Đề tài Thất nghiệp và những giải pháp tìm kiếm việc làm

Thất nghiệp là một hiện tượng kinh tế xã hội tồn tại một cách khách quan và gây ra những hậu quả xấu ngăn cản sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế. Vì vậy, vấn đề giải quyết thất nghiệp là vấn đề cấp bách hơn bao giờ hết, giảm bớt thất nghiệp không những tạo điều kiện để phát triển kinh tế mà còn thúc đẩy ổn định xã hội. Một xã hội có nền kinh tế phát triển tỷ lệ thất nghiệp thấp thì tệ nạn xã hội sẽ bị đẩy lùi, đời sống nhân dân được nâng cao.

doc23 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1439 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thất nghiệp và những giải pháp tìm kiếm việc làm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phần mở đầu Đất nước ta đang trên con đường đi lên chủ nghĩa XH, chúng ta đang từng bước đổi mới, tinh hình kinh tế XH, nhằm nâng cao đời sống vật chất tinh thần của nhân dân. Kinh tế học vĩ mô đã vạch rõ những hình thái đó thể hiện ở những vấn đề thất nghiệp, việc làm..Tuy nhiên, vấn đề thất nghiệp và các chính sách giải quyết việc làm đang là vấn đề nóng bỏng và không kém phần bức bách đang được toàn xã hội đặc biệt quan tâm. Khi tỷ lệ thất nghiệp cao thì tài nguyên bị lãng phí, thu nhập của người dân bị giảm sút về mặt KT, mức tỷ lệ thất nghiệp cao đi liền với tỷ lệ sản lượng bị bỏ đi hoặc không sản xuất. Về mặt xã hội, thất nghiệp gây ra những tổn thất về người, xã hội, tâm lý nặng nề. Mặc dù thất nghiệp gây ra những hậu quả xấu đối với xã hội nhưng đòi hỏi một xã hội không có thất nghiệp là vấn đề rất khó khăn mà các chính sách, các biện pháp của chính phủ nhằm mục đích giảm tỷ lệ thất nghiệp xuống đúng bằng thất nghiệp tự nhiên. Tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên được áp dụng ở mỗi quốc gia khác nhau, có thể không bằng nhau như ở Mỹ tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên là 5à6%, Nhật tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên là 3à4%. Đối với nước ta là một nước có dân số đông thì vấn đề việc làm cho người lao động đang gặp rất nhiều khó khăn, đặc biệt là những vùng ở nông thôn việc giải quyết việc làm đang là vấn đề bức xúc của toàn XH. Trong bài viết này em muốn làm rõ thêm vấn đề “Thất nghiệp và những giải pháp tìm kiếm việc làm “. Do tầm hiểu biết và thời gian có hạn nên bài viết không tránh khỏi những sai xót, nên em mong thầy giáo hướng dẫn và bổ sung thêm để bài viết của em có thể thực hiện tốt. Em xin chân thành cảm ơn, thầy giáo Phạm Quang Vinh đã giúp em hoàn thành bài viết này. Nội dung Chương I: Một số lý thuyết chung về Việc làm - Thất nghiệp 1.1. Các khái niệm về vấn đề thất nghiệp. Trong thực tế, không phải mọi người đều muốn có việc làm. Vì vậy không thể nói rằng những người không có việc làm đều là những người thất nghiệp. Để có cơ sở xác định thất nghiệp chúng ta cần phải phân biệt một số khái niệm sau: - Lực lượng lao động là số người trong độ tuổi lao động đang có hoặc chưa có việc làm nhưng đang tìm kiếm việc làm - Những người trong độ tuổi lao động là những người ở độ tuổi có nghĩa vụ và quyền lợi lao động theo quy định đã ghi trong Hiến pháp. - Người có việc là những người đang làm trong các cơ sở kinh tế,văn hoá, xã hội, trong lực lượng vũ trang và các cơ quan nhà nước... - Người thất nghiệp là những người hiện chưa có việc nhưng mong muốn và đang tìm kiếm việc làm. - Ngoài những người có việc làm và thất nghiệp, nhưng còn lại trong độ tuổi lao động được coi là những người không nằm trong lực lượng lao động, bao gồm những người về hưu, đi học, nội trợ gia đình, những người không có khả năng lao động, đau ốm, tàn tật...và một bộ phận không muốn tìm việc làm với những lý do khác nhau. 1.2. Tỷ lệ thất nghiệp. - Tỷ lệ thất nghiệp là phần trăm (%) số người thất nghiệp so với tổng số người trong lực lượng lao động. - Tỷ lệ thất nghiệp là một chỉ tiêu phản ánh khái quát chung thất nghiệp của một quốc gia. Cũng vì thết mà có những quan điểm khác nhau về nội dung và phương pháp tính toán để có khả năng biểu thị đúng và đầy đủ đặc điểm nhiều vẻ của tình trạng thất nghiệp thực tế, đặt biệt là ở những nước đang phát triển. Việc đưa ra các giải pháp nhằm hạ thấp tỷ lệ thất nghiệp là mối quan tâm của mọi quốc gia, mọi xã hội. 1.3. Các loại thất nghiệp. 1.3.1. Phân theo loại hình thất nghiệp. Một trong những vấn đề mà các nhà quản lý rất quan tâm là con số người thất nghiệp tập trung ở đâu, bộ phận dân cư nào, ngành nghề nào.. Cần phải biết những điều đó để hiểu rõ đặc điểm, tính chất, mức độ tác hại..của thất nghiệp. Trong thực tế, căn cứ vào tình trạng phân bố thất nghiệp trong dân cư có các dạng sau: Thất nghiệp chia theo giới tính ( Nam, nữ ). Thất nghiệp chia theo lứa tuổi ( Tuổi, nghề ). Thất nghiệp chia theo vùng, lãnh thổ ( Thành thị - Nông thôn). Thất nghiệp chia theo ngành nghề (Ngành sản xuất, dịch vụ..). Thất nghiệp chia theo dân tộc, chủng tộc. Thông thường trong xã hội, tỷ lệ thất nghiệp đối với nữ giới cao hơn nam giới, tỷ lệ thất nghiệp ở những người đủ trẻ tuổi cao hơn so với người có tuổi với tay nghề và kinh nghiệm