Đề tài Thực trạng cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước trong nghành công nghiệp Việt Nam

Cố phần hoá doanh nghiệp nhà nước là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước nhằm xác lập đan xen quyền sở hữu của nhà nước , của người lao động trong doanh nghiệp và các tổ chức cá nhân ngoài doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế ; thực hiện dân chủ hóa và xã hội hoá trong hoạt động kinh tế ; thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần , một nội dung quan trọng của đường lối đổi mới mà việc thực hiện đã tạo nên những nét mới trong nền kinh tế đất nước trong những năm qua . Mặc dù còn những khó khăn nhất định nhưng kết quả thực tế đạt được của tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước đã là bằng chứng xác nhận chủ trương cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước của Đảng và nhà nước là đúng đắn và hiệu quả . Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước tuy là việc làm mới mẻ , song với định hướng đúng và quyết tâm cao , chỉ đạo thực hiện kiên quyết thì cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước sẽ tạo nên những khởi sắc mới cho nền kinh tế nước ta .

doc29 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1405 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước trong nghành công nghiệp Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
này . Để thực hiện chủ trương đó ,nhà nước ta đã ban hành khá nhiều các văn bản hướng dẫn thi hành . Đó là quyết định số 202/CT ngày 8/6/1992 của chủ tịch hội đồng bộ trưởng về tiếp tục thí điểm chuyển một số doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần , kèm theo đề án chuyển một số doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần ; chỉ thị số 84/TTg ngày 4/3/1993 của Thủ tướng Chính phủ về xúc tiến thực hiện thí điểm cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước và các giải pháp đa dạng hoá hình thức sở hữu các doanh nghiệp nhà nước ; Nghị định 28/CP ngày 7/5/1996 của chính phủ về chuyển một số doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần ; thông tư số 50/TCDN ngày 30/8/1996 của bộ tài chính hướng dẫn thực hiện ,nghị định 28/CP của chính phủ ; nghị định số 25/CP ngày 26/3/1997 về sửa đổi một số điều của nghị định số 28/CP và nghị định số 44/CP ngày 2/6/1998 về " chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần " . Theo các văn bản trên cổ phần hoá ở nước ta là cách nói tắt của chủ trương chuyển một số doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần . Điều 1 thông tư số 50 /TCDN ngày 30/8/1996 của bộ tài chính quy định : " Doanh nghiệp nhà nước chuyển thành công ty cổ phần ( hay còn gọi là cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ) là một biện pháp chuyển doanh nghiệp nhà nước từ sở hữu nhà nước sang hình thức sở hữu nhiều thành phần , trong đó tồn tại một phần sở hữu nhà nước" . 2. Đặc điểm của cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở nước ta hiện nay Từ quy định trên ta thấy cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở nước ta hiện nay có những đặc điểm sau : Cổ phần hoá là quá trình chuyển đổi hình thức hoạt động từ doanh nghiệp nhà nước sang công ty cổ phần . Một doanh nghiệp nhà nước sau khi hoàn tất quy trình cổ phần hoá , doanh nghiệp đó sẽ không còn tồn tại dưới loại hình doanh nghiệp nhà nước mà chuyển sang loại hình công ty cổ phần , chịu sự điều chỉnh của Luật công ty được Quốc hội thông qua ngày 21/12/1990 . Khi đã chuyển đổi hình thức hoạt động thành công ty cổ phần thì địa vị pháp lý của doanh nghiệp đó hoàn toàn tuân theo quy định của pháp luật về công ty cổ phần . Có nghĩa là toàn bộ các vấn đề liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp từ bản chất pháp lý , quyền và nghĩa vụ , cơ chế quản lý đến quy chế pháp lý về thành lập , giải thể , phá sản đều phải chịu sự điều chỉnh của luật công ty , đặc biệt là những quy định của công ty cổ phần. Cổ phần hoá là biện pháp chuyển doanh nghiệp từ sở hữu nhà nước sang hình thức sở hữu nhiều thành phần . Trước khi cổ phần hoá , toàn bộ tài sản doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước . Doanh nghiệp không phải chủ sở hữu mà chỉ là người có quyền quản lý và sử dụng tài sản nhà nước đã đầu tư để thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội do nhà nuớc giao . Khi cổ phần hoá , sau khi xác định giá trị doanh nghiệp (xác định phần đã chuyển đổ sở hữu ) xác định số lượng cổ phiếu phát hành , nhà nước bán cổ phiếu cho các cá nhân , tổ chức thuộc mọi thành phần kinh tế . Những người mua cổ phiếu trở thành thành viên của công ty cổ phần , có quyền sở hữu một phần tài sản của công ty tương ứng với một phần đóng góp đồng thời phải chịu trách nhiệm đối với các khoản nợ của công ty tương ứng với phần vốn đóng góp vào công ty . Theo quy đinh , mọi cá nhân , tổ chức thuộc thành phần kinh tế quốc doanh , kinh tế tập thể , kinh tế tư nhân , kinh tế tư bản nhà nước khi có đủ điều kiện đều có quyền được mua cổ phiếu của doanh nghiệp nhà nước tiến hành cổ phần hoá. Cổ phần hoá là biện pháp duy trì sở hữu nhà nước đối với tư liệu sản xuất dưới hình thức công ty cổ phần . Khi thực hiện cổ phần hoá , nhà nước không tiến hành chuyển tất cả các doanh nghiệp nhà nước đang tồn tại thành các công ty cổ phần sở hữu nhiều thành phần mà nhà nước chỉ chuyển một bộ phận doanh nghiệp nhà nước không giữ vị trí then chốt trọng yếu trong nền kinh tế quốc dân và có khả năng kinh doanh có lãi .Theo nghị định số 28/CP ngày 7/5/1996 của Chính phủ và Thông tư số 50/TCDN ngày 30/8/1996 của bộ tài chính , khi tiến hành cổ phần hoá một doanh nghiệp nhà nước thì tuỳ thuộc vào vị trí và vai trò của nó , nhà nước xác định tỷ lệ cơ bản cần nắm nhưng lưu ý là trong bất cứ doanh nghiệp nhà nước nào , khi cổ phần hoá , nhà nước luôn luôn là một cổ đông ( giữ một số cổ phiếu nhất định trong công ty cổ phần) . 