Đề tài Thực trạng công tác quản lý tài chính trong đầu tư xây dựng cơ bản

MỤC LỤC CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐẦU TƯ XDCB 1 I. Những vấn đề chung về XDCB 1 1. Khái niệm 1 2. Ý nghĩa của hoạt động XDCB đối với nền kinh tế 1 3. Nội dung và đặc điểm của xây dựng cơ bản 1 3.1. Nội dung của hoạt động xây dựng cơ bản 2 3.2. Đặc điểm của XDCB 3 4. Sự cần thiết của việc nghiên cứu sự thất thoát lãng phí trong đầu tư XDCB 4 II. Vốn và cơ cấu vốn đầu tư XDCB 5 1. Phân tích vốn đầu tư XDCB 5 1.1. Theo yếu tố cấu thành 5 1.2. Cơ cấu theo nguồn vốn hình thành 6 2. Cơ cấu vốn đầu tư XDCB theo các ngành kinh tế thời kỳ 1995 – 1999 10 CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ TÀI CHÍNH TRONG ĐẦU TƯ XÂY DỰNG CƠ BẢN 14 I. Công tác quản lý tài chính trong đầu tư xây dựng cơ bản hiện nay 14 II. Tình hình thực hiện và quản lý vốn đầu tư XDCB trong những năm vừa qua (1991 – 2000) 15 1. Tình hình thực hiện đầu tư XDCB thời kỳ 1991 – 1996 16 1.1. Tình hình thực hiện 16 1.2. Kết quả và hiệu quả về vốn đầu tư XDCB 18 2. Tình hình thực hiện và quản lý đầu tư XDCB thời kỳ 96 – 2000 19 2.1. Tình hình thực hiện 19 2.2. Kết quả và hiệu quả thực hiện vốn đầu tư XDCB 21 CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỐNG LÃNG PHÍ THẤT THOÁT VỐN ĐẦU TƯ XDCB 24 I. Chủ trương và công tác kế hoạch hoá 24 1. Chủ trương đầu tư 24 2. Công tác kế hoạch hoá 25 II. Khắc phục tồn tại trong đấu thầu 26 1. Đối với cơ quan quản lý Nhà nước về đấu thầu 26 1.1. Xây dựng và hoàn thiện quy chế đấu thầu 26 1.2. Đào tạo đội ngũ cán bộ đấu thầu 27 III. Thẩm định tài chính – giải pháp trong việc cấp phát vốn 27 IV. Các giải pháp cho tình hình thanh tra kiểm tra 30 1. Kiện toàn tổ chức ban quản lý dự án 30 2. Chống tiêu cực, tham nhũng là nhiệm vụ tiên quyết để nâng cao chất lượng công trình 30 KẾT LUẬN CHUNG 33 TÀI LIỆU THAM KHẢO 34

doc37 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2021 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng công tác quản lý tài chính trong đầu tư xây dựng cơ bản, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
u tư. Vốn kiến thiết cơ bản khác: Bao gồm: Những chi phí kiến thiết cơ bản được tính vào giá trị công trình: Như chi phí cho tư vấn đầu tư, chi phí khảo sát thiết kế, chi phí cho ban quản lý, chi phí cho việc đền bù, giải phóng mặt bằng, di dời, di chuyển. .Chi phí kiến thiết cơ bản được tính vào giá trị tài sản lưu động bàn giao bàn giao: Bao gồm chi phí cho mua sắm súc vật, cây giống, đào tạo cán bộ công nhân viên. ã Những chi phí kiến thiết cơ bản khác được Nhà nước cho phép không tính vào giá trị công trình gồm: Chi phí công trình hư hỏng do thiên tai, thiệt hại do công trình bị dừng lại hoặc huỷ bỏ... 1.2. Cơ cấu theo nguồn vốn hình thành. 1.2.1. Nguồn vốn ngân sách nhà nước. Thực hiện đường lối đổi mới kinh tế của Đảng đề ra, Nhà nước đã có nhiều chính sách đổi mới và dẫn đến những thay đổi cơ bản trong nền kinh tế đất nước trong đó có sự thay đổi về cơ cấu nguồn vốn đầu tư XDCB. Nếu như trước kia trong nền kinh tế tập trung thì nguồn vốn dầu tư XDCB chủ yếu từ ngân sácg nhà nước, vốn tự có của các doanh nghiệp nhà nước và vốn tín dụng nhà nước. Giá trị lượng vốn đầu tư XDCB này nhỏ trong khi đó việc đầu tư lại dàn đều cho tất cả các ngành, tất cả các lĩnh vực trong nền kinh tế khiến cho hiệu quả đồng vốn không cao. Tuy nhiên, trong những năm trở lại đây cơ cấu nguồn vốn đầu tư XDCB đã có sự thay đổi. Hiện nay vốn đầu tư XDCB thuộc khu vực nhà nước chỉ chiếm khoảng 40% tổng nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản của toàn xã hội. Xét về tỷ trọng thì vốn đầu tư XDCB từ ngân sách giảm khá lớn nhưng giá trị tuyệt đối của nó hàng năm đều tăng lên nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước. Vốn ngân sách nhà nước: ngân sách TW, ngân sách địa phương dùng để đầu tư XDCB, Dự án đầu tư phát triển xã hội. Những dự án đó không có khả năng trực tiếp thu hồi vốn. Vốn ngân sách được cấp theo kế hoạch nhà nước đặt ra hàng năm chi 24%- 26%. Trong số các nguồn vốn đầu tư XDCB của khu vực nhà nước thì vốn thuộc ngân sách chiếm tỷ trọng lớn nhất. Tuy nhiên, trong những năm qua tỷ trọng của nó giảm liên tục mặc dù nếu xét về quy mô thì vốn đầu tư vẫn tăng liên tục. Lượng vốn đầu tư XDCB từ ngân sách nhà nước năm 1995 là 8925 tỷ đồng và đến năm 1999 lượng này lên dến13546 tỷ đồng. Về tỷ trọng thì năm 1995 chiếm tỷ trọng là 55,8%, đến năm 1999 là 33.5%. Điều này cho thấy quyết tâm chuyển đổi cơ cấu vốn đầu tư xây dựng cơ bản trong những năm gần đây của nhà nước là rất được chú trọng, tổng vốn ngân sách giảm nhường chổ cho vốn tín dụng Nhà nước, vốn của các doanh nghiệp Nhà nước. Trong ngồn vốn đầu tư XDCB từ ngân sách Nhà nước thì có sự đóng góp rất đáng kể của vốn ODA. Trong những năm qua vốn ODA cho đầu tư XDCB tăng lên rất nhanh từ 1720 tỷ đồng năm 1995 đến năm 1999 đã tăng lên 4620 tỷ đồng, năm 2001 là 6420 tỷ đồng và dự kiến năm 2002 tăng 10%. Tiến độ giải ngân vốn ODA diển ra nhanh hơn. Năm 2001, Việt Nam đã giải ngân được 1.711 tỷ USD vốn ODA, đưa tổng vốn ODA đã giải ngân cho đế nay đạt 9,72 tỷ USD. Mục tiêu 2002 nước ta phải tăng giải ngân vốn ODA lên khoảng 1,9 tỷ USD. Sự tăng vốn ODA trong XDCB chứng tỏ Nhà nước đã quan tâm hơn đén nguồn này và cũng chứng tỏ được rằng các dự án đầu tư XDCB sử dụng vốn ODA được thực hiện ngày càng có hiệu quả. Theo Bộ KH-ĐT, trong tháng 1/2002 vốn đầu tư XDCB tập trung thuộc ngồn vốn ngân sách Nhà nước được thực hiện tương đối khá, với khỏng 2250 tỷ đồng, bằng 10,4% kế hoạch năm 2002 và tăng 82,2% so với cùng kỳ năm 2001. Tính đến nay, chỉ tiêu kế hoạch và dự toán ngân sách Nhà nước năm 2002 đã giao xong tới các Bộ, ngành, tổng công ty 91 và các địa phương. Theo như dự báo của các nhà hoạch định chính sách vĩ mô thì để duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm từ 7%-8% trong giai đoạn 2001-2010 thì nhu cầu vốn đầu tư XDCB cần thực hiện trong giai đoạn này là 2555 nghìn tỷ đồng. Trong đó dự kiến vốn ngân sách nhà nước chiếm 20%-25%, là một tỷ lệ thấp so với những năm trước đây. 1.2.2.Vốn tín dụng ưu đãi Nhà nước. Vốn tín dụng ưu đãi Nhà nước tuy có quy mô nhỏ nhất trong số các nguồn vốn đầu tư XDCB của khu vực Nhà nước, nhưng trong những năm gần đây do chủ trương Đảng và Nhà nước là giảm bao cấp trong đầu tư XDCB, nên nguồn này đã được Nhà nước chú trọng hơn, từ 2351 tỷ đồng năm 1995, năm 1998 là 7840 tỷ đồng. Sở dĩ có sự tăng đột biến năm 1998 là do cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực đã làm giảm FDI nên để đảm bảo giữ vững được tốc độ phát triển kinh tế thì nhà nước phải tăng lượng vốn này. Vì vậy, nguồn vốn tín dụng nhà nước từ năm 1995-1999 có sự tăng trưởng liên tục về tỷ trọng trong nguồn vốn thuộc khu vực Nhà nước. Nhưng đến 1999 thì tỷ trọng của nó là 25,9%. Năm 2000, 2001 tốc độ giải ngân vốn tín dụng đầu tư XDCB chậm, một phần do lãi suất không còn tính ưu đãi. Và dự kiến năm 2002- 2010 tỷ trọng vốn tín dụng ưu đãi Nhà nước là 30%- 35%. 