lâu năm..Việc nắm được con số này sẽ giúp cho nhà lãnh đạo vạch ra những chính sách thích hợp để có thể sử dụng tốt hơn lực lượng lao động dư thừa trong từng loại hình thất nghiệp cụ thể. 1.3.2. Phân loại lý do thất nghiệp. Có thể chia làm 4 loại như sau: - Bỏ việc: Một số người tự nguyện bỏ việc hiện tại của mình vì những lý do khác nhau, như cho rằng lương thấp, điều kiện làm việc không thích hợp... - Mất việc: Một số người bị sa thải hoặc trở nên dư thừa do những khó khăn của hãng đang kinh doanh. - Mới vào: Là những người lần đầu bổ sung vào lực lượng lao động nhưng chưa tìm được việc làm (thanh niên đến tuổi lao động đang tìm việc, sinh viên tốt nghiệp đang chờ công tác..). - Quay lại: Là những người từng có việc làm, sau đấy thôi việc và thậm chí không đăng ký thất nghiệp, nay muốn quay lại làm việc nhưng chưa tìm được việc làm. Kết cục những người thất nghiệp không phải là vĩnh viễn. Người ta ra khỏi đội quân thất nghiệp theo các hướng ngược lại. Một số tìm được việc làm, một số khác từ bỏ việc tìm kiếm công việc và hoàn toàn rút ra khỏi con số lực lượng lao động. Mặc dù trong nhóm rút lui hoàn toàn này không phù hợp so với yêu cầu của thị trường lao động, nhưng đa phần trong số họ không hứng thú làm việc, những người chán nản về triển vọng có thể tìm được việc làm và quyết định không làm việc nữa. Như vậy, con số người thất nghiệp không phải là con số cố định mà là con số mang tính thời điểm. Nó luôn biến đổi không ngừng theo thời gian. Thất nghiệp là một quá trình vận động từ có việc, mới trưởng thành trở nên thất nghiệp rồi ra khỏi trạng thái đó. Vì thế, việc nghiên cứu dòng lưu chuyển thất nghiệp là rất có ý nghĩa. Giống như một bể nước, khi dòng vào (số thất nghiệp) lớn hơn dòng ra (số người tìm được một công việc mới) thì quy mô thất nghiệp sẽ giảm xuống. Khi dòng thất nghiệp cân bằng thì quy mô thất nghiệp sẽ không đổi, tỷ lệ thất nghiệp tương đối ổn định. Dòng thất nghiệp nói trên đồng thời cũng phản ánh sự vận động hoặc những biến động của các thị trường lao động. Quy mô thất nghiệp còn gắn với khoảng thời gian thất nghiệp trung bình. Trong một đợt thất nghiệp, mỗi một người có một thời gian thất nghiệp liên tục nhất định. Độ dài thời gian này có sự khác nhau giữa các nguyên nhân. Khoảng thời gian trung bình là độ dài bình quân thời gian mất. 1.3.3. Phân loại theo nguồn gốc thất nghiệp. Việc tìm hiểu nguồn gốc thất nghiệp có ý nghĩa phân tích sâu sắc về thực trạng thất nghiệp, từ đó tìm ra hướng giải quyết. * Thất nghiệp tạm thời. Thất nghiệp tạm thời xảy ra khi có một số người lao động đang trong thời gian tìm kiếm công việc hoặc nơi làm tốt hơn, phù hợp với ý muốn riêng (lương cao hơn, điều kiện làm việc tốt hơn..) hoặc những người bước vào thị trường lao động hoặc đang tìm kiếm việc làm hoặc đang chờ đợi đi làm..Mọi xã hội trong bất kỳ thời điểm nào cũng tồn tại loại hình thất nghiệp này. * Thất nghiệp cơ cấu: Loại thất nghiệp cơ cấu xảy ra khi mức cầu chung về lao động giảm xuống. Nguyên nhân chính là suy giảm tổng cầu, loại này còn được gọi là thất nghiệp chu kỳ bởi ở các nền kinh tế thị trường nó gắn liền với thời kỳ suy thoái của chu kỳ kinh doanh. Dấu hiệu chứng tỏ sự xuất hiện của loại này là tình trạng thất nghiệp xảy ra tràn lan ở khắp mọi nơi, mọi ngành nghề. Đây là thất nghiệp theo lý thuyết của Keynes khi tổng cầu giảm mà tiền lương và giá cả chưa kịp điều chỉnh để phục hồi mức hữu nghiệp toàn phần. Tổng cầu thiếu vì nó thấp hơn so với tổng cầu trong tình trạng hữu nghiệp toàn phần. Chúng ta biết rằng khi tiền lương và giá cả được điều chỉnh theo mức cân bằng dài hạn mới thì một mức giảm sút tổng cầu sẽ làm cho sản lượng và mức hữu nghiệp thấp hơn. Một số công nhân muốn làm việc tại mức lương thực tế hiện hành nhưng không thể tìm được việc làm. * Thất nghiệp do yếu tố ngoài thị trường Loại hình thất nghiệp này còn được gọi là thất nghiệp theo lý thuyết cổ điển. Nó xảy ra khi tiền lương được ấn định bởi các yếu tố thị trường ở mức cao hơn mức cân bằng thực tế của thị trường lao động. Vì tiền lương không chỉ quan hệ đến sự phân bố thu nhập gắn liền với kết quả đến lao động mà còn quan hệ đến mức sống tối thiểu nên nhiều quốc gia (chính phủ hoặc công đoàn) do có quy định cứng nhắc về mức lương tối thiểu, hạn chế sự linh hoạt của tiền lương (ngược lại với sự năng động của thị trường lao động) dẫn đến một bộ phận lao động mất việc làm. Các phân tích hiện tại về thất nghiệp cũng sử dụng các dạng thất nghiệp này nhưng phân loại chúng hơi khác nhau một chút để làm sáng tỏ các khía cạnh hành vi và hậu quả của chúng đối với chính sách của chính phủ. Các phân tích hiện tại nhấn mạnh về sự khác nhau giữa thất nghiệp tự nguyện và thất nghiệp không tự nguyện. 