Đề tài Thực trạng cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước hiện nay

Để giải quyết một số tồn tại trước mắt tạo tiền đề thuận lợi cho quá trình cổ phần hoá trong tương lai em có đưa ra một số giải pháp như đã trình bày trong bài khoá luận này. Em hy vọng các giải pháp này sẽ góp phần thúc đẩy tiến trình cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước trong những năm tiếp theo.

doc61 trang | Chia sẻ: ndson | Lượt xem: 1015 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
luật có tính pháp lý cao như luật, pháp lệnh về cổ phần hoá . Tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước là một giải pháp cải cách mang tính chất triệt để nhất, cương quyết nhất. Do đó rất cần có văn bản pháp luật có tính pháp lý cao làm cơ sở vững chắc cho việc triển khai thực hiện 3.Nguyên nhân liên quan đến công tác tổ chức bộ máy chỉ đạo Tổ chức bộ máy chỉ đạo thực hiện cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước là một trong những khâu quyết định đến tiến độ của quá trình cổ phần hoá. Cho đến nay vẫn còn là một tồn tại cần phải giải quyết: Việc tổ chức cổ phần hoá chưa đồng đều và rộng khắp. Công tác tổ chức thực hiện cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước trong thời gian qua và ngay cả năm 1998 tiến hành không đồng đều giữa các nghành, các địa phương và tổng công ty nhà nước. Đến nay còn nhiều Bộ, ngành và địa phương chưa có doanh nghiệp nhà nước chuyển sang công ty cổ phần , thậm chí chưa hoàn thành việc đăng ký danh sách doanh nghiệp nhà nước tiến hành cổ phần hoá . Đội ngũ cán bộ chỉ đạo đổi mới doanh nghiệp nhà nước chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra. Số lượng cán bộ kiêm nhiệm còn nhiều nên chưa chú trọng, thiếu chủ động và kiên quyết trong tổ chức triển khai đẩy nhanh cổ phần hoá. Thực tế cho thấy trong những điều kiện tương đương, nơi nào được cấp uỷ, chính quyền quan tâm chỉ đạo thì nơi đó triển khai tốt, ngược lại những bộ, địa phương, tổng công ty tuy có điều kiện thuận lợi nhưng kết quả thực hiện cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước không cao. Điển hình như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, các tỉnh Nam Định, Tuyên Quang, Thanh Hoá, Bình Định, Lâm Đồng là những địa phương triển khai tốt cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước Công tác giám sát và đôn đốc của ban chỉ đạo trung ương đối với công tác cổ phần hoá ở các cơ sở chưa tốt nên chưa có sự khen thưởng động viên, cũng như kỷ luật kịp thời. Hiện tại khi Chính phủ đã giao chỉ tiêu pháp lệnh cho các bộ, nghành, địa phương thì công tác giám sát, đôn đốc càng mang ý nghĩa quan trọng hơn. Công tác phối hợp giữa các cấp chưa cập nhật dẫn đến thiếu thống nhất trong triển khai cổ phần hoá ở các địa phương. 4.Nguyên nhân lựa chọn doanh nghiệp nhà nước để thực hiện cổ phần hoá Tại văn bản pháp lý chính phủ đã nêu rõ: doanh nghiệp nhà nước được chọn để cổ phần hoá phải có điều kiện sau: -Có quy mô vừa -Đang kinh doanh có lãi hoặc trước mắt gặp khó khăn nhưng có triển vọng hoạt động tốt. -Không thuộc diện cần phải giữ lại 100% vốn đầu tư của nhà nước. Đồng thời nói rõ: doanh nghiệp nhà nước có thể thuộc 3 lĩnh vực: sản xuất, lưu thông, và dịch vụ cả ở trung ương lẫn địa phương. Trên thực tế có rất nhiều quan điểm khác nhau về lựa chọn doanh nghiệp nhà nước để thực hiện cổ phần hoá. Đứng trên góc độ đa dạng hoá sở hữu của doanh nghiệp nhà nước có quan điểm cho rằng: bất kỳ doanh nghiệp nhà nước nào cũng có thể được lựa chọn để chuyển thành công ty cổ phần . Đứng trên góc độ nhìn nhận cổ phần hoá như một giải pháp tối ưu để giảm gánh nặng cho ngân sách nhà nước thì có quan điểm cho rằng: chỉ nên cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước làm ăn không có lãi, còn những doanh nghiệp nhà nước đang hoạt động có hiệu quả thì không tội gì cổ phần hoá mà làm giảm đi sức mạnh kinh tế của nhà nước. Đứng trên góc độ phát huy quyền làm chủ tập thể của người lao động thì có quan điểm cho rằng: bất kỳ doanh nghiệp nhà nước cũng có thể thực hiện cổ phần hoá ở những mức độ khác nhau. Chẳng hạn có thể thực hiện cổ phần hoá ở từng bộ phận nhỏ trong doanh nghiệp ở phạm vi tổ, đội, phân xưởng... cho đến toàn bộ doanh nghiệp. Quan điểm này cho rằng bất kỳ doanh nghiệp nào cũng có nhiều bộ phận có quan hệ mật thiết với nhau tạo thành thể thống nhất. Vì vậy trong bất kỳ doanh nghiệp nào cũng có thể tìm ra những bộ phận có thể thực hiện cổ phần hoá. Có thể nói có nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề lựa chọn doanh nghiệp nhà nước nên đã ảnh hưởng không nhỏ đến tiến độ cổ phần hoá nói chung. Nguyên nhân của việc xuất hiện nhiều quan điểm lựa chọn doanh nghiệp nhà nước để cổ phần hoá bắt nguồn từ: - Có thể coi trọng nặng nhẹ khác nhau về từng mục tiêu thực hiện cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. -Không thống nhất về các điều kiện thực hiện cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước ghi ở điều 2 QĐ/202/CT như: Thế nào gọi là doanh nghiệp nhà nước có quy mô vừa? Doanh nghiệp nào cần giữ 100% vốn nhà nước, doanh nghiệp nào không cần? Trong thực tế đã có trường hợp do lựa chọn không hợp lý nên đã có doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá thất bại như: công ty Legume... sự thất bại đó đã gây nhiều thiệt hại đến tài sản của nhà nước, đến tài sản của nhân dân, mà nó còn để lại hậu quả tâm lý nặng nề và lâu dài. Vì vậy vấn đề lựa chọn doanh nghiệp Nhà nước để tiến hành cổ phần hoá là vấn đề cần thiết hết sức quan tâm. 5.Nguyên nhân liên quan đến việc xác định giá trị doanh nghiệp. Theo các văn bản hiện hành thì giá trị của doanh nghiệp bao gồm: Giá trị của doanh nghiệp=Giá trị tài sản của doanh nghiệp+Giá trị của các yếu tố tạo ra hiệu quả và triển vọng. Trong đó: Giá trị tài sản của doanh nghiệp=Vốn cố định+Vốn lưu động+Giá trị đất đai. Giá trị các yếu tố tạo ra hiệu quả và triển vọng của doanh nghiệp nhà nước phụ thuộc đánh giá hiện trạng doanh nghiệp về: đội ngũ kỹ sư, công nhân lành nghề, lợi thế thương mại, uy tín... Như vậy theo quy định hiện hành thì giá trị doanh nghiệp bao gồm 2 phần giá trị là giá trị hữu hình và giá trị vô hình. Giá trị hữu hình: Giá trị này bao gồm giá trị tài sản cố định, tài sản lưu động, nguồn vốn chủ sở hữu, khi đánh giá tài sản hữu hình này thường nảy sinh những khó khăn. Không ít doanh nghiệp nhà nước trước khi chuyển đổi cơ chế được nhà nước bao cấp, cấp phát ngân sách hoạt động, giá trị tài sản cố định như máy móc, nhà xưởng, kho tàng được tính theo đơn nhà nước lại khấu hao