1.2.3. Vốn của các doanh nghiệp Nhà nước. Vốn này đầu tư phát triển để nâng cao chất lượng sản, thay đổi máy móc thiết bị, tăng tính cạnh tranh trên thị trường. Phần vốn DNNN có được có thể do tích luỹ, khấu hao cơ bản, vốn vay. Trong những năm qua vốn đầu tư XDCB từ nguồn tự có của các DNNN tăng nhanh nhất trong số các nguồn vốn đầu tư. Từ năm 1995 nguồn vốn này ở mức 4720 tỷ đồng thì đến năm 1999 là 16418 tỷ đồng, với tốc độ tăng bình quân hàng năm khoảng 50%. Nguồn vốn đầu tư XDCB từ vốn tự có của DNNN từ chỗ, năm 1995 chỉ chiếm 29.5% trong tổng số các nguồn vốn thuộc khu vực Nhà nước thì đến năm 1999 tỷ lệ này là 40,8%, cao nhất trong số các nguồn vốn khu vực Nhà nước, điều này phản ánh chính xác chủ trương của Đảng và Nhà nước, đó là giảm bao cấp trong đầu tư XDCB từ ngân sách Nhà nước, khuyến khích các DNNN tự bỏ vốn đầu tư. 1.2.4. Nguồn vốn từ dân cư. Trong những năm trước đây khi mà đất nước còn duy trì nền kinh tế kế hoạch tập trung thì nguồn vốn đầu tư của tư nhân và dân cư bị lãng quên nhưng kể từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường thì Nhà nước đã quan tâm khai thác nguồn vốn có tiềm năng rất lớn từ trong dân, trong các nguồn vốn của toàn xã hội đầu tư XDCB thì vốn của dân cư, tư nhân chiếm khoảng 30%. Năm 1995 nguồn vốn của khu vực dân cư là 11700 tỷ đồng đến năm 1999 là 19483. Tuy vậy, tỷ trọng vốn đầu tư của dân cư trên toàn bộ các nguồn vốn đầu tư XDCB năm 1999 là 25,2%, giảm so với năm 1995. Điều này cho thấy lĩnh vực đầu tư XDCB chưa thực sự hấp dẫn để có thể thu hút được lượng vốn nhàn rỗi tiềm năng trong dân cư. Đây là một trong những vấn đề mà Nhà nước cần có biện pháp sớm giải quyết để tận dụng nguồn vốn về vốn đầu tư ở trong nước để thúc đẩy phát triển kinh tế đất nước. 1.2.5.Vốn FDI . Vốn FDI đóng một vai trò quan trọng đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế nước ta. Những năm qua Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương chính sách nhằm huy động tối đa nguồn vốn FDI vào lĩnh vực XDCB. Vốn FDI liên tục tăng từ 1995-1997. Năm 1995 lượng vốn FDI là 15820 tỷ đồng chiếm tỷ trọng 36,3% vốn đầu tư XDCB. Đến năm 1997 lượng vốn FDI là 20185 tỷ đòng chiếm tỷ trọng 30,7% vốn đầu tư XDCB. Tuy nhiên mức độ tăng không lớn, bình quân hàng năm khoảng 13%. Đến năm 1998 do khủng hỏng kinh tế tài chính trong khu vực đã khiến các nhà đầu tư nước ngoài giảm lượng đầu tư vào việt nam và trong 1998 thì lượng vốn FDI chỉ còn 16486 tỷ đồng giảm khoảng 19% so với năm 1997. Tuy nhiên đến năm 1999 thì do cuộc khủng hoảng trong khu vực đã qua, nhiều nền kinh tế trong đó có Việt Nam đã có đấu hiệu phục hồi, ngoài ra còn do hàng loạt chính sách mở rộng nhằm thu hút đầu tư nước ngoài thì lượng FDI đã tăng lên và đạt mức 17396 tỷ đồng. Tuy vậy, tỷ trọng vốn FDI trong toàn bộ các nguồn vốn đầu tư XDCB liên tục giảm dần từ 1995(36,3%) dến năm 1999( 22,5%) điều này chứng tỏ chính sách khuyến khích đầu tư nước ngoài của ta vẫn còn những hạn chế nên vẫn chưa thu hút được nhiều vốn đầu tư nước ngoài. Đến những năm 2000, 2001 do chủ trương, môi trường đầu tư thông thoáng hơn, cải tiến các thủ tục hành chính, có biện pháp kêu gọi vốn FDI nên trong 2000, 2001 FDI tăng đáng kể. Vốn FDI thực hiện năm 2001 ước 2,3 tỷ USD, tăng 200 triệu so với năm 2000, đưa tổng vốn FDI. Thực hiện đến nay đạt gần 21,5 tỷ USD. Tóm lại, với một quy mô vốn lớn cho đầu tư XDCB hàng năm, nhà nước cần có những chính sách cụ thể đối với mỗi nguồn vốn để tạo một cơ cấu nguồn vốn hợp lý. Một cơ cấu nguồn vốn hợp lý phải là một cơ cấu phản ánh khả năng huy động vốn tối đa mọi nguồn lực của xã hội cho đầu tư phát triển. Là cơ cấu thay đổi theo hướng giảm dần tỷ trọng nguồn vốn đầu tư từ ngân sách và tăng tỷ trọng nguồn vốn tín dụng ưu đãi và nguồn vốn của dân cư. 2.Cơ cấu vốn đầu tư XDCB theo các ngành kinh tế thời kỳ 1995-1999. Để thấy được tình hình đầu tư XDCB trong những năm qua thì bên cạnh việc xem xét về cơ cấu nguồn vốn ta tiếp tục xem xét việc phân bổ nguồn vốn này như thế nào trong nền kinh tế. Ta thấy ở các ngành kinh tế đều có nhu cầu vốn đầu tư XDCB, tuy nhiên việc phân bố nguồn vốn như thế nào thì phụ thuộc vào chủ trương đường lối của đảng và Nhà nước ta trong từng giai đoạn, từng thời kỳ của nền kinh tế. Đảng và Nhà nước căn cứ vào đặc điểm, tình hình của nền kinh tế để phân bố vốn đầu tư cho các ngành. Việc xem xét cơ cấu vốn đầu tư XDCB là việc nghiên cứu, xem xét các quan hệ tỷ lệ của khối lượng vốn đầu tư XDCB vào các ngành kinh tế ta sẽ thấy được mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của đất nước trong từng giai đoạn nhất định. Mặt khác nghiên cứu vốn đầu tư cho ta thấy được những thay đổi trong cơ cấu kinh tế. Bởi vì, khi nhà nước tập trung phát triển ngành nào thì vốn đầu tư XDCB sẽ tập trung nhiều cho ngành đó phát triển nhanh hơn. Trước hết ta xem xét sự phân bổ chi đầu tư XDCB của ngân sách Nhà nước. Phân bổ chi đầu tư XDCB của ngân nhà nước( %). 1986 1991-1995 1996-2000 1.Khu vực SXvật chất. Trong đó: Nông lâm và thuỷ sản. Công nghiệp và xây dựng 2. Khu vực dịch vụ cơ bản: Giáo dục- đào tạo. Khoa học công nghệ. Y tế cứu trợ xã hội. Văn hoá thể thao. Phục vụ cá nhân cộng đồng. 13,4 25,7 2 0,5 1,3 1 41,4 8,7 38,7 1,7 0,2 0,8 1,1 24,5 8,5 40,2 1,8 1,2 0,9 1,1 25 Qua biếu trên ta thấy, sự phân bổ vốn ngân sách nhà nước cho khu vực sản xuất chiếm tỷ trọng lớn. Đặc biệt là công nghiệp và xây dựng ngày càng được nhà nước quan tâm phát triển. Năm 1986 tỷ trọng này là 25,7% đến giai đoạn 1991-1995 tỷ trọng công nghiệp và xây dựng chiếm tỷ trọng 38,7% và giai đoạn 1996-2000 là 40,2%. Tỷ trọng vốn đầu tư cho nông nghiệp và thuỷ sản giảm dần từ 13,4% năm 1986 xuống 8,5% giai đoạn 1996-2000. Trong khu vực dịch vụ cơ bản thì dịch vụ phục vụ cá nhân, cộng đồng giảm mạnh: từ 41,4% năm 1986 xuống 25% giai đoạn 1996-2000. Y tế cứu trợ xã hội giảm từ 1,3% năm 1986 xuống 0,9% giai đoạn 1996-2000. Vốn cho khoa học công nghệ lại tăng từ 0,5% năm 1986 đến 1,2% giai đoạn 1996-2000. - Còn xét trên toàn tổng vốn đầu tư XDCB trong những năm qua ta thấy: Nước ta đang trong giai đoạn xây dựng cơ sở nền tảng cho sự nghiệp CNH-HĐH, vì vậy nhà nước cần giành lượng vốn lớn cho đầu tư XDCB cho ngành công nghiệp. Trong những năm 1996 đến nay vốn