Đề tài Thị trường Mỹ và triển vọng xuất khẩu hàng hoá của Việt nam sang thị trường Mỹ

Với quy mô thị trường lớn, đa dạng, có tiềm lực KH-CN tiên tiến Mỹ là thị trường tiềm năng của hầu hết các nhà xuất khẩu trên thế giới, trong đó có Việt nam. Hiệp định thương mại Việt-Mỹ được ký kết là một tin vui, là cơ hội đồng thời cũng là thách thức lớn cho các doanh nghiệp Việt nam. Hiệp định đã trở thành cơ sở đánh dấu một bước tiến mới giữa hai quốc gia trên con đường bình thường hoá mọi quan hệ, mặc dù có những điều không vui của quá khứ. Tất nhiên, đối với người Việt nam, vết thương chiến tranh do Mỹ gây ra trên đất nước mình khó mà lành lặn hoàn toàn trong một sớm một chiều, song cuộc sống bao giờ cũng hướng về tương lai. Thượng viện Mỹ thông qua hiệp định thương mại Việt-Mỹ ( rạng sáng ngày 4-10-2001) trong một tình thế khá đặc biệt –những xáo trộn về chính trị, tâm lý, kinh tế - thách thức nước Mỹ từ ngày 11-9-2001, thách thức nhiều nước khác và thách thức cả hành tinh. Không một người Việt nam nào cho rằng với hiệp định thương mại Việt-Mỹ, quan hệ qua lại giữa hai nước đột ngột biến đổi. Không hề có chuyện đó. Ký một hiệp định như hiệp định thương mại Việt –Mỹ, người Việt nam hiểu rằng sân chơi tuy có rộng hơn, lại không dễ dãi chút nào. Việt nam không mong chờ ở hiệp định một phép màu, không ảo tưởng và không cầu xin được cho không. Việt nam phấn đấu để được phồn vinh, hiệp định thương mại Việt –Mỹ chắc sẽ góp một phần vào sự triển khai ấy, nhưng Việt nam luôn kiên trì quyền lợi quốc gia, chủ quyền dân tộc- đó những thứ không thể bị đánh đổi bằng bất cứ cái gì. “Hàng Việt nam vào Mỹ - đường đi không chỉ có hoa hồng” có lẽ là một lời tựa hợp lý nhất phản ánh, lột tả được tâm trạng các nhà xuất khẩu Việt nam hiện nay khi có ý định kinh doanh ở Hoa kỳ. Tuy nhiên như trên đã phân tích: với một cơ cấu hàng xuất khẩu chiến lược, có tiềm năng, có sức cạnh tranh lớn cùng với những bước tiếp cận thị trường hợp lý, chậm nhưng chắc có thể khẳng định các doanh nghiệp Việt nam vẫn còn cơ hội rất lớn để thành công trên thị trường Mỹ.

doc34 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1207 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thị trường Mỹ và triển vọng xuất khẩu hàng hoá của Việt nam sang thị trường Mỹ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ỹ, mậu dịch được thực hiện tự do không đòi hỏi giấy phép. Hàng hoá nhập khẩu của Mỹ chỉ cần theo đúng quy định: doanh nghiệp nhập khẩu hàng hoá làm thủ tục đăng ký và nộp thuế. Chỉ có vài chủng loại hàng hoá phải có giấy phép nhập khẩu đặc biệt như vũ khí, chất phóng xạ… Luật pháp Mỹ quy định các nhãn hiệu hàng hoá phải được đăng ký tại cục hải quan Mỹ. Dấu hiệu nước sản xuất bắt buộc phải có đối với tất cả hàng hoá nhập khẩu vào Mỹ. Dấu hiệu này phải được viết bằng tiếng Anh và rõ ràng. Có thể ghi “ MADE IN…; ASSEMBLE IN…; hoặc PRODUCT OF…”. Hàng hoá mang nhãn hiệu giả hoặc sao chép, bắt chước một nhãn hiệu đã đăng ký bản quyền của một công ty Mỹ hoặc một công ty nước ngoài đã đăng ký bản quyền đều bị cấm nhập khẩu vào Mỹ. Bản sao đăng ký nhãn hiệu hàng hoá phải nộp cho cục hải quan Mỹ và được lưu giữ theo quy định. Hàng nhập khẩu vào Mỹ có nhãn hiệu giả hoặc sao chép các thương hiệu đã đăng ký mà không được phép của người có bản quyền sẽ bị bắt giữ và tịch thu. Tiêu chuẩn thương phẩm đối với hàng hoá nhập khẩu vào Mỹ được quy định rất chi tiết và rõ ràng đối với từng nhóm hàng. Ví dụ, theo quy chế của Tổ chức nông nghiệp và nông sản Mỹ thì nông sản. thực phẩm, tân dược… phải được kiểm định, có dấu, có ghi thời hạn sử dụng, một số loại trái cây phải bảo đảm kích cỡ; một số mặt hàng điện tử, dân dụng phải đảm bảo tiêu chuẩn tiết kiệm điện năng; đồ chơi trẻ em phải an toàn… Trên bao bì của sản phẩm phải ghi rõ quy cách, hướng dẫn sử dụng và cảnh báo, chẳng hạn lời cảnh báo ghi: “nếu không tuân thủ những chỉ dẫn này thì người sản xuất hoàn toàn không chịu trách nhiệm”. Hàng hoá nhập khẩu vào Mỹ phải qua hải quan làm thủ tục . Nguyên tắc chung là khi hàng đến thì các đại lý nhận hàng và đưa vào kho hải quan, sau đó đại lý thông báo cho chủ hàng đến làm thủ tục theo các bước quy định ( xuất trình chứng từ, kiểm tra và hoàn thành thủ tục). Các nhà xuất khẩu nước ngoài khi muốn làm thủ tục hải quan để xuất khẩu vào Mỹ có thể thông qua người môi giới hoặc các công ty vận tải. Thuế suất có sự khác biệt rất lớn giữa những nước được hưởng quy chế TM bình thường (NTR) với những nước không được hưởng (Non NTR), có hàng hoá có thuế, có hàng không thuế nhưng nhìn chung thuế suất ở Mỹ thấp hơn so với nhiều nước khác. Một điều đáng chú ý là ở Mỹ có luật chống bán phá giá và thuế đối kháng. Nếu hàng hoá bán vào Mỹ thấp hơn giá quốc tế hoặc thấp hơn giá thành thì người sản xuất ở Mỹ có thể kiện ra toà, và như vậy nước bị kiện sẽ phải chịu thuế cao không phải chỉ đối với chính hàng hoá bán phá giá mà còn đối với toàn bộ hàng hoá khác của nước đó bán vào Mỹ. Hoặc hàng hoá nước ngoài nhập vào thị trường Mỹ mà được chính phủ nước xuất khẩu trợ cấp sẽ bị đánh thuế đối kháng làm triệt tiêu khoản trợ cấp đó. Hàng hoá bán tại Mỹ thường phải kèm theo dịch vụ sau bán hàng. Số lượng và chất lượng của dịch vụ này là điểm mấu chốt cho sự tín nhiệm đối với người bán hàng. Nếu một doanh nghiệp bị thua trong một vụ kiện về trách nhiệm sản phẩm thì toàn bộ tài sản của doanh nghiệp đó ở Mỹ sẽ bị tịch biên và đem bán theo phán quyết, thậm chí những tín dụng thư (L/C) được mở cho các nhà xuất khẩu khác không liên quan đến vụ kiện ở nước thứ ba cũng sẽ bị tịch thu. Chỉ khi nào giải quyết xong vụ kiện đó thì mới có thể trở lại kinh doanh tại thị trường Mỹ. Đi đôi với những luật lệ và nguyên tắc về nhập khẩu hàng hoá, ở Mỹ còn sử dụng hạn ngạch để kiểm soát khối lượng hàng nhập khẩu trong một thời gian nhất định. Phần lớn hạn ngạch do cục hải quan quản lý, bao gồm hạn ngạch thuế quan và hạn ngạch phi thuế quan: Hạn ngạch thuế quan quy định số lượng đối với hàng hoá nào đó khi nhập khẩu vào Mỹ được hưởng mức thuế quan thấp trong một thời gian nhất định, nếu vượt quá sẽ bị đánh thuế cao. Hạn ngạch phi thuế quan quy định số lượng hàng hoá được phép nhập khẩu trong một thời gian xác định, nếu vượt quá sẽ không được phép nhập khẩu. Có thể thấy rằng các nhà kinh doanh tại thị trường Mỹ phải chấp nhận cạnh tranh rất gay gắt như nhiều người mô tả là: “ một mất một còn”. Cái giá phải trả cho sự nhầm lẫn là rất lớn, người tiêu dùng Mỹ nôn nóng nhưng lại mau chán vì thế nhà sản xuất phải sáng tạo và thay đổi nhanh đối với sản phẩm của mình, thậm chí phải có “phản ứng trước ’’. Có thể tiếp cận thị trường Mỹ thông qua một trong