qua nhiều năm, không những hao mòn tài sản hữu hình mà còn chịu hao mòn tài sản vô hình. Với cách xác định giá trị của doanh nghiệp như trên có ưu điểm là: Cơ bản dựa trên giá trị tài sản hữu hình hiện tại có điều chỉnh trực tiếp hoặc gián tiếp để cổ phiếu có một giá trị thực tại thời điểm cổ phần hoá. Nhưng bản thân nó cũng có đặc điểm cần phân tích sau: Thứ nhất: Việc tính giá trị của doanh nghiệp như trên chưa tính đến khả năng sinh lời của doanh nghiệp. Người đầu tư mua cổ phần với mục đích là mua giá trị tương lai của doanh nghiệp chứ không phải là giá trị hiện tại của nó. Việc quy giá trị doanh nghiệp và giá trị thực khi cổ phần hoá đủ sắc “kích “ cho nhà đầu tư “thích “ Thứ hai: Trong điều kiện của nước ta máy móc thiết bị rất phức tạp cả về nguồn gốc (thời gian, nước sản xuất) lẫn tình trạng của tài sản (đã khấu hao hết, mới nhập, đã hư hỏng nhiều...) theo số liệu điều tra các doanh nghiệp nhà nước của bộ công nghiệp nhẹ trên 272 thiết bị và ba dây chuyền công nghệ ở 42 nhà máy thì có 76% máy móc thế hệ từ những năm 50 đến 60, 2/3 thiết bị đã khấu hao hết và đã là đồ tân trang, nhiều máy móc thiết bị không còn bán trên thị trường trong và ngoài nước (đặc biệt là loại thiết bị trong dây truyền đồng bộ). Do tình trạng ấy mà không thể có một cách duy nhất hoặc một hệ số hợp lý khi tính giá trị cho mỗi tài sản, cho nên việc xác định giá trị tài sản cố định là một việc làm hết sức khó khăn khi xác định giá trị doanh nghiệp. Theo quy định hiện hành của nhà nước về chế độ bảo toàn vốn thì các máy móc nhập của các nước tư bản chủ nghĩa là hệ số 2,56 lần, nhập của các nước xã hội chủ nghĩa là 1,76 lần. Đó cũng chỉ là những quy định áp đặt chưa đủ sức thuyết phục về tính đúng đắn và tính chính xác khi xác định lại giá trị tài sản cố định. Cũng tương tự như vậy khi xác định vốn lưu động theo quy định hiện hành phải căn cứ vào hệ số trượt giá các năm được nhà nước công bố. Như chúng ta đã biết tình trạng vốn lưu động bị chiếm dụng dây dưa giữa doanh nghiệp này với doanh nghiệp khác, giữa doanh nghiệp với các cấp chủ quản...là căn bệnh trầm trọng của khu vực kinh tế nhà nước mà chúng ta đang nỗ lực để thoát ra khỏi tình trạng ấy. Chính vì vậy việc xác định được vốn lưu động gốc để quy giá trị thực khi cổ phần hoá cũng là việc làm hết sức khó khăn. Có thể nói tốc độ cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước bị chậm có nguyên nhân chủ yếu là còn nhiều bất đồng ý kiến về xác định vốn lưu động và vốn cố định. Thứ ba: Từ trước tới nay chúng ta coi đất là tư liệu sản xuất đặc biệt không có giá trị, nên chưa bao giờ tính đất một cách chính thức và đầy đủ. Nhưng trên thực tế thì đất lúc nào cũng có giá trị vì được mua bán dưới nhiều hình thức, đặc biệt là trong nền kinh tế thị trường. Khi thực hiện cổ phần hoá phải tính giá đất mà doanh nghiệp đang sử dụng. Nhưng việc tính giá đất như thế nào cho chính xác là việc làm hết sức khó khăn hiện nay có nhiều nguyên nhân xung quanh việc xác định giá trị đất làm ảnh hưởng đến tốc độ cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước. Hiện nay các doanh nghiệp nhà nước vẫn chiếm rất nhiều đất, lại là đất nằm ở vị trí thuận lợi nên giá rất cao. Vì vậy, tính ngay lần đầu giá trị đất vào doanh nghiệp thì giá trị doanh nghiệp sẽ rất lớn, làm tăng thêm mệnh giá cổ phiếu và rất khó bán hoặc tính toàn bộ giá trị đất vào toàn bộ chi phí sản xuất kinh doanh ngay năm đầu thì sẽ đội giá bán, công ty sẽ lỗ hoặc không đảm bảo được lãi suất hấp dẫn. Có nhiều loại giá đất đang tồn tại ở nước ta hiện nay đó là: -Giá thuê đất trong luật đầu tư nước ngoài ở Việt nam -Giá thuê đất theo luật thuế nhà đất đối với các hộ dân cư. -Giá thuê đất mà các doanh nghiệp đang thuê của nhà nước. -Giá đất thị trường tự do mà mọi người đang mua bán. Việc lựa chọn loại giá đất nào để tính giá trị của doanh nghiệp là một vấn đề đang tranh cãi. Hiện nay nhà nước đang chủ trương áp dụng giá cho thuê theo luật đầu tư (TT50-TC\TCDN ngày 31/7/1993) theo giá này thì giá đất tối thiểu là 0,5USD trên một mét vuông và tối đa là 18USD trên một mét vuông. Nếu tính theo thời gian cho thuê 30 năm thì khoảng cách này rất lớn tối thiểu là 15USD/một mét vuông và tối đa là 540USD/ mét vuông. Việc vận dụng khung giá có khoảng cách lớn như vậy dẫn đến chỗ tuỳ tiện áp đặt, thoả thuận vì lợi ích cục bộ gây thiệt hại cho Nhà nước, gây căng thẳng giữa doanh nghiệp nhà nước và hội đồng thẩm định, thậm chí làm cho tiến trình cổ phần hoá chậm lại, dậm chân tại chỗ. Hiện nay theo hướng của ban cổ phần hoá thuộc Bộ tài chính thì đất được tính trong giá trị doanh nghiệp được cổ phần hoá “giá trị quyền sử dụng , không tính giá trị đất “ theo cách tính này thì khái niệm “quyền sử dụng đất “ rất khó định lượng bởi vì lợi ích mang lại do có quyền sử dụng trên cùng một mảnh đất ở doanh nghiệp khác nhau thì khác nhau, trong thời kỳ khác nhau thì cũng khác nhau. Chính vì đặc điểm khó định lượng ấy nên khi xác định giá trị doanh nghiệp thông thường nội dung giá trị quyền sử dụng đất gây ra tranh cãi nhiều và kết thúc bằng sự thoả thuận thiếu căn cứ khoa học xác đáng. Thứ tư: Theo chủ trương cổ phần hoá thì việc xác định giá trị doanh nghiệp được tiến hành theo hai bước sau. -Xác định giá trị doanh nghiệp một cách tổng hợp. -Xác định giá trị doanh nghiệp cho sát thực tế hơn trên cơ sở khả năng bán tài sản cố định của doanh nghiệp trên thị trường. Việc xác định cho đúng giá trị doanh nghiệp ở bước hai mới là những vấn đề rất khó khăn bởi vì hiện nay chúng ta mới bước vào kinh tế thị trường, thị trường chứng khoán mới được hình thành, các doanh nhân của ta chưa đủ khả năng định giá một khối lượng tài sản lớn...Chính vì vậy các ý kiến để xác định giá trị doanh nghiệp ở bước này thường mang ý chí chủ quan của hội đồng thẩm định. 6.Nguyên nhân liên quan đến việc thành lập quỹ hỗ trợ cổ phần hoá. Hiên nay trong số các doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá có hai vấn đề cực kỳ quan trọng thuộc lĩnh vực tài chính làm ảnh hưởng đến tốc độ cổ phần hoá. Vấn đề thứ nhất: Theo dự tính chúng ta sẽ cổ phần hoá và đa dạng hoá sở hữu 50% số doanh nghiệp nhà nước hiện có tức là khoảng hơn 2.500 doanh nghiệp, trong số các doanh nghiệp này thì có khoảng 600 đến 800 ngàn lao động thuộc diện phải xử lý. Số lao động này chia làm 3 loại: Loại thứ nhất: Là số lao động chưa được đào tạo hoặc đã có đào tạo nhưng trình độ chưa đáp ứng yêu cầu công việc hiện tại cần phải đào tạo và đào tạo lại. Loại thứ hai: Là những lao động tự nguyện chấm dứt hợp đồng lao động trước khi doanh