đầu tư XDCB của Nhà nước dành cho ngành công nghiệp liên tục tăng không những con số tuyệt đối mà còn cả về tỷ trọng ( số tương đối ) thể hiện, năm năm 1999 giá trị vốn đầu tư XDCB cho ngành công nghiệp đạt mức 42686 tỷ đồng chiếm tỷ trọng 55,21%. Điều này vẫn phản ánh sự ưu tiên của Nhà nước cho ngành này. Cùng với ngành công nghiệp thì giao thông vận tải cũng được Nhà nước quan tâm đầu tư nhằm hoàn thiện cơ sở hạ tầng về giao thông, tạo điều kiện giao lưu kinh tế giữa các vùng trong cả nước được thuận tiện, thúc đẩy kinh tế phát triển. Năm 1995 vốn đầu tư XDCB dành cho GTVT là 5930 tỷ đồng và đến năm 1999 là 10816 tỷ đồng, tuy nhiên về tỷ trọng vốn đầu tư cho ngành GTVT trong tổng vốn đầu tư cho XDCB có lúc tăng lúc giảm (từ 1995-1999) nhưng xét về tổng thể thì năm 1999 cao hơn năm 1995. Bên cạnh việc tập trung cao độ cho các ngành có tính chất mũi nhọn Nhà nước cũng có sự quan tâm đến các ngành khác một cách thích đáng để đảm bảo sự cân đối của cơ cấu đầu tư tránh sai lầm mà ta có thời kỳ mắc phải trong việc tập trung vào công nghiệp nặng. Vì vậy, mà các ngành nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản, GD-YT, VH-TT cũng được nhà nước quan tâm đầu tư. Trong những năm trở lại đây nhờ tiến bộ khoa học kỹ thuật được áp dụng vào nông nghiệp, gắn sản xuất nông nghiệp với chế biến. Nhà nước đã đầu tư các công trình thuỷ lợi, đê diều phục vụ sản xuất phòng chống thiên tai. Đối với ngành thuỷ sản từ 1997 nhà nước ta đã có chương cho vay tín dụng ưu đãi để đánh bắt thuỷ sản xa bờ với lượng vốn tín dụng mỗi năm là hàng nghìn tỉ đồng đầu tư cho đóng mới tàu có trọng tải lớn đủ sức vươn ra khơi xa. Mặt khác, những năm qua nhà nước cũng đã đầu tư cho nhiêu lĩnh vực chế biến thuộc ngành nông lâm thuỷ sản nhằm nâng cao giá trị sản phẩm của các ngành này. Và với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin trên thế giới, Nhà nước đã chú trọng đầu tư cho lĩnh vực công nghệ thông tin tránh sự tụt hậu quá xa so với các nước phát triển, từng bước đưa nước ta tiến kịp thời đại nền kinh tế trí thức. Từ năm 1995 lượng vốn đầu tư cho lĩnh vực này là 2100 tỷ đồng. Đến năm 1999 là 4569 tỷ đồng tăng bình quân hàng năm khoảng 23%. Cùng với sự phát triển kinh tế trong những năm gần đây thì nhà nước cũng bắt đầu có sự quan tâm đúng mức hơn đến đời sống tinh thần của nhân dân. Điều này thể hiện sự gia tăng về quy mô cũng như tốc độ của vốn đầu tư cho ngành GD-YT –TT. Cụ thể vốn dầu tư XDCB cho ngành này từ 1898 tỷ đồng năm 1995 lên 3540 tỷ đồng năm 1999. Tóm lại, việc nghiên cứu cơ cấu đầu tư XDCB của nhà nước ta trong những năm qua cho thấy nhà nước đã không ngừng tăng quy mô vốn đầu tư để đảm bảo nhu cầu phát triển kinh tế đất nước đồng thời qua đó ta thấy được sự chuyển đổi về cơ cấu đầu tư XDCB của nhà nước trong thời kỳ này nhằm đảm bảo mục tiêu công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Tuy nhiên, lượng vốn ngày một tăng nhưng liệu tất cả vốn có đến chân công trình hay không? Đây là một câu hỏi được bàn luận rất nhiều, số tài sản cố định mới tăng và năng lực sản xuất mới tăng trong những năm qua không phản ánh hết số vốn mà nhà nước đã chi cho đầu tư XDCB. CHƯƠNGII. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ TÀI CHÍNH TRONG ĐẦU TƯ XÂY DỰNG CƠ BẢN Trong những năm qua việc thực hiện đầu tư XDCB nhiều công trình lớn nhỏ đã hoàn thành và được đưa vào sử dụng. Trong đó có nhiều công trình có vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế củ nền kinh tế quốc dân như thuỷ đIện Thác Mơ, đường dây đIện 500 KV bắc nam, đường quốc lộ 5 Hà Nội –HảI Phòng, đường cao tốcLáng Hoà Lạc... Những kết quả đó làm tăng thêm cho đất nước nhiều năng lực sản xuất mới trên nhiều lĩnh vực kinh tế xã hội. Bên cạnh đó còn rất nhiều tồn tại trong lĩnh vực này, vì vậy ta đi vào tìm hiểu thực trạng của nó. I.CÔNG TÁC QUẢN LÝ TÀI CHÍNH TRONG ĐẦU TƯ XÂY DƯNG CƠ BẢN HIỆN NAY Phần 2 tình hình sử dụng và quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản trong những năm qua (1991- 2000) Các chính sách của đảng và nhà nước về quản lý đầu tư XDCB Sau những năm đổi mới đường lối kinh tế (1986-1990) Nền kinh tế nước ta có sự chuyển dịch cơ bản . Sự chuyển dịch này là do chúng tực hiện kế hoạch đầu tư vào ba chương trình lớn. Vốn đầu tư trong những năm này tuy không tăng mạnh nhưng đã đánh dấu sự đổi mới về cơ chế quản lý đầu tư . Đại hội lần thứ 7 của đảng vào năm 1991 quyết định chiến lược “ổn định và phát triển kinh tế - xã hội 1991-2000” .Đường lối đổi mới đã được triển khai và phát huy tác dụng tích cực .Nhiều cơ chế chính sách mới được áp dụng trên hầu hết các lĩnh vực phát triển kinh tế –xã hội nói chung và lĩnh vực đầu tư nói riêng . Đi liền với sự đổi mới và hoàn thiện các cơ chế pháp luật về dân sự, kinh ,tế .....thì các văn bản pháp luật về đầu tư như luật đầu tư nước ngoài, luật khuyến khích đầu tư trong nước và các cơ chế quản lý đầu tư và xây dựng ngày càng hoàn thiện .Nghị định 385 HĐBT ngày 7/11/1990 về quản lý và cấp phát vốn đầu tư xây dựng cơ bản thay thế nghị định 232/CP ngày 6/6/1981 là bước chuyển biến có tính chất bản lề về xóa bỏ bao cấp trong đầu tư .Nghi định 177/CP ngày 20/10/1994 về quản lý đầu tư và xây dựng cơ bản thay thế nghi định 385/HĐBT rồi đén nghị định 42/CP ngày 16/7/1996 và đến nay là nghị dịnh 52/CP ngày 8/7/1999 .Đã đưa cơ chế quản lý công tác đầu tư và xây dựng tiến lên một bước mới để phù hợp với cơ chế thị trường . Cụ thể : - Đối tượng đầu tư bằng vốn ngân sách cấp phát trực tiếp thu hẹp dần .Tăng vốn tín dụng ưu đãi của nhà nước để mở rộng sản xuất . - Nội dung ,trình tự lập ,thẩm dịnh dự án , điều kiện cấp phát vốn đầu tư chặt chẽ hơn . - Khẳng định rõ hơn công tác đấu thầu ,xét chọn thầu và hạn chế đần hình thức chỉ định thầu. - Khẳng định vai trò tư vấn và công tác tài chính. Điều này nói lên việc quản lý vốn đầu tư XDCB sẽ đảm bảo tính hiệu quả tránh được lãng phí thất thoát và ảnh hưởng tới lĩnh vực đầu tư. II.TÌNH HÌNH THỰC HIỆN VÀ QUẢN LÝ VỐN ĐẦU TƯ XDCB TRONG NHỮNG NĂM VỪA QUA (1991- 2000). Đất nước ta từ khi bỏ cơ chế quản lý tập trung bao cấp chuyển sang nền kinh tế thị theo định hướng xã hội chủ nghĩa ,dưới sự quản lý của nhà nước đã có những chuyển biến tích cực về cơ chế quản lý mới và trong lĩnh vực đầu tư phát triển có nhiều tiến bộ đáng kể như: Phát huy mọi nguồn lực ,đa dạng hoá nguồn vốn đầu tư ,chuyển một số bộ phận quan trọng thuộc các ngành sản xuất dịch vị từ trước tới nay vẫn được bao cấp về vốn từ nguồn vốn ngân sách cấp phát của nhà nước chuyển sang tự vay tẹ trả chịu trách nhiệm với kết quả đầu tư của mình ,mở rộng quyền tự chủ ,quyền quyết điịnh đầu