Đề tài Thực trạng công tác thu – Chi ở bảo hiểm xã hội tỉnh Thanh Hóa giai đoạn (2003 – 2008)

BHXH là bộ phận chủ yếu của hệ thống an sinh xã hội, vì vậy tính xã hội của nó thể hiện rất rõ. Quỹ BHXH là một bộ phận của tổng sản phẩm quốc nội được xã hội tổ chức quản lí, bảo tồn và phân phối lại cho người lao động. Thực chất quỹ BHXH là một phần trong tổng sản phẩm quốc nội, trong đó người lao động chỉ phải đóng góp một khoản nhỏ nhưng khi gặp rủi ro được cả cộng đồng trợ giúp để vượt qua khó khăn, hoạn nạn. Kết quả của sự phân phối lại đó tạo ra được sự bình đẳng hơn về thu nhập giữa các tầng lớp dân cư trong xã hội. Chính từ đó góp phần tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng sức lao động, tạo thêm được nhiều điều kiện thúc đẩy sản xuất có hiệu quả, tạo thêm được nhiều công ăn việc làm, tăng thu nhập đồng thời phát triển tốt hơn các dịch vụ xã hội phục vụ cho con người như y tế, giáo dục, văn hoá. Hoạt động BHXH không vì mục tiêu lợi nhận mà hoạt động vì mục đích bảo đảm sự phát triển lâu bền của nền kinh tế, góp phần ổn định và tiến bộ xã hội. BHXH mang tính chất nhân đạo, nhân văn, dùng tiền đóng góp khi còn trẻ khoẻ để dùng vào lúc tuổi già, đau yếu. Xét về lâu dài, mọi người lao động trong xã hội đều có quyền tham gia BHXH. Và ngược lại, BHXH phải có trách nhiện bảo hiểm cho mọi người lao động và gia đình họ, kể cả khi họ đang còn trong độ tuổi lao động.

doc69 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1133 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng công tác thu – Chi ở bảo hiểm xã hội tỉnh Thanh Hóa giai đoạn (2003 – 2008), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
, trường hợp thu bằng tiền mặt thì chậm nhất sau 3 ngày cơ quan BHXH nộp vào tài khoản đảm bảo đúng quy định.Với phương thức thu nộp BHXH như vậy luôn đảm bảo an toàn, thuận tiện, quản lý chặt chẽ được nguồn thu. Thường xuyên phối hợp với hệ thống Kho bạc nhà nước và Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn trên địa bàn toàn tỉnh để cập nhật số tiền thu nộp BHXH của các đơn vị sử dụng lao động. Trên cơ sở đó, định kỳ hằng tháng cơ quan BHXH thực hiện Thông báo bằng văn bản tình hình lao động tham gia và thu nộp BHXH đến từng đơn vị tham gia BHXH. Bảng 2.7 : Kết quả thu BHXH trong các năm ( 2003 – 2008 Các năm Chỉ tiêu 2003 2004 2005 2006 2007 2008 Kế hoạch thu ( tỷ. đ ) 262,0 268,0 352 450,5 612,0 714,4 Thực hiện ( tỷ. đ ) 264,078 268,424 368,003 482,918 645,181 716,447 Tỷ lệ đạt (%) 100,8% 100,2% 104,5% 107,2% 105,4% 100,3% ( Nguồn: BHXH tỉnh Thanh Hóa, Báo cáo tổng kết công tác BHXH các năm từ 2003 – 2008) Biểu số liệu trên cho thấy, số thu BHXH bắt buộc của Thanh Hóa liên tục tăng, năm sau cao hơn năm trước và tăng đều từ năm 2004 đến năm 2008. Riêng năm 2005 tăng đột biến từ 1,65% ( năm 2004 ) lên 16,7% năm 2008, cao nhât là vào năm 2007 tăng 35,85%. Là do các nhân tố tác động chủ yếu, lao động tăng 12,5% tiền lương thực tế tăng 20,8% và tiền lương tối thiểu do Nhà nước điều chỉnh tăng 66,7% tốc độ tăng trưởng bình quân 19,03%. Bốn là: Giải quyết nợ đọng tiền đóng BHXH Bên cạnh phát triển đối tượng tham gia, thực hiện tốt thu nộp, BHXH tỉnh Thanh hóa còn thực hiện có hiệu quả việc thu nợ tiền đóng BHXH. Trước năm 2003, ở Thanh Hóa thường xuyên có số nợ BHXH của các đơn vị sử dụng lao động bình quân 20 – 25 ngày lương. Điều đáng chú ý là không những các doanh nghiệp ngoài nhà nước mà kể cả doanh nghiệp nhà nước và đơn vị hành chính, sự nghiệp cũng nợ đọng BHXH. Từ năm 2003 trở đi, do áp dụng nhiều biện pháp từ vận động, tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục đến tổ chức kiểm tra, thanh tra liên nghành, kiến nghị xử lý..đặc biệt vai trò lãnh đạo của cấp ủy đảng chính quyền trong công tác BHXH được thể hiện rõ nét, nên nợ BHXH do chậm đóng từng bước được thu hẹp, nhưng nợ đọng vẫn cao năm 2003 là 6,5 ngày; năm 2004 là 8,6 ngày; năm 2005 là 11,5 ngày và đến năm 2008 là 13 ngày, tương đương với 27,3 tỷ đồng. Bảng 2.8 : Tình hình giải quyết nợ tồn đọng BHXH ở BHXH tỉnh Thanh Hóa (2003 – 2008) Các năm Chỉ tiêu 2003 2004 2005 2006 2007 2008 Số nợ (tỷ.đ) 6,1 9,0 16,0 17,0 23,5 27,3 T.hiện thu nợ (tỷ.