nghiệp nhà nước chuyển sang công ty cổ phần. Loại thứ ba: Là những lao động không thuộc hai loại trên nhưng doanh nghiệp nhà nước không thể bố trí và sử dụng được cần phải có trợ cấp mất việc để họ tự tìm việc mới. Theo cơ chế hiện hành thì loại thứ hai được xử lý theo nghị định 176/HĐBT ngày 9/10/1989 và QĐ 315/HĐBT ngày 1/9/1990, còn loại thứ ba được xử lý theo NĐ số 41/CP ngày 11/4/2002. Loại một được sử lý theo NĐ 44/CP ngày 29/6/1998. Tuy vậy việc xử lý theo các văn bản nói trên còn một số vướng mắc. Một là: Nguồn tài chính để đáp ứng còn quá hạn hẹp, không đủ để thực hiện như chế độ quy định. Hai là: Nguồn tài chính phân tán nên khó quản lý, xử lý không dứt điểm hiệu quả thấp. Ba là: Chưa công bằng vì nguồn tài chính phụ thuộc vào ngân sách của các cơ sở và các quỹ phúc lợi của doanh nghiệp. Và do đó phát sinh mâu thuẫn, nơi giàu lại giàu thêm nơi nghèo lại nghèo hơn. Từ đó thấy rằng cần phải có quỹ hỗ trợ cổ phần hoá để đáp ứng việc tạo thêm nguồn tài chính(dự kiến phải tới 7000 đến 10000 tỷ đồng) để xử lý tốt hơn vấn đề lao động. Vấn đề thứ hai: Hiện nay các doanh nghiệp nhà nước trong diện cổ phần hoá còn mắc nợ khá lớn. Trong đó nợ không có khả năng trả chiếm tỷ trọng không nhỏ và tiến trình cổ phần hoá gặp nhiều khó khăn. 7.Một số nguyên nhân khác nảy sinh trong quá trình thực hiện cổ phần hoá. Vấn đề liên quan đến ngân hàng: Theo quy định tại khoản 3 điều 13 NĐ số 44/CP ngày 29/06/1998 của Chính phủ thì các doanh nghiệp nhà nước sau khi chuyển thành công ty cổ phần được hưởng các ưu đãi như tiếp tục được vay vốn tại ngân hàng thương mại, công ty tài chính, các tổ chức tín dụng khác của Nhà nước theo cơ chế và lãi suất áp dụng đối với doanh nghiệp nhà nước. Ngân hàng nhà nước đã có thông tư 06/TT/NHNN năm 1998 về vay vốn hoặc trực tiếp sử dụng các nguồn vốn ưu đãi của nhà nước chỉ áp dụng cho công ty cổ phần do nhà nước nắm giữ cổ phần chi phối. Vấn đề này ban đổi mới quản lý doanh nghiệp trung ương sẽ tiếp tục làm việc với ngân hàng để tháo dỡ những khó khăn cho các doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hoá. -Chính sách ưu đãi mới cho người lao động mới chỉ đáp ứng được một phần: Đảm bảo sự công bằng nhưng chưa biến thành hiện thực. Trên thực tế, người lao động ở doanh nghiệp đa phần là người nghèo không có hoặc không có tiền để mua cổ phần mà người lao động chỉ được hưởng ưu đãi khi tham gia mua cổ phần nên cơ hội được hưởng ưu đãi là hết sức hạn chế, tiêu chuẩn người lao động nghèo quá khắt khe dẫn đến nhiều người không có “chân “ trong doanh nghiệp. Việc khó khăn sắp xếp, bố trí công việc cho cán bộ quản lý(3 chức danh: giám đốc, phó giám đốc, kế toán trưởng) trong trường hợp họ không được bầu vào ban lãnh đạo của công ty cổ phần Một số vấn đề khác nảy sinh sau khi cổ phần hoá được các doanh nghiệp sử lý rất lúng túng vì chưa có kinh nghiệm hoặc do chưa có hướng dẫn của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền như vấn đề chế độ lương đối với giám đốc, hội đồng quản trị, quyền chi phối của cổ đông Nhà nước, chuyển nhượng cổ phiếu. II . Một số quan điểm cần quán triệt khi thực hiện cổ phần hoá 1.Quan điểm coi cổ phần hoá là giải pháp cơ bản để đổi mới doanh nghiệp nhà nước ta hiện nay. Nhiều quan điểm cho rằng: Để nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước có thể có nhiều giải pháp. Đứng trên góc độ sở hữu có thể chia các giải pháp đổi mới doanh nghiệp nhà nước thành hai loại. Loại thứ nhất: Các giải pháp thuộc quan điểm hoàn toàn không động chạm đến vấn đề sở hữu, các giải pháp này nhằm tác động đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhưng không làm thay đổi cơ cấu sở hữu vốn của nó, sở hữu của nhà nước ở doanh nghiệp vẫn giữ 100%. Loại thứ hai: Các giải pháp thuộc quan điểm tác động trực tiếp đối với vấn đề sở hữu , các giải pháp thuộc quan điểm này có xuất phát điểm là thay đổi cơ cấu sở hữu vốn của doanh nghiệp theo hướng giảm sở hữu của nhà nước, tăng sở hữu của các thành phần kinh tế khác. Quan điểm này có các giải pháp: Tư nhân hoá và cổ phần hoá. Tư nhân hoá là quá trình chuyển dịch trong quan hệ công tác giữa nhà nước và thị trường theo hướng ưu tiên thị trường. Phạm vi của các quá trình này bao gồm cả việc chuyển tài sản công sang sở hữu tư nhân lẫn sự thay đổi hệ thống pháp luật, chính sách, luật lệ, thể chế nhằm khuyến khích, mở rộng và phát triển các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. Cổ phần hoá là quá trình chuyển toàn bộ hay một phần tài sản thuộc sở hữu nhà nước(trong phạm vi doanh nghiệp) thành sở hữu của nhiều chủ thể khác nhau, trong quá trình đó nhà nước chỉ bổ sung, sửa đổi các điều luật và chính sách có liên quan nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc cổ phần hoá. Không có những thay đổi lớn về chủ trương, đường lối và chính sách kinh tế, rõ ràng cổ phần hoá không đồng nhất với tư nhân hoá. Cổ phần hoá là giải pháp cơ bản để đổi mới doanh nghiệp nhà nước ở nước ta hiện nay bởi vì: Thứ nhất: Cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước tự nó đã bao hàm các giải pháp thuộc loại một. Không có một nước nào khi tiến hành cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước mà lại không đặt ra vấn đề đi liền với nó là điều chỉnh lại khu vực kinh tế Nhà nước. Thứ hai: Nước ta là một nước xã hội chủ nghĩa, theo học thuyết kinh tế Mác-Lê nin với thể chế chính trị do giai cấp công nhân lãnh đạo. Vì vậy, ở nước nền kinh tế thị trường chưa phát triển, kinh tế tư nhân còn non kém, kinh nghiệm trình độ quản lý của các doanh nhân còn thấp thì việc thực hiện giải pháp tư nhân hoá sẽ gây thất thoát, lãng phí lớn. Thứ ba: Một trong những mục tiêu chính của cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước là giảm bớt gánh nặng cho ngân sách Nhà nước, điều đó không có nghĩa là từ nay các doanh nghiệp thoát ly khỏi sự kiểm tra giám sát của Nhà nước. Việc nhà nước nắm giữ cổ phần đủ để chi phối hoạt động của các công ty cổ phần là điều kiện để nhà nước thực hiện quyền kiểm tra giám sát đó. Đặt vấn đề cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước là giải pháp cơ bản để đổi mới doanh nghiệp nhà nước nhằm khẳng định một lần nữa vai trò và sự cần thiết khách quan của giải pháp cổ phần hoá. Tránh các tư tưởng hoài nghi về tính đúng đắn của chủ trương cổ phần hoá để đổi mới doanh nghiệp nhà nước. 2.Quan điểm coi trọng tính đặc thù của quá trình cổ phần hoá Quá trình cổ phần hoá phản ánh các sắc thái khác nhau về mục tiêu, cách tổ chức, bước đi và các biện pháp cụ thể do những điều kiện hoàn cảnh chính trị, kinh