo hướng cho phép nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài mua, nhận khoán kinh doanh, quản lý, thuê các doanh nghiệp trong nước; nghiên cứu mô hình khu kinh tế mở. + Mở rộng lĩnh vực thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài phù hợp với cam kết trong quá trình chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Từng bước mở thị trường bất động sản cho người Việt Nam định cư ở nước ngoài và các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài tham gia đầu tư tại Việt Nam; xây dựng cơ chế để doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài được xây dựng, kinh doanh nhà ở và xây dựng. Kinh doanh phát triển khu đô thị mới; khuyến khích đầu tư trong các lĩnh vực dịch vụ khoa học, công nghệ dịch vụ thông tin, chuyển giao công nghệ , phát triển nguồn nhân lực; từng bước mở rộng khả năng hợp tác đầu tư trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ, du lịch. + Xây dựng quy chế thực hiện thí điểm việc chuyển đổi doanh nghiệp có vốn ĐTNN sang hoạt động theo hình thức công ty cổ phần và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp này được dăng ký tại thị trường chứng khoán. Nghiên cứu sửa đổi các quy định cụ thể về thời hạn đàm phán dự án BOT và quy tắc, thẩm quyền chỉ định nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài làm dự án BOT trong một số trường hợp cần thiết. + Ban hành ngay các văn bản hướng dẫn thực hịên chính sách, quy định về hợp tác đầu tư với nước ngoài trong lĩnh vực giáo dục đào tạo, nghiên cứu khoa học theo Nghị định số 06/2000/NĐ- CP ngày 06/03/2000 của Chính phủ để tăng cường thu hút được những dự án đầu tư có chất lượng và quản lý được hoạt động của các dự án đầu tư trong lĩnh vực này. c. Tiếp tục thực hiện lộ trình giảm chi phí đầu tư và tiến tới chế độ một giá áp dụng thống nhất cho đầu tư trong nước và đầu tư trực tiếp nước ngoài theo quyết định số 53/1999/QĐ-TTg ngày 26 tháng 3 năm 1999 của Thủ tướng Chính phủ. Thống nhất áp dụng phí đăng kiểm phương tiện cơ giới, phí cảng biển, phí quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng, phí tham quan các di tích văn hoá, lịch sử, cách mạng. d. Đổi mới và hoàn thiện chính sách tiền tệ liên quan đến hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài theo hướng tiếp tục giảm dần, tiến tới xoá bỏ việc bắt buộc kết hối ngoại tệ khi có đủ điều kiện. Sử dụng linh hoạt, có hiệu quả các công cụ, chính sách tiền tệ như tỷ giá, lãi suất theo các ngyuên tắc của thị trường có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước. e. Tiếp tục cải cách hệ thống thuế phù hợp tình hình phát triển kinh tế-xã hội của đất nước và cam kết quốc tế theo hướng đơn giản hoá các sắc thuế, từng bước áp dụng hệ thống thuế chung cho cả đầu tư trong nước và đầu tư trực tiếp nước ngoài. Xây dựng chính sách thuế khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài sản xuất phụ tùng, linh kiện, nâng cao tỷ lệ nội địa hoá sản phẩm; cho phép các dự án sản xuất nguyên liệu phụ trợ phục vụ hàng xuất khẩu được hưởng ưu đãi tương tự như các dự án đầu tư sản xuất hàng xuất khẩu. Bảo hộ có thời hạn hợp lý và hiệu quả đối với một số sản phẩm quan trọng. Ban hành chính sách khuyến khích hoạt động của các quỹ đầu tư nước ngoài hoạt động tại Việt Nam; sớm áp dụng quy định về việc kê khai nộp thuế, kết thúc năm tài chính căn cứ vào kết quả kiểm toán