đ) 1,4 2,7 4,9 5,3 8,6 10,8 Tỷ lệ thu nợ (%) 23,0 30,0 30,6 31,2 36,6 38,8 (Nguồn: BHXH tỉnh Thanh Hóa, báo cáo tình hình nợ đọng) 3. Thực trạng chi trả các chế độ BHXH ở BHXH tỉnh Thanh Hóa 3.1 Quản lý chi trả các chế độ BHXH Từ 01/9/1995 đến nay, việc quản lý chi BHXH do một cơ quan thực hiện là BHXH tỉnh Thanh Hóa. Quản lý chi BHXH gồm có hai phần: quản lý chi chế độ BHXH ngắn hạn ( chế độ ốm đau, thai sản, dưỡng sức phục hồi sức khỏe ) và quản lý chi chế độ BHXH dài hạn ( chế độ hưu trí, mất sức lao động, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp ) Về quản lý chi BHXH ngắn hạn. Trước 31/12/2006 ( trước khi thực hiện Luật BHXH ), định kỳ hàng quý, cơ quan BHXH cấp ứng 2% quỹ lương trích nộp BHXH của đơn sử dụng lao động để họ trực tiếp chi trả cho các chế độ ngắn hạn ở đơn vị mình. Từ ngày 01/01/2007 ( từ khi Luật BHXH có hiệu lực thi hành ), đơn vị sử dụng lao động được chủ động giữ lại 2% quỹ lương trích nộp BHXH để trực tiếp chi trả các chế độ ngắn hạn cho người lao động trong đơn vị, nếu thiếu sẽ được cơ quan BHXH, cấp bổ sung sau khi xét duyệt quyết toán. Trong cả hai phương thức trên, đơn vị sử dụng lao động có trách nhiệm tập hợp các chứng từ ( như giấy chứng nhận nghỉ việc hưởng BHXH, giấy ra viện, giấy khai sinh..) để quyết toán với cơ quan BHXH sau khi đã chi trả chế độ BHXH cho người lao động. Thời gian đầu, việc quản lý chi các chế độ ngắn hạn gặp một số hạn chế do các đơn vị sử dụng lao động và người lao động chưa thích ứng với cơ chế mới là thực thanh, thực chi trên cơ sở có đóng, có hưởng. Các đơn vị sử dụng lao động chưa làm quen với việc quản lý ngày công ốm đau, thai sản và lập các hồ sơ thủ tục để được cơ quan quản lý BHXH giải quyết xét thưởng BHXH. Tuy nhiên, chỉ trong một thời gian ngắn, những vướng mắc, hạn chế trong nhận thức của chủ sử dụng lao động và người lao động về cơ chế quản lý mới về quản lý BHXH đã được tháo gỡ. Đặc biệt từ những năm 2003 đến nay BHXH tỉnh Thanh Hóa đã được thực hiện nhiều biện pháp tích cực như tuyên truyền phổ biến chỉ đạo hướng dẫn nghiệp vụ thực hiện phân cấp chi chế độ BHXH ngắn hạn gắn với phân cấp quản lý thu BHXH. Hàng năm, đã có hàng ngàn người lao động được nhận trợ cấp ốm đau, thai sản, và nghỉ dưỡng sức với tổng số tiền bình quân 32,392 tỷ đồng. Chỉ tính riêng năm 2008 đã có 28. 567 lượt người ốm, với số ngày nghỉ 270.430 ngày, được nhận tổng số tiền 12,247 tỷ đồng, 6.245 người nghỉ hưởng thai sản, số ngày nghỉ 578.079 ngày được nhận số tiền 25,879 tỷ đồng, hàng ngàn lượt người được nghỉ dưỡng sức phục hồi sức khỏe với số tiền là 4,314 tỷ đồng. Bảng 2.9 : Kết quả chi trả hai chế độ BHXH ngắn hạn ( ốm đau, thai sản ) từ (2003 – 2007) Đơn vị: Triệu đồng Đơn vị Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 Cấp tỉnh 43.111 4.451 4.446 7.085 9.184 10.118 Cấp huyện 13.828 14.352 16.342 26.167 31.263 32.322 Tổng 17.939 18.803 20.788 33.252 40.077 42.440 Nguồn: BHXH tỉnh Thanh Hóa, Báo cáo tổng kết công tác BHXH các năm từ ( 2003 – 2008) Về quản lý chi các chế độ dài hạn. Từ 01/9/1995, việc quản lý chi các chế độ BHXH dài hạn do cơ quan BHXH thực hiện. Số đối tượng hưởng BHXH liên tục tăng qua các năm. Tại thời điểm tháng 9/1995 số đối tượng đang hưởng BHXH dài hạn do các ngành bàn giao là 117.694 người, đên quý I/2008 số đối tượng này đã là 130.718 người. Trong đó, hiện đang hưởng trợ cấp tại các huyện miền núi là 11,47% ở các huyện vùng biển 27,68% các huyện vùng trung du 16,14% các huyện đồng bằng 23,18% và tại thị xã, thành phố là 21,53%. Kinh phí chi trả cho các đối tượng ở các huyện miền núi chiếm 11,54% ở các huyện ven biển 36,3% các thị xã thành phố 19.7% trên tổng kinh phí toàn tỉnh. Số còn lại ở các huyện đồng băng, trung du. Trước năm 1995, việc chi trả cho các đối tượng hưởng BHXH dài hạn thông qua 630 Ban đại diện chi trả xã, thị trấn. Nguồn kinh phí để cấp phát chi trả cho đối tượng chủ yếu do sở Tài chính – Vật giá cân đối từ ngân sách của tỉnh. Chính vì vậy, việc chi trả rất chậm trễ và không kịp thời. Có thời kỳ do không làm tốt công tác lập dự toán, quản lý đối tượng không chặt chẽ, nhất là các đối tượng đã chết hoặc hết hạn thưởng nên tình trạng tham ô, lạm dụng nguồn quỹ đã xảy ra gây bất bình trong xã hội. Từ ngày 01/9/1995, do cơ chế quản lý BHXH thay đổi, nguồn kinh phí để chi trả các chế độ BHXH được BHXH Việt Nam đảm bảo đầy đủ kịp thời, bên cạnh đó BHXH tỉnh Thanh Hóa đã có nhiều đổi mới trong tổ chức quản lý chỉ đạo kiểm tra giám sát đặc biệt là chỉ đạo BHXH cấp huyện linh hoạt trong việc áp dụng các hình thức chi trả trực tiếp, gián tiếp, tích cực ứng dụng công nghệ thông tin trong việc lập danh sách chi trả thực hiện tốt công tác lập dự toán, công tác quản lý đối tượng quản lý kinh phí, đến khâu vận chuyển tiền mặt tư Ngân hàng Nông nghiệp và PTNT về địa điểm chi trả. Kịp thời phát triển và xử lý các sai phạm trong quản lý đối tượng và chi trả BHXH như khai tăng tuổi đời và thời gian công tác để hưởng BHXH, cắt giảm không kịp thời, đối tượng ký nhận thay đổi nhận hộ...quy định cụ thể, rõ ràng trách nhiệm của từng cấp quản lý trong công tác quản lý đối tượng, kinh phí BHXH nên công tác chi trả các chế độ BHXH dài hạn đã đạt được nhiều thành thành công quan trọng. Lương hưu và trợ cấp BHXH hàng tháng của các đối tượng được chi trả kịp thời, an