tế-xã hội của mỗi nước quy định. ở những nước có nền kinh tế phát triển có sự hoạt động mạnh mẽ của thị trường chứng khoán thì việc tiến hành cổ phần hoá gặp thuận lợi hơn nhiều so với nước chậm phát triển. Đối với những nước có nền kinh tế thị trường chưa phát triển thì ngoài việc sử dụng những phương pháp đặc thù, các nước này còn phải đồng thời thực hiện quá trình chuyển đổi toàn bộ nền kinh tế hoạt động trên cơ sở quan hệ thị trường. Mặt khác quan niệm về vai trò và các lĩnh vực cần khu vực kinh tế nhà nước cần nắm giữ cũng như tỷ lệ cổ phần của nhà nước ở các công ty cổ phần sau này ở mỗi nước đều có sự khác nhau. Cho nên đẫn đến vấn đề cổ phần hoá doanh nghiệp ở mỗi nước cũng khác nhau về mục tiêu, giải pháp, cách thức tiến hành, mối tương quan về sở hữu vốn của nhà nước và tư nhân ở mỗi bước đi và giai đoạn thực hiện cổ phần hoá. ở Việt nam ta cũng vậy, khi tiến hành cổ phần hoá cũng không thể không chú ý đến tính đặc thù về điều kiện, mục tiêu, phương pháp và bước đi. Đặt vấn đề coi trọng tính đặc thù của quá trình cổ phần hoá nhằm chống lại mọi quan điểm cho rằng”chỉ cần vận dụng kinh nghiệm của các nước có hoàn cảnh tương đồng như nước ta không cần phải tìm tòi bước đi riêng làm gì cho phức tạp”. Hoặc quan điểm cho rằng”có thể cổ phần hoá ở tất cả các doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế theo một cách thức và bước đi chung”. 3.Quan điểm về tính quá trình của việc cổ phần hoá. Việc khảo cứu ở các nước cho thấy: Cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước diễn ra như một quá trình gồm nhiều giai đoạn: Chuẩn bị các điều kiện về mặt tổ chức, lựa chọn các mục tiêu, phương pháp thực hiện, kiểm soát và điều chỉnh. Trên thực tế không có sự phân định rõ ràng, chắc chắn giữa các giai đoạn. Quan điểm cổ phần hoá là một quá trình nhiều giai đoạn có ý nghĩa chỉ đạo về mặt thực tiễn, đó là: -Nó truyền đạt một cách rõ ràng và dễ hiểu những biện pháp và nhiệm vụ cơ bản, phức tạp đến những người còn chưa quen với cổ phần hoá. -Nó cho phép các nhà phân tích, hoạch định và phối hợp chính sách, lượng định được những gì sẽ sảy ra trong giai đoạn kế tiếp. -Nó cho thấy cần phải gạt bỏ những ảo tưởng nóng vội”muốn làm tất cả cùng một lúc” của những người cực đoan và khuyến khích tính thận trọng với các giải pháp trình tự hợp lý. -Tính quá trình đó bao hàm cả việc di chuyển một cách liên tục sở hữu nhà nước sang sở hữu của các thành phần kinh tế khác cả về vi mô lẫn vĩ mô. Đối với nước ta: Cần phải xác định tiến hành cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước sẽ là một quá trình lâu dài, vừa rút kinh nghiệm có những bước đi cụ thể phối hợp, trong hoàn cảnh điều kiện nước ta hiện nay thì đây thực sự là một công việc đầy khó khăn phức tạp đòi hỏi phải được thực hiện trong nhiều năm. Vì vậy, quán triệt quan điểm quá trình trong việc thực hiện cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước ở nước ta là rất cần thiết. III. Điều kiện đẩy nhanh tốc độ và kết quả đạt được của quá trình cổ phần hoá. Cổ phần hoá là một trong những giải pháp quan trọng để tổ chức lại doanh nghiệp nhà nước nhằm hoạt động có hiệu quả hơn. Đây là một quá trình phức tạp lâu dài, tương đối mới trong nền kinh tế nước ta. Để đẩy nhanh tối đa cổ phần hoá , đảm bảo thực hiện đúng kế hoạch, chỉ tiêu cổ phần hoá mà Chính phủ đề ra chúng ta phải chủ động tạo lập các điều kiện sau: 1.ổn định tiền tệ. ổn định tiền tệ, giảm tốc độ lạm phát là điều kiện quan trọng nhất cho việc hình thành và phát triển công ty cổ phần. ổn định tiền tệ là một điều kiện quan trọng cho sự ra đời của công ty cổ phần, ổn định tiền tệ là yếu tố tác động đến nền kinh tế. Sự ổn định tiền tệ sẽ thúc đẩy sự ra đời của các doanh nghiệp mới trong đó có công ty cổ phần, những doanh nghiệp mới ra đời có nghĩa là một khối lượng tiền tệ trong xã hội được di chuyển vào sản xuất kinh doanh. Vì vậy, cần có những chính sách kinh tế vĩ mô tạo điều kiện ổn định tiền tệ, kích thích tiết kiệm và chuyển tiết kiệm vào hoạt động đầu tư, vì thực chất người mua cổ phiếu là đầu tư tài chính với mục đích lợi nhuận cao. Lạm phát từ lâu đã là căn bệnh chung của nền kinh tế thị trường, lạm phát cao hạn chế khả năng phát hành cổ phiếu, trái phiếu của doanh nghiệp và gây khó khăn cho việc tính toán và hoạch định các phương án kinh doanh thiếu chính xác. Trong trường hợp này các doanh nghiệp sẽ khó có thể tránh khỏi những rủi ro có thể sảy ra ảnh hưởng đến tiến độ cổ phần hoá. Vì vậy, giảm lạm phát là vấn đề hàng đầu trong mục tiêu và chính sách kinh tế vĩ mô của nhà nước và cũng là một trong những biện pháp thúc đẩy nhanh sự ra đời và phát triển của công ty cổ phần. 2.Xây dựng môi trường pháp lý cho sự ra đời và hoạt động của các công ty cổ phần. *Mục đích của việc xây dựng môi trường pháp lý. -Về khách quan: Xét trên tầm quản lý vĩ mô, các công ty cổ phần cũng như các bộ phận khác của nền kinh tế đều phải chịu sự điều tiết của nhà nước thông qua các công cụ quản lý được thể chế hoá bừng pháp luật. Với những công cụ này, nhà nước một mặt tạo ra những điều kiện thuận lợi cho các cơ sở sản xuất kinh tế khai thác những thế mạnh, những ưu thế của mình để thúc đẩy nền kinh tế phát triển, mặt khác nó hạn chế những hoạt động nào không phù hợp với lợi ích của đất nước. Dù trong bất kỳ giai đoạn nào, sự quản lý của nhà nước bằng pháp luật “bàn tay vô hình “đối với nền kinh tế thị trường cũng hết sức quan trọng và có ý nghĩa quyết định đối với hiệu quả của toàn bộ nền kinh tế cũng như các đơn vị kinh tế cơ sở. -Về chủ quan: Sự hình thành và hoạt động của các công ty cổ phần đòi hỏi phải có tiền đề pháp lý nhằm: Một là: Bảo đảm cho công ty cổ phần được hình thành và phát triển theo những nguyên tắc và trật tự nhất định, điều chỉnh các chức năng và hoạt động của nó thích ứng với mỗi thời kỳ phát triển kinh tế. Hai là: Bảo đảm cho công ty cổ phần phát triển bình thường, ổn định và có hiệu quả, từ đó góp phần vào việc thực hiện những phương hướng mục tiêu chung của nền kinh tế. Ba là: Bảo đảm mối quan hệ qua lại hợp lý của các công ty cổ phần với những bộ phận khác của nền kinh tế thị trường. Điều quan trọng là môi trường pháp lý dược xác lập phù hợp với những quan hệ xã hội nảy sinh trong quá trình hình thành và phát triển công ty cổ phần công ty cổ phần để đảm bảo tính thực tiễn hiệu quả của pháp luật. Trong quá trình đổi mới cơ chế kinh tế và xác lập nên kinh tế thị trường nói chung, cũng như để tiến hành cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. Nhà nước ta cần phải hướng dẫn kịp thời Luật