3. Mục tiêu của cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước trong giai đoạn hiên nay : Nghị định 44/CP ngày 2/6/1998 đã nêu rõ mục tiêu của cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước như sau : - Huy động vốn của toàn xã hội , bao gồm các cá nhân các tổ chức kinh tế , tổ chức xã hội trong và ngoài nước , để đầu tư đổi mới công nghệ , tạo thêm việc làm , phát triển doanh nghiệp , nâng cao sức cạnh tranh , thay đổi cơ cấu doanh nghiệp nhà nước , thúc đẩy quá trình xử lý và khắc phục những tồn tại hiện thời của doanh nghiệp nhà nước. Tạo điều kiện để người lao động trong doanh nghiệp có cổ phần và những người đã đóng góp cổ phần được làm chủ thực sự ; thay đổi phương thức quản lý, tạo động lực thúc đẩy doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả tăng tài sản nhà nước, nâng cao thu nhập của người lao động , góp phần tăng trưởng kinh tế đất nước . Xét cho cùng , đem lại quyền lợi cho người lao động chính là để thực hiện công bằng xã hội , là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội . Người lao động không những đã có quyền làm chủ gián tiếp thông qua nhà nước của dân do dân và vì dân mà còn có quyền làm chủ trực tiếp bằng cổ phiếu của mình. Ngoài ra cổ phần hoá còn có một mục tiêu khác nữa đó là muốn giảm bớt các doanh nghiệp nhà nước để giảm bớt gánh nặng cho ngân sách nhà nước vì đa số các doanh nghiệp này làm ăn kém hiệu quả . Mục tiêu này là mục tiêu chính , vì nếu chỉ nhằm hai mục tiêu trên thì nhà nước chỉ khuyến khích lập các công ty cổ phần mới là đủ. Như vậy các mục tiêu của cổ phần hoá về then chốt là nhằm chuyển hình thái kinh doanh một chủ sở hữu nhà nước toàn phần trong danh nghiệp thành công ty cổ phần hỗn hợp nhà nước - tư nhân hoặc côngty cổ phần tư nhân tức là chuyển đổi sở hữu nhà nước sang sở hữu nhiều thành phần , trong đó có một phần sơ hữu của nhà nước ( sở hữu tư liệu sản xuất ) việc chuyển đổi về tư liệu sản suất này không ảnh hưởng đến việc phân phối thu nhập , trái lại còn làm cho việc phân phối thu nhập và tăng thu nhập gắn chặt hơn với thành quả hoạt động sản xuất kinh doanh và đóng góp của từng lao động , kể cả lãnh đạo doanh nghiệp , làm cho việc phân phối thu nhập đối với mọi người trong xã hội công bằng hơn , công khai hơn và dễ kiểm soát hơn. II. Một số quan điểm cơ bản về cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước: Từ thực tiễn quá trình cổ phần hoá ở nước ta trong những năm qua cho thấy cần xác định rõ một số quan điểm cơ bản có tính chất định hướng cho việc thực hiện cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước. 1. Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước phải được đặt trên cơ sở đổi mới khu vực kinh tế nhà nước và sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước : Việc tiến hành phân loại doanh nghiệp nhà nước để từ đó xác định nghành nào , doanh nghiệp nào cần duy trì một chủ đầu tư là nhà nước cần tiếp tục giữ 100% vốn nhà nước , những nghành nào những doanh nghiệp nào cần chuyển thành công ty cổ phần mà không chờ đợi sự " tự nghuyện " cổ phần hoá từ phía doanh nghiệp nhà nước trong đó nghành nào không nắm cổ phần chi phối , cổ phần vàng , và nghành nào , doanh nghiệp nào có thể phát hành cổ phiếu rộng rãi ra ngoài công chúng kể cả người nước ngoài. Điều này rất quan trọng vì cho đến nay chưa có một sự phân loại nào làm cơ sở cho việc cổ phần hoá . Ta có thể chia làm 3 nhóm doanh nghiệp nhà nước như sau : Loại doanh nghiệp nhà nước hiện có cần giữ 100% vốn của nhà nước , không tiến hành cổ phần hoá , là những doanh nghiệp có tính chiến lược với từng nghành từng địa phương , cũng như cả nước , hoạt động trong những nghành , những lĩnh vực địa bàn đặc biệt quan trọng trong cung ứng dịch vụ công cộng là thiết yếu theo chính sách của nhà nước , hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận . Đối với các doanh nghiệp này trong một số trường hợp và trong nhữnh điều kiện nhất định có thể được nhà nước trợ cấp hoặc bù lỗ . Loại doanh nghiệp mà nhà nước cần nắm giữ cổ phần chi phối hoặc cổ phần đặc biệt khi tiến hành cổ phần hoá là những doanh nghiệp sản xuất kinh doanh sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ có liên quan đến những cân đối vĩ mô nền kinh tế quốc dân , những doanh nghiệp tạo ra nguồn tích luỹ lớn cho ngân sách nhà nước , những doanh nghiệp có quy mô lớn. Những doanh nghiệp còn lại cần tiến hành chuyển đổi hình thức sở hữu , trong đó có cổ phần hoá . Đối với một số doanh nghiệp nhà nước quá nhỏ (dưới 1 tỷ đồng dưới 50 công nhân ) làm ăn thua lỗ liên tục , mất khả năng thanh toán , có thể sử dụng 4 giải pháp sau . Sát nhập , cho thuê, nhượng bán , giải thể (nếu không thể tiến hành cổ phần hoá được ). Kiên quyết không duy trì trợ cấp dưới mọi hình thức làm tăng thêm gánh nặng cho ngân sách và xã hội . Có thể xem xét cho sát nhập với các doanh nghiệp khác nếu việc sát nhập mang lại khả năng mang lại hiệu quả cao hơn , hoặc nếu doanh nghiệp bất cập với nhiệm vụ thì kiên quyết thay thế , chuyển thành doanh nghiệp cổ phần mà cổ đông là toàn thể cán bộ công nhân viên của doanh nghiệp ( bằng hình thức mua chịu hoặc không bồi hoàn ) hoặc giải thể . Đối với doanh nghiệp quy mô nhỏ họt động trong lĩnh vực ăn uống công cộng , khách sạn , bán lẻ , sản xuất hàng tiêu dùng thông thường hoặc dịch vụ ( kể cả dịch vụ công cộng mà các thành phần kinh tế khác muốn tham gia ) không bắt buộc phải duy trì cổ phần nhà nước . Đã đến lúc trong nền kinh tế nhiều thành phần ở những nghành kinh tế nhất định không ảnh hưởng lớn đến việc điều tiết lớn của nền kinh tế , thành phần kinh tế đó đảm nhận , không nhất thiết phải là doanh nghiệp nhà nước . Vai trò chủ đạo của doanh nghiệp nhà nước không phải là ở số lượng doanh nghiệp nhiều hay ít , hoạt động có hiệu quả mà thể hiện ở khả năng khống chế , chi phối sự phát triển của nền kinh tế . 2. Việc xác định giá trị của doanh nghiệp nhà nước để cổ phần hoá cần phải chú ý đến cả hai yếu tố cấu thành : Giá trị hữu hình và giá trị vô hình : Trong yếu tố giá trị hữu hình về cơ bản có hai bộ phận : Giá trị toànbộ tài sản hiện có của doanh nghiệp và giá trị đất đai mà doanh nghiệp đang sử dụng làm mặt bằng sản suất kinh doanh . Trong yếu tố giá trị vô hình như uy tín và nhãn hiệu sản phẩm của doanh nghiệp , ưu thế về thị trường và khả năng cạnh tranh , các điều kiện về địa diểm quảng cáo , hàng hoá , bạn hàng .v.v tựu trung lại , đều hiển thị ở khả năng sinh lợi hay tỷ suất sinh lợi của doanh nghiệp . Như vậy quan điểm này cho rằng , phải xem xét đầy đủ hai yếu tố cấu thành này của giá trị doanh nghiệp để xác định đúng giá trị của doanh nghiệp đồng thời việc xem xét đầy đủ hai yếu tố cấu thành này sẽ tạo điều kiện kết hợp hai phương pháp xác đinh giá trị đầy đủ giá trị của doanh nghiệp là : Phương pháp tính giá trị của doanh nghiệp dựa trên cơ sở hệ thống kế toán hiện hành ( theo số liệu thống kê 1-1-1990 hoặc theo văn bản giao vốn của các doanh nghiệp ) . Phương pháp này là cách khả thi để có được một hình dung về đại lượng giá trị tài sản hữu hình của doanh nghiệp . Phương pháp tính giá trị của doanh nghiệp dựa trên cơ sở tỷ suất lợi nhuận bình quân . Đây là phương pháp cần thiết để bổ xung thêm phần giá trị tài sản vô hình của doanh nghiệp. Trên thực tế việc kết hợp của hai phương pháp tính giá trị nêu trên hết sức linh hoạt , tuỳ thuộc vào những điều kiện thực tế và quan hệ cung cầu cụ thể đối với từng doanh nghiệp . Về cơ bản các phương pháp và công thức tính giá trị doanh nghiệp đã được nêu trong đề án ban hành kèm theo quyết đinh 202-HĐBT và được cụ thể hoá đầy đủ , chi tiết trong các tài liệu hướng dẫn của bộ tài chính và một số sách báo đã công bố . Tuy nhiên quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước trong giai đoạn vừa qua cho thấy công việc xác định giá trị của doanh nghiệp là một vấn đề khó khăn và phức tạp bởi chưa có một cơ quan chuyên trách về vấn đề này để theo dõi hướng dẫn và điều chỉnh cụ thể . Mặt khác thủ tục xác định giá trị của doanh nghiệp còn rườm rà mất nhiều thời gian , nhất là các doanh nghiệp thuộc bộ , hoặc các tổng công ty 91 . 