1.4. Tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên và các nhân tố ảnh hưởng đến thất nghiệp tự nhiên 1.4.1. Tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên W2 AH LF B C W* E LD N2 N* N1 số lượng công nhân Hình 1 Hình 1 trên đây trình bày về thị trường lao động, đường cầu về lao động LD dốc xuống cho thấy rằng các hãng sẽ thuê nhiều nhân công hơn khi tiền lương thực tế thấp hơn. Đồ thị LF cho biết có bao nhiêu người muốn tham gia lực lượng lao động tại mỗi mức lương thực tế. Chúng ta giả thiết rằng một mức gia tăng tiền lương thực tế sẽ làm tăng số người muốn làm việc. Đồ thị AH cho biết có bao nhiêu người chấp nhận công việc sẵn có tại mỗi mức lương thực tế. Đồ thị này nằm bên trái LF vì luôn có một số người nằm trong giai đoạn chuyển công việc tại thời điểm nào vừa vì một mức lương lao động mặc dù họ chỉ chấp nhận làm việc nếu họ tìm ra được việc mang lại mức lương cao hơn một số ít so với mức lương trung bình. Cân bằng thị trường lao động xảy ra tại điểm E. Mức hữu nghiệp N* là mức cân bằng hay là mức hữu nghiệp toàn phần. Khoảng cách EF gọi là tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên. Tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên là tỷ lệ thất nghiệp khi thị trường lao động cân bằng. Con số thất nghiệp này là hoàn toàn tự nguyện. Tại mức tiền lương cân bằng thực tế W* có N1 người muốn ở trong lực lượng lao động nhưng chỉ có N* người chấp nhận công việc tại mức lương cân bằng thực tế. Có thể nói thất nghiệp tự nguyện bao gồm số người thất nghiệp tạm thời và số người thất nghiệp cơ cấu vì đó là những người chưa sẵn sàng làm việc với mức lương tương ứng, còn đang tìm kiếm những cơ hội tốt hơn. Nếu xã hội có chế độ quy định mức lương tối thiểu, giả sử W2 cao hơn mức lương cân bằng của thị trường lao động (W*). ở mức lương W2 cung lao động sẵn sàng chấp nhận việc làm (AH) sẽ lớn hơn cầu lao động đoạn AB trên khi vẽ biểu thị sự chênh lệch này. Tổng con số thất nghiệp bây giờ được xác định bằng đoạn AC. Với tư cách cá nhân, một số AB công nhân vẫn muốn làm việc tại mức lương W2 nhưng không thể tìm được việc làm vì các hãng chỉ cần số công nhân tại mức của điểm A về cá nhân nàybị thất nghiệp một cách không tự nguyện. Một công nhân gọi là thất nghiệp không tự nguyện nếu họ vẫn muốn làm việc ở mức lương hiện hành. Tuy nhiên thông qua công đoàn các công nhân đã quyết định theo tập thể cho mức lương W2 lớn hơn so với mức cân bằng do vậy làm giảm mức hữu nghiệp. Vì vậy đối với công nhân nói chung, chúng ta phải coi con số thất nghiệp trên như là tự nguyện. Do đó chúng ta cũng tính thất nghiệp theo thuyết cổ điển và con số của tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên. Nếu trong dài hạn công đoàn duy trì mức tiền lương W2 thì nền kinh tế sẽ vẫn tồn tại ở điểm A và AC là tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên. Thất nghiệp do thiếu cầu hay thất nghiệp theo lý thuyết Keynes xảy ra khi tổng cầu suy giảm, sản xuất đình trệ, công nhân mất việc...nên loại thất nghiệp gọi là thất nghiệp không tự nguyện. Thất nghiệp dạng này được gây ra bởi sự điều chỉnh chậm hơn của thị trường lao động so với sự điều khiển của các cá nhân hoặc của công đoàn. Cách phân chia như trên giúp ta hiểu rõ các chính sách cần thiết của chính sách cần thiết của chính phủ để giải quyết các vấn đề thất nghiệp. Chúng ta đã biết rằng trong dài hạn, nền kinh tế có thể từ từ quay trở lại trạng thái hữu nghiệp toàn phần. Thông qua việc điều chỉnh dần dần tiền lương và giá cả, nên thất nghiệp theo lý thuyết Keynes cuối cùng rồi cũng mất đi. Nhưng trong ngắn hạn, thất nghiệp theo lý thuyết của Keynes là một phần tổng số thất nghiệp mà chính phủ có thể góp phần giảm bớt bằng cách sử dụng chính sách tài khoá và tiền tệ để làm tăng nhanh tổng cầu chứ không phải ngồi chờ cho tiền lương và giá cả giảm để tăng mức cung ứng thực tế của tiền và giảm lãi suất. Ngược lại tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên cho chúng ta biết phần trăm con số thất nghiệp mà không thể khử bỏ được chỉ bằng cách phục hồi tổng cầu trở lại mức hữu nghiệp toàn phẩn. Tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên là mức hữu nghiệp trong trạng thái hữu nghiệp toàn phần. Để giảm tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên sẽ cần đến các chính sách trong cung tác động đến các động lực trên thị trường lao động. 1.4.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến thất nghiệp tự nhiên. Có hai nhân tố ảnh hưởng đến thất nghiệp tự nhiên là khoảng thời gian thất nghiệp và tổng số thất nghiệp. * Khoảng thời gian thất nghiệp. Giả sử rằng thường xuyên có một lượng người nhất định bổ sung vào đội ngũ tìm kiếm việc làm và nếu mỗi người phải chờ đợi quá nhiều thời gian mới tìm được việc thì trong một thời kỳ nào đó số lượng người thất nghiệp trung bình tăng lên, tỷ lệ thất nghiệp sẽ bị nâng cao. Thời gian chờ đợi nói trên được gọi là " khoảng thời gian thất nghiệp " và nó còn phụ thuộc vào: Cách thức tổ chức thị trường lao động. Cấu tạo nhân khẩu của những người thất nghiệp (tuổi đời, tuồi nghề, ngành nghề...). Cơ cấu việc làm và khả năng có sẵn việc. Mọi chính sách cải thiện các yếu tố trên sẽ dẫn đến rút ngắn khoảng cách thời gian thất nghiệp. * Tần số thất nghiệp. Lần số trung bình một người lao động bị thất nghiệp trong thời kỳ nhất định (ví dụ trong một năm bị thất nghiệp 2 lần) Tần số thất nghiệp phụ thuộc vào: Sự thay đổi nhu cầu lao động của các doanh nghiệp. Sự