doanh nghiệp ban hành năm 1999. -Luật đầu tư tư nhân: Để tạo điều kiện cho quá trình cổ phần hoá ở nước ta tránh được những khó khăn vấp váp, ổn định tâm lý dân chúng và người nước ngoài muốn đầu tư vào các doanh nghiệp được cổ phần hoá nhà nước cần hướng dẫn luật đầu tư tư nhân nói chung trong đó, có việc tư nhân tham gia cổ phần hoá . Đạo luật này quy định những nguyên tắc chung trong quá trình thực hiện tư nhân hoá, chẳng hạn: phân loại các doanh nghiệp nhà nước cần tư nhân hoá, các quy chế pháp lý và các nguyên tắc đánh giá doanh nghiệp, những nguyên tắc bảo vệ quyền lợi quốc gia, việc bán cổ phiếu cho tư nhân, cho người nước ngoài, đặc quyền của nhà nước, chính sách cổ đông và công chúng ngoài doanh nghiệp, quyền ưu tiên cho cán bộ công nhân viên doanh nghiệp nhà nước muốn trở thành cổ đông, các phương thức tư nhân hoá. -Luật chứng khoán: Công ty cổ phần ra đời và hoạt động trong mối liên hệ mật thiết với thị trường vốn và các chủ thể tham gia thị trường đó. Để điều hoà các mối quan hệ này cần hướng dẫn luật thị trường vốn. Luật thị trường vốn là đạo luật quy định các hoạt động về phát hành, mua bán chuyển nhượng chứng khoán.Luật thị trường vốn bao gồm hai phần: Phần thứ nhất: Xác định những quy chế pháp luật cụ thể về chứng khoán, các điều kiện, thể thức và trình tự thực hiện việc phát hành mua bán, chuyển nhượng chứng khoán. Phần thứ hai: Quy định trách nhiệm đối với những hành vi vi phạm lợi ích của các chủ thể tham gia thị trường như giả mạo chứng từ, thao túng thị trường, chèn ép và gây áp lực đối với cổ đông. -Luật về sở giao dịch chứng khoán. Sở giao dịch chứng khoán là nơi tập trung các giao dịch chứng khoán là “trái tim “ của thị trường vốn. Luật sở giao dịch chứng khoán bao gồm các điều kiện về vai trò, chức năng của sở, quy định về mức vốn pháp định, về phương thức tổ chức cũng như quy chế hoạt động của sở, những điều kiện và nguyên tắc tham gia vào hoạt động của sở, chế độ làm việc, chức năng thông tin của sở. Ngoài ra, nhà nước nên có sự nghiên cứu và ban hành một bộ luật đặc biệt để làm cơ sở căn bản cho quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, đó là luật chuyển đổi sở hữu nhà nước. Quá trình cổ phần hoá không mang tính chất tạm thời trong một giai đoạn nhất định cũng như không thể diễn ra quá trình quốc hữu hoá các công ty cổ phần. Luật chuyển đổi sở hữu nhà nước ban hành sẽ khẳng định sự cam kết của nhà nước đi theo con đường phát triển nền kinh tế thị trường, tạo những điều kiện pháp lý cần thiết cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Đạo luật này cũng sẽ quy định những nguyên tắc chung thể hiện về mặt pháp lý quan điểm nhất quán của nhà nước, trong các vấn đề như doanh nghiệp nhà nước thuộc ngành hoặc lĩnh vực nào được cổ phần hoá và có sự tham gia của khu vực tư nhân, quy trình định giá doanh nghiệp và phương thức tiến hành cổ phần hoá, hệ thống tổ chức quyết định và thi hành cổ phần hoá, quản lý và sử dụng các nguồn vốn cũng như xử lý các hành vi lạm dụng, cố ý làm trái nguyên tắc... Bên cạnh luật doanh nghiệp nhà nước, luật chuyển đổi sở hữu nhà nước sẽ đóng vai trò đảm bảo về mặt pháp lý cho bước trung gian chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước sang công ty cổ phần. Việc củng cố và hoàn thiện hệ thống pháp luật đương nhiên đòi hỏi phải có thời gian, bởi vì nó không chỉ phụ thuộc vào mức độ phát triển các đối tượng của luật mà còn phụ thuộc vào trình độ, năng lực pháp lý ở nước ta. Do đó, trong khi chưa thể ban hành luật đầy đủ và hoàn thiện các đạo luật cần thiết nhà nước cần đưa ra các quy định dưới luật nhằm tạo điều kiện pháp lý để triển khai quá trình cổ phần hoá và hình thành thị trường vốn ở nước ta trong thời gian sắp tới. 3 Thị trường chứng khoán và công ty cổ phần Thị trường chứng khoán là nơi diễn ra các hoạt động mua bán chứng khoán, các giấy ghi nợ trung và dài hạn. Thị trường này cung ứng các nguồn vốn nhàn rỗi để đầu tư dài hạn chủ yếu vào hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Thị trường chứng khoán gồm hai bộ phận: Thị trường sơ cấp: Là thị trường phát hành các chứng khoán mới. Thị trường thứ cấp: Là thị trường mua bán các chứng khoán đã phát hành. Trong việc sản xuất kinh doanh, mọi yếu tố của sản xuất đều được quy về tiền vốn, vốn là tiền đề cho sự phát triển kinh tế. Hoạt động của thị trường chứng khoán nhằm thu hút tiền vốn của công chúng, sau đó dùng tiền này để đầu tư các lĩnh vực để thu lợi nhuận. Nhờ có thị trường chứng khoán nguồn vốn trong xã hội được phân phối một cách có hiệu quả, giúp cho công chúng giảm tối thiểu các rủi ro trong việc lựa chọn và giữ các loại chứng khoán, đồng thời nguồn vốn thực tế được đầu tư vào kinh doanh đạt hiệu quả cao nhất. Cho nên, có thể nói trị trường vốn là yếu tố cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường, có tác dụng tích cực trong việc cung ứng kịp thời cho các nhu cầu về vốn của nền kinh tế thông qua việc mua bán, chuyển nhượng các chứng khoán có giá trị và có ý nghĩa quyết định đối với sự tăng trưởng kinh tế ở nước ta. ở nước ta, tuy đã có các ngân hàng thương mại và ngân hàng đầu tư phát triển sau khi chuyển đổi hệ thống ngân hàng từ một cấp thành hai cấp, nhưng phương thức và phương pháp hoạt động còn chưa đổi mới kịp với những đòi hỏi của thị trường vốn trong xã hội. Hệ thống các quỹ tín dụng và ngân hàng cổ phần mới ra đời và hoạt động trong thời gian ngắn, chưa đủ thực lực và kinh nghiệm để làm điều kiện cho các công ty cổ phần ra đời và hoạt động. Như vậy, cần tiếp tục củng cố và tiếp tục đổi mới hoạt động của ngân hàng thương mại, ngân hàng đầu tư và phát triển và các quỹ tín dụng để làm nòng cốt cho việc tổ chức bước đầu phát hành chứng khoán cho các công ty, thực hiện các nhiệm vụ về mua bán chứng khoán, lựa chọn các cơ hội đầu tư và phân tán rủi ro... Nhà nước cần thành lập một công ty tài chính quốc gia có trách nhiệm quản lý, sử dụng và kinh doanh nguồn vốn thuộc sở hữu nhà nước trong các doanh nghiệp được cổ phần hoá. Công ty này sẽ góp phần quan trọng cho sự ra đời và hoạt động của thị trường chứng khoán, đồng thời cũng là một công cụ điều tiết của nhà nước đối với hoạt động của thị trường này. Sự ra đời và hoạt động của thị trường chứng khoán Việt Nam đã đánh dấu một bước tiến quan trọng trong quá trình xây dựng đồng bộ và hoàn thiện thị trường tài chính. Đây là một sự kiện quan trọng có ý nghĩa đối với nền kinh tế, mở ra một kênh huy động vốn trung và dài hạn. Việc đưa thị trường chứng khoán vào hoạt động vừa tạo ra cơ hội, đồng thời cũng là thách thức đối với