hai cách: bán hàng trực tiếp cho người mua hoặc bán hàng thông qua đại lý. Lựa chọn cách nào là tuỳ thuộc mỗi doanh nghiệp. Đưa ra được và có quyết tâm thực hiện mục tiêu xuất khẩu của mình là doanh nghiệp đã thành công bước đầu trên con đường tiến tới chinh phục thị trường Mỹ. 2. Triển vọng xuất khẩu hàng hoá của Việt nam vào thị trường Mỹ. Kể từ khi tổng thống Mỹ Bill Clinton chính thức tuyên bố bãi bỏ lệnh cấm vận TM và nối lại quan hệ mậu dịch với Việt nam (3-2-1994), sau đó hai nước chính thức thực hiện bình thường hoá quan hệ ngoại giao (11-7-1995) đến nay, song song với việc giải quyết các vấn đề quá khứ gây cản trở đến tiến trình bình thường hoá hoàn toàn quan hệ kinh tế – thương mại, Việt nam và Hoa kỳ đã từng bước thiết lập những cơ sở pháp lý cần thiết cho việc mở rộng các quan hệ kinh tế – thương mại song phương thông qua việc ký kết các hiệp định, văn bản pháp lý. Có thể kể ra một số mốc thời gian đáng chú ý trong tiến trình thiết lập quan hệ TM Việt nam –Hoa kỳ như sau: *5-8-1995: Bộ trưởng ngoại giao Mỹ đến thăm Việt nam. *10-1995: Chủ tịch nước CHXHCN Việt nam dự lễ kỷ niệm 50 thành lập Liên Hiệp Quốc và lần đầu tiên thăm Mỹ, tiếp xúc với nhiều quan chức cấp cao của chính quyền Mỹ. Hội đồng thương mại Mỹ tổ chức “Hội nghị về bình thường hoá quan hệ, bước tiếp theo trong quan hệ Việt- Mỹ”. *11-1995: Đoàn liên bộ Mỹ thăm Việt nam, tìm hiểu hệ thống luật lệ thương mại- đầu tư của Việt nam. *4-1996: Mỹ trao cho Việt nam văn bản “Những yếu tố bình thường hoá quan hệ kinh tế – thương mại với Việt nam”. *7-1996: Việt nam trao cho mỹ văn bản “Năm nguyên tắc bình thường hoá quan hệ KT-TM và đàm phán hiệp định TM với Mỹ”. *9-1996: bắt đầu quá trình đàm phán hiệp định TM song phương. *7-5-1997: Đại sứ Việt nam tại Mỹ, đại sứ Mỹ tại Việt nam nhậm chức tại thủ đô mỗi nước, hoàn tất quá trình bình thường hoá quan hệ ngoại giao giữa hai nước. *10-3-1998: Tổng thống Mỹ Bill Clinton đã ký quyết định bãi bỏ việc áp dụng điều luật bổ sung Jackson- Wanick đối với Việt nam (hàng năm quyết định này đều được tiếp tục gia hạn ), cho phép Việt nam tham gia vào các chương trình khuyến khích xuất khẩu và hỗ trợ đầu tư của Hoa kỳ bao gồm các chương trình liên quan đến cơ quan phát triển thương mại (TDA), nhận hàng xuất nhập khẩu (EXIM- BANK), công ty đầu tư tư nhân hải ngoại (OPIC), và cơ quan viện trợ phát triển quốc tế (USAID) của chính phủ Hoa kỳ. *1999: Việt nam dành cho Hoa kỳ quy chế Tối huệ quốc trong buôn bán (được gia hạn hàng năm). *Cuối cùng 13-7-2000 tại Washington bộ trưởng thương mại Việt nam Vũ Khoan và bà Charleen Bashefski - Đại diện thương mại của phủ tổng thống Hoa kỳ đã thay mặt chính phủ hai nước ký kết hiệp định thương mại giữa nước CHXHCN Việt nam và Hợp chủng quốc Hoa kỳ, mở ra một trang mới trong quan hệ thương mại giữa Việt nam và Hoa kỳ , tạo cơ sở pháp lý cho quan hệ KT-TM hai nước phát triển trên nguyên tắc đôi bên cùng có lợi, phù hợp với mong muốn của nhân dân hai nước. Theo lời của Thứ trưởng thương mại Mai Văn Dâu: “Hiệp định thương mại Việt nam-Hoa kỳ được ký kết đáp ứng lòng mong mỏi không chỉ của riêng các doanh nghiệp của Việt nam và Hoa kỳ mà cả các doanh nghiệp nước ngoài khác. Hiệp định chẳng những có lợi cho hai nước mà còn có lợi cho sự hợp tác ở Đông Nam á, Châu á- Thái Bình Dương, cũng như trên thế giới. Ký kết hiệp định thương mại Việt Nam-Hoa Kỳ là thành tựu mới của việc triển khai đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá của Đảng và nhà nước Việt Nam và là một bước mới trong quá trình Việt nam chủ động hội nhập với nền kinh tế thế giới . Hoa kỳ cũng đánh giá hiệp định này là một bước tiến quan trọng của việc Việt nam tham gia tổ chức thương mại thế giới và khẳng định tích cực ủng hộ Việt nam tham gia tổ chức này”. Trên cơ sở các nguyên tắc của tổ chức thương mại thế giới (WTO) trong khi đàm phán , hai bên đã thống nhất với nhau 5 nguyên tắc: *Bình đẳng cùng có lợi. *Không phân biệt đối xử, dành cho nhau quy chế Tối huệ quốc. *Tuân thủ pháp luật và thông lệ quốc tế. *Tính đến điều kiện của Việt nam là nước đang phát triển, có thu nhập thấp và đang chuyển đổi sang cơ chế thị trường Việt nam cần có thời kỳ chuyển đổi để điều chỉnh luật lệ, chính sách của mình cho phù hợp với các chuẩn mực quốc tế. *Quan hệ hai nước sẽ xây dựng tương tự như Mỹ đã xây dựng với các nước khác, Mỹ đòi hỏi Việt nam không hơn những điều Mỹ đòi hỏi các nước khác. Trong điều kiện hiệp định được phê chuẩn, hàng hoá Việt nam sẽ được cạnh tranh lành mạnh với hàng hoá của các nước khác và hàng hoá của Hoa kỳ trên một sân chơi công bằng. Bởi khi được hưởng quy chế ưu đãi Tối huệ quốc thì mức thuế bình quân hàng xuất khẩu của Việt nam sẽ giảm từ 40-50% còn khoảng 3%. Nhờ vậy, theo ước tính của ngân hàng thế giới, xuất khẩu của Việt nam sang Mỹ năm đầu tiên sau khi phê chuẩn hiệp định có thể tăng lên khoảng 1,3 tỷ USD tức là gần gấp đôi so với mức của năm 2000, đạt 3 tỷ USD vào năm 2005 và 8 tỷ USD năm 2010 Rõ ràng là hiệp định thương mại Việt- Mỹ sẽ mở ra cơ hội làm ăn, hợp tác mới cho các nhà đầu tư Mỹ tại Việt nam. Đồng thời cũng có tác động tích cực trong khuyến khích đầu tư nước ngoài vào Việt nam vì họ coi Việt nam là cầu nối để từ đó hàng hoá của họ xuất khẩu vào thị trường Hoa kỳ với mức thuế thấp. Với điều này, hàng hoá được sản xuất ở Việt nam sẽ tăng cả về số lượng và chất lượng , cơ hội nâng cao tổng kim ngạch hàng xuất sang Mỹ cũng vì thế mà tăng lên. Chúng ta biết rằng, với mô hình “đàn sếu bay” Mỹ chú trọng vào phát triển khu vực kinh tế mới ( nền kinh tế điện tử ) họ sẽ nhường những ngành sản xuất hàng hoá thông thường cho các nước khác với hình thức chủ yếu là đầu tư trực tiếp sau đó nhập khẩu lại thị trường Mỹ những mặt hàng có lao động rẻ: dệt may, giày dép, thiết bị máy móc cơ bản ( mô tơ, động cơ máy tiện ), TV, đầu máy video…Mà Việt nam với lợi thế về tài nguyên, lao động dồi dào nếu được đầu tư hợp lý sẽ có tiềm lực rất lớn ở những mặt hàng này. Sau khi chúng ta có được quy chế thương mại bình thường thì hai ngành có triển vọng nhất là dệt may và giày dép. Nhưng ngành dệt may sẽ bị hạn chế bằng hạn ngạch, còn giày dép được tự do cạnh tranh. Tuy nhiên, với sản phẩm dệt may ta đã có khá nhiều kinh nghiệm tiếp cận thị trường EU và Nhật bản nên việc vào thị trường Mỹ sẽ không mâý khó khăn. Hơn nữa, ngay tại thị trường Mỹ người ta cũng đang tìm nguồn cung cấp những sản phẩm này ở Việt nam vì có lao động rẻ. Ngành dệt may Việt nam đã đề ra chiến lược phát triển tăng tốc đầy tham vọng với mục tiêu đến năm 2005 đạt giá trị kim ngạch xuất khẩu 4 tỷ USD, trong đó xuất khẩu sang thị trường Mỹ đạt khoảng 