toàn đầy đủ, góp phần ổn định tình hình chính trị, xã hội, thúc đẩy kinh tế phát triển. Đơn vị: Người Chỉ tiêu Năm Tổng số người Trong đó chia ra NSNN đảm bảo Quỹ BHXH đảm bảo 2003 115.618 102.843 12.775 2004 117.395 101.552 15.843 2005 123.036 99.759 23.277 2006 126.752 97.888 28.864 2007 129.635 96.317 33.318 2008 132.475 94.587 38.789 Bảng 2.10 : Tổng hợp đối tượng hưởng chế độ BHXH dài hạn từ năm ( 2003 - 2008 ) Đơn vị: Triệu đồng Chỉ tiêu Năm Tổng số NSNN đảm bảo Quỹ BHXH đảm bảo 2003 720.523 574.720 145.803 2004 791.008 592.930 198.078 2005 1.013.000 711.000 302.000 2006 1.255.780 903.600 352.180 2007 1.696.000 1.142.000 554.000 2008 1.889.308 1.345.142 742.758 Cộng 7.365.619 5.269.392 2.294.819 Bảng 2.11 : Tổng hợp kinh phí chi các chế độ BHXH dài hạn từ năm 2003 – 2008 Qua các số liệu trên ta nhận thấy ở đối tượng hưởng chế độ BHXH dài hạn số lao động được ngân sách nhà nước đảm bảo giảm dần qua các năm cụ thể: năm 2003 là 102.843 người đến năm 2008 chỉ còn 94.587 người. Mặt khác kinh phí chi cho các chế độ BHXH dài hạn do Ngân sách nhà nước đảm bảo lại càng tăng trong tổng kinh phí chi cho các chế độ BHXH dài hạn. Nguyên nhân: - Nhà nước có chủ trương giảm dần sự lệ thuộc của quỹ BHXH vào ngân sách nhà nước, thực tế trong những năm qua số lượng người lao động tham gia BHXH được NSNN đảm bảo giảm dần thay vào đó thì số lượng lao động tham gia BHXH được quỹ BHXH đảm bảo tăng lên. Tuy nhiên một thực tế nữa là trong những năm qua tình trạng bội chi là rất lớn do đó tổng kinh phí chi cho các chế độ BHXH được NSNN đảm bảo cũng tăng nhanh. - Mặt khác những đối tượng lao động tham gia BHXH do NSNN đảm bảo là những đối tượng tham gia BHXH cũ, bây giờ mới phát sinh các chế độ BHXH do đó kinh phí thực tế chi trả cho các đối tượng này tăng lên. 3.2 Phân cấp thẩm quyền chi trả BHXH Phân cấp thẩm quyền chi BHXH ở BHXH tỉnh Thanh Hóa được quy định như sau: BHXH tỉnh quản lý việc chi trả, quyết toán các chế độ BHXH trên địa bàn tỉnh quản lý, trực tiếp chi trả và quyết toán chế độ BHXH ngắn hạn cho người lao động do BHXH dài hạn cho các đối tượng hưởng BHXH trên địa bàn huyện. Thực hiện quy định trên, thời gian qua, việc chi trả chế độ BHXH ngắn hạn và dài hạn trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa đã đạt được những kết quả nhất định. Đối với chi trả chế độ BHXH ngắn hạn, hàng quý căn cứ vào hồ sơ chứng từ do các đơn vị sử dụng lao động lập theo quy định. BHXH tỉnh, huyện tiến hành thẩm định xét duyệt quyết toán chi chế độ BHXH ngắn hạn cho các đơn vị trực tiếp quản lý thu BHXH theo phân cấp quản lý. 4 Cân đối thu - chi ở BHXH tỉnh Thanh Hóa giai đoạn ( 2003 – 2008 ) Quỹ BHXH đều hoạt động theo nguyên tắc cân bằng thu chi, nhưng cân bằng thu chi ở đây không có nghĩa là luôn luôn cân bằng giữa số thu và số chi mà cân bằng trong BHXH là sự cân bằng động; chính vì vậy, quỹ BHXH ở hầu hết các tỉnh không phải là quỹ tài chính tự cân đối thu chi, việc cân bằng thu chi quỹ BHXH phải luôn luôn có sự giám sát, can thiệp giúp đỡ của Nhà nước, tuy là quỹ tài chính độc lập nằm ngoài Ngân sách Nhà nước nhưng quỹ BHXH luôn luôn cần sự giúp đỡ, theo dõi của Nhà nước như: nếu nguồn chi quá lớn thì Nhà nước sẽ hỗ trợ cho quỹ bằng một khoản bù đắp thêm từ các nguồn khác... Sự cân bằng thu chi quỹ BHXH được biểu hiện bằng đẳng tứhc sau đây: Tổng thu = Tổng chi Trong đó: +Tổng thu bao gồm: Thu đóng góp BHXH của người sử dụng lao động và ngừoi lao động, thu từ nguồn Ngân sách Nhà nước hỗ trợ, thu lãi đầu tư, và các khoản thu khác... + Tổng chi bao gồm: Chi cho các chế độ BHXH, chi hoạt động quản lý, chi cho hoạt động đầu tư, các khoản chi khác... Đây là phương thức hoạt động cơ bản trong công tác BHXH.Từ khi thành lập, BHXH tỉnh Thanh Hóa đã thực hiện tốt nguyên tắc quản lý tập trung, điều hành thống nhát quỹ BHXH, phân biệt rõ ràng việc quản lý của Nhà nước về BHXH và quản lý sự nghiệp BHXH, quỹ BHXH có mức dư nguồn quỹ ngày càng lớn, nguồn qũy dư này được đem đầu tư trở lại cho nền kinh tế và đã đạt được hiệu quả khá tốt. Tổng thu của BHXH luôn lớn hơn tổng chi, do đó vấn đề cân bằng quỹ BHXH được giải quyết tương đối tốt. BHXH Việt Nam đã có những nỗ lực không nhỏ trong việc thực hiện tốt nguyên tắc cân bằng thu chi. HIện nay, do mới thành lập và được sự hỗ trợ của Ngân sách Nhà nước cho những đối tượng được hưởng BHXH trước ngày 1/1/1995, phần hỗ trợ cho quỹ BHXH từ nguồn Ngân sách Nhà nước là tương đối lớn; vì vậy mà qũy BHXH tỉnh Thanh Hóa hiện nay trong tình trạng tồn tích quỹ BHXH qua các năm hoạt động của BHXH Việt Nam là tương đối lớn, một phần do nguyên nhân: số đối tượng hưởng các chế độ BHXH từ nguồn quỹ BHXH không lớn lắm trong khi số người đóng góp BHXH lại tương đối lớn, nhưng trong