gia tăng tỷ lệ tham gia vào lực lượng lao động. Trong ngắn hạn, khi tồng cầu không đổi nhưng có sự biến động về cơ cấu của nó và khi có tỷ lệ tăng dân số cao thì tổng số thất nghiệp bị đẩy lên nhanh. Tổng số thất nghiệp nhiều nhiều, tỷ lệ thất nghiệp cao. Hệ số tăng dân số và ổn định kinh tế là hướng đi quan trọng giữ cho tần số thất nghiệp ở mức thấp. Chú ý rằng, ở các nước có nền kinh tế đang phát triển, loại "dân số hoạt động kinh tế tự do" (buôn bán nhỏ, sản xuất nhỏ...) có số người tham gia đáng kể nhưng thu nhập rất thấp và không ổn định. Họ luôn mong muốn tìm kiếm việc làm mới có thu nhập cao hơn và ổn định hơn và như vậy họ là nguồn dự trữ lớn cho sự gia tăng lực lượng lao động. ở các nước phát triển khi có trợ cấp thất nghiệp cũng có thể làm tăng tỷ lệ thất nghiệp do điều kiện thuận lợi để kéo dài thời gian tìm việc. 1.5. Tác động của thất nghiệp đối với đời sống kinh tế xã hội. Công ăn việc làm gắn liền với kinh tế thị trường. Khi không có công ăn việc làm người ta sẽ trở thành thất nghiệp. Nạn thất nghiệp là một thực tế nan giải của mọi quốc gia có nền kinh tế thị trường cho dù quốc gia có trình độ kém phát triển hay phát triển cao. Trước hết, thất nghiệp là đòn rất mạnh giáng vào tâm lý và đời sống của mọi người và từ đó ảnh hưởng mãnh liệt đến đời sống xã hội. Thanh niên mới lớn không có việc làm dễ sinh bi quan, chán nản, hận đời. Xung đột với gia đình, dần dân nhiễm thói hư, tật xấu, làm trầm trọng thêm các tệ nạn xã hội như trộm cắp, cướp của, mại dâm, nghiện hút...số người ngoài tuổi thanh niên bị thất nghiệp thường là nguyên nhân của các cuộc tan vỡ gia đình, sa sút nhân cách (nghiện hút, lừa đảo, trộm cắp...) gây suy thoái đời sống xã hội. Thứ hai, là trong cơ chế thị trường nhiều thành phần, nếu nhà nước không có các thể chế chặt chẽ, số người không có việc làm sẽ phát triển bằng đủ cách, từ việc khai thác bừa bãi tài nguyên (vàng, đá quý, gỗ, than, quặng kim loại...) đến các băng đảng buôn lậu, làm hàng giả, trộm cắp ..làm hại nền kinh tế, văn hoá và môi trường tự nhiên của đất nước. Thứ ba, là do dư thừa lao động và giải quyết việc làm nước ta không thể tiến nhanh trình độ hiện đại hoá và càng trang bị hiện đại, càng cần ít lao động. Trong một thời gian khá dài, chúng ta vẫn cần có nhiều việc dùng máy móc và nhiều lao động để cố gắng giải quyết một phần nạn thất nghiệp. Thứ tư, là việc gia tăng đội quân thất nghiệp lên quá nhanh khiến nhà nước phải bỏ ra những khoản cho phí lớn để trợ cấp cho những người thất nghiệp, mở ra các lớp dạy nghề...làm cho ngân sách bị thu hẹp, không thể mở rộng đầu tư, xây dựng các dự án kinh tế khác. Như vậy, tác hại của thất nghiệp là rất rõ ràng. Người ta có thể tính toán được sự thiệt hại kinh tế. Đó là sự giảm sút to lớn về sản lượng đôi khi còn kéo theo nạn lạm phát nghiêm trọng. Sự thiệt hại về kinh tế do thất nghiệp mang lại ở nhiều nước lớn đến mức không thể so sánh với thiệt hại do tính không hiệu quả của bất cứ hoạt động kinh tế vĩ mô nào khác... 1.6. Một số biện pháp làm giảm tỷ lệ thất nghiệp. 1.6.1. Đối với thất nghiệp tự nhiên. Muốn giảm bớt thất nghiệp xã hội cần phải có nhiều việc làm, đa dạng hơn và có mức tiền công tốt hơn, đồng thời phải đổi mới, hoàn thiện thị trường lao động để đáp ứng kịp thời, nhanh chóng các yêu cầu của doanh nghiệp và người lao động. Do yêu cầu cạnh tranh mạnh mẽ của cơ chế thị trường, việc mở rộng sản xuất tạo nhiều việc làm tốt, thu nhập khá và ổn định luôn gắn liền với năng suất ngày càng cao. ở mỗi mức tiền công sẽ thu hút nhiều lao động hơn. Trong những điều kiện đó cầu về lao động sẽ tăng lên và khoảng thời gian thất nghiệp cũng sẽ giảm xuống. Để thúc đẩy quá trình này cần có những chính sách khuyến khích đầu tư, thay đổi công nghệ sản xuất. Điều này lại liên quan đến những chính sách tiền tệ (lãi suất) xuất nhập khẩu, giá cả (tư liệu lao động) thuế thu nhập... ở những nước đang phát triển có lao động dư thừa nhiều nhưng thiếu vốn có thể tạo ra nhiều việc làm với các doanh nghiệp nhỏ (có thể hoặc nhỏ về vốn nhưng dùng nhiều lao động) bằng sự hỗ trợ của nhà nước hoặc của tổ chức kinh tế xã hội thông qua các "dự án việc làm". Tăng cường và hoàn thiện các dự án dạy nghề, đào tạo lại và tổ chức thị trường lao động sẽ tạo ra những điều kiện thuận lợi trong công việc tìm kiếm việc làm, có thể rút ngắn được thời gian tìm việc bởi cơ cấu và trình độ của người tìm việc ngày càng sát hơn với cơ cấu kinh tế và sự đòi hỏi của doanh nghiệp. 1.6.2. Đối với thất nghiệp chu kỳ. Thất nghiệp chu kỳ là một thảm họa vì nó xảy ra trên quy mô lớn. Tồng cầu và sản lượng suy giảm, đời sống người lao động bị thất nghiệp gặp khó khăn. Gánh nặng này lại thường dồn vào những người nghèo nhất (lao động giản đơn), bất công xã hội do vậy lại tăng lên. Các chính sách mở rộng tài chính và tiền tệ nhằm tăng tổng mức cầu sẽ dẫn đến việc phục hồi về kinh tế, giảm thất nghiệp loại này. Chương II Thực trạng vấn đề việc làm và thất nghiệp ờ nước ta hiện nay 2.1. Thực trạng lực lượng lao động hiện nay: Hiện nay, Việt Nam là một trong 13 nước đông dân nhất trên thế giới. Hàng năm nguồn lao động ở nước ta tăng nhanh và ở mức tăng cao. Bình quân mỗi năm có khoảng 1 triệu thanh niên bước vào độ tuổi lao động và có nhu cầu làm việc. Bên cạnh đó là một bộ phận nhỏ những người xuất cảnh trái phép hồi hương tự nguyện, bộ đội phục viên xuất ngũ, học sinh thôi, bỏ học, học sinh các trường chuyên nghiệp và dạy nghề...