3. Phương pháp pháp bán cổ phiếu ở những doang nghiệp cổ phần hoá cần thực hiện công khai rõ ràng thủ tục đơn giản , dễ hiểu đối với mọi người : Về cơ bản có thể vận dụng một hoặc kết hợp ba phương pháp cổ phần hoá sau: - Bán cho các đối tượng xác định trước áp dụng cho các doanh nghiệp có bộ máy quản lý yếu kém . Các đối tượng được lựa chọn thường đóng vai trò những cổ đông chủ lực để tạo lập cơ sở cho việc tiếp tục cổ phần hoá rộng rãi sau này . Vì vậy thường là những người có vốn , có trình độ kỹ thuật hoặc có kinh nghiệm về quản lý.áp dụng phương pháp này thường thích hợp cho loại doanh nghiệp nhà nước sẽ được chuyển thành công ty cổ phần tư nhân. - Bán rộng rãi cho mọi đối tượng , áp dụng cho những doanh nghiệp có thành tích kinh doanh khả quan , mức độ lợi nhuận bảo đảm . Đối với những doanh nghiệp này mức giá cổ phiếu phải được nghiên cứu cụ thể theo từng quan hệ cung cầu của thị trường những người mua tiềm tàng . - Bán cho nội bộ cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp áp dụng cho các doanh nghiệp quy mô nhỏ và họ có khả năng mua đại bộ phận cổ phiếu của doanh nghiệp . Việc bán cổ phiếu có thể được tiếp tục được bán trực tiếp tại trụ sở chính và các chi nhánh của doanh nghiệp hoặc uỷ thác cho ngân hàng , các công ty tài chính làm đại lý . III .Người lao động với cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước : 1. Chính sách đối với người lao động khi cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước : Để đẩy nhanh quá trình cổ phần hoá thì một trong những vấn đề cần quan tâm hàng đầu là chính sách đối với người lao động . Người lao động có quyền lợi và trách nhiệm gì khi doanh nghiệp thực hiên cổ phần hoá ? Phải xây dựng chính sách liên quan đến người lao động như thế nào để có thể giải quyết được những vướng mắc của người lao động , tạo niềm tin và sự ủng hộ của người lao động đối với doanh nghiệp khi doanh nghiệp thực hiên cổ phần hoá . Đây là một bài toán đối với cơ quan quản lý vĩ mô mà lời giải của nó đang dần được giải đáp . - Những đã đến tuổi nghỉ hưu thì giải quyết theo chính sách tại điểm 3 mục C của quyết định 176 /HĐBT và thông tư hướng dẫn 18/LĐTBXH ngày 21/10/1989 của Bộ Lao động và thương binh xã hội . - Những người lao động mà doanh nghiệp xác định là dôi dư thì giải quyết theo chế độ thôi việc và huưởng lương trợ cấp 1 lần . Nguồn kinh phí giải quyết cho những người thôi việc sẽ do doanh nghiệp chịu 50% , nhà nước hỗ trợ 50% theo hướng dẫn của bộ tài chính . -Khi doanh nghiệp chuyển qua công ty cổ phần có thể thực hiện xắp xếp tuyển dụng lại lao động , nhưng trước hết phải ưu tiên ký hợp đồng lao động đối với người lao động đang làm việc tại doanh nghiệp nhà nước khi cổ phần hoá . Có thể xảy ra trường hợp là : một số lao động mà doanh nghiệp xếp vào diện " dôi thừa " thì lại được công ty ký hợp đồng sử dụng , còn những người " đủ tiêu chuẩn " để tiếp tục lao động lại không được ký hợp đồng lao động đó là trường hợp bình thường , nhưng chỉ là cá biệt. Những người đã làm việc cho doanh nghiệp nhà nước trước khi cổ phần hoá nay tiếp tục ký hợp đồng lao động với công ty cổ phần thì thời gian công tác được cộng dần để hưởng chế độ bảo hiểm xã hội . Những người đã làm việc cho doanh nghiệp nhà nước trước khi cổ phần hoá hoặc khu vực hành chính sự nghiệp mới tuyển vào , đã nhận trợ cấp thôi việc một lần theo chế độ hiên hành ( quyết định 176/HĐBT , 111/HĐBT ) nay tiếp tục ký hợp đồng lao động với công ty cổ phần thì thời gian làm việc trước đó sẽ không được cộng dần để hưởng bảo hiểm lao động xã hội . Những người đã làm việc trong doanh nghiệp trước khi cổ phần hoá , được tiếp tục ký hợp đồng lao động với công ty cổ phần , sau khi hết hạn hợp đồng lao động với công ty cổ phần , sau khi hết hạn hợp đồng căn cứ vào lý do cụ thể để giải quyết : + Đủ điều kiện nghỉ hưu thì được hưởng chế độ hưu trí theo quy định hiện hành . + Do mất sức lao động ( đã qua giám định y khoa ) thì được nghỉ và hưởng chế độ mất sức lao động theo quyết định 176/HĐBT. + Nếu chấm dứt hợp đồng lao động do những lý do khác thì giải quyết theo Nghị định 165/HĐBT. - Sau khi doanh nghiệp nhà nước đã chuyển sang công ty cổ phần nhưng công ty chưa ký lại hợp đồng lao động với công nhân viên của doanh nghiệp thì công ty phải thực hiên chế độ tiền lương , tiền thưởng như hiện hành , đảm bảo mức thu nhập của công nhân tối thiểu bằng mức thu nhập trước khi cổ phần hoá. Sau khi công ty đã ký lại hợp đồng lao động với công nhân viên của doanh nghiệp thì tiền lương của công nhân viên hưởng theo hợp đồng đã ký. - Khi có pháp lệnh bảo hiểm xã hội , doanh nghiệp thực hiện trách nhiệm bảo hiểm theo pháp lệnh quy định . Trước mắt , trong khi chờ pháp lệnh bảo hiểm xã hội , doanh nghiệp bảo hiểm xã hội cho người lao động theo quy đinh hiện hành : nộp 15% tổng quỹ tiền lương của công nhân viên vào quỹ bảo hiểm xã hội ( theo QĐ 40/HĐBT), trong đó nộp 10% cho hệ thống bảo hiểm xã hội do cơ quan lao động và thương binh xã hội quản lý và 5% hệ thống bảo hiểm xã hội do cơ quan tổng liên đoàn Việt Nam quản lý. Người lao động được hưởng chế độ bảo hiểm xã hội như sau : chế độ ốm đau , chế độ thai sản , chế độ tai nạn lao động , bệnh nghề nghiệp chế độ mát sức lao động , chế độ hưu trí và chế độ chôn cất , tuất . Các mức và tỷ lệ hưởng bảo hiểm xã hội của các chế độ thực hiện theo quy định hiện hành . - Sau khi doanh nghiệp nhà nước chuyển thành công ty cổ phần , để đảm bảo cho người lao động có điều kiện làm việc trong điều kiện an toàn , vệ sinh , nâng cao trách nhiệm của người sử dụng lao động và người lao động , tăng cường hiệu lực quản lý của nhà nước và bảo hộ lao động , nhằm phòng ngưà tai nạn lao động , bệnh nghề ngiệp và từng bước cải thiện điều kiện lao động , các doanh nghiệp và người lao động có trách nhiệm thực hiện bảo hộ lao động theo pháp lệnh bảo hộ lao động của hội đồng nhà nước ban hành ngày 10/9/1991 . 