khoảng thời gian không dài tưói đây, việc chi trả BHXH phát sinh ngày càng tăng, do các đối tượng hưởng BHXH thuộc nguồn quỹ BHXH chi trả ngày càng lớn, đòi hỏi phải có sự tính toán kỹ lưỡng của những cơ quan ban ngành chức năng nói chung và cơ quan BHXH cấp huyện. Đơn vị: Tỷ đồng Năm Chỉ tiêu 2003 2004 2005 2006 2007 2008 Tổng thu các chế độ BHXH 264,100 268,429 368,003 482,919 545,182 710,678 Tổng chi các chế độ BHXH 720,623 818,563 1.015,673 1.447,685 1.692,206 1921,614 Cân bằng thu chi 456,523 550,134 647,67 964,776 1147,024 1210,936 Bảng 2.12 : Cân đối thu chi BHXH qua các năm từ (2003 – 2008) Qua bảng trên ta thấy quỹ BHXH năm nào cũng thâm hụt, mức thâm hụt biểu hiện qua các năm ngày càng lớn cụ thể: Năm 2003 hơn 400 tỷ đồng thì đến năm 2008 con số đó đã hơn 1100 tỷ. Mức thâm hụt này có thể còn cao trong nhiều năm tới do đó BHXH tỉnh phải có những biện pháp cụ thể để giảm tình trạng thâm hụt trên. 5 Đánh giá thực trạng công tác thu chi quỹ BHXH ở BHXH tỉnh Thanh Hóa 5.1 Những ưu điểm Trong những năm vừa qua BHXH tỉnh Thanh Hóa đã đạt được những thành tích đáng phấn khởi trong công tác thực hiện thu – chi BHXH. Cụ thể: Thường xuyên mở rộng đối tượng, tăng nhanh số người tham gia BHXH, BHYT Đây là một trong những mục tiêu hết sức quan trọng của Đảng và Nhà nước trong nội dung đổi mới chính sách BHXH, BHYT nhưng việc thực hiện còn gặp nhiều khó khăn, do trong gần 50 năm hoạt động BHXH, BHYT ở nước ta thực hiện theo cơ chế bao cấp, người lao động được hưởng lương hưu và trợ cấp BHXH mà chưa phải thực hiện nghĩa vụ đóng BHXH, BHYT; thông lệ này đã đi vào tiềm thức của tường người, nếu là cán bộ công chức nhà nước thì đương nhiên được hưởng tiền lương và các chế độ phúc lợi khác. Do đó khi chính sách đổi mới được thực hiện quan hệ hữu cơ giữa nghĩa vụ đóng góp với quyền lợi hưởng thụ gặp nhiều khó khăn cả về nhận thức và tổ chức thực hiện. Cơ quan thực hiện chính sách BHXH trước năm 1995 chưa phải tổ chức công tác thu BHXH từ các đơn vị sử dụng lao động và người lao động, nghiệp vụ này do cơ quan thuế, nghành tài chính thực hiện. Đây cũng là một khó khăn không nhỏ trong điều kiện toàn nghành gần như chưa có nghiệp vụ hay kinh nghiệm về công tác thu BHXH. Mặt khác, trong quá trình đổi mới, sắp xếp lại doanh nghiệp, nhiều đơn vị trong đó có cả những doanh nghiệp lớn của nhà nước sản xuất kinh doanh kém hiệu quả, sản xuất bị thu hẹp, ngừng trệ, thậm chí còn bị giải thể, phá sản, người lao động không có việc làm, thu nhập giảm sút, ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng tham gia BHXH, BHYT. Vươn lên những khó khăn đó, 6 năm qua ( 2003 -2008 ) BHXH tỉnh Thanh Hoá đã tập trung thực hiện có hiệu quả nhiều biện pháp, như: chủ động phối hợp với các ban nghành chức năng kịp thời xử lý các vướng mắc ỏ cơ sở, tạo điều kiện để các đơn vị sử dụng lao động tham gia thực hiện tốt chế độ, chính sách BHXH, BHYT theo cơ chế mới. Thực hiện đăng ký thu, nộp BHXH, BHYT với việc cấp và quản lý sổ BHXH, phiếu khám chữa bệnh BHYT. Đặc biệt, BHXH tỉnh đã tham mưu cho cấp uỷ Đảng, chính quyền lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện công tác BHXH, BHYT; riêng trong năm 2007, Ban thường vụ Tỉnh uỷ có chỉ thị 11/CT – TU ( ngày 12/03/3007 ) và chủ tịch UBND tỉnh có chỉ thị 15/CT – UBND ( ngày 08/06/2007 ) về tăng cường lãnh đạo thực hiện các chế độ BHXH, BHYT, tạo ra bước phát triển vững chắc sự nghiệp BHXH, BHYT trên địa bàn tỉnh. Năm 2007, cả tỉnh có 14 vạn lao động tham gia BHXH bắt buộc và gần 150 nghìn người tham gia BHYT tự nguyện, số thu BHXH bắt buộc đạt trên 628 tỷ đồng, tăng 54% lao động và gần 11 lần số tiền thu so với năm 1996; thu BHYT tự nguyện đạt trên 10 tỷ đồng. Đến năm 2008, thực hiện thu đúng thu đủ và tích cực mở rộng đối tượng tham gia BHXH, số người tham gia BHXH tiếp tục tăng, trong năm đã có thêm 248 đơn vị với 5282 lao động tham gia BHXH, trong đó doanh nghiệp ngoài quốc doanh 122 đơn vị với 4780 lao động, hợp tác xã 28 đơn vị với 263 lao động, hộ sản xuất, kinh doanh cá thể 98 đơn vị với 293 lao động. Số thu BHXH, BHYT bắt buộc đến ngày 18/12 đạt 792/842 tỷ đồng, bằng 94% kế hoạch. Thực hiện BHYT tự nguyện, BHXH tỉnh đã có sự phối hợp với các ban nghành giáo dục – đào tạo, y tế, MTTQ, các đoàn thể, tranh thủ sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp uỷ, chính quyền địa phương để tích cực triển khai, vận động học sinh, nhân dân tham gia BHYT tự nguyện, chú trọng công tác tuyên truyền vận động với giải quyết tốt các quyền lợi cho đối tượng nên số thu BHYT tự nguyện đã đạt 23,67 tỷ đồng, gần bằng 90% kế hoạch. Khu vực doanh nghiệp ngoài Nhà nước có chuyển biến khá, nếu năm đầu tiên thực hiện mở rộng đối tượng theo Nghị định 01/2003/NĐ – CP mới có 176 