các doanh nghiệp. Với tính ưu việt của thị trường, sẽ khuyến khích các chủ thể tham gia phải tự đổi mới, cải tiến phương thức quản trị công ty để tạo sự phát triển bền vững cho doanh nghiệp cũng như toàn bộ nền kinh tế. Nghị định 48/1998/ND-CP là văn bản pháp lý cao nhất về chứng khoán và thị trường chứng khoán nhưng khi triển khai cũng gặp một số hạn chế nhất định; chưa phân định rõ về phát hành chứng khoán ra công chúng và niêm yết chứng khoán; chưa phân định cụ thể vai trò của trung tâm giao dịch chứng khoán và uỷ ban chứng khoán nhà nước trong việc giám sát quản lý thị trường; mô hình tổ chức và hoạt động của quỹ đầu tư chứng khoán và công ty quản lý quỹ chưa rõ ràng và thiếu tính hiện thực; một số chính sách về quản lý tài chính và hạch toán kế toán đối với công ty cổ phần chưa được ban hành đồng bộ; quy định về chính sách thuế và quản lý ngoại hối đối với các nhà đầu tư nước ngoài chưa được ban hành. Ngày 20/7/2000 trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh đi vào hoạt động. Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước là một trong những yếu tố quan trọng trong việc tạo ra nguồn hàng hoá cho thị trường chứng khoán. Hoạt động thị trường chứng khoán phát triển cũng sẽ thúc đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá và ngược lại 4.Kết quả đạt dược của quá trình hực hiện cổ phần hoá Tính từ ngày 08/06/1992 Chính phủ ra QĐ số 202/CT chọn và trực tiếp chỉ đạo thí điểm chuyển một số doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần, đến tháng 4/2002 cả nước có 774 doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hoá. Thành phố Hồ Chí Minh là tỉnh đi đầu trong cả nước trong tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, đây là thành phố triển khai tích cực, vững chắc và có hiệu quả nhất, một mẫu hình cho công tác chỉ đạo thực hiện để cả nước học tập. Bên cạnh đó còn có nhiều bộ , tổng công ty và địa phương chưa triển khai cổ phần hoá: 10 trong số 61 địa phương, 12 trong số 21 bộ nghành và 6 trong số tổng công ty 91 chưa có đơn vị nào thực hiện cổ phần hoá hoặc thực hiện rất chậm như: ở tổng công ty hoá chất Việt Nam theo phương án đã được Chính phủ phê duyệt thì đến cuối năm 2000, tổng công ty phải cổ phần hoá 4 công ty và 3 bộ phận công ty, sau năm 2000 sẽ tiếp tục cổ phần hoá 14 công ty nữa và sẽ sắp xếp hoặc chuyển hướng sản xuất 4 công ty thành viên. Nhưng đến đầu năm 2000 tổng công ty mới cổ phần hoá được 3 đơn vị Hầu hết các doanh nghiệp nhà nước sau khi cổ phần hoá đều ăn nên làm ra. Theo kết quả sơ bộ của hơn 200 công ty cổ phần hoạt động trên một năm cho tấy doanh thu tăng 43%, lợi nhuận tăng hơn 100%, nộp ngân sách tăng 18%, lao động tăng 5%, thu nhập tăng 22%. Có một số công ty cổ phần có doanh thu tăng rất cao như: Đại lý liên hiệp vận chuyển từ 16,6 tỷ đồng lên 255 tỷ đồng; Bông Bạch Tuyết từ 55 tỷ đồng lên 86,6 tỷ đồng; Bánh kẹo Biên Hoà từ 78,8 tỷ lên 157,6 tỷ đồng; Cao su Sài Gòn từ 2,31 tỷ lên 23 tỷ đồng tỷ đồng... Các công ty có mức tăng nộp ngân sách cao đó là: Đại lý liên hiệp vận chuyển từ 5,1 tỷ đồng lên 69 tỷ đồng; Bông Bạch Tuyết từ 6,9 tỷ đồng lên 18,5 tỷ đồng; Cao su Sài Gòn từ 3,99 tỷ đồng lên 14,4 tỷ đồng...Người lao động ở một số công ty cổ phần có thu nhập bình quân hàng tháng tăng khá, điển hình như ở công ty bông Bạch Tuyết: từ 2,8 tiệu đồng lên 3,3 triệu đồng... Có thể nói việc chuyển từ doanh nghiệp nhà nước sang công ty cổ phần đã đem lại kết quả hết sức khả quan đối với tình hình kinh tế, tài chính của bản thân doanh nghiệp. Có thể tổng kết bươc đầu những kết quả ở phạm vi doanh nghiệp khi thực hiện chủ trương cổ phần hoá như sau: Thứ nhất: Vấn đề hiệu quả đồng vốn được quan tâm hơn. Việc phân bố vốn trong quá trình kinh doanh trong quá kinh doanh được tất cả các doanh nghiệp hoạt động dưới hình thức công ty cổ phần chú ý đúng mức, vì vậy tăng được số vòng quay của vốn, xây dựng được tỷ lệ tối ưu về vốn, giảm sản phẩm dang dở, thành phẩm và sản phẩm tiêu thụ tăng, đưa nhanh các tiến bộ kĩ thuật vào quá trình sản xuất kinh doanh. Thứ hai: Các doanh nghiệp tham gia tích cực vào thị trường trong tất cả mọi phương diện kinh doanh, coi thị trường là suất phát điểm, đồng thời là đối tượng của mọi chủ trương đầu tư, kế hoạch tổ chức sản xuất, hoạch định chiến lược kinh doanh. Trong quá trình nước ta đang chuyển đổi từ nền kinh tế chỉ huy sang nền kinh tế thị trường thì việc các doanh nghiệp nhận thức được vai trò của thị trường như trên là một kết quả hết sức quan trọng. Thứ ba: Bằng hình thức cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước, một nhà nước thu được một phần vốn đầu tư của mình, mặt khác tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phát triển nguồn vốn kinh doanh trong khuôn khổ pháp luật, thực tế cho ta thấy chưa có một doanh nghiệp nào khi hoạt động dưới hình thức công ty cổ phần mà tổng số vốn ban đầu giảm xuống mà luôn luôn có xu hướng tăng lên chứng minh kết quả tích cực của chủ trương chuyển các doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần. Thứ tư: Người lao động trong doanh nghiệp trưởng thành một bước quan trọng cả về mặt nhận thức, vai trò và trình độ của mình khi tham gia vào quản lý công ty. Họ coi vấn đề dân chủ trong phương hướng tổ chức sản xuất kinh doanh của giám đốc và hội đồng quản trị là những vấn đề liên quan đến lợi ích kinh tế thiết thực của họ. Vì vậy không còn thái độ thờ ơ, lãnh đạm hoặc thái độ là người lao động làm công ăn lương như trước kia nữa. IV. Một số khuyến nghị nhằm đẩy nhanh tốc độ cổ phần hoá ở nước ta. Nhìn lại công tác đổi mới hệ thống doanh nghiệp nhà nước và tình hình thực thực hiện chủ trương cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, chúng ta có thể đánh giá rằng bức tranh cổ phần hoá đã bắt đầu xuất hiện nhiều điểm sáng. Công ty cổ phần đã được chính phủ chú trọng và quan tâm chỉ đạo, đã thu được những kết quả đáng khích lệ tuy chưa phải là toàn diện cả về mặt cơ chế chính sách lẫn công tác tổ chức bộ máy chỉ đạo. Tốc độ thực hiện còn chậm, số lượng doanh nghiệp nhà nước đăng ký và chuyển sang công ty cổ phần còn ít. Kết quả cổ phần hoá trong năm 2001 vừa qua đạt kết quả thấp chỉ cổ phần hoá được 149 doanh nghiệp (theo dự kiến là từ 250 đến 300 doanh nghiệp) Mặc dù phía trước còn rất nhiều khó khăn đang chờ đợi. Theo dự kiến của ban quản lý đổi mới doanh nghiệp trung ương, số lượng doanh nghiệp nhà nước sẽ được cổ phần hoá và chuyển đổi hình thức sở hữu đến năm 2005 là trên 2500 doanh nghiệp. Nếu so với số doanh nghiệp đã được cổ phần hoá từ trước tới nay thì