tư của các ngành ,của các địa phương và các cơ sở ,nhất là đối với các công trinh xây dựng bằng nguồn vốn tự có .Nhiều ngành ,đơn vị đã phát huy khả năng tiềm lực của mình để tăng năng lực sản xuất ,xây dựng các công trình mới đi vào sử dụng như điện ,dầu khí ,thuỷ lợi điện tử ,nuôi trồng thuỷ sản ,dệt may …… Cơ cấu đầu tư đã được điều chỉnh ,giảm được sự boó trí đầu tư phân tán ,kém hiệu quả ,chuyển hướng đầu tư cho các công trình quy mô thích hợp phát huy hiệu quả nhanh ,nhiều nơi đã chú trọng đến đầu tư chiều sâu và đồng bộ.Tuy nhiên ,cũng còn bộc lộ nhiều hạn chế đó là sự chuyển biến của đầu tư còn chậm chưa có tác dụng nhiều trong việc chuyển đổi cơ cấu đầu tư theo hướng hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý vẫn còn tình trạng giàn trải phân tán vốn đầu tư ,kéo dài thời gian xây dựng dẫn đến thất thoát ,lãng phí vốn đầu tư gây hậu quả đầu tư kém hiệu quả . Để có thể nhận xét đúng đắn về tinìh hình quản lý vốn đầu tư XDCb trước hết chúng ta phải xem xét qúa trình thực hiện vốn đầu tư XDCb trong các năm qua và kết quả của nó. 1.Tình hình thực hiện đầu tư XDCB thời kỳ 1991- 1996. 1.1.Tình hình thực hiện. Với nền tảng dổi mới kinh tế của 5 năm trước đó ,cùng với sự tích luỹ về kinhnghiệmk trong cơ chế chính ssách quản lý và xây dựng phù hợp với tình hình của đất nước .Các chính sách này đã góp phần tích cực trong việc quản lý vốn đầu tư và xây dựng mang tính hợp lý và và hiệu quả của cơ cấu đầu tư … Hoạt động đầu tư XDCb thời kỳ 1991-1995 đã tác động rất lớn cho quá trình phát triển kinh tế của đất nước bình quân tăng trưởng trong giai đoạn này là 8,3% cụ thể việc thực hiện vốn đầu tư XDCB toàn xã hội như sau: Năm 91 92 93 94 95 Tổng số vốn(tỷ đ) 13471 24737 42177 54296 68048 Tỉ lệ vốn/GDP (%) 17,6 22,4 30,1 30,4 29,7 Qua bảng biểu trên ta thấy vốn đầu tư tăng dần qua các năm từ 13471 tỷ đồng năm 91 tăng lên 24737 tỉ đồng năm 92; 42177 tỷ đồng năm 93; 54296 tỉ đồng năm 94; 68048 tỉ đồng năm 95. Trong số cấu thành lên tổng nguồn vốn đầu tư XDCB thì nguồn vốn nhà nước có tốc độ tăng nhanh nhất, năm 91 tăng so với năm 90 là 67,8%, năm 92 so với năm 90 là 185%, năm 93 so với năm 90 là 509%, năm 94 so với năm 90 là 582,4%, năm 95 là 754,7%. Trong khi đó nguồn vốn ngoài quốc doanh tăng với tốc độ chậm lại; nếu lấy năm 91 làm gốc thì năm 92 tăng là 68,9%, năm 93 tăng 102,1%... Còn nguồn vốn trực tiếp của nước ngoài trong giai đoạn này thì tăng nhanh từ 1926 tỉ đồng năm 1991 tăng 5185 tỉ đồng năm 92; 1062 tỷ đồng năm 93; 16500 tỷ đồng năm 94; 22.000 tỷ năm 95. Như vậy các nguồn vốn trong giai đoạn này nói chung đã tăng nhanh. Về cơ cấu vốn đầu tư phân theo ngành kinh tế cũng đã có những chuyển biến tích cực. Ngành công nghiệp là ngành có vai trò quan trọng trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Trong giai đoạn này tỷ trọng vốn đầu tư cho công nghiệp chiếm bình quân mỗi năm từ 43% - 44% tổng vốn đầu tư. Vốn dành cho ngành công nghiệp cũng bắt đầu tăng dần, bình quân mỗi năm chiếm từ 11 - 12% tổng vốn đầu tư. Vốn đầu tư từ giao thông vận tải Bưu điện cũng tăng nhanh vì nó là mạch máu của nền kinh tế. Bình quân hàng năm trong giai đoạn này là 14% - 15% tổng vốn đầu tư. Các ngành y tế xã hội văn thế thao, giáo dục - đào tạo đều có tốc độ tăng quy mô đầu tư hàng năm tuy số lượng không nhiều, còn khoa học công nghệ lại có quy mô đầu tư giảm năm 91 là 104 tỷ đồng, năm 92 là 98 tỉ đồng, năm 93 là 75 tỷ đồng, 94 là 95 tỉ đồng, năm 95 là 167 tỉ đồng hay bình quân chiếm khoảng 0,35% tổng vốn đầu tư hàng năm. Điều này phản ánh trình độ khoa học công nghệ của chúng ta còn lạc hậu nhưng vẫn đầu tư ít có thể do nhiều nguyên nhân nhưng chủ yếu là do nguồn vốn ngân sách còn hạn hẹp. Như vậy trong giai đoạn này với sự gia tăng đồng đều của vốn đầu tư XDCB vào từng thời điểm thích hợp của nền kinh tế tạo nên một mức tăng trưởng khá ổn định. Tuy không quá cao nhưng tương đối đồng đều hợp lý và sử dụng có hiệu quả hơn trong lĩnh vực đầu tư là do trong thời kỳ này đã có cơ chế mới về quản lý đầu tư và xây dựng cơ chế quản lý đầu tư và xây dựng đã góp phần quản lý tốt hiệu quả từng bước hạn chế thất thoát lãng phí vốn đầu tư XDCB. Có thể coi đây là một thành tựu. 1.2. Kết quả và hiệu quả về vốn đầu tư XDCB. 1.2.1. Kết quả của đầu tư XDCB trong giai đoạn này có sự thay đổi về cơ chế quản lý nên những kết quả đạt được vô cùng to lớn. Năng lực sản xuất tăng thêm được thể hiện ở bảng biểu sau: Ngành Đơn vị Năng lực sản xuất tăng thêm I. Công nghiệp 1. Dầu khí Triệu tấn 5,8 2. Điện MW 1800 3. Thép Triệu tấn 1 4. Phân bón ngành tấn 400 5. Xi măng Triệu tấn 1,6 II. Nông nghiệp Năng lực tưới Nghìn ha 280 III. Giao thông vận tải 1. Đường làm mới Km 870 2. Đường nâng cấp Km 11.000 3. Cầu làm mới Km 19.000 Một số công trình trọng điểm quốc gia được đưa vào sử dụng có một ý nghĩa rất to lớn trong công cuộc công nghiệp hoá đất nước trong những năm tiếp theo đó là: Nhà máy thủy điện Hoà bình 1920MW, thủy điện Thác Mơ 150 MW, đường dây 500 KV, 220KW... đường cao tốc Bắc Thăng Long - Nội Bài... trong khi đó nhằm gối đầu cho kế hoạch 5 năm 96 - 2000 đã khởi công xây dựng 1 số công trình như nhà máy thủy điện IALY, đường quốc lộ 5, xi măng Hoàng Thạch. 1.2.2. Hiệu quả vốn đầu tư XDCB. Như đã nói trên, giai đoạn này có tốc độ tăng trưởng ngoạn mục là 8,3%: trong đó năm cao nhất 1995 đạt 9,54%. Để đạt được kết quả trên thì phần lớn do hoạt động đầu tư tác động điều này cũng có nghĩa ICOR trong giai đoạn này là tương đối phù hợp chúng ta có thể thấy qua bảng biểu sau: Năm 91 92 93 94 95 Tốc độ tăng GDP 5,81 8,7 8,08 8,83 9,54 ICOR 3,0 2,6 3,7 3,4 3,1 Tính bình quân giai đoạn này ICOR bình quân là 2,7 có nghĩa là hiệu quả đầu tư cũng ở mức khá tốt phù hợp với nền kinh tế lúc bấy giờ. Qua những kết quả và hiệu quả trên ta thấy đầu tư XDCB đã đúng hướng và hợp lý. Điều này chứng tỏ các hệ thống văn bản pháp quy về quản lý đầu tư tương đối hoàn thiện. Hiện đang triển khai nhiều cơ chế, chính sách, áp dụng nhiều biện pháp phù hợp với tình hình thực tế và trên cơ sở đó định hướng quy hoạch đầu tư XDCB 96 - 2000. 