2. Một số ưu đãi đối với người lao động khi chuyển sang công ty cổ phần : Trong tương lai , khi mà doanh nghiệp nhà nước chuyển thành công ty cổ phần sẽ sản xuát kinh doanh có hiệu quả hơn , do đó đời sống của người lao động nói chung sẽ tốt hơn . Nhưng trước mắt khi chuyển sang công ty cổ phần cả doanh nghiệp và người lao động đều gặp phải một số khó khăn nhất định đòi hỏi nhà nước phải có trách nhiệm giúp đỗ và tạo điều kiện vật chất để họ thích nghi với cơ chế hoạt động mới . Nghị định 44/CP ngày 2/6/1998 quy định rõ chế độ ưu đãi đối với người lao động trong các doanh nghiệp nhà nước như sau: - Được nhà nước bán với giá ưu đãi cho người lao động trong doanh nghiệp tuỳ theo năm công tác của từng người . Một năm làm việc cho nhà nước được mua tối đa 10 cổ phần (trị giá mỗi cổ phần là 100.000 đồng )với mức giảm giá 30% so với các đối tượng khác . Tổng giá trị ưu đãi cho người lao động không vượt quá 20% giá trị vốn nhà nước tại doanh nghiệp . Những doanh nghiệp có vốn tự tích luỹ từ 40% trở lên thì tổng giá trị ưu đãi cho người lao động không vượt quá 30% giá trị vốn nhà nước tại doanh nghiệp. - Đối với người lao động nghèo trong doanh nghiệp được mua cổ phần ưu đãi , được hoãn trả tiền trong vòng 3 năm và trả dần tối đa trong vòng 10 năm không phải trả lãi suất . Tuy nhiên số lượng này rất nhỏ , chỉ chiếm 20% tổng số cổ phần nhà nước bán ưu đãi, có nghĩa là chỉ 4% số vốn nhà nước tại doanh nghiệp. - Được trợ cấp số cổ phiếu tuỳ theo thâm niên và chất lượng công tác của từng người nhưng không 12 tháng lương cấp bậc , chức vụ và không qúa 10% giá trị doanh nghiệp . Số cổ phiếu này thuộc sở hữu nhà nước . Người lao động được hưởng cổ tức , đuợc thừa kế cho con đuợc làm việc tại công ty cổ phần , nhưng không được chuyển nhượng . - Doanh nghiệp tiến hành cổ phần hoá có trách nhiệm xắp xếp , sử dụng hết số lao động hiện có tại doanh nghiệp . Đối với số lao động tự nguyện chấm dứt hợp đồng lao động giải quyết theo chế độ hiện hành. - Đối với những lao động còn trẻ ( dưới 40 tuổi đối với nam , dưới 35 tuổi đối với nữ ) có khả năng phát triển , khi chuyển sang công ty cổ phần được đào tạo lại trên cơ sở nhu cầu sử dụng lao động của doanh nghiệp và nguyện vọng của cá nhân . Thực hiện chủ trương cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước sẽ có hàng vạn lao động tham gia vào quá trình này và chắc chắn sẽ có một số không nhỏ lao động dôi dư . Tuy nhiên , từ thực tế kết quả sản xuất kinh doanh khá khả quan trong giai đoạn vừa qua , chúng ta hy vọng rằng các doanh nghiệp nhà nước sắp cổ phần hoá sẽ làm ăn có hiệu quả , thu hút được một lực lượng lao động dôi dư đáng kể trở lại làm việc , nhất là những lao động trẻ , khoẻ có trình độ , có tay nghề và có kỷ luật lao động tốt. PHần II thực trạng cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước trong nghành công nghiệp việt nam hiện nay I. Thực trạng cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước trong nghành công nghiệp: Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước là một chủ trương mới mẻ và việc thực hiên cổ phần hóa sao cho sản xuất kinh doanh có hiêu quả , tạo điều kiện để nguồn lao động đóng góp vốn được làm chủ thực sự là một vấn đề còn nhiều khó khăn trước mắt . Bên cạnh những kết quả đạt được trong những năm qua thì tốc độ cổ phần hoá nói chung còn khá chậm . - Trong những năm đầu của quá trình cổ phần hoá , tiến triển thực tế còn rất chậm . Chủ trương cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước bắt đầu từ năm 1992 khi có quyết định số 202/CT ngày 8/6/1992 của chủ tịch hội đồng bộ trưởng về tiếp tục làm thí điểm chuyển một số doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần , mặc dù kết quả hoạt động của các doanh nghiệp sau khi cổ phần hoá đều rất tốt , hầu như không có doanh nghiệp nào sau khi cổ phần hoá lại hoạt động kém hơn trước . Nhưng tốc độ cổ phần hoá lại diễn ra rất chậm . Năm 1993 cổ phần hoá 2 doanh nghiệp , năm 1994 cổ phần hoá 1 doanh nghiệp , năm 1995 cổ phần hoá 3 doanh nghiệp và năm 1996 cổ phần hoá 5 doanh nghiệp , 6 đầu năm tháng năm 1997 cổ phần hoá 3 doanh nghiệp . Nghĩa là tính đến cuối tháng 6 năm 1997 đã có 14 doanh nghiệp thực hiện cổ phần hoá ( trong đó có 10 công ty ở phía Nam và riêng ở Hồ Chí Minh có 8 công ty ) trong số đó có nghành Giao thông vận tải có 3 đơn vị , nghành công nghiệp có 5 đơn vị , nghành chế biến nông hải sản có 4 đơn vị va nghành dịch vụ có 2 đơn vị . Các doanh nghiệp đã được cổ phần hoá đều là doanh nghiệp có quy mô nhỏ , ít vốn ( nhiều nhất là trên 18 tỉ đồng Việt Nam , ít nhất là 351 triệu đồng ) ; kinh doanh trong lĩnh vực không quan trọng . Số doanh nghiệp dã cổ phần hoá quá ít , chưa đại diện cho các doanh nghiệp trong các lĩnh vực khác nhau , các vùng khác nhau , các cấp quản lý khác nhau . Đến hết tháng 12/1997 đã có khoảng 21 doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hoá(trong tổng số khoảng 6000 doanh nghiệp nhà nước) , nhà nước đã thu 30 tỉ 207 triệu đồng tiền bán cổ phần và nắm 18%-51% cổ phần trong các doanh nghiệp . Tuy nhiên hầu hết các đơn vị này đều có qui mô nhỏ , vốn ít ( trên dưới 10 tỷ đồng ) kinh doanh trong những lĩnh vực không quan trọng . Nhìn chung các doanh nghiệp nhà nước tiến hành cổ phần hoá đợt sau đều đạt hiệu quả , vốn mỗi năm tăng bình quân 45% , doanh thu tăng trên 60% , lợi nhuận tăng 64% thu nhập người lao động tăng 20% , nộp ngân sách tăng 9% , thu về 7 tỷ đồng lợi tức cổ phần và 522 triệu đồng tiền lãi , thu hút trên 1000 lao động , vốn cổ phần của người lao động tăng 1.5-2 lần , đặc biệt giá trị vốn cổ phần có doanh nghiệp tăng 2-5 lần . - Tính đến ngày 31/12/1999 , trên cả nước đã có 370 doanh nghiệp nhà nước được tiến hành cổ phần hoá . Đây là một kết quả khá khiêm tốn , đạt được sau gần 8 năm , kể từ ngày có quyết định 202/HĐBT ( ngày 8/6/1992 của Hội đồng bộ trưởng ) . Nhưng cũng thực đáng mừng , vì nếu chỉ tính sau ngày 19/6/1998 ( khi có Nghị định 44/1998/NĐ-CP về việc chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần ) đến hết năm 1999 , con số này là 340 doanh nghiệp . Riêng năm 1999 có 250 doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hoá . Rõ ràng , tiến hành cổ phần hoá được tăng tốc ! + Số doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hoá hiện mới chỉ bằng 7% tổng số doanh nghiệp hiện nay . Trong đó có 311 doanh nghiệp độc lập , còn lại 59 nguyên là các bộ phận doanh nghiệp . Tại 40/64 tỉnh thành có 274 doanh nghiệp cổ phần hoá , dẫn đầu là Hà Nội ( 71 ) , Thành phố Hồ Chí Minh ( 45 ) , Nam Định ( 22 ) ... Thuộc 7/13 Bộ , Nghành có 68 doanh nghiệp cổ phần hoá , nhiều nhất là Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn ( 20 ) , Giao thông vận tải ( 16 ) , Xây dựng ( 15 ) ... Và tại 10/17 tổng công ty 91 có 28 doanh nghiệp cổ phần hoá , các tổng công ty Dệt-May , Hàng Hải mỗi tổng công ty có 5 doanh nghiệp cổ phần hoá , các tổng công ty cà phê , Xi măng , Bưu chính -viễn thông , Than mỗi tổng công ty có 3 doanh nghiệp cổ phần hoá . + Các doanh nghiệp được cổ phần hoá rất