doanh nghiệp với 1714 lao động tham gia BHXH, thì đến năm 2007 có 1218 doanh nghiệp với 11402 lao động tham gia BHXH. Về BHYT, năm 2003 cả tỉnh mới có 38 vạn người tham gia, thì đến năm 2007 có gần 2 triệu người tham gia BHYT, tăng gấp 5 lần và chiếm 52% dân số toàn tỉnh. Giải quyết kịp thời, đúng chế độ chính sách cho người lao động và các đối tượng tham gia BHXH, BHYT Là một tỉnh có nhiều đối tượng tham gia và thụ hưởng BHXH, BHYT, với một khối lượng hồ sơ hưởng các chế độ BHXH, BHYT bên cạnh việc xử lý, tính toán bằng phương pháp thủ công, BHXH tỉnh đã ứng dụng có hiệu quả công nghệ thông tin vào quy trình xét duyệt hồ sơ hưởng BHXH phù hợp với từng chế độ theo hướng cải cách hành chính, giảm thiểu các giấy tờ, thủ tục cần thiết cho người lao động và đơn vị. Xây dựng và đưa vào thực hiện cơ chế “ một cửa ” trong công tác giải quyết chế độ, chính sách BHXH bước đầu có tác dụng tốt, được đơn vị sử dụng lao động và người lao động đánh giá cao. Với những biện pháp cụ thể và không ngừng được cải tiến, 12 năm qua ( 1995 – 2007 ) BHXH Thanh Hoá thực hiện giải quyết các chế độ BHXH, BHYT như sau: Về giải quyết chế độ BHXH + Trên 45.000 người hưởng BHXH hằng tháng, trong đó có trên 27.000 người hưởng chế độ hưu trí. + Gần 18.000 người hưởng chế độ trợ cấp một lần. + Thực hiện chi trả đầy đủ, kịp thời trên 8.121 tỷ đồng, riêng năm 2007 số chi trả cho các chế độ BHXH trên 1.700 tỷ đồng. + Thực hiện tiếp nhận, bổ sung, phân loại và đưa vào lưu trữ gần 12 vạn hồ sơ đối tượng hưởng lương hưu và đối tượng hưởng chế độ trợ cấp BHXH trước năm 1995 từ nghành Lao động – Thương binh & xã hội chuyển sang và trên 27000 hồ sơ của đối tượng hưởng lương hưu và trợ cấp hằng tháng do cơ quan BHXH giải quyết từ năm 1995 đến năm 2007. Năm 2008 lương hưu và trợ cấp BHXH của trên 13 vạn đối tượng được chi trả đầy đủ, an toàn, kịp thời với số tiền 2277 tỷ đồng ( bình quân 190 tỷ đồng/ tháng ). Thực hiện tiếp nhận, thẩm định, xét duyệt 5474 hồ sơ đối tượng hưởng trợ cấp BHXH hằng tháng. Tổ chức tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo Trong 12 năm ( 1995 – 2007 ) nghành BHXH tỉnh Thanh Hoá thực hiện tiếp dân với 132 nghìn lượt người, tiếp nhận 1812 đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân về thực hiện chế độ BHXH, BHYT thực hiện xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo đảm bảo đúng quy định của pháp luật. Tổ chức được 435 đoàn kiểm tra về thực hiện chế độ BHXH, BHYT; thông qua kiểm tra đã xử lý thu hồi và xuât toán hàng trăm triệu đồng chi, thanh toán không đúng quy định. Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, ứng dụng công nghệ tin học vào quản lý, từng bước đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Năm 1995, sau khi có quyết định thành lập, chuyển giao nhân sự, chức năng, nhiệm vụ, BHXH từ các nghành, BHXH tỉnh Thanh Hóa đã tiếp nhận sắp xếp gần 200 cán bộ từ nghành Lao động – Thương binh & Xã hội và Liên đoàn Lao động tỉnh sang. Năm 2003, lại tiếp tục nhận, sắp xếp trên 100 cán bộ từ BHYT chuyển sang một cách nhanh gọn, đúng quy định. Cơ cấu tổ chức thời kỳ đầu mới có 5 phòng chức năng và 23 cơ quan BHXH huyện, thị xã, thành phố, đến năm 2008 phát triển thành 9 phòng chức năng, nghiệp vụ và 27 cơ quan BHXH cấp huyện. Đội ngũ cán bộ, công chức thời kỳ đầu tiếp nhận từ các nghành sang còn bất cập do nhiều người chưa được đào tạo cơ bản về chuyên môn, nghiệp vụ. Qua 13 năm xây dựng và phát triển, đến nay toàn nghành có gần 400 cán bộ, công chức, trong đó phần lớn được đào tạo, bồi dưỡng chuyên sâu về các nghiệp vụ lien quan trực tiếp đến công tác BHXH, BHYT, đáp ứng cơ bản các yêu cầu nhiệm vụ được giao trong tình hình mới với 55% có trình độ đại học, trên đại học; 6% có trình độ lý luận cao cấp, cử nhân; 15% có trình độ chuyên môn cao đẳng và trên 90% thành thạo tin học cơ bản phục vụ công tác của nghành. Để từng bước đưa công nghệ tin học vào quản lý, từ năm 2003, BHXH tỉnh đã ứng dụng tin học vào tính toán chi trả các chế độ BHXH, BHYT; in ấn thẻ BHYT; xây dựng hệ thống mạng LAN và hiện nay đang xây dựng cơ sở dữ liệu để ứng dụng tin học quản lý đối tượng đóng BHXH, BHYT của người lao động và các đối tượng tham gia. Phấn đấu đến năm 2010 kết nối mạng Internet toàn nghành, phân cấp việc in thẻ BHYT, ghi sổ BHXH bằng công nghệ tin học cho BHXH cấp huyện. Đạt đựơc những kết quả và thành tích trên là sự nỗ lực vươn lên chủ động khắc phục khó khăn của cán bộ, công chức toàn nghành, thường xuyên phát động các phong trào thi đua yêu nước hướng vào giải quyết các chỉ tiêu, nhiệm vụ khó khăn, bức xúc. Phong trào thi đua và công tác khen thưởng của nghành đã tạo được động lực, thúc đẩy mạnh mẽ từng cá nhân và tập thể phát huy tính năng động, sáng tạo; là sự đoàn kết, thống nhất, xây dựng đảng bộ, các tổ chức đoàn thể trong sạch, vững mạnh. Đó là sự quan tâm của BHXH Việt Nam, của Ban thường vụ Tỉnh uỷ, Thường trực HĐND, UBND tỉnh, của các cấp uỷ đảng, chính quyền và sự phối kết hợp tích cực, có hiệu quả của các ban, nghành, đoàn thể thường xuyên theo dõi, chỉ đạo, tạo điều kiện thuận lợi để BHXH Thanh Hoá hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. 