2. Tình hình thực hiện và quản lý đầu tư XDCB thời kỳ 96 - 2000 2.1. Tình hình thực hiện. Nhằm đưa đất nước bước vào thế kỷ mới, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm tới việc quản lý và sử dụng vốn đầu tư XDCB. Nhờ đó mà từ năm 96 - 2000, thực hiện vốn đầu tư phát triển ngày càng tăng cao và được thể hiện qua bảng biểu sau: Năm 96 97 98 99 2000 Tổng số vốn (tỷ đ) 79367 96.870 97.336 10.5200 120.600 Tỷ lệ vốn/GDP: (%) 29,2 30,9 27 26,3 27,2 Có thể thấy vốn đầu tư tăng liên tục từ 79367 tỷ năm 96 lên 96870 tỷ năm 97; 97336 tỷ đồng năm 98; 105200 tỷ năm 99; 120600 tỷ năm 2000. Như vậy, kết quả thực hiện vốn đầu tư giai đoạn 1996 - 2000 nhìn chung liên tục tăng với tốc độ cao trừ năm 1998 có sự tăng chậm chút ít so với các năm khác, do chịu sự ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính của các nước trong khu vực. Nếu so với năm 95 năm 96 là 16,6%; 1997 tăng 42,35%; năm 1998 tăng 43,04%; năm 99 tăng 54,6% và năm 2000 tăng 77,2%. Tính chung tổng vốn đầu tư phát triển xã hội, thực hiện cả giai đoạn 96 - 2000 thì cả nước đạt 499,373 ngàn tỷ đồng. Tỷ trọng vốn đầu tư giai đoạn 96 - 2000 chiếm trong GDP bình quân là 28,6%/năm. Vốn đầu tư phát triển toàn xã hội 96 - 2000 đã tập trung vào những mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội chủ yếu của đất nước như phát triển nông nghiệp và nông thôn, xoá đói giảm nghèo, phát triển nguồn nhân lực, khoa học và công nghệ, phát triển kết cấu hạ tầng, phát triển các khu công nghiệp và dịch vụ... Trong số các nguồn vốn cấu thành nên tổng nguồn vốn đầu tư thì nguồn vốn nhà nước có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất. Cụ thể tốc độ tăng của nguồn vốn nhà nước so với năm 95 là: năm 96 tăng 37,8% năm 97 là 78,8% năm 98 là: 101%, năm 99 là 150,6%, năm 2000 là 186,7%. Trong khi các nguồn vốn thuộc nhà nước có tốc độ tăng nhanh thì nguồn vốn ngoài quốc doanh lại có chiều hướng không tăng hoặc tăng không đáng kể. Nếu lấy năm 95 làm gốc so sánh thì năm 96 tăng 3,6% năm 97 không tăng, năm 98 2,5% năm 99 tăng 5% năm 2000 tăng 17,5%. Cùng với tình trạng trên, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài giai đoạn 96 - 2000 cũng giảm sút nhất là năm 1998 - 1999, trừ năm 97 cụ thể so với 95 năm 96 tăng 3,2% năm 97 tăng 37,7%; 98 tăng 10,45%; năm 99 giảm 14,1% năm 2000 giảm 1%. Về cơ cấu vốn đầu tư phân theo ngành cũng đã có những chuyển biến theo hướng tích cực. Tỷ trọng vốn đầu tư dành cho ngành nông, lâm nghiệp, thuỷ lợi, thủy sản chiếm trong tổng nguồn vốn đầu tư có xu hướng tăng dần. Năm 98 là 9,1%, 99 là 15,6% và năm 2000 khoảng 15,8%. Điều này phù hợp với chủ trương của Đảng và Nhà nước ta và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn, đã tạo điều kiện thuận lợi cho nông nghiệp phát triển liên tục, đảm bảo an toàn lương thực quốc gia, xuất khẩu lương thực mỗi năm từ 3 đến 4 triệu tấn. Tỷ trọng vốn đầu tư cho ngành công nghiệp cũng khá lớn. Từ 98 - 2000 bình quân mỗi năm chiếm từ 45 - 46% tổng vốn đầu tư phát triển. Vốn đầu tư cho giao thông vận tải, bưu điện cũng được chú trọng, giai đoạn 96 - 2000 vốn đầu tư cho ngành này bình quân hàng năm ở mức 16 - 17% tổng nguồn vốn. Cùng với việc tăng cường đầu tư cho các ngành sản xuất vật chất, xây dựng cơ sở hạ tầng, vốn đầu tư vào các ngành giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ, y tế xã hội, văn hoá thể thao đều tăng. Cụ thể là: Đầu tư cho giáo dục - đào tạo năm 1998 chiếm 2%, 99 chiếm 2,3% và năm 2000 khoảng 2,5%. Tương ứng với thời gian trên đầu tư cho y tế xã hội là 1,5%, 1,7% và khoảng 2%. Đầu tư cho khoa học công nghệ là 0,4%; 0,3% và khoảng 0,5%; Đầu tư cho văn hoá thể thao 0,8%; 0,8% và khoảng 1,4%. Xét theo vùng lãnh thổ giai đoạn 1996 - 2000 đầu tư XDCB cũng tương đối hợp lý và quy mô đầu tư ở các vùng đều tăng so với 5 năm trước cụ thể vùng núi phía Bắc gấp 1,8 lần, vùng Đồng bằng Sông Hồng gấp 1,3 lần, vùng Bắc Trung Bộ gấp 1,5 lần, vùng Duyên hải miền Trung gấp 1,7 lần, vùng Tây nguyên gấp 1,9 lần, vùng Đông Nam Bộ gấp 1,7 lần, vùng đồng bằng Sông Cửu Long gấp gần 2 lần. Có thể nói thực hiện vốn đầu tư XDCB giao đoạn 96 - 2000 đã đem lại nhiều thành tựu to lớn trong công cuộc đổi mới, xây dựng và phát triển kinh tế xã hội góp phần ổn định và nâng cao đời sống nhân dân bảo đảm an ninh chính trị và trật tự xã hội tạo đà cho đất nước tiến vào con đường công nghiệp hoá - Hiện đại hoá. 2.2. Kết quả và hiệu quả thực hiện vốn đầu tư XDCB 2.2.1. Kết quả thực hiện: Nhờ tăng vốn đầu tư, mà số công trình hoàn thành đưa vào sử dụng cũng như năng lực của hầu hết các ngành sản xuất, dịch vụ kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đều được nâng lên, tạo ra một số năng lực sản xuất mới cụ thể là: Ngành Đơn vị tính 96 97 98 99 2000 I. Công nghiệp Điện triệu kwh 16962 19253 21699 23806 28602 Thép nghìn tấn 686 978 1077 1224 1672 Xi măng nghìn tấn 6585 8019 9738 10381 13348 Gạch nung triệu viên 7119 7262 7697 8030 8996 Than triệu tấn 9,8 11,4 11,7 9,1 10,9 Đầu vào triệu tấn 8,8 10,1 12,5 15 16,3 Vải, lụa triệu mét 285 299 315 317 379 II. Nông nghiệp Diện tích tưới nước nghìn ha - - - - 386 Diện tích tiêu nước - 106,4 Rừng tổng 5 năm 1,1 triệu 1 hình ảnh. III. Giao thông vận tải và Bưu chính 1. Đường bộ 5 năm làm mới 1200 km 2. Nâng cấp trong 5 năm là 3790 km 3. Cầu đường bộ làm mới 11,5 km 4. Đường sắt: 200 km 5. Điện thoại: 3.120.000 cái IV. Y tế - xã hội Bệnh viện qua 5 năm là: 990 giường Có thể nói trong 5 năm qua đất nước ta đã có được nhiều thành tựu tích cực. Đó là một số ngành đã đáp ứng đủ với nhu cầu trong nước như: xi măng, điện, thép, vật liệu xây dựng. Trong nông nghiệp chúng ta đã xuất khẩu gạo,... và một số nông sản khác. Đời sống tinh thần của người dân cũng được nâng lên một bước đáng kể, ngành Giáo dục đã đạt được nhiều thành tựu như tỷ lệ bỏ học, giảm, trình độ dân trí cao góp phần thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá. 2.2.2. Hiệu quả thực hiện vốn Đầu tư XDCB Với quy mô vốn đầu tư tăng theo các năm nhưng hiệu quả sử dụng vốn dã có những tín hiệu xấu chúng ta có thể thấy qua bảng biểu về Hệ số ICOR như sau: Năm 96 97 98 99 2000 Tốc độ tăng GDP 9,34 8,15 5,76 4,77 6,75 ICOR 3,1 3,8 4,7 5,5 4,2 Bình quân ICOR giai đoạn này là: 4,26 lần như vậy là hiệu quả đầu tư giai đoạn này thấp và còn bất cập ở nước ta. Trên đây là toàn bộ tình hình sử dụng và quản lý vốn đầu tư XDCB. Ngoài những kết quả đạt được, chúng ta vẫn còn những tồn tại cơ bản trông công tác quản lý vốn đầu tư XDCB, nó ảnh hưởng rất lớn đến kết quả hoạt động đầu tư. CHƯƠNG III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỐNG LÃNG PHÍ THẤT THOÁT VỐN ĐẦU TƯ XDCB. I. CHỦ TRƯƠNG VÀ CÔNG TÁC KẾ HOẠCH HOÁ. 1. Chủ trương đầu tư. Vì sự lãng phí đáng báo động của lĩnh vực XDCB đã trình bày ở trên, trong phần này xin đưa ra một số giải pháp nhằm hạn chế và giảm thiểu mức độ lãng phí trong đầu tư XDCB. Một dự án đầu tư XDCB dều trải qua 3 giai đoạn: Quyết định đầu tư, thực hiện đầu tư, vận hành kết quả đầu tư. Nừu xãy ra sai sót trong bất kỳ giai đoạn nào cũng có thể dẫn đến sự lãng phí, nghiêm trọng nhất là sai sót trong ra quyết định đầu tư. Thực tế đã chứng minh điều này khi ta đầu tư