đa dạng , thuộc các nghành kinh tế . Có 165 doanh nghiệp nghành công nghiệp xây dựng ; 151 doanh nghiệp nghành dịch vụ thương mại ; 38 doanh nghiệp nghành giao thông vận tải , 10 doanh nghiệp nông nhiệp và 6 doanh nghiệp thuỷ sản . Đa số các doanh nghiệp có vốn điều lệ trên 10 tỷ đồng . Doanh nghiệp cổ phần hoá có số vốn nhà nước lớn nhất là công ty cổ phần mái đường Lam Sơn với 92,5 tỷ đồng và doanh nghiệp có số vốn nhà nước ít nhất là Công ty cổ phần chế biến xuất khẩu Kim Sơn chỉ có 32 triệu đồng . + Các doanh nghiệp nhà nước sau khi được chuyển sang công ty cổ phần đều hoạt động có hiệu quả hơn trước , xét tổng thể trên các mặt doanh thu , lợi nhuận , nộp ngân sách , tích luỹ vốn ... Về doanh thu , bình quân tăng gần 2 lần so với trước khi tiến hành cổ phần hoá . Có nhiều đơn vị tăng rất cao , Công ty cổ phần cơ điện lạnh ( Thành phố Hồ Chí Minh ) doanh thu năm 1999 đạt 178,67 tỷ đồng bằng 3,83 lần ; Công ty cổ phần đồ hộp Mỹ châu ( Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn ) năm 1999 đạt 22,72 tỷ bằng 1,57 lần ; Công ty cổ phần Công nghiệp hoá chất ( Vũng tàu ) đạt 11,68 tỷ bằng 2,35 lần ... Vốn bình quân tăng gần 2,5 lần , bao gồm cả tích luỹ từ lợi nhuận và thu hút thêm vốn đầu tư từ bên ngoài , nổi bật là Công ty cổ phần chế biến hàng xuất nhập khẩu Long An vốn tăng 5 lần , Công ty cổ phần Việt Phong vốn tăng 2,4 lần ... Nộp ngân sách tăng bình quân khoảng 2 lần . Công ty cổ phần Cơ điện lạnh nộp 8,3 tỷ đồng bằng 2,8 lần ; Công ty cổ phần Sơn Bạch Tuyết nộp 18,5 tỷ đồng bằng 2,68 lần ; Công ty cổ phần Cao su Sài Gòn nộp 6,7 tỷ đồng bằng 4,1 lần ... Hầu hết các doanh nghiệp sau cổ phần hoá đều mở rộng sản xuất thu hút thêm người lao động . Thu nhập của người lao động tại các doanh nghiệp cổ phần cũng được cải thiện , với mức tăng bình quân hàng năm gần 20% , chưa kể thu nhập từ các cổ tức ( khoảng 1-2%/tháng ) . Năm 1999, có nhiều Công ty cổ phần thu nhập rất cao như Công ty cổ phần Đại lý liên hiệp vận chuyển gần 1,2 triệu đồng /người /tháng bằng 2,6 lần ... - Đến 15/8/2000 đã có 460 doanh nghiệp chuyển thành Công ty cổ phần . Trong đó có 73% doanh nghiệp nhà nước thuộc địa phương ; 18,2% doanh nghiệp nhà nước thuộc Bộ , Trung ương ; 8,8% doanh nghiệp nhà nước thuộc tổng công ty 91 . Nếu phân loại theo nghành kinh tế thì ngành công nghiệp và xây dựng cơ bản có 44,2% doanh nghiệp nhà nước chuyển thành Công ty cổ phần , nghành dịch vụ thương mại có 39,2% ; nghành giao thông vận tải có 9,5% ; nghành nông nghiệp có 4,1% ; nghành thuỷ sản có 2% Rõ ràng , tiến hành cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước dang ngày một tăng tốc và đạt hiệu quả cao . Cơ chế quản lý mới đã làm cho người lao động trở thành thành người chủ thực sự trong các công ty cổ phần với tính chủ động và ý thức kỷ luật tự giác và tiết kiệm trong sản xuất đã góp phần làm cho hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp ngày càng cao . II. Một số tồn tại chủ yếu trong quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước : Bên cạnh những kết quả đạt được trong quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước như : tăng thêm vốn , tăng thêm lao động , tăng thu nhập của người lao động , tăng doanh thu , tăng nộp Ngân sách ... vẫn còn một số tồn tại chủ yếu là nguyên nhân của sự chậm trễ trong quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước trong những năm qua . Đến cuối năm 1999 vẫn còn 6 Bộ , 7 tổng công ty 91 và 21 tỉnh thành chưa có một doanh nghiệp nhà nước nào được chuyển thành Công ty cổ phần . Đó là các Bộ y tế , Bộ Giáo dục và đào tạo , Bộ Khoa học và công nghệ môi trường , Bộ Văn hoá thông tin , Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ,Trung tâm Khoa học tự nhiên và Công nghệ quốc gia ; Các tỉnh : Lạng Sơn , Lai Châu , Sơn La , Bắc Cạn , Hưng Yên , Thái Nguyên , Lào Cai , Quảng Trị , Phú Thọ , Kon-Tum , Tây Ninh , Bình Định , Bình Phước , Tiền Giang , Bến Tre , Sóc Trăng , Đồng Tháp , Trà Vinh , Kiên Giang , Bạc Liêu ; Các tổng công ty : Dầu khí , Hàng không , Thuốc lá , Giấy , Công nghiệp tầu thuỷ , Cao su , Lương thực Miền Nam . Đâu là nguyên nhân của tình trạng này ? 1. Bản thân nhận thức và tổ chức thực hiện của cơ quan quản lí và doanh nghiệp chưa đầy đủ , còn nhiều lúng túng và chậm trễ : Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước thực chất là chuyển doanh nghiệp 100% sở hữu nhà nước thành đa sở hữu , trong đó có chủ sở hữu là cán bộ , nhân dân . Cán bộ và nhân dân nói chung còn chưa quen với cơ chế thị trường , lại càng ngỡ ngàng đối với hình thức cổ phần hoá và chưa nhận thức đầy đủ về hiệu quả của cổ phần hoá . Mặc dù vấn đề cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước đã được thực hiện nhiều năm , song trong nhận thức của một số cán bộ , đảng viên và một số doanh nghiệp vẫn còn sự nhầm lẫn giữa Cổ phần hoá và Tư nhân hoá . Mặt khác về mặt pháp lí trong nhiều năm mọi người đều nghĩ chỉ là thí điểm cổ phần hoá nên nghe và trông chờ cho đến Nghị định 28/CP ngày 7/5/1996 cũng mới chỉ là " chuyển một số doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần " tiếp đó lại có Nghị định 25/CP làm cho tính pháp lí hoá ổn định nên chưa làm chuyển biến nhận thức sâu sắc dẫn đến sự chần chừ chờ đợi . Chỉ khi có Nghị định 44/CP ngày 2/6/1998 về " chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần " thì quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước mới thực sự tăng tốc và đạt hiệu quả cao . Đối với các cơ quan quản lí nhà nước do đứng trức 3 nguy cơ lớn của đất nước là : nguy cơ đi chệch hướng Xã hội chủ nghĩa , nguy cơ tụt hậu so với sự phát triển chung , nguy cơ của quốc nạn tham nhũng của một số cán bộ có chức có quyền . Cán bộ các cấp còn dè dặt trong việc chỉ đạo công tác cổ phần hoá . Trong tổ chức thực hiện còn nhiều lúng túng , chậm trễ , thủ tục cổ phần hoá đặc biệt là thủ tục xác định giá trị doanh nghiệp còn rườm rà mất nhiều thời gian . Đối với các doanh nghiệp , do yếu tố tâm lý , tư duy cũ của thời kì bao cấp vẫn là lực cản đối với chủ trương cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước . Người lao động thì sợ mất việc làm , sợ không được hưởng chế độ như các công nhân viên chức các doanh nghiệp nhà nước ...Lãnh đạo các doanh nghiệp thì sợ mất quyền điều hành , quyết định do phần lớn giám đốc lãnh đạo doanh nghiệp đều là sự bổ nhiệm của cấp trên . Vì thế họ không muốn cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước . Sự chậm trễ trong quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước một phần do nhận thức và tổ chức thực hiện còn nhiều lúng túng , chưa thường xuyên liên tục bởi vì cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước là một vấn đề mới mẻ , phức tạp , liên quan đến