1-1,5 tỷ USD. Còn mặt hàng giày dép, tuy mới chỉ chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong tổng kim ngạch nhập khẩu của Mỹ, song trên cơ sở phát huy tối đa những lợi thế sẵn có cộng thêm thế suất sẽ giảm xuống còn 10% nên việc hy vọng gia tăng thị phần cho mặt hàng này ở thị trường Mỹ không phải là điều quá xa vời. Thuỷ sản, cà phê cũng là những mặt hàng Việt nam có thế mạnh. Với điều kiện tự nhiên thuận lợi để nuôi trồng thuỷ sản (bờ biển dài, vùng biển có năng lực tái sinh học cao, tương đối sạch và nhiều cửa sông, lạch…), thuỷ sản lại là một trong những mặt hàng được Mỹ khuyến khích nhập khẩu (thuế suất 0%) và nhập khẩu lớn. Cho nên kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản sang Mỹ sẽ có những bước tiến mạnh mẽ nếu được quy hoạch và đầu tư hợp lý. Cà phê, với lợi thế được miễn thuế nhập khẩu vào Mỹ lại chiếm được sự ưa chuộng của người tiêu dùng ở thị trường này nên kim ngạch xuất khẩu trong những năm qua đã tăng mạnh. Với việc chú ý hơn đến chất lượng hàng xuất khẩu (giảm tỷ lệ hạt vỡ, đen…) kim ngạch xuất khẩu cà phê sẽ còn tăng hơn nữa. Việc phê chuẩn hiệp định thương mại cũng giúp Việt nam tiến gần hơn đến việc được hưởng chế độ ưu đãi thuế quan phổ cập chung (GSP) của Hoa kỳ áp dụng mức thuế suất bằng 0 cho 4284 mặt hàng xuất khẩu từ các nước đang phát triển . Tuy nhiên, cần phải khẳng định một điều là không phải mọi mặt hàng xuất khẩu đều có khả năng tăng nhiều là nhờ vào việc chuyển sang mức thuế mới. Đơn cử các mặt hàng nông sản như cà phê nhân , tiêu và dầu thô…đã được hưởng mức thuế suất rất thấp gần 0% kể từ năm 94 khi Hoa kỳ bỏ cấm vận với Việt nam. Triển vọng tăng kim ngạch xuất khẩu là do tự bản thân hàng hoá có sức cạnh tranh nếu được sự quan tâm, đầu tư, quy hoạch hợp lý. Chương II Thực trạng xuất khẩu hàng hoá của Việt nam sang Mỹ và việc đáp ứng nhu cầu thị trường Mỹ của các DNVN 1. Thực trạng xuất khẩu hàng hoá của Việt nam sang thị trường Mỹ. Từ khi chính phủ huỷ bỏ lệnh cấm vận đối với Việt nam đến nay, mặc dù chưa được hưởng quy chế MFN trong quan hệ thương mại với Mỹ, nhưng hoạt động thương mại giữa Mỹ và Việt nam vẫn phát triển liên tục cán cân thương mại của Việt nam và Mỹ từ thâm hụt đã chuyển sang tình trạng thặng dư trong những năm gần đây: Bảng 1: Thương mại Việt nam –Hoa kỳ 1994-2000. Đơn vị : Triệu USD. Năm XKVn sang Mỹ NKVn từ Mỹ Tổng KN buôn bán Cán cân TM 1994 50.45 172.22 222.67 -121.77 1995 198.97 252.86 451.83 -53.89 1996 319.04 616.05 935.09 -297.01 1997 388.19 277.79 665.98 +110.40 1998 553.441 274.22 827.63 +279.19 1999 601.90 277.30 879.20 +324.60 2000 732 Nguồn: Tạp chí Tài chính quốc tế –12/2000- trang 47. Bảng 1 cho thấy kim ngạch mậu dịch Việt nam-Hoa kỳ năm 1994 đã đạt trên 222 triệu USD (so với 62 triệu USD năm 93-tăng hơn 3 lần ). Con số này năm 1995 đã lên tới 450 triệu USD (gấp 2 lần so với năm trước ). Năm 1996 tổng kim ngạch đã đạt gần 1 tỷ USD, một con số đáng khích lệ. Căn cứ vào bảng số liệu trên ta có thể thấy, từ năm1996 trở về trước,Việt nam luôn nhập siêu từ Hoa kỳ, nhưng từ những năm sau Việt nam lại luôn xuất siêu sang Hoa kỳ. Năn 1997 do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính tại Châu á, Việt nam phải giảm bớt các khoản nhập khẩu của mình, do vậy kim ngạch buôn bán có phần giảm sút, chỉ còn 665 triệu USD. Sang năm 1998 và 1999 cùng với sự hồi phục của các nền kinh tế ở Châu á, kim ngạch đã có dấu hiệu gia tăng nhưng vẫn dừng ở những con số đáng khiêm tốn: 827 triệu USD và 879 triệu USD, trong đó kim ngạch xuất khẩu lần lượt là 553 triệu USD và 602 triệu USD, lớn hơn con số nhập khẩu rất nhiều. Sang đến năm 2000, kim ngạch xuất khẩu hàng hoá của Việt nam đạt 732 triệu USD. Riêng 6 tháng đầu năm 2001 kim ngạch xuất khẩu của Việt nam sang Mỹ đạt 400 triệu USD. Đây là một sự tăng trưởng khá nhanh và đáng khích lệ. Tuy nhiên nếu so sánh kim ngạch xuất khẩu của nước ta vào Mỹ với kim ngạch xuất khẩu của một số nước Châu á khác với Mỹ thì kim ngạch xuất khẩu giữa hai nước Việt –Mỹ là quá nhỏ so với tiềm năng. Chẳng hạn, trong năm 2000 kim ngạch xuất khẩu của Băng-la-đét sang Mỹ là 2.4 tỷ USD, Philipin là 13.9 tỷ USD , Thái lan là 6.4 tỷ USD… Với hiệp định thương mại song phương Việt –Mỹ các chuyên gia kinh tế Việt nam dự định rằng năm 2001, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt nam –Hoa kỳ có khả năng đạt tới 2 tỷ USD, tăng 2 lần so với năm 1999, trong đó Việt nam xuất khẩu khoảng 1.2 tỷ USD và nhập khẩu khoảng 0.8 tỷ USD. Nhưng trong tình hình hiện nay, mục tiêu trên là rất khó nếu không muốn nói là không thể đạt được (ít nhất là cho đến hết năm nay). Qua xem xét có thể nhận thấy rằng, một số mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt nam sang thị trường Mỹ trong thời gian qua bao gồm: hải sản, dầu thô, cà phê, dệt may, gạo, hoa quả…Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu đang có sự thay đổi. Trong những năm đầu xuất khẩu, các mặt hàng nhóm hàng nông-lâm-thuỷ sản chiếm tới hơn 70% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Trong những năm gần đây, tỷ trọng xuất khẩu của nhóm hàng giầy dép, dệt may và khoáng sản có bước chuyển biến tích cực, chiếm hơn 50% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước . Bảng 2: Các mặt hàng xuất khẩu chính của Việt nam sang Hoa kỳ Đơn vị:Triệu USD Năm 1996 1997 1998 1999 2000 Mặt hàng Kim ngạch Tỷ trọng (%) Kim ngạch Tỷ trọng (%) Kim ngạch Tỷ trọng (%) Kim ngạch Tỷ trọng (%) Kim ngạch Tỷ trọng (%) Thuỷ sản 33.86 16.6 42.5 14.8 81.55 17.4 125.59 24.9 304.36 41.6 Dầu thô 80.6 39.5 34.6 12.1 79.22 16.9 99.60 19.8 91.37 12.5 Cà phê 109.48 53.6 90 24.2 125.13 24.1 59.21 9.8 69.93 9.5 Dệt may 19.74 9.7 20 7.0 26.34 5.6 34.70 6.9 49.57 6.8 Gạo 5.82 2.9 63.5 17.1 39.03 7.5 4.95 1.0 10.66 1.5 Rau quả 7.6 3.7 11.6 4.0 2.6 0.6 3.20 0.6 5.0 0.7 Tổng kim ngạch xuất khẩu sang Mỹ 204.2 100 286.7 100 468.6 100 504.0 100 732.4 100 Nguồn: Bộ thương mại – Trích từ bài: “xuất khẩu hàng hoá Việt nam sang Hoa kỳ” Ths Ngô Thị Tuyết Mai- Khoa KT & KDQT. Hiện nay, hải sản là mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất sang Mỹ, tăng liên tục trong các năm vừa qua.Từ 33.86 triệu USD ( chiếm 16.6% tổng kim ngạch xuất khẩu sang Mỹ ) năm 1997 đã tăng lên đến 304.36 triệu USD ( chiếm 41.6% kim ngạch xuất khẩu ). Đây là một mức tăng kỷ lục, đưa thị trường Mỹ trở thành thị trường xuất khẩu thuỷ sản của Việt nam lớn thứ hai sau Nhật bản. Dự kiến năm 2005, thị trường Hoa kỳ có thể tiêu thụ tới 20% tổng giá trị thuỷ hải sản xuất khẩu của Việt nam . Tuy nhiên con số đó vẫn còn quá nhỏ bé so với tổng giá trị nhập khẩu thuỷ sản của Mỹ và chưa tương xứng với