đây là một mục tiêu khá táo bạo, để thực hiện được đòi hỏi phải có những giải pháp hợp lý. Vì vậy chúng ta cần triển khai đồng bộ một số công việc sau: 1.Về công tác xây dựng chính sách cổ phần hoá Nghị định 44/CP về cổ phần hoá thay thế Nghị định 28/CP mặc dù đã khắc phục được một số điểm bất cập trong nghị định này nhưng cho đến Nghị định 44/CP cũng đã bộc lộ những mặt yếu kém. Vì vậy cần có một Nghị định mới nhằm thay thế Nghị định 44/CP, để thúc đẩy tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. Chính phủ cần sớm ban hành quy chế bán cổ phần hoá cho người nước ngoài. Đây là biện pháp phức tạp để huy động vốn, công nghệ và học hỏi những phương pháp quản lý tiên tiến của nước ngoài nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam, tăng thêm nguồn lực để phát triển đất nước. Đây là vấn đề mới, cần cân nhắc thận trọng, vừa đảm bảo quyền lợi của nhà nước trong doanh nghiệp cũng như quyền lợi của nhà đầu tư nước ngoài, tránh tình trạng ban hành rồi lại tiến hành sửa đổi nhiều lần, gây mất lòng tin đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Cần khẩn trương thành lập quỹ hỗ trợ cổ phần hoá theo hướng sẽ tư vấn kỹ thuật, trợ giúp tài chính cho các doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá. Chức năng của quỹ sẽ tập trung vào giải quyết những hậu quả nảy sinh từ quá trình sắp sếp lại doanh nghiệp nhà nước như giải quyết việc làm và trợ cấp tài chính cho lao động dôi dư, hỗ trợ doanh nghiệp giải quyết những tồn đọng về tài chính trước khi cổ phần hoá. Chuẩn bị những hướng dẫn cụ thể tạo điều kiện thuận lợi cho việc tham gia của các doanh nghiệp cổ phần hoá vào thị trường chứng khoán. Cho phép các doanh nghiệp tiến hành cổ phần hoá bán cổ phiếu trên thị trường chứng khoán 2.Về công tác tổ chức thực hiện Tiếp tục kiện toàn và củng có bộ máy chỉ đạo thực hiện cổ phần hoá, bảo đảm tất cả các bộ, địa phương và tổng công ty đều có bộ máy chỉ đạo công tác cổ phần hoá. Tăng cường công tác giám sát, đôn đốc và phối hợp công tác giữa ban chỉ đạo trung ương với ban đổi mới doanh nghiệp cơ sở. Nâng cao chất lượng cán bộ chỉ đạo, đảm bảo cán bộ cơ sở có thể giải quyết nhanh những vướng mắc nảy sinh trong quá trình thực hiện cổ phần hoá ở từng doanh nghiệp. Tiến hành tổng kết và rút kinh nghiệm về thực hiện kế hoạch cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước năm 2001 làm cơ sở cho việc xây dựng và thực hiện các biện pháp nhằm hoàn thành kế hoạch cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước năm 2002. Trên cơ sở quy hoạch chương trình tổng thể quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, các cấp lãnh đạo các bộ, nghành địa phương, tổng công ty cần có kế hoạch triển khai nhanh chóng các bước trong phương án cổ phần hoá các doanh nghiệp đã được chính phủ phê duyệt, tập trung chỉ đạo công tác cổ phần hoá tại một số bộ, địa phương như: Bộ công nghiệp, Bộ thuỷ sản...,Thành phố Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh. Tổ chức đẩy mạnh công tác tuyên truyền chương trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước để nâng cao sự hiểu biết của quần chúng nhân dân về lợi ích của việc cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. 3.Về công tác có một chính sách hỗ trợ hợp lý về vốn. Quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước trong vài năm trở lại đây có những chuyển biến rõ rệt nhờ chính sách khuyến khích, hỗ trợ của nhà nước, đặc biệt từ khi có nghị định số 44/CP ngày 29/06/1998 của chính phủ về việc chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần. Tuy nhiên trong quá trình này cũng nảy sinh nhiều vấn đề cần phải giải quyết không những trước và trong khi cổ phần hoá cả khi công ty đã đi vào hoạt động. Một trong những vấn đề đó là những khó khăn của các công ty cổ phần khi tìm kiếm nguồn tín dụng từ các ngân hàng thương mại cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Thực tế cho thấy, việc thay đổi hình thức sở hữu đã và đang kéo theo sự thay đổi mà có thể gọi là chính sách đối sử. Trước khi cổ phần hoá, các doanh nghiệp thuộc hình thức sở hữu nhà nước nên khi vay vốn doanh nghiệp được ngân hàng tập trung đầu tư hơn, nhất là các ngân hàng thương mại quốc doanh. Đi kèm theo chính sách này là các quy định ưu đãi về tài chính và tài sản như không phải cầm cố thế chấp tài sản khi vay vốn, nếu hoạt động kinh doanh đang thua lỗ nhưng dự án kinh doanh khả thi, giúp khắc phục tình trạng tài chính hiện tại và ngân hàng có khả năng thu nợ thì vẫn được xem xét cho vay. Sau khi cổ phần hoá, doanh nghiệp trở thành công ty cổ phần thì các chính sách này không được áp dụng nữa. Khi vay vốn, điều kiện đầu tiên là doanh nghiệp cần có tài sản để thế chấp cầm cố, phải có kết quả kinh doanh tốt và dự án kinh doanh khả thi. Khó khăn ở đây là đa số các doanh nghiệp nhà nước làm ăn kém hiệu quả, trì trệ, cần phải thay đổi phương thức sở hữu để tạo động lực thúc đẩy sản xuất kinh doanh. Tài sản của doanh nghiệp sau khi cổ phần hoá không lớn, máy móc nhà xưởng thiết bị thường cũ kỹ lạc hậu. Do vậy, khi thẩm định tài sản thế chấp cầm cố, các ngân hàng thường đánh giá tài sản này rất thấp và có nhiều rủi ro. Rõ ràng là đẩy nhanh tốc độ cổ phần hoá, các cơ quan có thẩm quyền cần lưu tâm hơn nữa đến vấn đề này. Việc cổ phần hoá có hiệu quả không chỉ giải quyết tốt việc chuyển đổi sở hữu, không chỉ là việc củng cố lại phương thức quản lý và kinh doanh trên lý thuyết, mà cần phải có một chính sách hỗ trợ hợp lý về vốn. 4.Về công tác khác nhằm đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá Chính phủ, Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố giao cho Bộ, Sở văn hoá thông tin chủ trì phối hợp với các cơ quan thông tin đại chúng tuyên truyền sâu rộng chủ trương của Đảng và Nhà nước về việc cổ phần hoá . Ngoài ra tổ chức các lớp tập huấn về chính sách của Đảng và Nhà nước đến các đối tượng: giám đốc, kế toán trưởng, chủ tịch công đoàn các doanh nghiệp Cần có sự tách bạch giữa chức năng quản lý nhà nước và chức năng quản lý sản xuất. Hiện tại vẫn còn sự can thiệp sâu, trực tiếp của cơ quan nhà nước trên các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, đây là thói quen được hình thành từ thời bao cấp. Việc can thiệp này thường gắn với lợi ích kinh tế nên chính nó là lực cản của quá trình cổ phần hoá. Để các doanh nghiệp tự chủ trong việc kinh doanh, tận dụng thời cơ, thời điểm kinh doanh thích hợp nhằm mang lại lợi ích kinh tế cho cả công ty, cơ quan cấp trên tức cơ quan quản lý Nhà nước chỉ thực hiện chức năng điều tiết vĩ mô, chỉ can