việc thay đổi hình thức sở hữu : từ sở hữu nhà nước toàn bộ đến hình thức sở hữu nhiều thành phần . Như vậy, việc khắc phục tồn tại này chỉ còn là yếu tố thời gian 2. Các chính sách khuyến khích công nhânviên chức trong các doanh nghiệp nhà nước chuển sangcông ty cổ phần chưa nhiều, chưa hấp dẫn: Tuy kết quả buổi đầu ở các doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá các chỉ tiêu về vốn lãi, họp ngân sách, việc làm và thu nhập của nguồn lao động đều tăng so với trước, nhưng nguồn lao động vẫn còn băn khuăn lo ngại - đây là một nguyên nhân quan trọng dẫn đến tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nướctiến hành chậm. Nguyên nhân vì sao ? Vấn đề quyền lợi trong quá trình cổ phần hoá chưa đủ sức hấp dẫn đối với mọi tầng lớp tham gia thực hiện chương trình này. Mặc dù chính phủ đã có những chính sách ưu đãi đối với doanh nghiệp và nguồn lao động trong doanh nghiệp nhưng xem ra vẫn chưa đủ sức hấp dẫn . Nghị định 44/CP 1998 quy định '' Được nhà nướcbán với giá ưu đãi cho người lao động trong doanh nghiệp tuỳ theo năm công táccủa từng người . Một năm làm việc cho nhà nước được mua tối đa 10 cổ phần ( trị giá mỗi cổ phần là 100.000 đồng ) với mức giảm giá 30% so với các đối tượng khác . Tổng giá trị ưu đãi cho người lao động không quá 20% giá trị vốn nhà nước tại doanh nghiệp . Những doanh nghiệp có vốn tự tích luỹ từ 40% trở lên thì tổng giá trị ưu đãi cho người lao động không quá 30% giá trị vốn nhà nước tại doanh nghiệp " . Như vậy , nhà nước đã cho người lao động 30% còn lại 70% giá trị cổ phần họ phải mua bằng tiền của họ . Giả sử một người lao động có thâm niên 30 năm công tác tại doanh nghiệp , họ được mua 300 cổ phần có giá trị 30 triệu đồng và phải trả 21 triệu đồng . Đây là món tiền lớn mà ít người lao động chân chính có được . Nhưng điều đó không quan trọng bằng vấn đề , liệu đồng tiền họ bỏ ra có sinh lợi không ? Cứ xem tốc độ tăng giá của đông USD trong thời gian qua , thì VNĐ đã mất giá 9-10% và vẫn chưa lấy lại được cân bằng trong suốt một thời gian dài ; trong khi phần lớn các doanh nghiệp nhà nước thực hiện cổ phần hoá đều là những doanh nghiệp có quy mô nhỏ , vốn ít , và hiệu quả sản xuất kinh doanh của một số doanh nghiệp nhà nước trước khi cổ phần hoá là rất thấp , do đó tỷ suất lợi nhuận trên vốn chỉ là những con số khiêm tốn . Vì thế người lao động có tiền sẽ sử dụng biện pháp gửi tiền tiết kiệm hoặc đổi ra USD để giữ giá đồng tiền chứ không mua cổ phiếu . Đối với người lao động nghèo , nhà nước ưu đãi hơn được mua trả dần trong 10 năm không phải chịu lãi suất , trong đó 3 năm đầu chưa phải trả . Nhưng số lượng này rất nhỏ , chỉ chiếm có 20% tổng số cổ phần nhà nước bán , có nghĩa là chỉ 4% số vốn nhà nước tại doanh nghiệp . Về việc làm cho người lao động , Nghị định 44/CP quy định doanh nghiệp tiến hành cổ phần hoá phải có trách nhiệm sắp sếp , sử dụng hết số lao động hiện có tại doanh nghiệp . Đồng thời lại quy định " Sau 12 tháng , kể từ khi doanh nghiệp nhà nước chuyển thành Công ty cổ phần , nếu do nhu cầu tổ chức lại sản xuất kinh doanh , thay đổi công nghệ , dẫn đến người lao động mất việc làm thì chính sách đối với những người lao động này được giải quyết theo những quy định hiện hành của chính phủ " . Điều đó có nghĩa là người lao động chỉ được tiếp tục làm việc ổn định sau 12 tháng sau đó tuỳ tình hình thực tế của doanh nghiệp . Trên đây là những điểm mấu chốt có liên quan đến người lao động trong doanh nghiệp . Rõ ràng , những điểm mấu chốt này chưa có gì hấp dẫn họ . III. Một số giải pháp thúc đẩy quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước : Theo dự kiến , trong giai đoạn 2000-2003 sẽ tiến hành cổ phần hoá 1056 doanh nghiệp nhà nước ( chiếm 46,03% tổng số doanh nghiệp nhà nước thuộc diện xắp xếp trong thời kì này ) ; trong đó năm 2000 ( 337 doanh nghiệp ) ; năm 2001 ( 345 doanh nghiệp ) ; và năm 2002 ( 374 doanh nghiệp ) . Để thực hiện được dự kiến này đồng thời giải quyết được những tồn tại chủ yếu trong quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước chúng ta cần phải nghiên cứu và đề ra những giải pháp hấp dẫn , kịp thời , sát thực tế , từng bước tháo gỡ những khó khăn vướng mắc trong việc tổ chức thực hiện , trong những chính sách liên quan đến lợi ích nhiều mặt của người lao động , cũng như tạo cơ sở cho quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. Tiến hành phân hoá loại doanh nghiệp nhà nước để làm cơ sở cho việc cổ phần hoá : Việc tiến hành phân loại các doanh nghiệp nhà nước là điều rất quan trọng vì cho đến nay chưa có một sự phân loại rõ ràng nào làm cơ sở cho việc cổ phần hoá . Các doanh nghiệp nhà nước hiện có được phân loại theo hướng như sau . Loại doanh nghiệp nhà nước cần nắm vững cổ phần chi phối hoặc cổ phần đặc biệt gồm : doanh nghiệp công ích có mức vốn trên 10 tỷ đồng , khai thác quặng quý hiếm , dầu khí và khoáng sản quy mô lớn , sản xuất phân bón , thuốc trừ sâu , thuốc chữa bệnh , hoá dược , sản xuất kim loại mầu và kim loại quí hiếm quy mô lớn , sản xuất điện quy mô lớn , truyền tải và phân phối điện , sửa chữa phương tiện bay , bưu chính viễn thông , vận tải đường sắt , hàng không , viễn dương , in , xuất bản , sản xuất rượu bia , thuốc lá quy mô lớn , ngân hàng đầu tư và ngân hàng người nghèo . Loại doanh nghiệp nhà nước quy mô quá nhỏ ( vốn dưới 1 tỷ đồng ) không cần cổ phần hoá mà có thể xem xét đấu thầu công khai , cho thuê ; cho sát nhập nếu có khả năng mang lại hiệu quả kinh tế -xã hội cao hơn . Khoán kinh doanh , bán ưu tiên cho cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp hoặc cho các pháp nhân , thể nhân thuộc các thành phần kinh tế khác . Loại doanh nghiệp nhà nước thua lỗ kéo dài ( từ 2,3 năm liên tục trở lên ) không trả được nợ đến hạn , không nộp đủ thuế , không trích đủ bảo hiểm xã hội và các quỹ khác theo quy định , sẽ sử lý theo hướng : Nếu có thị trường tiêu thụ nhưng do thiếu vốn hoặc năng lực quản lí kém thì cơ quan quản lí có biện pháp hỗ trợ và kiên quyết thay thế cán bộ để chấn chỉnh lại , sau đó sẽ chuyển đổi cơ cấu sở hữu , nếu không có khả năng khắc phục thì bán đấu giá hoặc giải thể . Loại doanh nghiệp nhà nước làm ăn có hiệu quả sản xuất ra tiêu thụ được sản phẩm , làm ăn có lãi , khấu hao tài sản theo đúng chế độ chính sách,đóng đủ các loại thuế theo luật định , không có nợ quá hạn,đảm bảo mức sống cho người lao động . Đối với loại doanh nghiệp nhà nước này sẽ tiến hành cổ phần hoá các doanh nghiệp mà nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn . Có thể nói vai trò chủ đạo của doanh nghiệp nhà nước hiện nay không phải là ở số lượng doanh nghiệp nhiều hay ít , hoạt động có hiệu quả hay không mà thể hiện ở khả năng chi phối sự phát triển của nền kinh tế . Và việc cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước sẽ là con đường hiệu quả nhất để nâng cao hiệu quả hoạt động của toàn bộ nền kinh tế quốc dân . 