khả năng của Việt nam . Sau hải sản là dầu thô, đứng vị trí thứ hai sau cà phê trong danh mục các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt nam sang Hoa kỳ. Sau thời kỳ 97-98 do giá dầu trên thế giới giảm mạnh nên xuất khẩu dầu thô sang Hoa kỳ giảm cả về giá trị và tỷ lệ. Hai năm trở lại đây giá trị xuất khẩu dầu thô của Việt nam đã đạt tới 91.37 triệu USD - chiếm 12.5% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt nam sang Hoa kỳ (so với thời kỳ 97-98 là 12.1%- 16.9%). Giầy dép, cà phê, dệt may, hạt điều, gạo…cũng là các mặt hàng bước đầu được thị trường Mỹ chấp nhận. Hoa kỳ hiện là thị trường nhập khẩu cà phê hạt lớn nhất của Việt nam. Chiếm trên 25% tổng số xuất khẩu cà phê của Việt nam. 2. Thực trạng đáp ứng yêu cầu thị trường Mỹ của các doanh nghiệp Việt nam Mặc dù trong những năm trở lại đây kim ngạch xuất khẩu hàng hoá của Việt nam sang Mỹ đã có sự gia tăng đáng kể cả về số lượng và giá trị xuất khẩu, các doanh nghiệp đã có những bước tiếp cận thị trường hợp lý hơn, chất lượng, mẫu mã sản phẩm được cải tiến thường xuyên hơn. Song rõ ràng là kết quả đạt được còn quá nhỏ bé, chưa tương xứng với tiềm năng của cả hai bên, đặc biệt là vào một thị trường lớn và đầy tiềm năng như Mỹ. Vậy đâu là nguyên nhân khiến các doanh nghiệp Việt nam không phát huy được tối đa năng lực của mình? Đầu tiên, phải kể đến là sự chênh lệch rất lớn ở trình độ phát triển kinh tế của hai nước, lại có những điểm rất khác nhau về thể chế chính trị- xã hội, về quan điểm, tập quán, sở thích, thị hiếu người tiêu dùng…chính những nhân tố này không được tính đến đầy đủ sẽ gây khó khăn trong khi giải quyết các mối liên hệ trong quá trình làm ăn với Mỹ. Mỹ là một đối tác quá lớn, quá hùng mạnh, vận hành theo cơ chế thị trường từ khi lập quốc. Nước Mỹ có 50 tiểu bang, ngoài luật của liên bang, mỗi tiểu bang đều có luật của mình…Hệ thống luật của Mỹ rất phức tạp, do đó hầu hết các doanh nghiệp khi muốn kinh doanh trên thị trường Mỹ đều phải thuê luật sư, mà chi phí luật sư lại rất đắt, nên thông thường là nhờ tư vấn. Trong khi đó, Việt nam mới chuyển sang kinh tế thị trường trong một thời gian ngắn. Cơ chế thị trường còn sơ khai, chưa phát triển, hệ thống chính sách chưa đồng bộ, môi trường pháp lý chưa hoàn thiện, sự am hiểu về kinh tế thị trường của bộ máy quản lý và doanh nghiệp còn hạn chế. Thêm vào đó, Mỹ lại là một quốc gia phát triển mạnh nhất về công nghệ thông tin, do đó khi tham gia vào thị trường Mỹ các doanh nghiệp Việt nam phải làm việc với những đối tác có thể hiểu rõ về mình nhờ thông tin từ nhiều nguồn, nhất là trên mạng. Trong khi đó, việc không nắm bắt được những thông tin về thị trường, về luật lệ, cung cách kinh doanh của người Mỹ vẫn là một trở ngại lớn cho các doanh nghiệp Việt nam. Chính những điều này chẳng những có thể dẫn đến việc bỏ lỡ cơ hội trong kinh doanh mà đôi khi còn bị thiệt thòi bởi những lý do không đáng có. Thứ hai, phải nhìn nhận rằng, tính cạnh tranh về giá cả và chất lượng của hàng xuất khẩu Việt nam còn thấp, cộng thêm thời gian vận chuyển hàng hoá sang Mỹ dài ngày (thường là xuất khẩu gián tiếp qua nước thứ ba) chi phí lớn sẽ làm giảm thêm khả năng cạnh tranh của hàng hoá. Hàng hoá Việt nam xuất khẩu sang thị trường Mỹ hiện nay chủ yếu là lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng, mà Mỹ lại đòi hỏi chất lượng cao và rất khắt khe với đối với các mặt hàng này. Bên cạnh đó, trình độ công nghệ lạc hậu, chuyên môn người lao động chưa cao cộng thêm mẫu mã, kiểu dáng đơn điệu ít được chú trọng cải tiến thực sự nên chưa đáp ứng được thị hiếu tiêu dùng của số đông người dân Mỹ. Tất cả những điều này làm cho sản phẩm của chúng ta còn kém về chất lượng, xấu về hình thức, khó lòng cạnh tranh với biết bao bạn hàng mậu dịch của Mỹ từ các nước Nam mỹ, Trung quốc; từ các nước công nghiệp mới (NIC); các nước Asean… Thứ ba, điều này thuộc về một trong những nét khác biệt của thị trường Mỹ là quy mô đơn hàng của họ thường rất lớn. Các nhà phân phối của Mỹ thường thiết lập hệ thống phân phối toàn cầu. Nghĩa là không chỉ bán ở Mỹ mà theo các kênh đi khắp thế giới. Đơn hàng của họ thường lớn, nên nhiều doanh nghiệp Việt nam sang Mỹ tìm hiểu thị trường không ký được hợp đồng do không đáp ứng được yêu cầu này. Thí dụ, khi đối tác Mỹ đặt hàng 2 triệu sơ mi tơ tằm, một doanh nghiệp Việt nam đành lắc đầu và than thở với thương vụ rằng: một năm chúng tôi làm hết sức chỉ được 500 ngàn chiếc. Thứ tư, phương thức giao dịch kinh doanh trên thị trường Mỹ rất đa dạng, hiện đại. Việc bán hàng trên Internet đã được sử dụng. Công ty không có cửa hàng, siêu thị, mà chỉ có một kho chứa hàng và một Website. Khách hàng muốn mua hoặc giao dịch gì cứ vào Website rồi gọi đến công ty, sẽ có người đem hàng ở kho đến giao tận nhà. Hiện nay rất nhiều cửa hàng, siêu thị của Mỹ chuyển đổi sang hình thức kinh doanh này kết hợp với hình thức bán hàng ở cửa hàng truyền thống. Các doanh nghiệp Việt nam, có lẽ phải mất một thời gian dài nữa mới có thể tham gia vào cách bán hàng kiểu mới này. Nhưng ngay từ bây giờ phải nhận thức được xu thế để chuẩn bị sẵn sàng hoà nhập nếu không muốn bỏ lỡ nhiều hơn nữa những cơ hội kinh doanh hấp dẫn. Thứ năm, tư vấn là tập quán của các công ty Mỹ và thị trường Mỹ khi vào Việt nam làm ăn, họ cũng sử dụng các công ty tư vấn ở Việt nam giúp họ mua hàng hoá, chỉ định nhà sản xuất hàng hoá theo yêu cầu, tiếp cận nguồn nguyên vật liệu hoặc cách thành lập một doanh nghiệp ở Việt nam. Ngược lại, các doanh nghiệp Việt nam sang Mỹ chào hàng nếu muốn chắc ăn cũng cần sử dụng tư vấn. Hiện nay có rất nhiều công ty tư vấn đến hỏi thương vụ: Anh có muốn tiếp cận thị trường chè/ thị trường may mặc không? Bỏ tiền ra tôi làm cho. Nhưng trên thực tế, các doanh nghiệp Việt nam rất ít có cơ hội sử dụng những dịch vụ tư vấn này, chủ yếu là do tiềm lực tài chính nhỏ bé. Vì vậy thường là “ mò” hoặc thụ động chờ các nhà nhập khẩu, phân phối đến đặt hàng. Họ rất ít có cơ hội tiếp cận được với những nhà nhập khẩu, phân phối trực tiếp. Điều này cũng là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến việc giá cả của hàng hoá bị đội lên cao và mẫu mã không linh hoạt, phù hợp với yêu cầu của thị trường nhập khẩu. Thứ sáu, các doanh nghiệp Việt nam không nắm rõ hệ thống các nhà nhập khẩu, phân phối chính thức đối với một số các mặt hàng lớn, có thế mạnh xuất khẩu như dệt may, da giầy, hàng nông sản (cà phê, điều, lạc, gạo…), các mặt hàng thuỷ hải sản …Không (hoặc rất ít) nhận được những thông tin có tính chất hệ thống về một chủng loại mặt hàng cụ thể. Từ đó mà không có được phương thức thâm nhập, tiếp cận tìm hiểu thị trường hợp