đang cần tìm việc làm. Số người chưa có việc làm tập trung ở các khu vực thành thị, khu công nghiệp tập trung và khoảng 80% ở lứa tuổi thanh niên, đại bộ phận có sức khoẻ, có trình độ văn hoá và chưa có nghề. Theo kết quả điều tra mẫu quốc gia về lao động việc làm hàng năm ta thấy quy mô lực lượng lao động tiếp tục gia tăng với tốc độ cao thể hiện ở chỗ: Tổng lực lượng lao động cả nước tính đến 01/7/2001 có 38.643.089 người, so với kết quả điều tra tại thời điểm 01/7/1996 tăng bình quân hàng năm là 975.645 người với tốc độ tăng 2,7%/năm, trong khi đó tốc độ tăng dân số bình quân hàng năm của thời kỳ này là 1,50%/ năm. Theo dự báo của Uỷ ban dân số quốc gia, giai đoạn 2001 - 2005 tốc độ phát triển dân số hàng năm đạt 1,0116 (tức chỉ tăng 1,16%/năm), đến năm 2005 dân số cả nước là 82.492,6 ngàn người. Năm 1996 tỷ lệ lực lượng lao động chiếm trong tổng dân số nói chung là 0,48; năm 2001 là 0,05, bình quân tỷ lệ này gia tăng 0,4%. Dự kiến giai đoạn 2001 - 2005 hàng năm gia tăng ở mức 0,35% thì đến năm 2005 tỷ lệ lực lượng lao động chiếm trong tổng số dân sẽ là 51,75% và tổng lực lượng lao động cả nước sẽ là 42.689.900.000 người. Với tốc độ phát triển dân số và lao động như hiện nay, hàng năm chúng ta phải tạo ra hơn 1 triệu chỗ làm việc mới cho số người bước vào độ tuổi lao động, 1,7 triệu người chưa có việc làm, hàng chục cán bộ, bộ đội, phục viên, xuất ngũ, học sinh.. Theo tính toán của tổ chức lao động Quốc tế (ILO), với tốc độ tăng nguồn lao động trên 3% như hiện nay ở Việt Nam thì cho dù hệ số co dãn về việc làm có thể tăng từ mức 0,25 lên 0,33, trong vài năm tới cũng cần có mức tăng GDP trên 10%/năm mới có thể ổn định được tình hình việc làm ở mức hiện tại. Vì vậy, dự báo sau năm 2002 ở nước ta vẫn sẽ trong trình trạng dư thừa lao động. Sự "lệch pha" giữa cung và cầu lao động là một hiện tượng đáng chú ý trong quan hệ cung và cầu lao động hiện nay ở nước ta. Trong khi nguồn vốn cung về lao động của ta chủ yếu là lao động phổ thông, lao động nhàn rỗi trong nông nghiệp, bộ đội xuất ngũ, công nhân giảm biên chế...thì cầu về lao động lại đang đòi hỏi chủ yếu lao động lành nghề, lao động có trình độ chuyên môn, kỹ thuật cao, các nhà quản lý am hiểu cơ chế thị trường...Chính sự khác biệt này làm cho quan hệ cung cầu về lao động vốn đã mất cân đối lại càng gay gắt hơn trước yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Trong toàn bộ nền kinh tế, tỷ lệ lao động đã qua đào tạo hiện nay còn rất thấp, khoảng 4 triệu người, chỉ chiếm 10,5% lực lượng lao động. Điều này cho thấy lực lượng lao động hiện chưa có thể đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế xã hội trong giai đoạn này. Trong số lao động đã qua đào tạo cơ cấu trình độ và ngành nghề còn rất nhiều bất cập trước yêu cầu của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá...số người có trình độ đại học về cơ cấu ngành nghề, lao động đã qua đào tạo được tập trung chủ yếu ở các cơ quan nghiên cứu, các đơn vị hành chính sự nghiệp và ngành giáo dục. Lĩnh vực sản xuất vật chất có tỷ lệ lao động qua đào tạo còn thấp, đặc biệt trong nông nghiệp, ngành sản xuất lớn nhất cũng chỉ có 3,51%. Nhiều lĩnh vực rất thiếu cán bộ giỏi, cán bộ quản lý, cán bộ am hiểu công nghệ cao...Điều đó đã dẫn đến một thực trạng hiện nay là trong khi có hàng triệu người không tìm được việc làm, thì ở một số ngành nghề có rất nhiều cơ sở sản xuất, kinh doanh thiếu lao động kỹ thuật, lao động có nghề nghiệp và trình độ phù hợp với yếu cầu của công nghệ sản xuất. Để hiểu rõ thực trạng lực lượng lao động ở nước ta, ta có bảng số liệu dưới đây (được tổng hợp dữ liệu điều tra mẫu quốc gia về lao động - việc làm 0/7/2001) Quy mô lực lượng lượng lao động cả nước 1996 - 2001 Chỉ tiêu 1996 (người) 2001 (người) Tăng giảm bình quân hàng năm 1996-2001 Tuyết đối (người) Tương đối (%) A 1 2 3 4 1. Tồng lực lượng lđ. 2. Lực lượng lao động được chia theo khu vực: Thành thị Nông thôn 3. Lực lượng lao dộng trong độ tuổi lao động. 4. Lực lượng LĐ chia theo 3 nhóm: - LLLĐ trẻ (15-34 tuổi) - LLLĐ trung niên (35-54) - LLLĐ có tuổi (trên 55) 5. LLLĐ chia theo trình độ học vấn . - Chưa biết chữ - Chưa tốt nghiệp cấp I - Đã tốt nghiệp cấp I - Đã tốt nghiệp cấp II - Đã tốt nghiệp cấp III 6. LLLĐ chia theo trìh độ chuyển môn kỹ thuật: - Không có chuyên môn KT. - Đã qua đào tạo trong đó chia ra: + Sơ cấp/học nghề/ CNKT + Trung học chuyên nghiệp + Cao đẳng, đại học trở lên 7. Cấu trúc đào tạo: + Cao đẳng, đại học trở lên + Trung học chuyên nghiệp + Sơ cấp/ học nghề/ CNKT 34.740.509 6.621.541 28.118.968 33.166.764 19.394.169 12.365.505 2.980.853 1.999.144 7.268.364 9.652.627 11.138.942 4.681.162 30.636.419 4.104.090 1.955.404 1.342.515 806.171 1 1,7 2,4 38.643.089 8.725.998 29.917.091 