5.2 Nguyên nhân đạt được những thành tích đó Thứ nhất: Chính sách BHXH đối với người lao động được đảng ủy và UBND tỉnh thường xuyên quan tâm. Thứ hai: Người lao động nhất là khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đã từng bước có ý thức hơn trong việc chấp hành thực hiện các quy định của pháp luật về BHXH Thứ 3: Hoạt động của các phòng ban ngày càng có hiệu quả do sự nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ trong cơ quan BHXH tỉnh cũng như BHXH cấp huyện. Theo ước tính ở BHXH tỉnh có 93 cán bộ công chức, viên chức ( trong khi BHXH cấp huyện là 282 cán bộ ) năm 2008: thì có 72,3% số cán bộ có trình độ đại học 6,4% cao đẳng, 12,8% trung cấp, 8,5% sơ cấp. Tỷ lệ đảng viên là 79,8% Thứ tư: Do sự chỉ đạo đôn đốc thường xuyên của các cán bộ và sự kiểm tra của các cơ quan kiểm sát nên công tác chi đúng, chi hiệu quả. Thất thoát gần như không còn tồn tại. 5.3 Những hạn chế trong việc thực hiện công tác thu – chi ở BHXH tỉnh Thanh Hóa. Thứ nhất: Việc triển khai thực hiện chính sách BHXH, BHYT ở cơ sở; các thành phần kinh tế khu vực ngoài Nhà nước còn gặp nhiều khó khăn. Thứ hai: Năng lực chuyên môn, phương pháp làm việc của một bộ phận cán bộ, công chức trong nghành, việc chuyển đổi tác phong làm việc hành chính, thụ động sang tác phong phục vụ, năng động còn chậm, hiệu quả chưa cao và chưa đồng đều, có nơi, có lúc còn gây phiền hà cho đối tượng tham gia và thụ hưởng các chế độ BHXH, BHYT. Thứ ba: Nợ đọng phí BHXH ở các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh. 5.4 Nguyên nhân của những hạn chế trên Một là: Địa bàn quản lý của BHXH tỉnh rộng lớn, số lượng lao động tham gia BHXH nhiều và tình trạng chây lười trong việc đóng BHXH ở một số doanh nghiệp, tổ chức xã hội. Hai là: Nhận thức về BHXH của những người sử dụng lao động chưa được nâng cao, thậm chí còn hiểu sai lệch không thấy được chính việc đảm bảo quyền lợi BHXH là động lực thúc đẩy người lao động tham gia sản xuất, mặt khác người lao động cũng chưa nhận thức rõ ràng về quyền lợi của mình. Ba là: Do sự buông lỏng quản lý của một số cơ quan BHXH cấp huyện, công tác thanh tra, kiểm tra còn nhiều hạn chế vứng mắc. Tại Thanh Hóa năm nào liên nghành cũng tổ chức những cuộc thanh tra việc thực hiện pháp luật lao động BHXH nhưng thực chất việc thanh tra chuyên nghành về BHXH rất ít. Bốn là: Một số cán bộ ở các phòng ban có những biểu hiện tiêu cực, quan liêu trong việc giải quyết thu – chi các chế độ BHXH, dẫn tới những ý kiến không tốt từ phía những người tham gia BHXH. Chương 3: Giải pháp nhằm hoàn thiện công tác thu – chi quỹ BHXH ở BHXH tỉnh Thanh Hóa 1 Phương hướng nâng cao hoạt động của BHXH tỉnh Thanh Hoá trong những năm tới: Thực hiện kế hoạch 2006 – 2010 và chuẩn bị cho những công tác năm kế tiếp BHXH tỉnh cần tập trung thực hiện những mục tiêu nhiệm vụ của nghành BHXH đã xây dựng, đặc biệt chú ý các nội dung sau đây: Một là: Tiếp tục đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước hoàn thành tốt công tác chi trả lương hưu và trợ cấp BHXH cho các đối tượng thuộc nghành quản lý đầy đủ, kịp thời, đúng đối tượng và đúng thời gian quy định, góp phần ổn định từng bước đời sống sinh hoạt của đối tượng chính sách trong tỉnh, lập thành tích cao nhất chào mừng đại hội Đảng các cấp. Hai là: Phải có những biện pháp tích cực thu hút đối tượng tham gia BHXH, BHYT; mở rộng BHXH đến mọi người lao động trong các thành phần kinh tế và BHYT toàn dân, từng bước thực hiện mục tiêu “ BHXH tới mọi người lao động, tiến tới BHYT toàn dân ” theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX và gần đây là Nghị quyết số 46/NQ – TW, ngày 23/02/2005 của Bộ chính trị về công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ của nhân dân, cũng như Nghị định số 63/2005/NĐ – CP, ngày 16/05/2005 của chính phủ bàn hành kèm theo Điều lệ BHYT mới. Trong đó, nghành BHXH cần phối hợp chặt chẽ với các nghành để xây dựng các giải pháp phù hợp, hiệu quả, kết hợp, chặt chẽ giữa chỉ đạo, vận động với công tác tuyên truyền để các đối tượng tích cực tham gia BHXH, BHYT. Ba là: Tiếp tục hoàn thiện và nâng cao năng lực quản lý của nghành, quản lý tốt các nguồn quỷ, tiếp tục đẩy nhanh cải cách thủ tục hành chính. Cán bộ, công chức, viên chức, cần phải phấn đấu nâng cao chất lượng công tác, chuyển đổi nhanh tác phong làm việc từ cơ chế hành chính sang phục vụ để giải quyết kịp thời các chế độ, chính sách BHXH, BHYT cho các đối tượng tham gia BHXH, BHYT. Bốn là: Tiếp tục tham mưu, đề xuất với tỉnh và phối hợp chặt chẽ với các nghành các cấp, đôn đốc thực hiện công tác thu BHXH trong các đơn vị, doanh nghiệp ngoài quốc doanh, phối hợp với cơ quan chức năng có biện pháp thu nợ BHXH tồn đọn, giải quyết những bất hợp lý, những tồn đọng đối với đối tượng mất sức, theo Quyết định 60/HĐBT ( nay là chính phủ ) nhằm thực hiện tốt công tác BHXH. 2 Giải pháp nhằm hoàn thiện công tác thu – chi quỹ BHXH ở BHXH tỉnh Thanh Hóa. 2.1 Đối với nhà nước Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật về BHXH , xây dựng luật BHXH Trong sự vận động của nền kinh tế thị trường cùng với sự thay đổi trong nội dung và đối tượng điều chỉnh các quan hệ xã hội – pháp luật nói chung và chế độ BHXH nói riêng cũng có sự thay đổi. Tuy nhiên, trong các chế định thì chế định pháp lí về BHXH dường như mang tính chất ổn định nhất, điều này rất thuận lợi trong việc xây dựng lại hệ thống quy định về BHXH cho tương lai. Cũng cần thiết phải có điều chỉnh trợ cấp cho phù hợp với điều kiện kinh tế – xã hội và sự phát triển kinh tế. Yêu cầu ở đây là cần phải có chính sách lao động đồng bộ. Việc xây dựng chế độ BHXH phải khắc phục được tính giải quyết tình thế vì chế độ BHXH ban hành hôm nay không chỉ áp dụng để giải quyết các chế độ cho người lao động đã làm việc trước đây nay về nghỉ chế độ mà còn áp dụng trong hiện tại và tương lai.Vì vậy, cần sớm ban hành Luật BHXH và hệ thống hoá văn bản về BHXH pháp quy về BHXH ở mức cao hơn để thực hiện rõ tầm quan trọng của BHXH và có thể quản lý thống nhất hai nghiệp vụ này. Thay đổi lại tỉ lệ đóng BHXH. Hiện nay, do mức sống của xã hội ngày càng được nâng cao đã làm cho tuổi thọ trung bình của con người cũng tăng theo. Cách đây 30 năm, tuổi thọ trung bình của người Việt Nam chỉ vào khoảng 50 –60 tuổi thì đến nay tuổi thọ trung bình của người Việt Nam đã khoảng 75 tuổi. Tuổi thọ trung bình tăng lên sẽ làm cho số tiền chi trả lương hưu tăng, điều này không đảm bảo nguyên tắc cân bằng thu – chi trong BHXH bởi vì tỉ lệ thu BHXH như hiện nay la hơi thấp. Vì vậy theo tôi, tỷ lệ đóng BHXH nên tăng lên 25% tổng quỹ lương và được phân chia như sau: - Người sử dụng lao động đóng góp 18% tổng quỹ lương. - Người lao động đóng góp 7% tổng quỹ lương. Có chương trình đào tạo và sử dụng cán bộ Để việc quản lý BHXH được thực hiện tốt và đạt kết quả cao thì việc đào tạo lại cán bộ nhân viên trong toàn hệ thống, trang bị phương tiện làm việc thích hợp với tính phức tạp về chuyên môn là không thể trì hoãn, chậm trễ. Sự nghiệp BHXH đòi hỏi có một đội ngũ nhân viên thông thạo nghiệp vụ, nắm vững các quy định của pháp luật về BHXH và pháp luật có liên quan, cởi mở tiếp xúc với những người được bảo hiểm, có quan hệ chặt chẽ với cơ sở sử dụng lao động, hợp tác tốt với các bộ phận trong cùng cơ quan và các cơ quan khác. Người lãnh đạo cơ quan bảo hiểm phải có chương trình kế hoạch đào tạo huấn luyện bồi dưỡng về nghiệp vụ và nguyên tắc quản lý và nghiệp vụ cho đội ngũ nhân viên, quy định nghiêm ngặt chế độ báo cáo thống kê, định kỳ tiếp xúc trực tiếp với các cơ sở, các cơ quan BHXH cấp dưới, mở các cuộc hội thảo về những vướng mắc trong việc thực hiện mục tiêu trong tổ chức cơ quan và nghiệp vụ thu chi tài chính để có quyết định xử lý kịp thời. Ngoài ra hệ thống BHXH cần phải: - Xây dựng, chuẩn hoá tiêu chuẩn cho các chức danh cán bộ, công chức, viên chức sao cho phù hợp với những yêu cầu công tác của ngành. Đồng thời, tiến hành rà soát và sắp xếp lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức cho phù hợp với năng lực chuyên môn và những yêu cầu công tác đã đặt ra. - Tuyển dụng mới và bồi dưỡng nâng cao mọi mặt cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong ngành theo hướng giỏi về chuyên môn, vững vàng về nghiệp vụ, chính trị tư tưởng phẩm chất đạo đức tốt. - Nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho cán bộ, công nhân viên chức trong ngành trên cơ sở phân phối thu nhập hợp lý, công bằng, làm cho thu nhập của các cán bộ công nhân viên trong ngành trở thành động lực và mục tiêu phấn đấu của họ. 2.2 Đối với BHXH Việt Nam Mở rộng nguồn thu BHXH Thứ nhất, mở rộng nguồn thu BHXH đó là việc mở rộng đối tượng tham gia BHXH: Hiện nay, dân số nước ta khoảng trên 80 triệu người, trong đó lực lượng lao động chiếm khoảng 45 triệu lao động, đây có thể nói là một nguồn lao động rất phong phú và đầy tiềm năng cho sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của đất nước trong hoàn cảnh mới; tuy nhiên mới chỉ có khoảng 4 triệu lao động tham gia BHXH, do đó số lượng lao động xã hội tham gia BHXH hạn chế, nếu tiến