lý. Có thể kể ra một số nhữnh nhà nhập khẩu, phân phối chính ở Mỹ đối với nhóm mặt hàng nêu trên như sau: Các mặt hàng giầy dép, quần áo phần lớn do các siêu thị như Kamart, Wal-mart nhập khẩu hoặc các công ty xuyên quốc gia chuyên kinh doanh như Rebock, Nike. Cà phê, điều, tiêu, hải sản…ở Mỹ có nhu cầu rất lớn và họ cũng mua trực tiếp của Việt nam (riêng niên vụ cà phê 1999-2000, Mỹ trở thành khách hàng lớn nhất của Việt nam, nhập khẩu 119 ngàn tấn, chiếm 20.08% tổng lượng cà phê xuất khẩu của Việt nam ). Mua hàng nông sản là công ty Cargill có hệ thống phân phối toàn cầu (doanh thu hàng năm khoảng 80 tỷ USD). Thứ bẩy, một điều rất quan trọng là muốn gia nhập thị trường Mỹ thì các doanh nghiệp Việt nam phải biết đối thủ cạnh tranh với họ là ai?. Phải bỏ đi quan niệm cho rằng chỉ có doanh nghiệp lớn mới mới có thể thành công trên thương trường Mỹ. Điều quan trọng là các doanh nghiệp phải nhìn thị trường theo hướng lâu dài để có chiến lược thích hợp chứ không nên kỳ vọng hễ hiệp định thương mại được Quốc hội hai nước phê chuẩn thì hàng hoá Việt nam có thể bán chạy ở Mỹ. Mặc dù triển vọng mở ra là rất lớn (như đã nêu ở phần 2-chương 1), tuy nhiên kể cả đối vối những mặt hàng xuất khẩu chiến lược, những khó khăn còn tồn tại cũng không phải là ít, có thể kể ra như sau: Mặt hàng nông sản, hải sản chiếm khoảng 50% giá trị kim ngạch xuất khẩu của Việt nam sang Mỹ, trong khi đó hiện nay các mặt hàng như cà phê, hạt điều, hải sản cũng đã được hưởng thuế suất ưu đãi là 0% khi nhập khẩu vào thị trường Mỹ. Do vậy việc ký hiệp định thương mại song phương vừa qua giữa hai nước cũng không có ảnh hưởng gì lớn đến sức cạnh tranh của các mặt hàng này ở thị trường Mỹ. Điều cần chú ý và quan tâm ở đây không phải là vấn đề về thuế quan mà là vấn đề chất lượng và tiêu chuẩn hàng hoá của các doanh nghiệp Việt nam có đáp ứng và phù hợp với các yêu cầu của thị trường Mỹ hay không. Đối với mặt hàng gạo: sau khi hiệp định thương mại Việt nam- Hoa kỳ có hiệu lực thì thuế nhập khẩu gạo từ Việt nam vào Hoa kỳ sẽ được giảm mạnh từ 5.5 cent/kg xuống còn 1.8 cent/kg, nhưng cơ hội xuất khẩu gạo của Việt nam vào thị trường Mỹ sẽ rất ít bởi vì trên thực tế Mỹ cũng đã từng là nước xuất khẩu gạo lớn trên thế giới. Khi Việt nam được hưởng quy chế thương mại bình thường của Mỹ thì các mặt hàng như giầy dép và dệt may tuy sẽ có nhiều thuận lợi nhất khi xuất khẩu sang Mỹ vì mức thuế nhập khẩu của các mặt hàng này vào thị trường Mỹ sẽ được giảm khoảng 10% đến 25%. Tuy nhiên, khó khăn đặt ra cũng sẽ không ít bởi vì mặt hàng này cũng là thế mạnh của một số nước trong khu vực Châu á như Trung quốc, Thái lan . Vì vậy việc tăng sức cạnh tranh để nâng cao thị phần của hàng Việt nam trên thị trường Mỹ không phải là việc dễ làm. Xác định rõ như vậy để tránh trường hợp một số doanh nghiệp quá trông chờ, ỷ lại vào hiệp định, không tự vận động tìm cơ hội cho mình. Thêm vào đó, giữa lúc có vẻ như nhiều cửa ngõ đã thông thoáng, rộng mở cho hàng Việt nam thì bất nhờ ngày 11/9 hàng loạt các vị trí biểu tượng cho sức mạnh quân sự và kinh tế Mỹ bị tấn công làm cho thị trường Mỹ và thế giới chao đảo. ảnh hưởng của cuộc tấn công này đã lan toả đến Việt nam. Nếu trước kia suy thoái kinh tế Mỹ chỉ đụng đến sản phẩm kỹ thuật cao và tư liệu sản xuất chứ chưa đụng chạm đến sự tiêu pha của người dân Mỹ nên chưa ảnh hưởng đến xuất khẩu của Việt nam thì vụ tấn công hôm 11/9 vừa qua đã buộc người dân phải dè sẻn chi tiêu để đối phó lại với những tình huống xấu mà không ai dám đảm bảo là sẽ không xảy ra, trong khi hàng Việt nam xuất khẩu sang Mỹ chủ yếu là hàng tiêu dùng. Đồng USD suy yếu sẽ giảm sức hấp dẫn với hàng xuất khẩu Việt nam sang Mỹ. Mặt khác, hàng Việt nam xuất khẩu sang Mỹ chủ yếu qua hai con đường là hàng không và hàng hải. Tất cả những loại thực phẩm tươi sống như tôm, cá, đùi ếch, rau quả tươi…đều được vận chuyển bằng đường không. Để nâng cao năng lực vận chuyển, ngày 18/7/2001 Vietnam Airlines và American Airlines đã ký một hợp đồng liên doanh bay và chuyển giao công nghệ. Nhưng như chúng ta đã biết vụ tấn công hôm 11/9 có hai chiếc máy bay: một đâm vào toà nhà phía Bắc của trung tâm thương mại thế giới, một đâm vào Lầu năm góc đều của American Airlines. Sự cố này làm American Airlines thiệt hại hàng tỷ USD , hãng đã phải cắt giảm 20% chuyến bay và sa thải hàng ngàn nhân công. Chắc chắn liên doanh bay mà hai bên vừa ký hai tháng trước đây chịu ảnh hưởng rất nặng nề. Vì vậy, giờ đây cánh cửa vào thị trường Mỹ trở nên khó khăn hơn đối với các doanh nghiệp. Thực tế ôngWalter Block –Phó chủ tịch phòng thương mại Mỹ tại TP.Hồ Chí Minh (Amcham) cho biết việc vận chuyển hàng sang Mỹ sẽ chậm trễ hơn, thậm chí đơn đặt hàng có thể bị hoãn hoặc huỷ bỏ. Theo dự đoán thì phần lớn các doanh nghiệp Việt nam đang xuất khẩu nông sản, thuỷ sản, dệt may, giầy dép đang bị đe dọa bởi sức mua của người tiêu dùng Mỹ giảm sút ít nhất cho đến hết năm 2001. Trên đây là một số nét lớn trong quá trình đáp ứng nhu cầu thị trường Mỹ của các doanh nghiệp Việt nam cũng như một số vấn đề nổi cộm khi xuất khẩu hàng hoá sang Mỹ. Cộng thêm một vài lưu ý trong văn hoá kinh doanh và thị hiếu tiêu dùng của người Hoa kỳ đã nêu ở phần chương 1 sẽ phần nào giúp các doanh nghiệp Việt nam có cái nhìn tổng thể đúng đắn hơn, rút kinh nghiệm được những sai lầm, thiếu sót để tiếp cận thị trường Mỹ có hiệu quả hơn. Đồng thời việc nhận thức một cách đúng đắn tình hình, xu thế mới sẽ giúp các doanh nghiệp chủ động hơn trong việc đưa ra các mục tiêu chiến lược trong quá trình hoạt động kinh doanh của mình. 3. Một số giải pháp nhằm tăng cường xuất khẩu hàng hoá Việt nam sang Mỹ Mặc dù còn tồn tại nhiều khó khăn lớn song Mỹ vẫn được coi là thị trường hấp dẫn đối với nhiều doanh nghiệp Việt nam. Họ tin tưởng rằng với sức mạnh cả về kinh tế và chính trị tình hình nước Mỹ sẽ được cải thiện sáng sủa hơn trong một thời gian không xa. Khi đó cơ hội kinh doanh mở ra là rất lớn và dĩ nhiên là lợi nhuận dự kiến thu được cũng không phải là nhỏ. Nhưng vấn đề đặt ra là làm thế nào để thâm nhập vào thị trường Mỹ một cách có hiệu quả, tránh được rủi ro và gây được uy tín ngay từ những ngày đầu là câu hỏi mà trả lời nó không phải dễ dàng, liên quan đến cả hai phía: Nhà nước và doanh nghiệp 3.1.Về phía Nhà nước. 3.1.1. Về quy chế xuất nhập khẩu: Tiếp tục mở rộng hơn nữa quyền kinh doanh xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp.Theo cơ chế mới thì tất cả các thương nhân đã đăng ký hoạt động, mua bán hàng hoá trong giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh sẽ được phép nhập khẩu mọi loại hàng hoá, trừ những mặt hàng mà nhà nước cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu, cấm kinh doanh. 