36.725.277 19.399.302 19.719.276 2.584.511 1.547.901 6.367.790 11.317.132 12.748.073 6.662.193 32.650.666 5.992.423 2.618.746 1.870.136 1.503.541 1 1,2 1,7 975.645 526.121 449.524 889.628 - 13.717 1.088.443 - 99.081 - 112.810 - 225.211 416.125 402.283 495.258 503.562 472.083 165.835 131.905 174.343 ----- ----- ----- 2,70 7,14 1,56 2,58 - 0,07 7,83 - 3,05 - 6,19 - 3,25 4,06 3,43 9,22 1,60 9,92 7,58 8,64 16,68 ----- ----- ----- 2.2. Tình hình việc làm ở nước ta hiện nay. Do quy mô dân số lớn, tốc độ tăng cao đã làm tăng nhanh số người trong độ tuổi có khả năng lao động. Quy mô dân số đông người lao động dồi dào đó là sức mạnh quốc gia, là yếu tố cơ bản để mở rộng và phát triển sản xuất. Nhưng đối với nước chậm phát triển, trong đó có nước ta, khả năng mở rộng phát triển sản xuất còn có hạn, nguồn vốn, thiết bị, nguyên vật liệu còn thiếu thốn, nguồn lao động ra tăng nhanh lại gây sức ép về việd làm rất lớn. Theo số liệu của tổng cục thống kê, số người đang làm việc trong ngành kinh tế quốc dân năn 1991: 31 triệu người; năm 1992: 31,8 triệu người; năm 1994: 33,6 triệu người, mỗi năm đã tăng thêm 90 vạn chỗ làm việc. Nếu loại trừ số học sinh trong tuổi lao động đang học ở các trường, số người thuộc dạng điều tra riêng, số người mất sức lao động, số người làm công việc nội trợ, thì số người chưa có việc làm hàng năm trên dưới 2 triệu người. Đó là chưa kể số người thiếu việc làm ở nông thôn. Theo kết quả ước lượng trong những năm gần đây chỉ thấy hệ số sử dụng quỹ thời gian lao động bình quân cho một lao động nông thôn mới ở mức trên dưới 70% đồng thời, số người làm công việc nội trợ lên 1,211 triệu người. Theo ước tính số người bước vào tuổi lao động hàng năm khoảng 1,6 - 1,7 triệu người trong khi đó số người bước ra khỏi độ tuổi lao động là 4,5 - 50 vạn người. Như vậy, lực lượng lao động hàng năm tăng thêm khoảng 1,1 - 1,2 triệu người. Nếu với đà mỗi năm tăng thêm 90 vạn chỗ làm việc như năm năm qua, thì mỗi năm có thêm từ 20 - 30 vạn thiếu chỗ làm việc, công với 2 triệu người chưa tham gia lao động ngoài ra để đảm bảo đủ việc làm cho người lao động trong nông thôn, tận dụng hết quỹ thời gian lao động, cần có thêm 7 triệu chỗ làm việc. Như vậy, rõ ràng sức ép về việc làm ở Việt Nam hiện nay là rất lớn. Điều đó được thể hiện: Trong ngành nông - công nghiệp và dịch vụ: công nghiệp, xây dựng và dịch vụ năm 1997 lao động việc làm thường xuyên: nhóm ngành nông nghiệp của cả nước chiếm 65,84% giảm được 3,96% so với năm 1996. Cơ cấu lao động ở nông thôn cũng có sự chuyển dịch tích cực theo hướng công nghiệp hoá. Tỷ trọng lao động làm việc trong nông nghiệp giảm từ 81,64% (19960 còn 78,08% (1997), tỷ trọng làm việc trong công nghiệp và xây dựng đã tăng lên từ 6,83% lên 6,86% tỷ trọng lao động trong các ngành dịch vụ cũng tăng. Theo số thành phần kinh tế: Theo số liệu thống kê năm 1992 số người làm việc trong khi khu vực quốc doanh chỉ chiếm có 9,5% tồng số người làm việc (ngoài quốc doanh 90,5%). Riêng đối với lĩnh vực sản xuất vật chất, số người làm việc trong khu vực ngoài quốc doanh còn thấp hơn nhiều (quốc doanh 6,1%, ngoài quốc doanh: 90,5%). Năm 1997, tỷ lệ lao động làm việc ở khu vực kinh tế nhà nước chủ yếu là do tăng ở khu vực thành thị, ở nông thôn tỷ lệ lao động làm việc ở khu vực ngoài nhà nước vẫn chiếm đại bộ phận và đang có xu hướng gia tăng, tỷ lệ lao động làm việc ở khu vực kinh tế nước ngoài tuy có tăng nhưng vẫn còn rất thấp. Theo khu vực: ở khu vực nông thôn, tình trạng việc làm của lực lượng lao động bước đầu đã có chuyển biến tích cực. Tỷ lệ thời gian lao động được bổ sung đã tăng hơn so với năm 1996. Tính chung cho cả nước, đã tăng được từ 72,28% lên 73,14% cả 7 vùng lãnh thổ đều đạt tỷ lệ thời gian lao động được sử dụng từ gần 72% trở lên. Tỷ lệ thiếu việc làm đã giảm từ 27,65% (1996) xuống còn 25,47% (năm 1995). Tuy nhiên, trong 7 vùng lãnh thổ vẫn còn 3 vùng có tỷ lệ số người thiếu việc làm ờ nông thôn khá cao (khoảng 29%) là đồng bằng sông Hồng, Bắc Trung Bộ và Duyên Hải Miền Trung. ở khu vực thành thị: Tổng số người thất nghiệp trong độ tuổi lao động ở khu vực thành thị cả nước là 427.067 người đã chiếm 6,01% tăng so với năm 1996 là 38615 người. Các thành phố lớn như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Vũng Tàu, Cần Thơ, tỷ lệ thất nghiệp có xu hướng gia tăng: Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh tỷ lệ thất nghiệp đang ở mức báo động. Ta có bảng số liệu sau nói về tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động trong độ tuổi lao động chia theo trình độ chuyên môn kỹ thuật ở khu vực thành thị của cả nước Lực lượng lao động trong độ tuổi lao động nói chung Trong đó: - Không có trình độ chuyên môn kỹ thuật - Công nhân kỹ thuật + sơ cấp - Trung học chuyên nghiệp. - Cao đẳng, đại học. - Trên đại học. 1996 5,88 5,57 5,53 5,50 5,00 0,53 1997 6,01 6,46 5,29 4,41 3,21 0,88 Tăng giảm tỷ lệ thất nghiệp + 0,13 + 0,89 0,24 - 1,09 - 1,79 + 0,27 Lực lượng lao động của chúng ta hiện nay rất đông đảo, đa dạng, và có số không ít đã qua đào tạo chuyên môn, lại có bộ phận hoàn thành nghĩa vụ quân