2. Hình thành chính sách ưu đãi đối với người lao động : Trong quá trình cổ phần hoá , chính sách ưu đãi đối với người lao động luôn là một vấn đề được quan tâm . Tuy nhiên , người lao động vẫn cảm thấy băn khoăn lo lắng bởi bản thân các chính sách ưu đãi vẫn chưa nhiều và chưa có sự hấp dẫn cần thiết để họ hăng hái trong hoạt động này . Nhà nước cũng cần thiết phải có một số chính sách đãi ngộ thích đáng cho cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước chuyển sang Công ty cổ phần thì mới tạo ra được động lực bên trong từng doanh nghiệp để thúc đẩy công tác này phát triển đúng hướng . Rõ ràng , giải quyết tốt vấn đề lao động , việc làm ( chính sách đối với người lao động ) sẽ là tiền đề cho việc thực hiện thành công chương trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước . Người lao động có lợi ích gì hấp dẫn nếu như doanh nghiệp của họ thực hiện cổ phần hoá ? Liệu cổ phần hoá có giải quyết được khó khăn cho các doanh nghiệp một cách nhanh chóng hay không ? Lợi ích đầu tiên mà họ quan tâm là việc làm và thu nhập , ngoài ra người lao động còn băn khoan lấy tiền đâu để mua cổ phần khi cổ phần hoá . Nghị định 44/CP ngày 2/6/1998 về " chuyển doanh nghiệp nhà nước thành Công ty cổ phần " đã tháo gỡ từng bước khó khăn này như : Người lao động trong doanh nghiệp được mua cổ phần với giá trị ưu đãi thấp hơn 30% so với các đối tượng khác . Mỗi năm làm việc được mua tối đa 10 cổ phần . Riêng đối với người lao động nghèo trong doanh nghiệp được mua cổ phần ưu đãi hoãn trả tiền trong 3 năm , trả dần trong vòng 10 năm không phải chịu lãi suất . Tuy nhiên vẫn còn 70% giá trị cổ phần người lao động phải lo liệu để mua cho đủ , nếu họ không thuộc diện " người lao động nghèo " và dường như điểm này vẫn chưa đủ để hấp dẫn họ . Về việc làm , sau khi cổ phần hoá việc làm của họ liệu còn được tiếp tục ? Sau khi cổ phần hoá doanh nghiệp , tất yếu phải sắp sếp lại lao động . Những người đáp ứng được yêu cầu sẽ tiếp tục công việc cũ còn những người không đạt yêu cầu sẽ phải đào tạo , bồi dưỡng hoặc là làm những công việc khác . Đối với người lao động trực tiếp không biết họ có là người nằm trong diện đó không ? làm công việc mới là việc gì ? , đi đào tạo và bồi dưỡng bao lâu ? phụ cấp để đi đào tạo , bồi dưỡng có đủ không ? ...Riêng đối với người lao động gián tiếp , người giữ cương vị lãnh đạo , nỗi lo lắng còn nhiều hơn về chức vụ đang đảm nhận . Họ có nằm trong số tinh giảm lao động gián tiếp không ? sau khi cổ phần hoá họ làm gì ? ... Do đó , để giải quyết những vướng mắc này thì chính sách đối với người lao động cần phải được nghiên cứu bổ sung . Về thu nhập , sau khi cổ phần hoá thu nhập của người lao động sẽ là bao nhiêu ? Kết quả sẽ ra sao sau khi cổ phần hoá ? tỷ suất sinh hồi của đồng vốn mua cổ phần sẽ như thế nào ? Chính vì những lo lắng này mà người lao động chưa hăng hái tham gia tích cực vào quá trình cổ phần hoá của Đảng và nhà nước . Do đó , cần hình thành thêm những chính sách ưu đãi đối với người lao động để khuyến khích họ hăng hái hơn . Chúng ta có thể sử dụng một số biện pháp sau để khuyến khích người lao động : + Nâng tỷ lệ giá trị ưu đãi cho người lao động trong các doanh nghiệp nhà nước có vốn tự tích luỹ trên 40% khi thực hiện cổ phần hoá từ 30% hiện nay lên 50% của giá trị phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp . Trường hợp xác định được nguồn vốn tự tích luỹ được tạo thành do doanh nghiệp tự vay đã trả xong , thì tỷ lệ này là 70% . + Nâng tỷ lệ giá trị cổ phần được mua với giá trị ưu đãi ở những doanh nghiệp nhà nước có vốn nhà nước nhỏ để thu hẹp chênh lệch phần được mua ưu đãi giữa các doanh nghiệp có nhiều vốn nhà nước và doanh nghiệp có ít vốn nhà nước . + Bỏ quy định hạn chế mức mua cổ phần lần đầu , và mức mua cổ phần ưu đãi của cán bộ lãnh đạo doanh nghiệp không quá mức bình quân của các cổ đông trong và ngoài doanh nghiệp , để khuyến khích huy động vốn và vai trò tích cực của giám đốc doanh nghiệp . + Việc kế thừa cổ phiếu sẽ sửa đổi theo hướng cho phép người lao động chuyển cho con cháu vào làm việc tại doanh nghiệp . + Nhữngngười lao động còn trẻ có khả năng phát triển , khi chuyển sang Công ty cổ phần được đào tạo lại trên cơ sở nhu cầu sử dụng lao động của doanh nghiệp và nguyện vọng của cá nhân . 3. Xây dựng môi trường pháp lý cần thiết cho sự ra đời và hoạt động của các Công ty cổ phần : Trong nền kinh tê thị trường hiện đại , tất cả mọi hoạt động kinh tế đều phải chịu sự định chế của nhà nước bằng hệ thống pháp luật . Đó là các bộ luật và văn bản dưới luật có ý nghĩa như là những điều kiện để xác lập và ổn định các mối quan hệ kinh tế ở tầm vĩ mô , tạo ra khung khổ pháp lý cho sự hoạt động của các đơn vị kinh tế phù hợp với lợi ích phát triển kinh tế-xã hội của đất nước . Việc chuyển sang nền kinh tế thị trường và chuyển đổi doanh nghiệp hoạt động theo mô hình Công ty cổ phần không thể thực hiện được nếu nhà nước không tạo lập môi trường pháp lý cần thiết làm điều kiện và cơ sở cho quá trình này . Hầu hết , ở các nước có nền kinh tế thị trường , hoặc đang chuyển sang nền kinh tế thị trường đều có một số bộ luật cơ bản như : Luật công ty , Luật đầu tư trong và ngoài nước , Luật thương mại , Luật phá sản , Luật lao động và bảo hiểm , Luật doanh nghiệp nhà nước , Luật về thị trường chứng khoán và sở giao dịch chứng khoán ... ở một số nước còn bổ sung thêm luật Tư nhân hoá để tạo cơ sở pháp lý cho quá trình tư nhân hoá và cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước . ở Việt Nam , trong quá trình đổi mới cơ chế kinh tế và xác lập nền kinh tế thị trường nói chung , cũng như để tiến hành cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước nói rêng ngoài việc phải bổ sung , sửa đổi những luật đã có cần sớm ban hành và bổ sung các bộ luật quan trọng khác như : Luật đầu tư trong nước , Luật thương mại , Luật phá sản , Luật doanh nghiệp nhà nước , Luật lao động và bảo hiểm . Luật về thị trường chứng khoán và sở giao dịch chứng khoán ... để từng bước xác lập môi trường pháp lý cho sự hoạt động của Công ty cổ phần sẽ được hình thành . Cho đến nay , chúng ta vẫn chưa có một bộ luật cụ thể nào để làm cơ sở căn bản cho quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước . Do đó , nhà nước cũng nên có sự nghiên cứu và ban hành một bộ luật như Luật chuyển đổi sở hữu nhà nước . Như đã nói ở trên , trong nền kinh tế thị trường hỗn hợp có sự tham gia và hoà nhập của sở hữu nhà nước và sở hữu tư nhân dưới hình thức các Công ty cổ phần thì quá trình chuyển đổi sở hữu bằng cổ phần hoá và quốc doanh hoá diễn ra song