độc lập để quyết toán thuế; cơ quan thuế chỉ kiểm tra lại trong một số trường hợp cần thiết. f. Giải quyết kịp thời những khó khăn, vướng mắc về đất đai, giải phóng mặt bằng để đẩy nhanh tiến độ triển khai dự án. Thí điểm việc cho phép tư nhân trong nước đã được cấp quyền sử dụng lâu dài được nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài thuê lại đất trong thời hạn được cấp quyền sử dụng. Nghiên cứu cách giải quyết yêu cầu cuả doanh nghiệp nước ngoài đầu tư thực hiện dự án lớn ở Việt Nam cần thế chấp giá trị quyền sử dụng đất đã được giao hoặc cho thuê dài hạn để vay vốn của các tổ chức tín dụng hoạt động ở nước ngoài trong trường hợp tín dụng ở Việt Nam không có khả năng đáp ứng nhu cầu vốn. Đẩy nhanh tiến độ đền bù, giải phóng mặt bằng, tạo thuận lợi cho việc triển khai các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài. Uỷ ban nhân dân địa phương kiên quyết tổ chức cưỡng chế thực hiện giải phóng mặt bằng các trường hợp đã bị đối xử theo đúng chính sách và quy định của Nhà nước nhưng vẫn không chấp hành. Ban hành văn bản hướng dẫn về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các doanh nghiệp hoạt động trong Khu công nghiệp, Khu chế xuất. Ban hành văn bản hướng dẫn việc xử lý trách nhiệm và nghĩa vụ của các bên đối với đất góp vốn vào liên doanh trong trường hợp doanh nghiệp chuyển đổi hình thức đầu tư, bị phá sản hoặc giải thể trước thời hạn. 2.3, Nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước a. Các cơ quan cấp Giấy phép đầu tư phải thường xuyên rà soát, phân loại các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài đã được cấp giấy phép đầu tư để có những biện pháp thích hợp, kịp thời tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài. Đối với các doanh nghiệp đã đi vào sản xuất, kinh doanh, các Bộ, ngành và Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, trong phạm vi thẩm quyền của mình, cần động viên khen thưởng kịp thời để khuyến khích các doanh nghiệp hoạt động tốt tiếp tục phát triển, đồng thời cần có biện pháp thích hợp để tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp, đặc biệt là các vấn đề liên quan đến thị trường tiêu thụ sản phẩm, các nghĩa vụ thuế. Đối với các dự án đang triển khai thực hiện, các Bộ, ngành và Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh tích cực hỗ trợ doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn, nhất là trong khâu đền bù, giải phóng mặt bằng để nhanh chóng hoàn thành xây dựng cơ bản, đưa doanh nghiệp vào sản xuất, kinh doanh. Đối với các dự án chưa triển khai, song xét thấy vẫn còn có khả năng thực hiện, cần thúc đẩy việc triển khai trong một thời gian nhất định và giải quyết các vướng mắc, kể cả việc điều chỉnh mục tiêu và quy mô hoạt động của dự án. Đối với các dự án chưa triển khai và không có triển vọng thực hiện, kiên quyết thu hồi giấy phép đầu tư, dành địa điểm cho các nhà đầu tư khác. b. Tiếp tục thực hịện chủ trương phân cấp quản lý Nhà nước về đầu tư trực tiếp nước ngoài cho Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh trên cơ sở đảm bảo nguyên tắc tập trung, thống nhất quản lý về quy hoạch, cơ cấu, chính sách và cơ chế; trong đó chú trọng phân cấp quản lý Nhà nước đối với hoạt động sau giấy phép của các dự án có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài; tăng cường sự hướng dẫn, kiểm tra của các Bộ ngành TW. Có