vào hai ngành mía đường và xi măng, cũng như các công trình cơ sở hạ tầng. Việc đưa ra quyết định đầu tư nhiều khi còn mang tính chủ quan, nặng về hình thức, thiên về lợi ích trước mắt mà không quan tâm tính toán đầy đủ khả năng sinh lời, hoàn vốn của dự án, không tính đến lâu dài. Về vấn đề này một số giải pháp đưa ra là: - Khi ra các quyết định về chủ trương đầu tư (quyết định đầu tư, duyệt thiết kế, tổng dự toán, dự toán chi tiết...) cần quy định cụ thẻ yêu cầu đối với từng loại quyết định và khẳng định trách nhiệm về thiết kế và luật pháp của người được quyền ký các quyết định quản lý đó trong trường hợp để vốn đầu tư bị thất thoát, lãng phí. - Trước hết, khi nghiên cứu các dự án khả thi, cần cân nhắc tính toán so sánh nhiều phương án để tìm được dự án có hiệu quả kinh tế nhất. Ngay trong quá trình lập dự án, đã phải khống chế, ước tính được giá thành xây dựng một cách tương đối hợp lý. Do đó, khi lập dự án khả thi phải căn cứ quy hoạch chiến lược, quy hoạch tổng thể của từng địa phương, từng vùng, điều kiện KT-XH ở nơi sẽ xây dựng công trình. Nội dung dự án khả thi phải nêu được sự cần thiết, những căn cứ để xác định phải đầu tư xây dựng, hình thức đầu tư, các phương án lựa chọn địa điểm cụ thể, phương án lựa chôn công nghệ, giải pháp xây dựng, những khó khăn thuận lợi khi xây dựng công trình, nguồn cung cấp nguyên liệu, vật liệu, năng lượng, nhân lực trong quá trình khai thác, vận hành sau này, giá thành sản phẩm công trình khi đi vào khai thác ổn định, khả năng tiêu thụ sản phẩm, dự báo phát triển tương lai gần. Hai là, về thiết kế công trình, các tài liệu thăm dò, khảo sát địa chất thuỷ văn và những tài liệu khác có liên quan để thiết kế xây dựng công trình phải do tổ chức có chuyên môn có đủ tư cách pháp nhân lập theo quy chuẩn, tiêu chuẩn xây dựng của nhà nước ban hành. Nếu áp dụng các quy chuẩn tiêu chuẩn kỹ thuật xây dựng của nước ngoài, phải có thoả thuận của Bộ xây dựng. Ba là, về thi công xây lắp, sau khi có thiết kế, dự toán được duyệt, thì tổ chức đấu thầu thi công xây lắp công trình. Công trình hạng mục công trình, dự án đầu tư khi hoàn thành phải được quyết toán vốn vốn đàu tư theo đúng quy định. Trong thời hạn công trình đưpợc thựchiện trong nhiều năm thì hàng năm phải quyết toán vốn xây dựng phần khối lượng dã thực hiện. 1. Công tác kế hoạch hoá. Để khắc phục tình trạng trong công tác kế hoạch hoá, cấn sớm được hoàn thiện theo hướng: - Xây dựng kế họch đầu tư dài hạn (5năm) theo ngánh, vùng, lãnh thổ. Trên cơ sở đó bố trí thích đáng vốn đầu tư cho công tác chuẩn bị đầu tư, đảm bảo công tác này đi trước một bước để làm cơ sở cho kế hoạch đầu tư hàng năm. Đối với kế hoạch đầu tư hàng năm, chỉ bố trí kế hoạch đầu tư khi đã xác định chắc chắn khả năng nguồn vốn và theo nguyên tắc sau: ãThủ tướng chính phủ giao tổng mức vốn đầu tư và danh mục các dự án đầu tư nhóm A, các mục tiêu, giá trị, hiện vật, thời gian. ãNhững dự án còn lại giao Bộ trưởng, chủ tịch UBND thành phố triển khai trong khuôn khổ tổng mức vốn đầu tư đã được nhà nước giao song phải đảm bảo: Thực hiện đúng tiến độ, mục tiêu hiện vật, giá trị, thời gian. Những dự án có mức vốn 3 tỷ đồng trở xuống chỉ được bbố trí trong một năm kế hoạch, từ 2-3 tỷ đồng tối đa không quá 2 năm kế hoạch ; Quy định số lượng dự án tối đa không được phép vượt quá tuỳ theo mức vốn giao cho các ngành các ddịa phương. - Nhằm khắc phục tình trạng dàn trải ngân sách gây nên lãng phí, không hiệu quả, trong năm 2002, Bộ tài chính đã yêu cầu các chủ đầu tư rà soát lại danh mục dự án. Trước hết ưu tiên tạm ứng và thanh toán vốn ngay từ đầu năm cho các dự án xây dựng, tu bổ các công trình đê điều thuỷ lợi, phòng chống thiên tai,... Những dự án không thực hiện đúng tiến độ phải điều chỉnh chuyển vốn cho những dự án có tiến độ triển khai nhanh, chấm dứt tình trạng kéo dài thời gian thanh toán vốn. Không xữ lý bổ sung vốn cho những dự án vượt dự toán và bổ sung các nghiệp vụ chi XDCB ngoài kế hoạch”. II. KHẮC PHỤC TỒN TẠI TRONG ĐẤU THẦU. - Khi tổ chức đấu thầu và xét trúng thầu phải căn cứ “ quy chế đấu thầu xây dựng”, thật sự khách quan, công khai mở thầu thì mới bảo đảm ý nghĩa của nó, đồng thời cải tiến khâu thủ tục gọn nhẹ, phải quy định trách nhiệm và quyền hạn rỏ ràng, cụ thể ( kể cả trách nhiệm kinh tế trước pháp luật) của chủ đầu tư và cơ quan chủ quản đầu tư phải thực hiện đúng trình tự quy định, làm tốt công tác chuẩn bị đấu thầu, thiết kế dự toán, xây dựng giá chuẩn, phải xác định đúng giá trần để làm cơ sở cho việc xét chọn giá trúng thầu. Mặt khác, chấn chỉnh lại lại các tổ chức tư nhân nhận thầu xây lắp, cung ứng vật tư thiết bị, các tổ chức tư vấn nhằm bảo đảm khả năng tham gia đấu thầu của các nhà thầu phù hợp với năng lực về kỹ thuật và tài chính của mình. Đối với cơ quan quản lý Nhà nước về đấu thầu. 1.1.Xây dựng và hoàn thiện quy chế đấu thầu. - Rà soát lại toàn bộ các quy định đấu thầu của các Bộ ngành , địa phương, cơ sở và nếu mâu thuẩn với quy chế đấu thầu thì phải huỷ bỏ ngay. - Bộ KH-ĐT chủ trì lấy ý kiến của các bộ ngành địa phươngđể nhanh chóng ban hành thông tư hướng dẫn cho quy chế mới này. - Các Bộ, ngành, địa phương nhanh chóng tổ chức hướng dẫn thực hiện trên cơ sở các đặc điểm, tình hình của mình cùng với các quy định hiện hành sao cho phù hợp với các đặc thù của đơn vị mình. - Bộ KH-ĐT theo dõi sát sao tình thực hiện quy chế mới này nhằm sớm phát hiẹn các vấn đề tồn tại để kịp thời khắc phục thông qua việc đề nghị thủ tướng chính phủ xem xét sữa đổi cấp bách các nội dung còn tồn tại do quy chế đấu thầu gây ra. - Nhằm khẳng định tầm quan trọng của công tác đấu thầu ở nước ta theo hướng “ luật hoá” các hoạt động đấu thầu. Bộ kế hoạch đầu tư cần nghien cứu hoàn thiện quy chế đấu thầu trở thành pháp lệnh đấu thầu có giá trị pháp lý cao hơn. - Chính phủ cần cho ra đời một loại một loại công báo về đấu thầu để yêu cầu các chủ đầu tư phải công khai các dự án, các gói thầu, tạo điều kiện thuận lợicho các nhà thầucó thể dễ dàng nắm bắt được thông tin cần thiết về các cuộc đấu thầu . 