3.1.2. Về công tác thị trường ngoài nước sẽ tập trung thực hiện những việc chủ yếu sau: Tạo khung pháp lý thuận lợi cho hàng xuất khẩu của Việt nam vào thị trường nước ngoài, tăng cường các biện pháp thâm nhập thị trường cho hàng xuất khẩu. Khuyến khích và hỗ trợ các doanh nghiệp xăy dựng ở nước ngoài mạng lưới đại lý, phân phối hàng, kho ngoại quan, trung tâm trưng bày sản phẩm; áp dụng các phương thức mua bán linh hoạt như gửi bán, thanh toán chậm, đổi hàng phù hợp với từng mặt hàng, từng thị trường, cử đại diện tại thị trường nước ngoài hoặc lập công ty pháp nhân nước sở tại để chuyên nhập khẩu hàng Việt nam, khuyến khích và hỗ trợ cộng đồng người Việt nam ở nước ngoài nhập khẩu hàng Việt nam. Nhà nước hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp cố gắng đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại, xây dựng một vài trung tâm thương mại, quảng cáo, tham gia triển lãm, hội trợ…đối với từng mặt hàng, từng thị trường . Nâng cao trách nhiệm và năng lực của cơ quan và tổ chức làm công tác thị trường ngoài nước. Gắn công tác của Viện nghiên cứu thương mại (BTM) với hoạt động của các doanh nghiệp xuất khẩu. Có chính sách và biện pháp để các doanh nghiệp đặt hàng cho Viện các đề tài nghiên cứu về thị trường và mặt hàng xuất khẩu. Cùng với việc củng cố các cơ quan thương vụ Việt nam hiện có ở nước ngoài, mở thêm một số cơ quan ở các địa bàn mới… Nâng cao trách nhiệm và tạo điều kiện để Cục xúc tiến thương mại (BMT) phát huy vai trò hỗ trợ và hướng dẫn các doanh nghiệp trong các hoạt động xúc tiến thương mại. Hỗ trợ các doanh nghiệp đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại. Hỗ trợ và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp ra nước ngoài kể cả việc tháp tùng các đoàn cấp cao của Đảng, Nhà nước, để thâm nhập thị trường phát triển kinh doanh xuất khẩu. Phối hợp và hỗ trợ các nghành, địa phương và doanh nghiệp xây dựng chiến lược Marketing cho từng nghành hàng, mặt hàng quan trọng và tham gia các hội trợ, triển lãm và các hoạt động xúc tiến thương mại ở nước ngoài. Có cơ chế tiếp xúc và tham vấn định kỳ giữa BTM và các doanh nghiệp, các hiệp hội ngành hàng về các vấn đề có liên quan đến xuất nhập khẩu. Bước đầu xây dựng cơ sở pháp lý cho thương mại điện tử, tổ chức đào tạo nhân lực cho lĩnh vực này. Khuyến khích, tạo điều kiện và tăng cường quan hệ với các cơ quan chức năng, báo chí đối ngoại và các doanh nghiệp, đẩy mạnh tuyên truyền đối ngoại phục vụ mục tiêu tăng trưởng xuất khẩu. Tổ chức tốt việc thu thập, xử lý và cung cấp thông tin thương mại cho các doanh nghiệp. Tổ chức cung cấp định kỳ hàng năm, hàng quý các ấn phẩm về thị trường hàng hoá thế giới cho các doanh nghiệp. Xây dựng kênh thông tin thương mại thông suốt từ các cơ quan thương vụ Việt nam ở nước ngoài, BTM đến các Sở thương mại và các doanh nghiệp. Ngoài việc cung cấp thông tin theo phương thức hỗ trợ của nhà nước cho các doanh nghiệp, cần thực hiện thương mại hoá thông tin và áp dụng các phương thức linh hoạt nhằm đáp ứng nhu cầu cụ thể, kịp thời của các doanh nghiệp. Sớm xây dựng và ban hành cơ chế về công tác thị trường ngoài nước, trong đó xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước có liên quan ở trung ương cũng như địa phương và trách nhiệm của doanh nghiệp; quy chế phối hợp giữa các cơ quan có trách nhiệm và doanh nghiệp trong công tác thị trường ngoài nước. Đồng thời, Nhà nước có chính sách cụ thể bảo đảm các điều kiện vật chất và tài chính để thực hiện trách nhiệm được giao trong công tác thị trường ngoài nước. 3.1.3.Về các thủ tục hành chính và hải quan: Bỏ việc buộc phải kiểm dịch, xuất xứ hàng hoá (C/O), nếu Việt nam không có nghĩa vụ thực hiện theo các thoả thuận song phương, đa phương mà Việt nam ký kết; bỏ yêu cầu về chứng minh nguồn gốc hàng hoá xuất khẩu hoặc nguồn gốc nguyên liệu sản xuất ra hàng xuất khẩu, nếu không liên quan đến việc hoàn thuế, cho phép xuất khẩu hàng hoá qua những nơi không phải là cửa khẩu quốc tế, quốc gia; không thu thuế, kể cả tạm tính đối với hàng hoá xuất khẩu bị trả lại để tái chế rồi lại xuất khẩu. Tiếp tục áp dụng những biện pháp mới mà ngành hải quan đã thực hiện và đem lại kết quả tốt trong thời gian qua. 3.1.4. Về sự hỗ trợ của chính phủ và các chính sách thuế, tín dụng liên quan đến hoạt động xuất nhập khẩu: Đề nghị chính phủ hỗ trợ trong việc đầu tư chế biến hàng xuất khẩu, đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, hạ tầng và công tác thị trường ngoài nước công tác xúc tiến thương mại cho hoạt động xuất khẩu… Đẩy mạnh quá trình cải cách thuế bước hai, trong đó có việc hoàn chỉnh thuế xuất nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt. Có chính sách ưu đãi cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu như hỗ trợ tín dụng, rủi ro, các khó khăn về tài chính thông qua quỹ hổ trợ xuất khẩu hoặc ngân hàng xuất nhập khẩu. Tiếp tục thực hiện tốt chính sách thưởng xuất khẩu để khuyến khích doanh nghiệp. Đẩy mạnh cải cách hành chính, phân định rõ chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan quản lý Nhà nước đối với hoạt động thương mại, tăng cường kỷ luật hành chính và xử lý nghiêm đối với các cơ quan, công chức không thực hiện đúng luật pháp, chính sách trong hoạt động xuất nhập khẩu. 3.2.Về phía doanh nghiệp. Cùng với sự cố gắng của Nhà nước, doanh nghiệp Việt nam phải nhanh chóng khắc phục tư tưởng ỷ lại và ngay từ lúc này phải tìm mọi biện pháp nâng cao chất lượng sản phẩm , mẫu mã, giảm giá thành, nâng cao năng suất và hiệu quả sản xuất, điều chỉnh cơ cấu sản xuất và cơ cấu mặt hàng xuất khẩu, xây dựng chiến lược phát triển thương hiệu của sản phẩm, xây dựng thêm nguồn hàng và chân hàng để đảm bảo cung cấp ổn định cho thị trường, chú trọng đẩy mạnh công tác Marketing, dịch vụ, giữ uy tín cho doanh nghiệp và cho sản phẩmViệt nam…Toàn bộ những việc làm đó, nếu được thực hiện tốt sẽ giúp nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm Việt nam trên thị trường quốc tế và ngay trên thị trường Việt nam. Sau đây là một vài phân tích để rút ra các bước đi có thể sẽ giúp ích phần nào cho các doanh nghiệp Việt nam trong việc tiếp cận thị trường này như sau: Trước hết, có thể thấy rằng cùng với sự gia tăng xuất khẩu là tạo ra việc làm từ nhiều sản phẩm và dịch vụ khác nhau, kể cả du lịch sẽ góp phần tích cực để nâng cao tốc độ tăng trưởng kinh tế. Về lâu dài, việc quan hệ trực tiếp với các doanh nghiệp Mỹ cho phép các doanh nghiệp Việt nam tiếp cận trực tiếp với công nghệ tiên tiến, hiện đại; với nền kinh tế tri thức, các trường đại học và viện nghiên cứu tiên tiến. Đồng thời nó cũng cho phép các doanh nghiệp Việt nam có thể tiếp cận và học hỏi nhiều mặt từ các đồng nghiệp Mỹ trong sản xuất, kinh doanh, quản lý… Để tận dụng và khai thác có hiệu quả các nguồn lợi đó, các doanh nghiệp Việt nam phải có ngay một chương trình hành động cụ thể: bắt đầu từ việc nâng cao trình độ tiếng Anh thương mại, chuẩn bị làm việc trong môi trường tiếng Anh là chủ yếu; nghiên cứu luật pháp liên bang và các bang của Mỹ; xây dựng quan hệ thương mại; tìm kiếm đối tác, tổ chức tiếp thị…để ký kết hợp đồng với các doanh nhân và doanh nghiệp Mỹ trong quan hệ xuất nhập khẩu. Phải bằng mọi cách tìm hiểu thị trường Mỹ, khai thác mọi thông tin có liên quan đến thị trường này từ các nguồn như tổ chức xúc tiến thương mại, tham tán thương mại, mạng Internet, Việt kiều đang sinh sống làm ăn tại Mỹ, các thương gia, nhà doanh nghiệp Mỹ đến làm ăn ở Việt nam … Các doanh nghiệp nên theo dõi, tranh thủ cơ hội để cử người của mình đi tham dự các cuộc hội thảo về quan hệ thương mại Việt –Mỹ, hiệp định thương mại Việt- Mỹ; ở đó nhiều chuyên gia kinh tế và cả những luật sư Mỹ nói chuyện về cách thức tiếp cận thị trường này,về những đặc tính của người Mỹ cần chú ý khi đàm phán, thương lượng và đặc biệt là những bước đi cụ thể khi thâm nhập vào thị trường Mỹ như: thủ tục nhập khẩu, cách lập hoá đơn, giới thiệu các kênh phân phối, lập kế hoạch tiếp thị, giao tiếp và đàm phán… Cao hơn nữa, nếu có điều kiện các doanh nghiệp Việt nam có thể tổ chức các đoàn khảo sát đi Mỹ để trực tiếp tìm hiểu thị trường. Kinh nghiệm của một số công ty đã làm ăn với Mỹ cho thấy thương mại điện tử là phương pháp tiếp cận thị trường Mỹ ngắn nhất, giúp doanh nghiệp làm ăn trực tiếp mà không phải qua nhiều tầng nấc trung gian. Muốn vậy các doanh nghiệp Việt nam phải có địa chỉ Email, Website để giới thiệu về doanh nghiệp của mình cũng như những mặt hàng mà doanh nghiệp sẽ xuất vào Mỹ. Bước thứ hai là học tập kinh nghiệm của các nước bạn. Lịch sử thương mại và kinh tế thế giới cho thấy Mỹ giúp Nhật bản, Hàn quốc và một số nước khác ở khu vực Đông Nam á khôi phục lại sức mạnh công nghiệp trong quá trình tái thiết đất nước. Họ đã phát triển và nâng cao được kỹ năng chế tạo, sản xuất hàng hoá; như Nhật bản đã dành được uy tín sản xuất một số sản phẩm chất lượng cao nhất trên thị trường thế giới với mọi mức giá. Trung quốc, Đài loan, Thái lan kinh doanh các loại quần áo cho nam gới, phụ nữ và trẻ em ở Mỹ với chất lượng cao giá cả thấp. Các loại hàng hoá công nghệ cao như máy tính, tivi và các dụng cụ gia đình của họ tràn ngập thị trường Mỹ vì chúng được người tiệu dùng Mỹ chấp nhận. Điều này khiến cho Mỹ phải dùng chiêu bài “ nhân quyền” và khẩu hiệu “ người Mỹ mua đồ Mỹ” để đấu tranh hạn chế bảo hộ hàng nội địa. Những điều trên cho thấy, với người tiêu dùng Mỹ thì chất lượng, mẫu mã, giá cả đều có vai trò như nhau trong việc xác định giá trị hàng hoá. Vì vậy, song song với việc tiếp cận thị trường các doanh nghiệp phải chú trọng nâng cao năng lực hoạt động của mình để tạo ra những sản phẩm đáp ứng được yêu cầu của thị trường cụ thể là Mỹ. Một số việc cần làm như: đào tạo nguồn nhân lực, đặc biệt là đội ngũ cán bộ ngoại thương lành nghề; ứng dụng công nghệ mã số, mã vạch vào hoạt động của các doanh nghiệp; sử dụng hệ thống chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế trong doanh nghiệp ( ISO) nâng cao chất lượng vệ sinh thực phẩm bằng cách sử dụng hệ thống HACCP (HACCP: Hazard Analysis Critical Control Point- phân tích nguy cơ và kiểm soát các khâu trọng yếu). Sản phẩm với chất lượng tốt, giá cả hợp lý, mẫu mã phong phú là cơ sở để doanh nghiệp trụ lại được trên thị trường. Bước thứ ba, để vào được thị trường lớn mạnh về tiêu thụ này các doanh nghiệp không những phải nắm rõ về nhu cầu thị trường, thị hiếu người tiêu dùng và đảm bảo sản phẩm có sức cạnh tranh về chất lượng cũng như giá cả mà còn phải thông thạo về hệ thống hạn nghạch và luật pháp về thương mại của Mỹ. Mỹ có một hệ thống luật pháp về thương mại vô cùng rắc rối và phức tạp. Để nắm được cung cách làm ăn của người Mỹ các doanh nghiệp Việt nam phải tìm hiểu, nghiên cứu các luật lệ của họ ở cả liên bang và từng tiểu bang. Tại Mỹ, bộ luật thương mại (Uniform Commercial Code) được coi là xương sống của hệ thống pháp luật về thương mại. Bên cạnh đó là hàng loạt các luật khác, trong đó đặc biệt đáng chú ý là luật về trách nhiệm sản phẩm (Product Liability Law) theo đó, nhà sản xuất và người bán hàng chịu trách nhiệm đối với người tiêu dùng về chất lượng hàng hoá được bán trên thị trường Mỹ. Tại đất nước này quyền lợi của người tiêu dùng được đặt lên hàng đầu, có không ít trường hợp do khinh suất mà các nhà xuất khẩu đã phải trả giá quá đắt cho các vụ kiện cáo của người tiêu dùng. Chính vì vậy các doanh nghiệp Việt nam phải hết sức thận trọng, tìm hiểu kỹ các luật lệ kinh doanh của họ, nếu cần phải thuê cả luật sư Mỹ cho dù giá cả dịch vụ tư vấn ở Mỹ là khá đắt. Việc đụng chạm với người tiêu dùng ở nước sở tại là thiếu khôn ngoan. Để có một phi vụ xuất khẩu thành công, trước khi xuất khẩu hàng sang Mỹ, các doanh nghiệp cần phải hiểu biết kỹ về: Các quy định đặc biệt áp dụng cho từng giai đoạn xuất khẩu. Sản phẩm phù hợp. Thị trường, bao gồm: kinh nghiệm mua và bán ở nước ngoài, tính không ổn định của thị trường, chất lượng hàng hoá, ai chi phối thị trường, thị trường ở đâu, tìm kiếm khách hàng tiềm năng ở đâu… Tính hết chi phí cho một phi vụ. Quan hệ tốt với nhà phân phối sản phẩm. Cơ cấu giá bán buôn và bán lẻ. Vốn lưu động tương xứng. Lợi thế cạnh tranh của bạn… Bước bốn sẽ quan tâm là làm thế nào sản phẩm vào được thị trường Mỹ. Trước khi có được hợp đồng xuất khẩu, một vấn đề không thể thiếu đó là đàm phán ký kết hợp đồng. Dù đã chuẩn bị chu đáo mà trong khâu đàm phán mà ta bộc lộ sơ xuất thì rất có thể cơ hội kinh doanh sẽ thất bại. Vậy làm thế nào để đàm phán thành công?. Không có cách nào tốt hơn là phải nắm rõ phong cách đàm phán của đối tác, hiểu được nhu cầu của họ là gì để có phương án đáp ứng, thoả mãn thích hợp. Như đã nói qua ở phần trước, điểm nổi bật trong cách đàm phán của người Mỹ là đi thẳng vào vấn đề, bỏ qua lời lẽ rườm rà, họ muốn nhanh chóng định đoạt thương vụ. Nếu thấy không có khả năng buôn bán với đối tác họ sẽ chấm dứt ngay và dành thời gian để tiếp xúc, thương lượng,với người khác. Vì vậy, khi cử người đi đàm phán với doanh nhân Mỹ các doanh nghiệp nên chú ý: không được trễ hẹn, phải đàm phán bằng tiếng Anh, đi ngay vào vấn đề, khi đàm phán phải chuẩn bị chu đáo mọi tài liệu, thông tin liên quan… Sau khi ký được hợp đồng, để cho hàng hoá có thể vào được thị