cơ chế xử lý nghiêm khắc các trường hợp vi phạm pháp luật, chính sách, quy hoạch trong việc thực hiện chủ trương phân cấp quản lý Nhà nước về đầu tư trực tiếp nước ngoài; kể cả việc chấm dứt hiệu lực của các Giấy phép đầu tư sai quy định. 2.4. Cải tiến các thủ tục hành chính theo hướng một cửa để tạo thuận lợi cho hoạt động ĐTNN - Đẩy mạnh cải cách hành chính liên quan đến hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài. Nghiên cứu xây dựng cơ chế quản lý và tổ chức quản lý theo hướng một cửa, một đầu mối ở TW và ở địa phương để tạo thuận lợi cho hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài. Để tạo bước chuyển căn bản về thủ tục hành chính, cần thực hiện các giải pháp sau: - Tăng cường phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan quản lý Nhà nước ở TW và địa phương trong quản lý hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài; phân định rõ quyền hạn, trách nhiệm của từng cơ quan trong việc giải quyết các vấn đề phát sinh; thực hiện chế độ giao ban định kỳ giữa các Bộ, ngành TW với các địa phương có nhiều dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài; duy trì thường xuyên việc tiếp xúc trực tiếp giữa các cơ quan quản lý Nhà nước với nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài. - Cải tiến mạnh thủ tục hành chính liên quan đến các hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài theo hướng tiếp tục đơn giản hoá việc cấp phép đầu tư, mở rộng phạm vi các dự án thuộc diện đăng ký cấp phép đầu tư. Lập tổ công tác liên ngành do Bộ kế hoạch và đầu tư chủ trì để rà soát có hệ thống tất cả các loại giấy phép, các quy định liên quan đến hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài, trên cơ sở đó có kiến nghị bãi bỏ những loại giấy phép, quy định không cần thiết đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài. - Các Bộ, ngành, địa phương quy định rõ ràng, công khai các thủ tục hành chính, đơn giản hoá và giảm bớt các thủ tục không cần thiết; kiên quyết xử lý nghiêm khắc các trường hợp sách nhiễu, cửa quyền, tiêu cực và vô trách nhiệm của cán bộ công quyền. 2.5. Đẩy mạnh vận động, xúc tiến đầu tư a. Đổi mới về nội dung và phương thức vận động, xúc tiến đầu tư. Triển khai các chương trình xúc tiến đầu tư theo ngành, lĩnh vực, địa bàn với các dự án và đối tác cụ thể, hướng vào các đối tác nước ngoài có tiềm lực về tài chính và công nghệ nguồn. Căn cứ vào danh mục dự án quốc gia kêu gọi đầu tư trực tiếp nước ngoài, chuẩn bị kỹ một số dự án đầu tư quan trọng, lựa chọn, mời trực tiếp một vài tập đoàn lớn trong ngành, lĩnh vực đó vào để đàm phán, tham gia đầu tư vào các dự án. b. Chú trọng cả xúc tiến đầu tư để thu hút các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài và các hoạt động hỗ trợ các nhà đầu tư để triển khai hiệu quả các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài đang hoạt động. Giải quyết kịp thời các khó khăn, vướng mắc để các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài hoạt động thuận lợi. Biểu dương, khen thưởng kịp thời các doanh nghiệp, nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài có thành tích xuất sắc trong kinh doanh, có đóng góp thiết thực vào xây dựng đất nước. Đồng thời phê phán, xử lý nghiêm những trường hợp vi phạm pháp luật Việt Nam. - Đa dạng hoá các hoạt động xúc tiến đầu tư thông qua các hoạt động đối ngoại của