song với nhau . Luật chuyển đổi sở hữu nhà nước ban hành sẽ khẳng định sự cam kết của nhà nước đi theo con đường phát triển nền kinh tế thị trường , tạo những điều kiện pháp lý cần thiết cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước cũng như dân chúng thực hiện một cách yên tâm công cuộc cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước với quy mô mở rộng lớn , khó khăn và lâu dài của nhà nước . Đạo luật này cũng sẽ quy định những nguyên tắc chung thể hiện về mặt pháp lý quan điểm nhất quán cuả nhà nước trong các vấn đề như doanh nghiệp nhà nước thuộc nghành và lĩnh vực nào được cổ phần hoá và có sự tham gia của khu vực tư nhân , qui trình định giá doanh nghiệp và phương thức tiến hành cổ phần hoá , hệ thống tổ chức quyết định và thi hành cổ phần hoá , quản lý và sử dụng các nguồn vốn do bán cổ phiếu cũng như xử lý các hành vi lạm dụng , cố ý làm trái nguyên tắc ... Bên cạnh Luật công ty và Luật doanh nghiệp nhà nước , Luật chuyển đổi sở hữu nhà nước sẽ đóng vai trò bảo đảm về mặt pháp lý cho bước trung gian chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước sang Công ty cổ phần . Quá trình thí điểm cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước bước đầu dựa vào cơ sở pháp lý là các quyết định được Chính phủ ban hành và Thông tư của các Bộ chức năng và chủ quản , nhưng về sau này , khi triển khai trên diện rộng thì cần có sự bảo đảm về mặt pháp luật bằng một bộ Luật được Quốc hội thông qua và phê chuẩn . Các văn bản của chính phủ ban hành để chỉ đạo tổ chức thực hiện , rút kinh nghiệm và điều chỉnh quá trình làm thí điểm cổ phần hoá sẽ góp những nội dung quan trọng vào các điều khoản cấu thành Bộ luật chuyển đổi sở hưu nhà nước này . Thực hiện các giải pháp nêu trên , không những đẩy mạnh được công cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước mà còn tạo điều kiện cho doanh nghiệp làm ăn có lãi , đứng vững và có khả năng cạnh tranh trên thị trường . Đồng thời tạo điều kiện cho các công ty cổ phần hoạt động một cách hiệu quả . Lời kết Cố phần hoá doanh nghiệp nhà nước là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước nhằm xác lập đan xen quyền sở hữu của nhà nước , của người lao động trong doanh nghiệp và các tổ chức cá nhân ngoài doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế ; thực hiện dân chủ hóa và xã hội hoá trong hoạt động kinh tế ; thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần , một nội dung quan trọng của đường lối đổi mới mà việc thực hiện đã tạo nên những nét mới trong nền kinh tế đất nước trong những năm qua . Mặc dù còn những khó khăn nhất định nhưng kết quả thực tế đạt được của tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước đã là bằng chứng xác nhận chủ trương cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước của Đảng và nhà nước là đúng đắn và hiệu quả . Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước tuy là việc làm mới mẻ , song với định hướng đúng và quyết tâm cao , chỉ đạo thực hiện kiên quyết thì cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước sẽ tạo nên những khởi sắc mới cho nền kinh tế nước ta . Mục lục Phần I : một số nội dung lý luận về cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước 3 I.Khái niệm cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước 3 1. Khái niệm cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước 3 2. Đặc điểm cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở nước ta hiện nay . 4 3. Mục tiêu của cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước trong giai đoạn hiện nay . 5 II.Một số quan điểm cơ bản về cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước 7 1.Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước phải được đặt trên cơ sở đổi mới khu vực kinh tế nhà nước và sắp sếp lại các doanh nghiệp nhà nước . 7 2. Việc xác định giá trị của doanh nghiệp nhà nước để cổ phần hoá cần phải chú ý đến cả hai yếu tố cấu thành : Giá trị hữu hình và giá trị vô hình . 8 3. Phương pháp bán cổ phiếu ở những doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá cần thực hiện công khai , rõ ràng , thủ tục đơn giản , dễ hiểu đối với mọi người . 9 III.Người lao động với cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước . 10 1.Chính sách đối với người lao động khi cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước . 10 2. Một số ưu đãi đối với người lao động khi chuyển sang Công ty cổ phần . 12 Phần II : thực trạng cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước trong nghành công nghiệp việt nam hiện nay 14 I.Thực trạng cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước trong nghành công nghiệp 14 II. Một số tồn tại chủ yếu trong quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước . 17 1.Bản thân nhận thức và tổ chức thực hiện của cơ quan quản lý và doanh nghiệp chưa đầy đủ , còn nhiều lúng túng chậm trễ . 17 2. Các chính sách khuyến khích công nhân viên chức trong các doanh nghiệp nhà nước chuyển sang Công ty cổ phần chưa nhiều , chưa hấp dẫn . 18 III. Một số giải pháp thúc đẩy quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước 20 1.Tiến hành phân loại doanh nghiệp nhà nước để làm cơ sở cho việc cổ phần hoá . 20 2.Hình thành chính sách ưu đãi đối với người lao động . 22 3. Xây dựng môi trường pháp lý cần thiết cho sự ra đời và hoạt động của các Công ty cổ phần . 24 Tài liệu tham khảo 1. Cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam VC26600-26004/92 Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước cơ sở lý luận và thực tiễn VC21251-21260/92 3. Cổ phần hóa với vấn đề quyền lợi người lao động . NCKT 1/98 Góp ý kiến về vấn đề chính sách đối với người lao động khi cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước KTVDB 1/98 Chủ trương đẩy mạnh cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước , chính sách liên quan đến quyền lợi người lao động LĐXH 3/98 Người lao động với cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước LĐXH 3/98 Những vướng mắc của người lao động vềc doanh nghiệp nhà nước . KTTP 27/98 Một số suy nghĩ về cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước . NCKT 11/98 Về một số giải pháp thúc đẩy tiến hành cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước . Một số biện pháp cần làm để thúc đẩy quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước . TTTCTT 3/98 Cổ phần hoá sẽ tăng tốc . Công nhiệp nhẹ 11/2000 Vì sao cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước tiến hành chậm ? TM 7/kỳ2/95 Bàn về khái niệm " cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước " Luật 5/97 Một số vấn đề về cổ phần hoá doanh nghiệp TM : 11/98

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35099.doc
Tài liệu liên quan