sự mới trở về, có người ở miền núi xa xôi, có người ở đồng bằng đông đúc, có người ở đồng bằng thuần nông, có người ở nơi hải đảo...Sắp xếp được mọi người vào vị trí phát huy được tài năng, cống hiến hết năng suất và hiệu quả việc làm đòi hỏi kiên nhẫn trong điều kiện kinh tế thị trường đặt ra biết bao khó khăn. Chương III. Phương hướng và giải pháp về giải quyết việc làm ở Việt Nam trong thời gian tới. 3.1. Nguyên nhân thất nghiệp và thiếu việc làm: Có thể nêu ra 3 nhóm nguyên nhân của tình trạng thất nghiệp hiện nay như sau: - Một là: Đình đốn nhu cầu (thất nghiệp nhu cầu): do thu nhập thấp của các tầng lớp dân cư (sức mua thấp) ít nhu cầu mở rộng tiêu dùng, hạn chế nhu cầu về sản phẩm và mở rộng sản xuất, tất yếu dẫn đến ít có nhu cầu về sản phẩm về tăng thêm lao động, trong khi lực lượng lao động vẫn ở mức cao. Nhu cầu đầu tư cũng chưa được kích thích phát triển do hạn chế nhu cầu tiêu dùng và thiếu chính sách khuyến khích đầu tư từ nhân dân và khu vực kinh tế tư nhân. Việt Nam chưa có cơ chế phù hợp kích thích nhu cầu xuất khẩu, cán cân thương mại theo hướng nhập siêu ngày càng lớn trong những năm qua và sự lệch giá của đồng tiền Việt Nam trong một thời gian dài. Một ví dụ điển hình về hạn chế xuất khẩu, cán cân thương mại trong những năm qua phát triển theo hướng xấu: từ nhập siêu 0,3 tỷ USD năm 1991 tăng lên đến 4 tỷ USD năm 1996, trong đó có 2 vấn đề đáng lưu ý là nhập cả dây chuyền thiết bị quá lạc hậu. Đó là chưa kể có nhiều nguyên nhân khách nhau nữa. Trong điều kiện Việt Nam, nhập khẩu như vậy đồng nghĩa với nhập khẩu lao động hay nhập khẩu thất nghiệp. - Hai là: cơ cấu kinh tế lạc hậu (thất nghiệp cơ cấu): đó là cơ cấu lao động thuần nông nghiệp, công nghiệp hàng tiêu dùng và dịch vụ chậm phát triển. Mặc dù thành phần kinh tế tư nhân đã được thừa nhận và phát triển nhưng mức mở rộng của nó chưa thu hút kịp lao động thừa từ nông nghiệp, cũng như lao động dôi ra trong quá trình cải tạo các doanh nghiệp và cơ quan nhà nước. Quan trọng nhất là trình độ nghề nghiệp của lực lượng lao động Việt Nam quá thấp, cơ cấu nghiệp vụ không hợp lý, không đáp ứng được yêu cầu của thị trường lao động. - Ba là: Trình độ quản lý thấp chưa đáp ứng được quy luật của nền kinh tế thị trường (thất nghiệp trá hình và thất nghiệp do chuyển hoá kinh tế). Một mặt lao động thừa biểu hiện rõ trong doanh nghiệp và cơ quan nhà nước khi thực hiện hạch toán thực sự và ở nông thôn khi chuyển từ nền nông nghiệp tự cấp, tự túc sang sản xuất hàng hoá. Mặt khác, do trình độ quản lý còn thấp, cơ cấu bộ máy quản lý việc làm - đào tạo chưa hợp lý, thiếu chuyên gia giỏi và hệ thống thông tin kinh tế đủ tin cậy, hoạch định phân tích tác động của các chính sách thiếu đồng bộ cũng là một nguyên nhân trầm trọng thêm vấn đế thất nghiệp thiếu việc làm. 3.2. Phương hướng giải quyết vấn đề thất nghiệp và việc làm: Giải quyết việc làm, nâng cao chất lượng lao động đáp ứng yêu cầu của sự phát triển kinh tế - xã hội, theo lý thuyết phát triển là một bộ phận quan trọng của phát triển nguồn nhân lực của mỗi quốc gia. Điều này có ý nghĩa hơn khi toàn nhân loại bước vào thiên niên kỉ mới với những hành trang về khoa học kỹ thuật phát triển chưa từng thấy trong lịch sử với những dự định vĩ đại trong tương lai. Trong bối cảnh ấy xây dựng chiến lược việc làm giảm tỷ lệ thất nghiệp để đáp ứng nhu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước góp phần đưa đất nước sánh vai cùng nhân loại trong thế kỷ tới, là yêu cầu khách quan của cuộc sống xã hội nước ta. Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, cùng việc chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế, con người đã được đặt đúng vị trí trung tâm của sự phát triển. Mọi chính sách, mọi giải pháp phát triển kinh tế - xã hội đều hướng vào mục tiêu phục vụ con người. Nhà nước tập trung xây dựng và ban hành luật pháp, cơ chế hành chính về chính sách lao động, xây dựng các chương trình giải quyết việc làm có thể nói đường lối đổi mới của Đảng đã tạo ra chuyển biến tích cực trong nhận thức trong phương thức tạo mở việc làm cho lao động, đã huy động được mọi nguồn lực đầu tư phát triển và tạo việc làm các chương trình hỗ trợ trực tiếp cho người lao động đã được sự ủng hộ đồng tình của xã hội nên góp phần quan trọng tạo việc làm cho người lao động xã hội, góp phần hạ thấp tỷ lệ thất nghiệp, chuyển đổi cơ cấu lao động và nâng cao chất lượng lao động. Tuy nhiên chúng ta còn thiếu các chính sách đủ mạnh để khuyến khích đầu tư, huy động mọi nguồn lực để tăng trưởng kinh tế và tạo mở việc làm, vì vậy vẫn chưa khai thác hết tiềm năng của xã hội trong việc giải quyết việc làm, tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị và thiếu việc làm ở nông thôn còn cao, việc chuyển dịch cơ cấu và chất lượng lao động còn chậm... Chiến lược việc làm trong thời kỳ tới (2002 - 2010) nhằm đạt được mục tiêu là chuyển dịch cơ cấu lao động phù hợp với cơ cấu kinh tế, đảm bảo việc làm phần lớn lao động có nhu cầu làm việc nâng cao năng suất lao động. Tăng thu nhập và cải thiện chất lượng cuộc sống nhân dân. Mục tiêu cụ thể từ nay đến năm 2010 là tạo việc làm cho khoảng 13,5 triệu lao động, bình quân mỗi năm là 1,35 triệu người, tích cực chuyển dịch cơ cấu lao động, phấn đấu lao động trong nông nghiệp đạt 50%, công nghiệp, xây dựng 23%, dịch vụ 27%, giảm tỉ lệ thất nghiệp ở thành thị xuống dưới 5% tăng tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn lên 85%, tỷ lệ lao động đã qua đào tạo đạt 40%, năng suất lao động tăng 4 - 5%/ năm. Để đạt được mục tiêu như trên chúng ta cần phải: - Xây dựng các chính sách nhằm phát triển các doanh nghiệp có quy mô lớn, các khu công nghiệp tập trung, các khu chế xuất, các đơn vị liên doanh, liên kết, đơn vị có vốn đầu tư nước ngoài để tạo việc làm cho người lao động. - Chính sách phát triển khu vực phi kết cấu các doanh nghiệp vừa và nhỏ, phát triển các hình thức gia công dịch vụ...để tạo việc làm. - Chính sách phát triển và khai thác tiềm năng ven thị; phát triển kinh tế nông thôn và nông nghiệp, đặc biệt là xây dựng cơ sở hạ tầng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn phát triển dịch vụ và làng nghề, vùng nghề truyền thống để thu hút lao động nông thôn. - Xây dựng chính sách phát triển dịch vụ việc làm, chú trọng việc cung ứng lao động thông qua việc nâng cao chất lượng người lao động như giúp đỡ họ tìm được việc làm, hoàn thiện hoạt động của các cơ quan giới thiệu việc làm cả về cơ sở vật chất, trang thiết bị, cán bộ và đào tạo cán bộ...phát triển, hoàn thiện các cơ sở dạy nghề, đào tạo và đào tạo lại đáp ứng các nhu cầu đổi nghề, đào tạo cho người lao động thất nghiệp. Về lâu dài cần xúc tiến, nghiên cứu luật về dịch vụ việc làm. - Ngăn ngừa hậu quả thất nghiệp và thực hiện phương án tìm lại việc làm. + Chính sách điều tiết, kiểm tra tình hình giảm biên chế trên quy mô rộng từ các doanh nghiệp bằng cách phối hợp sử dụng các biện pháp về hành chính, kinh tế và pháp luật để ngăn chặn tình trạng thất nghiệp hàng loạt có thể xảy ra khi điều chỉnh doanh nghiệp và các ngành nghề. + Chính sách tìm lại việc làm nhằm đưa họ tham gia vào các hình thức hoạt động về việc làm gồm: hướng dẫn tìm việc làm; đào tạo lại để đổi mới nghề; giới thiệu việc làm...nhằm mục đích tìm lại được việc làm càng sớm càng tốt. Cơ quan dịch vụ việc làm công cộng cần cung cấp cho họ những dịch vụ và hỗ trợ đa dạng, cần giúp cho các doanh nghiệp thu hút những người tình nguyện làm việc. + Chính sách khuyến khích các doanh nghiệp thu hút lao động thất nghiệp. + Chính sách đặc biệt đối với một số doanh nghiệp phải nhận lao động thất nghiệp. - Xây dựng và ban hành chính sách trợ cấp thất nghiệp cần thiết phải sớm ban hành với các nội dung sau + Điều kiện được hưởng trợ cấp thất nghiệp, theo chúng tôi cần phải có các điều kiện sau: Phải là người thất nghiệp. Có đăng ký tại cơ quan lao động. Luôn sẵn sàng đi làm việc theo các điều kiện. Có thời gian thất nghiệp tối thiểu. + Xây dựng quỹ bảo hiểm thất nghiệp. + Sử dụng quỹ bảo hiểm thất nghiệp. Chi trả trợ cấp thất nghiệp cho người thất nghiệp. Chi trả cho việc đào tạo, đào tạo lại người thất nghiệp Chi cho dịch vụ việc làm cho người thất nghiệp. Chi cho hoạt động tổ chức bảo hiểm thất nghiệp. - Tăng cường vai trò của nhà nước, của các tổ chức chính trị xã hội trong việc giải quyết việc làm và chống thất nghiệp cho người lao động. - Hoàn thiện các chính sách lao động, việc làm và thị trường lao động nhằm tạo điều kiện và cơ hội bình đẳng cho mọi người trong việc phát triển sản xuất tạo việc làm cho mình và thu hút lao động xã hội. Khuyến khích và tôn vinh những người làm giàu chính đáng, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của mọi người lao động. - Phát triển và mở rộng hợp tác quốc tế, tranh thủ các nguồn lực bên ngoài trên cơ sở tôn trọng sự độc lập, chủ quyền đất nước, chủ động tham gia vào phân công lao động quốc tế liên doanh, liên kết tạo việc làm. - Thế kỷ 21 được các nhà khoa học gọi là thế kỷ của nền kinh tế trí thức với những bước đột phá mới về khoa học và công nghệ. Để nền kinh tế nước ta hoà nhập với nền kinh tế nhân loại. Kết luận: Thất nghiệp là một hiện tượng kinh tế xã hội tồn tại một cách khách quan và gây ra những hậu quả xấu ngăn cản sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế. Vì vậy, vấn đề giải quyết thất nghiệp là vấn đề cấp bách hơn bao giờ hết, giảm bớt thất nghiệp không những tạo điều kiện để phát triển kinh tế mà còn thúc đẩy ổn định xã hội. Một xã hội có nền kinh tế phát triển tỷ lệ thất nghiệp thấp thì tệ nạn xã hội sẽ bị đẩy lùi, đời sống nhân dân được nâng cao. Bài tiểu luận này chỉ xin dừng lại ở việc nghiên cứu những mặt được và chưa được của vấn đề thất nghiệp và các chính sách giải quyết việc làm ở Việt Nam từ trước tới nay (1986 - 2001) thông qua việc nghiên cứu đề tài này, em mới hiểu rõ được vấn đề thất nghiệp và việc làm ở Việt Nam từ trước tới nay. Tuy ở trên em cũng đưa ra một vài ý kiến nhưng do trình độ còn hạn chế nên em chưa hiểu được mọi khía cạnh của vấn đề. Rất mong thầy giáo góp ý kiến cho em có thể hiểu sâu sắc hơn về đề tài này.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35288.doc
Tài liệu liên quan