lãnh đạo Đảng và Nhà nước, các diễn đàn quốc tế, các hoạt động hợp tác xúc tiến đầu tư trong khuôn khổ hợp tác AIA, ASEAN, APEC, ASEM, các cuộc hội thảo về đầu tư ở trong và ngoài nước; sử dụng tổng hợp các phương tiện xúc tiến đầu tư qua truyền thông đại chúng, mạng Internet, tiếp xúc trực tiếp... - Đẩy mạnh việc tuyên truyền giới thiệu về hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài để tạo dựng hình ảnh mới về Việt Nam; tạo sự đánh giá thống nhất về đầu tư trực tiếp nước ngoài trong dư luận xã hội. - Các cơ quan đại diện ngoại giao-thương mại Việt Nam có trách nhiệm làm tốt việc vận động xúc tiến đầu tư vào Việt Nam, bố trí cán bộ làm công tác xúc tiến đầu tư ở một số địa bàn trọng điểm. Tăng cường cán bộ làm công tác xúc tiến đầu tư ở các Bộ, ngành, địa phương. - Bố trí nguồn tài chính cho hoạt động xúc tiến đầu tư trong kinh phí ngân sách chi thường xuyên hàng năm của các Bộ, ngành, địa phương. -Tăng cường công tác nghiên cứu tình hình kinh tế, thị trường đầu tư, chính sách đầu tư ra nước ngoài của các nước, các tạp đoàn và công ty lớn để có chính sách thu hút đầu tư phù hợp; nghiên cứu luật pháp, chính sách, biện pháp thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của các nước trong khu vực để kịp thời có đối sách thích hợp. - Xây dựng, hoàn thiện hệ thống thông tin về đầu tư trực tiếp nước ngoài làm cơ sở cho việc hoạch định chính sách, quản lý hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài, mở rộng tuyên truyền đối ngoại trên cơ sở sử dụng thông tin hiện đại. Xây dựng và đưa vào hoạt động trang web về đầu tư trực tiếp nước ngoài để phục vụ việc cung cấp thông tin cập nhật về chủ trương, chính sách pháp luật về đầu tư, giới thiệu các dự án kêu gọi đầu tư, biểu dương những dự án thành công,... 2.6. Tiếp tục đẩy mạnh công tác cán bộ và đào tạo - Chú trọng tăng cường công tác cán bộ và đào tạo cán bộ, công nhân ký thuật làm việc trong khu vực kinh tế có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. - Nhà nước thống nhất quản lý đội ngũ cán bộ Việt nam làm việc trong các doanh nghiệp có vốn ĐTNN thông qua cơ chế tuyển chọn, đào tạo, giới thiệu vào làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Có cơ chế, chính sách để thu hút đội ngũ cán bộ làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trở lại phục vụ doanh nghiệp nhà nước. - Đổi mới, bổ sung chương trình đào tạo đội ngũ cán bộ kỹ thuật, quản lý tại các trường đại học, cao đẳng phù hợp với yêu cầu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nhằm giảm chi phí đào tạo lại cho các doanh nghiệp. Cho phép thành lập các trường đào tạo công nhân bên cạnh các khu công nghiệp để kịp thời đáp ứng nhu cầu về công nhân kỹ thuật của các doanh nghiệp trong các khu này. -Sớm ban hành các văn bản quy định và hướng dẫn hoạt động của các tổ chức Đảng, Công đoàn, Đoàn thanh niên tại các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. 2.7, Đầu tư thích đáng cho việc phát triển cơ sở hạ tầng Nhà nước phải thực sự đảm bảo cơ sở hạ tầng đến chân hàng rào doanh nghiệp có vốn ĐTNN và thực hiện việc điều tiết, định hướng thu hút ĐTNN bằng việc tăng cường đầu tư phát triển hạ tầng kinh tế xã hội tại các vùng lãnh thổ và các công cụ kinh tế vĩ mô khác. Có chính sách khuyến khích hơn nữa mọi thành phần kinh tế đầu tư vào phát triển cơ sở hạ tầng. Sửa đổi các quy định liên quan đến đẩy nhanh việc hình thành và phát triển các dự án BOT. Đối với các khu công nghiệp, nhà nước cần có cơ chế hợp lý hỗ trợ phát triển cơ sở hạ tầng khu công nghiệp, coi đây là một bộ phận trong hệ thống cơ sở hạ tầng chung của đất nước, tạo điều kiện giảm chi phí thuê đất, phí hạ tầng cho doanh nghiệp trong khu công nghiệp. Nằm trong nhóm các biện pháp thu hút FDI vào Việt Nam, để tăng cường thu hút vốn FDI của Mỹ vào Việt Nam, ngoài những nhóm biện pháp chung trên, chúng ta cần có những chính sách riêng đối với dòng FDI của Mỹ: Thứ nhất, Xây dựng và phát triển các đối tác đầu tư trong nước thích hợp trong quan hệ kinh tế với các TNCs Mỹ. Đối tác đầu tư trong nước có năng lực và biết làm ăn với nước ngoài không chỉ là một nhân tố hấp dẫn đối với các TNCs Mỹ mà còn giúp thu hút thêm được vốn nước ngoài, mở rộng dự án đầu tư, không bị chèn ép bởi phía nước ngoài. Kinh nghiệm cho thấy, các TNC Mỹ muốn vào đầu tư kinh doanh ở một nước nào đó, ngoài việc tìm hiểu thị trường, tình hình chính trị-xã hội, họ còn rất quan tâm đến tìm đối tác đầu tư. Để tạo lập được các đối tác trong nước thực hiện liên doanh, hợp tác đầu tư với các TNCs Mỹ một cách hiệu quả, nhà nước cần có chính sách khuyến khích, hỗ trợ, giúp đỡ để củng cố và phát triển các doanh nghiệp chủ lực, xây dựng các tập đoàn kinh tế mạnh, khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển. Cùng với sự giúp đỡ của nhà nước, các doanh nghiệp phải có sự nỗ lực cao, phấn đấu vươn lên, không trong chờ ỷ lại vào sự hỗ trợ giúp đỡ của nhà nước. Sự nỗ lực này phải được thể hiện bằng ý chí, quyết tâm đổi mới cơ chế tổ chức quản lý tự chủ, năng động, sáng tạo trong hoạt động kinh doanh để trở thành những đối tác tương xứng, liên doanh có hiệu quả với các TNC Mỹ. Thứ hai, tăng cường công tác thông tin, tư vấn, tận dụng thành quả của cuộc cách mạng khoa học công nghệ trên thế giới, cập nhật thông tin, nắm chắc tình hình hoạt động của các TNCs Mỹ muốn làm ăn với Việt Nam, kịp thời nắm bắt tình hình đầu tư trên phạm vi của cả nước để có những quyết định quản lý kịp thời thống nhất. Thứ ba, trong vấn đề hợp tác với các TNC Mỹ, chúng ta cần biết các đặc điểm của các nhà kinh doanh Mỹ, nhất là các tác phong và nguyên tắc kinh doanh của họ để có đối sách đối ứng thích ứng; Nhìn chung các nhà kinh doanh Mỹ đều rất năng động hoạt bát, nhanh nhẹn và quyết đoán trong kinh doanh, hơn nữa hầu hết họ đều có chiến lược kinh doanh dài hạn. Do đó, Việt nam cần thay đổi tác phong làm việc của mình để một mặt thích ứng với cung cách làm ăn của họ, một mặt cần giữ được những bản sắc của người Việt nam, luôn ý thức vươn lên học hỏi, tránh chịu sự phụ thuộc và chi phối của họ. Thứ tư, chúng ta cần chú ý tới các ngành mà Mỹ có thế mạnh, thường phát triển đầu tư ra nước ngoài hơn cả như dầu khí, chế tạo máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải, xây dựng, cơ sở hạ tầng,... qua đó có chính sách thu hút vốn và chuyển giao công nghệ phù hợp. Chúng ta cũng cần ý thức được mức độ công nghệ ở mỗi ngành trong thực tế Việt Nam, vì một số các công nghệ là lạc hậu với Mỹ, nhưng lại hiện đại với Việt Nam. Thứ năm, xây dựng chính sách ưu đãi đặc biệt đối với những dự án đầu tư có vai trò quan trọng phát triển khoa học công nghệ, kinh tế tri thức, công nghệ cao và công nghệ nguồn của Mỹ. Thứ sáu, Có biện pháp chủ động trong việc