1.2. Đào tạo đội ngũ cán bộ đấu thầu: Về lâu dài phải thành lập một trung tâm đào tạo cán bộ về lĩnh vực đấu thầu một cách thống nhất trong phạm vi cả nước. Sớm đưa đấu thầu trở thành một bộ môn chuyên ngành trong các trường đại học và cao đẳng có thể tạo ra một đội ngũ cán bộ đấu thầu trẻ hùng hậu, có khả năng phát triển hơn nữa. III.THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH- GIẢI PHÁP TRONG VIỆC CẤP PHÁT VỐN. Quản lý tài chính nhà nước đối với hoạt động đầu tư XDCB có nhiều nội dung, song đáng quan tâm nhất là công tác kiểm tra thanh tra, thẩm định tài chính ở các khâu: Trước, trong, sau khi kết thúc quá trình cấp phát, đưa dự án vào khai thác, sử dụng. - Thẩm định trước khi cấp phát: ã Thẩm định ở giai đoạn chuẩn bị đầu tư: là tham gia đánh giá, nhận xét các nội dung kinh tế, tài chính củadự án: vốn và nguồn vốn đầu tư, khả năng hoàn vốn, hiệu quả kinh tế tài chính của dự án, các đóng góp của dự án cho ngân sách, tác động của dự án dến KT-XH trong khu vực, vùng ngành kinh tế... điều đó nhằm đánh giá tính khả thi hoặc không khả thi về phương án tài chính của dự án, khâu thẩm định này tuy chỉ là ý kieens tham gia song lại có ý nghĩa chiến lược, quýet đimnhj về mặtk chủ trương. Do vậy, các cơ quan tài chính làm tốt công tác này là góp phần quan trọng vào công tác quản lý vĩ mô đối với hoạy động đầu tư của ngành tài chính. ã Thẩm định dự toán: Là kiểm tra đánh gia tính đúng đắn của gía dự toán theo tiên lượng kinh tế kỹ thuật được cấp có thẩm quyền phê duyệt theo định mức gía cả. - Thẩm định tài chính trong quá trình cấp phát vốn thanh toán. Trong quá trình thực hiện dự án, việc cấp phát thanh toán vốn dầu tư được thực hiện theo tiến độ khối lượng thực hiện. Khối lượng thực hiện được cấp phát thanh toán là giá trị khối lượng thực hiện đủ các điều kiện như: Khối lượng đó phải có trong thiết kế, trong tổng dự toán, dự toán được cấp có thẩm quyền phê duyệt, có trong kế hoạch đâù tư năm đã được thông báo; Có hợp đồng kinh tế giữa chủ đầu tư và đơn vị nhận thầu đủ tư cách pháp nhân: Khối lượng thực hiện phải đảm bảo đúng tiêu chuẩn, quy định kỹ thuật quy định trong thiết kế, được hai bên A-B nghiệm thu có xác nhận của cơ quan thiết kế; đúng định mức Nhà nước quy định và giá cả do sở tài chính vật giá thông báo trong từng thời kỳ. Thẩm định tài chinhd\s trong quá trình cấp phát là thẩm định phiếu giá thanh toán trong quá trình thực hiện dự án, thực chất là kiểm tra để xác định tính đúng đắn của giá trị khối lượng thực hiện đủ điều kiện thanh toán và giá cả được công bố trong thời kỳ thanh toán cùng các phụ phí khác theo đúng quy định của chế độ Nhà nước. - Thẩm định tài chính sau khi dự án hoàn thành, được nghiệm thu đưa vào sử dụng. Là thẩm định trước quyết toán vốn đầu tư hoàn thành để giao vốn cho đơn vị sử dụng. Giá trị vốn đâù tư hoàn thành của dự án không phải giá trị cộng dồn luỹ tiến vốn đầu tư được cấp phát thanh toán từ khi triển khai xây dựng dự án đến hoàn thành xong công việc xây dựng dự án. Cơ sở để thẩm định báo cáo quyết toán dự án hoàn thành là khối lượng thực hiện các loại công việc theo bản vẽ thi công, theo định mức đơn giá và các chế độ khác của Nhà nước quy định, theo các cơ sở pháp lý chứng minh tính hợp lý, hợp lệ của nội dung báo cáo quyết toán dự án hoàn thành. Nhìn chung, hầu hết các cụ, chi cục đầu tư phát triển đã làm tốt chức năng quản lý nhà nước về mặt tìa chính đối với đầu tư XDCB, không những đã góp phần tích cực trong việc thực hiện pháp lệnh thực hành tiết kiệm chống lãng phí, thất thoát và tiêu cực trong lĩnh vực XDCB mà còn có tác dụng thúc đẩy các cơ quan chứ năng, các cấp có thẩm quyền thẩm tra phê duyệt các nội dung về kinh tế, tài chính đối với dự án đầu tư theo đúng định mức, đơn giá và chế độ của nhà nước. - Trong lĩnh vực ưu đẫi tín dụng thì một vấn đề đang được nhiều chuyên gia, nhiều cơ quan quản lý quan tâm đó là chính phủ cần cho tách nhiệm vụ tín dụng ưu đãi của Nhà nước ra khỏi hoạt động của các ngân hàng thương mại quốc doanh, nhằm giảm sự can thiệp của Nhà nước vào hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại, tạo điều kiện cho các ngân hàng tăng tính tự chủ, tập trung vào nhiệm vụ kinh doanh của mình. Trên cơ sở đó, cấn sớm thành lập “ngân hàng chính sách” với chức năng mục tiêu hoạt động không vì lợi nhuận, phục vụ các đối tượng chính sách; các lĩnh vực và chương trình kinh tế trọng điểm của Quốc Gia nhằm thực hiện chính sácg phát triển kinh tế xã hội. Cần hoàn thiện và đổi mới cơ chế tín dụng ưu đãi của nhà nước trên các nội dung: Công tác kế hoạch hoá tín dụng ưu đãi cần phải được xác định rỏ nguồn vốn để cân đối cho nhu câù tín dụng ưu đãi của Nhà nước; Phạm vi ưu đãi của tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước nên được địng hướng lại và tập trung theo hướng: Đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng- kỹ thuật; các ngành công nghiệp cao; các ngành sử dụng nhiều lao động và áp dụng công nghệ tiến bộ... như đại hội đảng toàn quốc lần thứ IX đã chỉ ra. Với định hướng này, thì đối tượng hưởng tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, không nên dàn trải mà cần tập trung vào những nhóm có vai trò và vị trí quan trọng đối với nền kinh tế như những ngành phát triển kết cấu hạ tầng- kỹ thuật của đất nước; những ngành sản xuất, chế biến sử dụng nhiều lao động phát triển kinh tế nông thôn; những ngành công nghệ cao... IV. CÁC GIẢI PHÁP CHO TÌNH HÌNH THANH TRA KIỂM TRA. 1. Kiện toàn tổ chức ban quản lý dự án. Qua thực trạng hoạt động kém hiệu quả của ban quản lý dự án xin đưa ra một số giải pháp: - Tổ chức lại ban quản lý dự án đảm bảo chủ đầu tư thực sự gắn trách nhiệm trong quá trình sử dụng vốn đầu tư, quản lý tài sản khi dự án kết thúc đưa vào sử dụng. - Quy định tiêu chuẩn nghiệp vụ của chức danh chủ đầu tư. - Xác định rõ trách nhiệm cá nhân của chủ đầu tư đối với các hoạt động đầu tư và xây dựng từ khâu đầu dến khâu cuối. Chống tiêu cực, tham nhũng là nhiệm vụ tiên quyết để nâng cao chất lượng công trình. Có thể nói, lãng phí và tham nhũng là hai căn bệnh liên quan chặt chẽ với nhau, ở đâu có lãng phí thì gần như ở đó có tham nhũng, tham ô. Bác đã từng nói “ Lãng phí và tham nhũng tuy khác nhau ở chổ lãng phí thì không trực tiếp ăn cắp, ăn trộm của công trình nhưng kết quả tai hại đén tài sản Nhà nước, của tập thể thì lãng phí cũng có tội” . Tham nhũng tham ô là bạn đồng hành của lãng phí do đó nếu chúng ta không có biện pháp chống tham nhũng thì công cuộc chống lãng phí của chúng ta cũng khó có thể đạt được một kết quả tốt. Nhận thức rõ điều này nên thời gian qua đảng và Nhà nước đã có rất nhiều chủ trương và biện pháp để chống tham nhũng trong đó có pháp lệnh về chống tham nhũng. Tuy nhiên, kết quả đạt được của công cuộc chống tham nhũng thời gian qua cũng chỉ là bước đầu. Sở dĩ kết quả đạt được không cao vì một số lý do chủ yếu sau: -Xác định hành vi quá rộng nên khi áp dụng vào thực tế sẽ gây ra tình trạng chồng lấn, tạo những kẽ hở pháp luật, hoặc là luận tội không thoả đáng. - Không kiểm soát được “đầu vào” là nguồn gốc của các tài sản hoặc việc kiểm kê mới chỉ thực hiện được “phần nổi của tảng băng chìm”nên không có căn cứ để diều tra, luận tội hay đưa ra chứng cớ xác