thiệp khi có trục trặc cần thiết. Vấn đề ở đây là phải thay đổi vai trò của Nhà nước từ cơ quan quản lý sang cổ đông khi cổ phần hoá phải thuyết phục khách hàng trên thị trường về tính xác đáng của các dự án được đưa ra thảo luận tại hội đồng quản trị Tạo lập một chế độ tài chính bình đẳng giữa các doanh nghiệp. Không nên duy trì đặc ân riêng cho bộ phận kinh doanh nào như ưu đãi về sử dụng đất, về thuế xuất; nhập khẩu, về quyền vay trả lãi cho các tổ chức tín dụng, quyền miễn giảm các loại thuế, các khoản tài trợ, bù lỗ làm giảm khả năng của doanh nghiệp. Phải thay vì việc khuyến khích lên danh sách các doanh nghiệp sẽ tiến hành cổ phần hoá như trước đây thì nay các Bộ, ngành, địa phương, chỉ xác định những doanh nghiệp duy trì sở hữu nhà nước. Như vậy, tất cả các doanh nghiệp khác đều phải tự động lên kế hoạch cổ phần hoá hoặc chuyển đổi hình thức sở hữu. Không nên giới hạn tỷ lệ cổ phần bán cho cá nhân hay pháp nhân, trong hay ngoài nước, có thể bán cho mọi đối tượng miễn là phải đảm bao cơ cấu cổ đông theo luật doanh nghiệp vì: nó giúp làm tự do hoá thị trường, kích cầu cổ phiếu (vì nhiều người mua hơn sẽ đẩy giá cổ phần lên cao hơn, Nhà nước sẽ thu lợi nhiều hơn) Thống nhất quy định mọi doanh nghiệp khi tiến hành cổ phần hoá đều phải được định giá qua một công ty kiểm toán độc lập không do doanh nghiệp chọn nhằm loại bỏ tính chủ quan và ảnh hưởng của những người lãnh đạo doanh nghiệp trong việc xác định giá trị doanh nghiệp. Nên quy định một tỷ lệ cổ phiếu dành riêng cho người lãnh đạo doanh nghiệp (có thể tăng hoặc bán rẻ). Chúng ta biết rằng giá cổ phiếu phụ thuộc nhiều vào phương án sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, mà phương án sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thì do ban cổ phần hoá doanh nghiệp lập ra. Với tỷ lệ cổ phần được xem như là phần thưởng sẽ tạo động lực thúc đẩy họ hăng say làm việc Chính phủ nên cho phép các doanh nghiệp tiến hành cổ phần hoá bán cổ phiếu trên thị trường chứng khoán vì thị trường này sẽ kiểm định lại những đánh giá của các công ty kiểm toán về giá trị doanh nghiệp, vả lại việc phát hành trên thị trường này có những ưu điểm nổi bật hơn tất cả các thị trường khác. Kết luận Trong điều kiện chuyển từ cơ chế quản lý tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường đã đặt ra những khó khăn thử thách cho doanh nghiệp nhà nước. Đặc biệt đối với các doanh nghiệp nhà nước việc thích ứng được với cơ chế thị trường là một vấn đề hết sức nan giải. Trong thời kỳ bao cấp, các doanh nghiệp nhà nước đều được nhà nước bao cấp từ đầu vào cho đến đầu ra, nên cơ chế quản lý không có tính năng động và sáng tạo, việc sử dụng đầu vào không cần phải tính toán đến hiệu quả sản xuất gây nên lãng phí ngân sách nhà nước mà sản phẩm đầu ra lại đạt chất lượng thấp. Để thích ứng với cơ chế thị trường đòi hỏi các doanh nghiệp nhà nước phải chấp nhận sự cạnh tranh lành mạnh trong thị trường. Do đó, yêu cầu phải đổi mới phương thức quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh trong các doanh nghiệp này là một yêu cầu cấp thiết. Sau khi nghiên cứu tình hình các doanh nghiệp trong nước và học hỏi kinh nghiệm những nước có điều kiện kinh tế xã hội gần giống ta Đảng và Nhà nước ta đã mạnh dạn đưa ra giải pháp cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước. Đây là một phương thức đổi mới phương thức quản lý vốn, tạo ra hiệu quả cao cho đồng vốn đưa vào sản xuất, tạo sự chủ động sáng tạo cho đội ngũ cán bộ công nhân viên của các doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong nền kinh tế thị trường, với định hướng đó, Chính phủ đã ra quyết định 202/CT. Ngày 08/06/1992 về việc thí điểm cổ phần hoá và các giải pháp đa dạng hoá các hình thức sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nước. Cho đến nay đã có khoảng 774 doanh nghiệp nhà nước đã thực hiện cổ phần hoá và các doanh nghiệp này đã phần nào đạt được kết quả tốt trong quá trình sản xuất kinh doanh. Đây là một kết quả đáng khích lệ. Mặc dù có những thành tựu kể trên nhưng trên thực tế quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước ở nước ta vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn vì nhiều nguyên nhân khác nhau như việc xác định giá trị doanh nghiệp, các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước về cổ phần hoá ...Để điều chỉnh các vấn đề này đòi hỏi Nhà nước phải sửa đổi bổ sung hoặc ban hành mới các văn bản pháp luật mục đích dần hoàn thiện một khung pháp lý đầy đủ để điều chỉnh hoạt động chuyển các doanh nghiệp nhà nước sang công ty cổ phần. Đặc biệt trong giai đoạn mới 2002- 2005 nhằm đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế và tạo nền tảng cho sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước Để giải quyết một số tồn tại trước mắt tạo tiền đề thuận lợi cho quá trình cổ phần hoá trong tương lai em có đưa ra một số giải pháp như đã trình bày trong bài khoá luận này. Em hy vọng các giải pháp này sẽ góp phần thúc đẩy tiến trình cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước trong những năm tiếp theo. tài liệu tham khảo 1.Công ty cổ phần và chuyển doanh nghiệp nhà nước sang công ty cổ phần PTS: Đoàn Văn Hạnh 2.Hoạt động của kinh tế thị trường và vai trò của Nhà nước-nhà xuất bản Hà Nội 1993 3.Phát triển các thành phần kinh tế và các tổ chức kinh doanh ở nước ta hiện nay: GS, PTS Vũ Đình Bách-Ngô Đình Giao. Nhà xuất bản chính trị quốc gia- Hà Nội 1997 4.Luật doanh nghiệp 1/1/2000 5.Nghị định 44/1998/NĐ-CP ngày 29/06/1998 của Chính phủ về chuyển một số doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần 6.Giáo trình luật kinh tế: Trường đại học luật năm 2000 7.Tài liệu tập huấn về cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước-Viện nghiên cứu chiến lược, chính sách công nghiệp 1998 8.Nguyễn Hoàng Anh: Doanh nghiệp sau cổ phần hoá. Báo chứng khoán Việt Nam số 2- tháng 2 năm 2002 9.Cổ phần hoá vì lợi ích của nhân dân. Báo công nghiệp hoá chất- số 3/2002 10.TS Nguyên Văn Quảng: Sắp xếp lại hệ thống doanh nghiệp nhà nước. Báo kinh tế và dự báo- số 3/2002 11.Phạm Hoài Thanh: Tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước quá chậm, kết quả và những vấn đề phải tiếp tục giải quyết. Thời báo kinh tế Việt Nam số 29 ngày 8/3/2002 12. Lê Hoàng Hải: Một vài vướng mắc trong việc thực hiện chính sách ưu đãi và hỗ trợ đối với doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hoá và đa dạng hoá sở hữu. Báo tài chính tháng 1+2 năm 2002

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0204.doc
Tài liệu liên quan