tiếp nhận đầu tư của Mỹ sau khi Hiệp định thương mại Việt- Mỹ có hiệu lực. Khi hiệp định này được thực thi sẽ mở đường cho việc mở cửa thị trường Việt nam một cách sâu rộng, một cơ hội cho các nhà đầu tư Mỹ vào Việt nam. Trên đây là một số giải pháp nhằm tăng cường thu hút FDI của Mỹ vào Việt nam. Tuy nhiên, dòng vốn FDI không chỉ phụ thuộc vào các chính sách của Việt nam mà còn phụ thuộc vào chính sách đầu tư ra nước ngoài của Mỹ nói chung và đầu tư vào Việt nam nói riêng. Kết luận Bước vào thế kỷ 21, Việt Nam đang đứng trước một giai đoạn phát triển mới, giai đoạn CNH - HĐH, trong khuôn khổ của nền kinh tế mở và hội nhập, một nhiệm vụ trung tâm đặt ra và cũng đồng thời là thách thức phát triển lớn nhất là nền kinh tế phải đạt được sự tăng trưởng liên tục và bền vững. Để đạt được mục tiêu này, cùng với dà phát huy tối đa các nguồn nội lực, FDI tiếp tục đóng vai tò quan trọng trong thu hẹp khoảng cách giữa nhu cầu vốn đầu tư cho phát triển kinh tế và tích luỹ của đất nước. Qua việc phân tích thực trạng dòng FDI của Mỹ vào Việt Nam trong thời gian qua; đánh giá những kết quả mà các dự án FDI Mỹ tại Việt Nam đạt được cũng như những hạn chế, vướng mắc còn tồn tại; thấy rõ tầm quan trọng của vốn FDI Mỹ và ý nghĩa của việc ký kết Hiệp dịnh Thương mại Việt Nam- Hoa Kỳ; cùng với việc thường xuyên tổng kết kinh nghiệm từ thực tiễn cũng như học tập sáng tạo bài học kinh nghiệm của các nước khác trong thu hút FDI, đề tài: ”Tăng cường thu hút nguồn vốn FDI của Mỹ vào Việt Nam” như góp một phần nhỏ trong phát triển quan hệ đầu tư Việt Nam- Hoa Kỳ, đúng theo định hướng thu hút vốn đầu tư từ Mỹ và các nước Bắc Mỹ khác của Chính phủ Việt Nam. Tuy nhiên, để thu hút FDI của Mỹ cũng như FDI của các nhà đầu tư nước ngoài khác được toàn diện, lâu dài, bền vững đòi hỏi sự cố gắng nỗ lực của Chính phủ, các cấp, các ngành trong việc thực hiện các đề xuất, nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và không ngừng cải thiện môi trường đầu tư và kinh doanh tại Việt Nam. Mục lục Tài liệu tham khảo Giáo trình ”Kinh tế Đầu tư”, NXB Giáo dục, 1998 Phùng Xuân Nhạ, “Đầu tư Quốc tế”, NXB ĐH Quốc gia Hà Nội, 2001 Tô Xuân Dân, “Chính sách kinh tế đối ngoại - Lý thuyết và kinh nghiệm quốc tế”, NXB Thống kê, 1998. “Chủ nghĩa tư bản hiện đại”, NXB Chính trị Quốc gia, Viện Kinh tế Thế giới. “Môi trường đầu tư nước ngoài ở Việt Nam - Con đường đi tới khu đầu tư ASEAN” - Nhóm nghiên cứu của Viện Chiến lược – Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Th.s Tống Quốc Đạt, “ Đặc điểm FDI của Mỹ vào Việt Nam”, Tạp chí Kinh tế và Phát triển, số 10/2001. T.s Đinh Quý Đô, “ASEAN và Việt Nam trong chính sách kinh tế Mỹ”, Tạp chí Kinh tế Châu á - Thái Bình Dương, số 3(28). Nguyễn Minh Long – Nguyễn Anh Thư, “Hoạt động của các công ty xuyên quốc gia Mỹ tại Việt Nam”, Tạp chí Châu Mỹ ngày nay, số 6/2001. Nguyễn Tuấn Minh. “Quan hệ kinh tế Việt Nam - Hoa Kỳ”, Tạp chí Tài chính, số 12/2000. Th.s Ngô Công Thành, “Hiệp định Thương mại Việt – Mỹ: Cơ hội và thách thức đối với việc thu hút FDI vào Việt Nam”, Tạp chí Kinh tế và Phát triển, số 11/ 2001. T.s Phạm Thị Thi, “Đầu tư của Mỹ vào Việt Nam”, Tạp chí Châu Mỹ ngày nay, số 5/2001. “Triển vọng FDI của Mỹ vào Việt Nam”. Tạp chí Thị trường giá cả và dự báo, số 6/2001.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docC0077.doc
Tài liệu liên quan