đáng. Điều đó càng đòi hỏi chúng ta cần phải nhanh chóng có giải pháp cho vấn đề “ Quốc nạn” này. Sau đay xin đưa ra một số giải pháp: Thành lập tổ chức chống tham nhũng độc lập có quyền điều tra, phát hiện và truy tố các hành vi tham nhũng. Đồng thời phải tạo ra một cơ chế giám sát chế ước lẫn nhau giữa các cơ quan quyền lực nhà nước và tổ chức này để tránh tình trạng lạm quyền. - Thực hiện quychế dân chủ đầy đủ và lắng nghe ý kiến phản hồi của nhân dân để từ đó tiến hành điều tra và đưa ra những kết luận chính xác. - Trên đây chỉ là biện pháp tình thế nhằm có các hoạt động bài trừ tệ nạn này chứ không phải phòng ngừa. - Hội xây dựng thường nhấn mạnh “ quan điểm mang tính cách mạng” trong quản lý chất lượng công trình là lấy phòng ngừa là chính, phát hiện sớm khiếm khuyết, sữa chữa nhanh, kiểm tra, giám sát để phát hiện sai sót, tham nhũng cũng rất cần thiết, nhưng quan trọng hơn là ngăn ngừa để sai sót không xãy ra. Có như vậy mới giảm dược chi phí , hạ giá thành sản phẩm, đảm bảo tiến độ vì không phải sữa đi làm lại tốn kém, lãng phí thời gian. Nếu cứ để làm đến đâu giám sát đến đó người ta chỉ cần qua mắt anh giám sát là xong. Phòng cháy hơn chữa cháy, biện pháp phòng ngừa hiệu quả hiện nay là hệ thống quản lý chất lượng ISO 9000, người sản xuất phải tự kiểm tra công việc của mình, khâu nọ kiểm tra khâu kia. Nhưng chỉ kiểm tra công nghệ thiết bị mà không kiẻm tra chất lượng nguyyen liệu người ta đem đến là không được. - Cần chú trọng tới tính chuyên nghiệp của kỹ sư bởi nhiều người mang danh kỹ sư nhưng chưa lành nghề kỹ sư. Muốn nâng cao tính nhà nghề của kỹ sư cần 3 điều kiện: ã Có kiến thức cơ bản của nhà trường. ã Thường xuyên cập nhật thông tin, chính sách, trau dồi kỹ năng nghiệp vụ. Có đạo đức nghề nghiệp. Một tin mừng cho chúng ta là, được sự giúp đỡ của Hội kỹ sư Úc ngay từ năm sau hội xây dựng hoàn thành một đội kỹ sư chuyên nghiệp. Hy vọng rằng trong thời gian tới , khi người kỹ sư Việt nam chuyên nghiệp rồi, chúng ta sẽ không để xảy ra tiêu cực bởi chung quy tất cả công việc xây dựng đều xuất phát từ người kỹ sư. KẾT LUẬN CHUNG Vốn đầu tư XDCB luôn đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc thực hiện nhiệm vụ ổn định và phát triển KT-XH, tạo những tiền đề cần thiết để đất nước bước sang thời kỳ phát triển mới, đẩy mạnh CNH-HĐH. việc huy động vốn cho đầu tư đòi hỏi phải có nỗ lưc cao, nhưng việc sử dụng vốn đầu tư hiệu quả lại là vấn đề rất bức xúc. Yêu cầu việc phê duyệt dự án đầu tư , giám sát thi công, quyết toán công trình, thanh tra xử lí những sai phạm phải đúng và nghiêm minh, nhằm đảm bảo chống thất thoát vốn đầu tư, đảm bảo chất lượng công trình và việc hoàn vốn thuận lợi. Thực tiễn những năm qua, nhiều địa phương đã sử dụng vốn đầu tư đạt hiệu quả tốt góp phần không nhỏ cho phát trển đất nước. Song bên cạnh đó, trong quá trình sử dụng và quản lí vốn đầu tư XDCB còn nhiều thiếu sót làm giảm hiệu quả đầu tư, gây lãng phí thất thoát vốn đầu tư từ khâu chẩn bị đầu tư đến khâu thanh tra kiểm tra. Khâu chuẩn bị đầu tư kém,các quyết định đầu tư lại dựa trên những căn cứ thiếu vững chắc để vội chuyển sang khâu thực hiện đầu tư. Đây là nguyên nhân căn bản gây nhiều tác hại nhất về KT-XH đối với các dự án đầu tư XDCB. Điều này trái ngược với cách nghĩ cách làm của thị trường và thông lệ quốc tế cũng như khu vực. Cụ thể là, họ thường chuẩn bị kỹ khâu chuẩn bị đầu tư và thực hiện nhanh khâu thực hiện đầu tư. Có thể nói rằng đi tìm những nguyên nhân và giải pháp cho tình trạng thất thoát lãng phí vốn đầu tư XDCB không phải là điều khó khăn. Tuy nhiên, vấn đề quan trọng nhất là phải kiên quyết khắc phục, sửa chữa những bất hợp lý, những tồn tại do các cơ quan, đơn vị có trách nhiệm triển khai thực hiện gây ra. Trong phạm vi đề tài này em đã nêu một số giải pháp chống thất thoát lãng phí vốn đầu tư XDCB. Tuy nhiên, nội dung này còn hiện nay còn là vấn đề cần nghiên cứu nhiều hơn. Do thời gian, kiến thức và khuôn khổ bài viết còn nhiều hạn chế, chắc rằng những vấn đề em nghiên cứu ở đây còn chưa thật xác đáng và đầy đủ. Rất mong sự góp ý của thầy cô để đề án được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn cô giáo Nguyễn Thu Hà đã tận tình giúp đỡ em thực hiện đề tài này. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Giáo trình kinh tế đầu tư- NXB GD- 1998 2. Kinh tế quản trị kinh doanh xây dựng- NXB khoa học và kỹ thuật. Tạp chí xây dựng Báo đầu tư Tạp chí tài chính. Báo ngân hàng. Quản lý nhà nước. Báo công nghiệp. Kiểm toán. Con số và sự kiện. Kinh tế phát triển. Giao thông vận tải. Kinh tế và dự báo. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ TÀI CHÍNH TRONG ĐẦU TƯ XÂY DỰNG CƠ BẢN Thực trạng công tác quản lý tài chính trong đầu tư xây dựng cơ bản MỤC LỤC CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐẦU TƯ XDCB 1 I. Những vấn đề chung về XDCB 1 1. Khái niệm 1 2. Ý nghĩa của hoạt động XDCB đối với nền kinh tế 1 3. Nội dung và đặc điểm của xây dựng cơ bản 1 3.1. Nội dung của hoạt động xây dựng cơ bản 2 3.2. Đặc điểm của XDCB 3 4. Sự cần thiết của việc nghiên cứu sự thất thoát lãng phí trong đầu tư XDCB 4 II. Vốn và cơ cấu vốn đầu tư XDCB 5 1. Phân tích vốn đầu tư XDCB 5 1.1. Theo yếu tố cấu thành 5 1.2. Cơ cấu theo nguồn vốn hình thành 6 2. Cơ cấu vốn đầu tư XDCB theo các ngành kinh tế thời kỳ 1995 – 1999 10 CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ TÀI CHÍNH TRONG ĐẦU TƯ XÂY DỰNG CƠ BẢN............ 14 I. Công tác quản lý tài chính trong đầu tư xây dựng cơ bản hiện nay 14 II. Tình hình thực hiện và quản lý vốn đầu tư XDCB trong những năm vừa qua (1991 – 2000) 15 1. Tình hình thực hiện đầu tư XDCB thời kỳ 1991 – 1996 16 1.1. Tình hình thực hiện 16 1.2. Kết quả và hiệu quả về vốn đầu tư XDCB 18 2. Tình hình thực hiện và quản lý đầu tư XDCB thời kỳ 96 – 2000 19 2.1. Tình hình thực hiện 19 2.2. Kết quả và hiệu quả thực hiện vốn đầu tư XDCB 21 CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỐNG LÃNG PHÍ THẤT THOÁT VỐN ĐẦU TƯ XDCB 24 I. Chủ trương và công tác kế hoạch hoá 24 1. Chủ trương đầu tư 24 2. Công tác kế hoạch hoá 25 II. Khắc phục tồn tại trong đấu thầu 26 1. Đối với cơ quan quản lý Nhà nước về đấu thầu 26 1.1. Xây dựng và hoàn thiện quy chế đấu thầu 26 1.2. Đào tạo đội ngũ cán bộ đấu thầu 27 III. Thẩm định tài chính – giải pháp trong việc cấp phát vốn 27 IV. Các giải pháp cho tình hình thanh tra kiểm tra 30 1. Kiện toàn tổ chức ban quản lý dự án 30 2. Chống tiêu cực, tham nhũng là nhiệm vụ tiên quyết để nâng cao chất lượng công trình 30 KẾT LUẬN CHUNG 33 TÀI LIỆU THAM KHẢO 34

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docBC1125.doc