trường Mỹ một cách suôn sẻ, cần phải biết, nắm rõ quy trình nhập khẩu hàng hoá vào Mỹ, mua bảo hiểm rủi ro khi xuất khẩu sang thị trường Mỹ. Về mặt thực tế, công việc bán hàng tại Mỹ còn ảnh hưởng đền nhiều vấn đề liên quan tới văn hoá -xã hội của người Mỹ. Do đó không phải sản phẩm hàng hoá nào cũng bán được. Kinh nghiệm cho thấy các nhà sản xuất Việt nam nên quan tâm đến các mặt hàng dễ bán và khó bán ở thị trường này: Hàng dễ nhập khẩu: những sản phẩm này xuất khẩu vào Mỹ có thủ tục đơn giản, ít phụ thuộc quy định hạn chế, cấm cản liên quan đến giấy phép, thủ tục hải quan: đồ gia dụng, đồ dùng nấu ăn, tác phẩm nghệ thuật ( nguyên gốc), dao kéo, hoa nhân tạo, lông thú nhân tạo, đá chạm và đá quý, kính và các sản phẩm kính, đồ trang sức, các sản phẩm da thuộc (không phải da lấy từ loài thú quý hiếm), dụng cụ thắp sáng đặt cố định, nhạc cụ, cao su và các sản phẩm chế từ cao su, các sản phẩm thể thao, ô che. Hàng khó nhập khẩu: dược phẩm, gia cầm và sản phẩm gia cầm, thịt gia súc và các sản phẩm của nó, đồ chơi, động vật sống, hàng dệt may và các sản phẩm dệt may, thực phẩm chế biến chịu nhiều thủ tục hải quan phức tạp, cần có xác nhận, có nhãn hiệu minh bạch, chịu sự kiểm tra nghiêm ngặt của luật bảo vệ và an toàn. Thêm vào đó, có thể nghiên cứu để tận dụng triệt để những ưu đãi mà các nước phát triển dành cho các nước đang phát triển: có thể bằng cách gia công hàng xuất khẩu cho các nước được hưởng chế độ thuế quan ưu đãi phổ cập (GSP) của Hoa kỳ (hiện nay Việt nam chưa được hưởng). Song đây chỉ là con đường vòng bất đắc dĩ, mục tiêu lâu dài của chúng ta là phải đạt được quy chế này từ Mỹ. Khi đó, hàng Việt nam xuất khẩu sang Mỹ sẽ được hưởng mức thuế suất là 0% hoặc nếu có thì cũng thấp hơn mức hiện giờ rất nhiều. Nhìn chung, tất cả những doanh nghiệp muốn thâm nhập và thâm nhập thành công thị trường Mỹ cần phải làm rất nhiều việc, thực hiện qua nhiều bước. Vấn đề là phải thực hiện các bước đó như thế nào, cân đối ra sao cho phù hợp với từng doanh nghiệp, từng mặt hàng xuất khẩu cụ thể. lời kết Với quy mô thị trường lớn, đa dạng, có tiềm lực KH-CN tiên tiến…Mỹ là thị trường tiềm năng của hầu hết các nhà xuất khẩu trên thế giới, trong đó có Việt nam. Hiệp định thương mại Việt-Mỹ được ký kết là một tin vui, là cơ hội đồng thời cũng là thách thức lớn cho các doanh nghiệp Việt nam. Hiệp định đã trở thành cơ sở đánh dấu một bước tiến mới giữa hai quốc gia trên con đường bình thường hoá mọi quan hệ, mặc dù có những điều không vui của quá khứ. Tất nhiên, đối với người Việt nam, vết thương chiến tranh do Mỹ gây ra trên đất nước mình khó mà lành lặn hoàn toàn trong một sớm một chiều, song cuộc sống bao giờ cũng hướng về tương lai. Thượng viện Mỹ thông qua hiệp định thương mại Việt-Mỹ ( rạng sáng ngày 4-10-2001) trong một tình thế khá đặc biệt –những xáo trộn về chính trị, tâm lý, kinh tế …- thách thức nước Mỹ từ ngày 11-9-2001, thách thức nhiều nước khác và thách thức cả hành tinh. Không một người Việt nam nào cho rằng với hiệp định thương mại Việt-Mỹ, quan hệ qua lại giữa hai nước đột ngột biến đổi. Không hề có chuyện đó. Ký một hiệp định như hiệp định thương mại Việt –Mỹ, người Việt nam hiểu rằng sân chơi tuy có rộng hơn, lại không dễ dãi chút nào. Việt nam không mong chờ ở hiệp định một phép màu, không ảo tưởng và không cầu xin được cho không. Việt nam phấn đấu để được phồn vinh, hiệp định thương mại Việt –Mỹ chắc sẽ góp một phần vào sự triển khai ấy, nhưng Việt nam luôn kiên trì quyền lợi quốc gia, chủ quyền dân tộc- đó những thứ không thể bị đánh đổi bằng bất cứ cái gì. “Hàng Việt nam vào Mỹ - đường đi không chỉ có hoa hồng” có lẽ là một lời tựa hợp lý nhất phản ánh, lột tả được tâm trạng các nhà xuất khẩu Việt nam hiện nay khi có ý định kinh doanh ở Hoa kỳ. Tuy nhiên như trên đã phân tích: với một cơ cấu hàng xuất khẩu chiến lược, có tiềm năng, có sức cạnh tranh lớn cùng với những bước tiếp cận thị trường hợp lý, chậm nhưng chắc có thể khẳng định các doanh nghiệp Việt nam vẫn còn cơ hội rất lớn để thành công trên thị trường Mỹ. Mục lục Lời mở đầu Chương1: Giới thiệu về thị trường Mỹ và triển vọng xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang Mỹ Giới thiệu khái quát về thị trường Mỹ Văn hoá kinh doanh và thị hiếu của người Hoa Kỳ Đặc điểm và vài nét khác biệt của thị trường Hoa Kỳ Triển vọng xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam vào thị trường Mỹ Chương2: Thực trạng xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang Mỹ và việc đáp ứng nhu cầu thị trường Mỹ của các DNVN Thực trạng xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang thị trường Mỹ Thực trạng đáp ứng yêu cầu thị trường Mỹ của các DNVN Một số giải pháp nhằm tăng cường xuất khẩu hàng hoá Việt Nam sang Mỹ Về phía Nhà nước Về quy chế xuất nhập khẩu Về công tác thị trường ngoài nước Về các thủ tục hành chính và hải quan Về hỗ trợ của chính phủ và các chính sách thuế, tín dụng Về phía doanh nghiệp Lời kết Danh mục tài liệu tham khảo 1. Sau vụ tấn công 11/9: cánh cửa vào thị trường Mỹ khó khăn hơn. Thương mại Việt nam – Số 27/2001. 2.Pháp luật và chính sách thương mại Hoa kỳ. Thương mại Việt nam- Số 23/2001. 3.Thị trường Mỹ, cửa đã mở, cơ hội đã có nhưng….. Thương mại Việt nam – Số 22/2001. 4.Vài nét về văn hoá kinh doanh của người Mỹ. Thương mại Việt nam – Số12/2001. 5. Giới thiệu luật thương mại Mỹ. Thương mại Việt nam – Số 5/2001. 6. Một số biện pháp để doanh nghiệp và hàng hoá Việt nam thâm nhập thị trường Hoa kỳ. Thương mại Việt nam – Số 1/2001. 7. Thị trường Mỹ có nét khác biệt mà doanh nghiệp Việt nam cần chú ý. Thương mại Việt nam – Số 18/2000. 8. Những đặc điểm của thị trường Mỹ. Thương mại Việt nam – Số 17/2000. 9. Thủ tục nhập hàng vào Mỹ. Thương mại Việt nam – Số 20/2000. 10. Hiệp định thương mại Việt- Mỹ: Những hiểu biết căn bản. Phát triển kinh tế – Số 4/2001. 11. Từ hiệp định thương mại Việt- Mỹ – chuẩn bị hành trang vào thị trường Mỹ. Phát triển kinh tế – Số 3/2001. 12. Quan hệ kinh tế Việt nam - Hoa kỳ từ khi bình thường hoá đến nay. Những vấn đề kinh tế thế giới – Số 8/2000. 13. Hiệp định thương mại Việt- Mỹ- cơ hội và thách thức. Kinh tế Châu á- Thái Bình Dương – Số 9/2000. 14. Hiệp định thương mại Việt nam – Hoa kỳ: cơ hội và thách thức đối với các doanh nghiệp Việt nam. Thông tin tài chính – Số 20/2000. 15. Hàng Việt nam vào Mỹ: đường đi không chỉ có hoa hồng. Kinh tế Sài Gòn – Số 32/2001. 16.Bao giờ hàng ta đổ bộ vào siêu thị Mỹ. Kinh tế Sài Gòn – Số 24/2001. 17. Kỷ yếu hội thảo khoa học. Khoa kinh tế và kinh doanh quốc tế – KTQD.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docA0662.doc
Tài liệu liên quan