hành phát triển BHXH ở tất cả lực lượng lao động xã hội thì số lượng lao động tham gia BHXH là vô cùng lớn. Đặc biệt, nguồn lao động ở nông thôn, những lao động hoạt động trong lĩnh vực nông - lâm - ngư nghiệp có tiềm năng tham gia BHXH và có nhu cầu tham gia BHXH là rất lớn. Trong khi đó, theo điều lệ BHXH ban hành kèm theo nghị định 12/ CP của Chính phủ mới chỉ giới hạn đối tượng tham gia BHXH ở một đối tượng hạn chế, thực hiện BHXH ở một khu vực lao động tương đối hẹp. Về lâu dài nên mở rộng hình loại hình BHXH bắt buộc và BHXH tự nguyện đối với mọi người lao động trong xã hội; vừa bắt buộc mọi người lao động trong xã hội phải có trách nhiệm, ý thức trong tiêu dùng các nhân để chịu trách nhiệm với chính bản thân mình và gia đình mình, vừa đạt được mục tiêu quản lý điều hành của Nhà nước đảm bảo an toàn xã hội. - Đối với loại hình BHXH bắt buộc: trong thời gian tới, ngoài những người lao động đang thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc theo quy định hiện nay, Nhà nước cần mở rộng thêm đối tượng tham gia đối với các đối tượng lao động khác như: người lao động trong các hợp tác xã có quan hệ hợp đồng lao động, các hộ gia đình và những làng nghề có sử dụng lao động thuê mướn... - Đối với loại hình BHXH tự nguyện: Bộ luật lao động của nước ta có quy định về BHXH tự nguyện, loại hình BHXH tự nguyện nên được thực hiện ở những đối tượng như: những người hoạt động trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp; người lao động tự do; những người đã tham gia loại hình BHXH bắt buộc nhưng muốn tham gia thêm loại hình BHXH tự nguyện này... Thứ hai, mở rộng đầu tư quỹ nhằm tăng thêm nguồn thu BHXH: Quỹ BHXH có nguồn tài chính nhàn rỗi tương đối lớn có thể thực hiện các hoạt động đầu tư tăng trưởng nguồn quỹ, mặt khác đây cũng là một nguồn vốn quan trọng trong đầu tư phát triển kinh tế - xã hội. Đặc biệt, trong điều kiện đất nước đang tiến hành sự nghiệp “công nghiệp hoá, hiện đại hoá” theo đường lối của Đảng. Trong điều kiện phát triển kinh tế, Đảng đã xác định coi trọng nguồn nội lực trong nước là quyết định, do đó quỹ BHXH nhàn rỗi được đem đầu tư là nguồn đầu tư rất phù hợp và có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền về BHXH BHXH Việt Nam mới đi vào hoạt động theo cơ chế mới, hoạch toán độc lập, cân đối thu chi nên đẩy mạnh công tác tuyên truyền về BHXH là hết sức cần thiết. Công tác thông tin, tuyên truyền về BHXH trong những năm qua đã có nhiều cố gắng và đạt được kết quả đáng ghi nhận: Đó là nâng cao nhận thức đối với BHXH, đưa ra những hình thức tuyên truyền hiệu quả hơn và xây dựng được đông đảo đội ngũ cộng tác viên. Nhưng so với yêu cầu và nhiệm vụ chung của ngành, công tác thông tin tuyên truyền về BHXH còn nhiều hạn chế, tồn tại cần khắc phục. Nhìn chung số đông người lao động, chủ sử dụng lao động chưa có hiểu biết rõ ràng về BHXH, thêm vào đó công tác tuyên truyền chưa được quan tâm mọt cách đúng mức, kinh phí tuyên truyền còn quá ít ỏi, hiệu quả tuyên truyền thấp. Để nâng cao hiệu quả tuyên truyền cần phải thực hiện các hướng sau: - Về nội dung: Ngoài tuyên truyền chính sách, pháp luật và các chế độ BHXH, giải đáp hướng dẫn thực hiện các chế độ, kết quả các mặt hoạt động của ngành. Cần đặc biệt quan tâm đến nội dung mà lâu nay ít được đề cập đến đó là tuyên truyền về mục đích, bản chất nhân đạo, nhân văn của BHXH. Nếu chúng ta làm được điều đó thì sẽ từng bước thay đổi được tâm lý nặng nề của họ hiện nay là bắt buộc đóng BHXH. Từ đó hình thành thái độ tự giác, tự nguyện tham gia BHXH và có trách nhiệm nộp BHXH. Trước đây chúng ta thường tuyên truyền nhiều về nội dung thu chi, quản lý quỹ BHXH và giải quyết về BHXH là chưa đủ. Đó mới là biện pháp để thực hiện mục đích nhân đạo. Nội dung tuyên truyền mới chỉ dành riêng cho nội bộ ngành, chưa thu hút được đông đảo người lao động, chủ sử dụng lao động và các thành viên khảctong xã hội. - Về hình thức tuyên truyền: + Tạp chí BHXH Việt Nam ra đời đánh dấu một mốc lịch sử trong công tác tuyên truyền về BHXH. Thời gian qua, các bài báo viết chủ yếu là của các nhà quản lý BHXH, đội ngũ cộng tác viên chưa đáp ứng được số lượng, chất lượng bài viết. Để phục vụ độc giả tốt hơn, tạp chí BHXH phải đa dạng hoá nội dung và hình thức thực hiện. Trước hết là đội ngũ phóng viên, biên tập viên, cộng tác viên phải có những bài viết chất lượng cao. Bài viét không dừng lại thông tin một cách đơn thuần những kết quả đạt được mà phải dựa trên sự phân tích khoa học, mang tính lập luận về nghiệp vụ BHXH. Bài viết đăng trên tạp trí phải đầy đủ thông tin cần thiét và chính xác cập nhật. Đòi hỏi đội ngũ biên tập viên, cộng tác viên và ngoài ngành phải có trình độ chuyên môn và trách nhiệm cao. + Tăng cường phối hợp với các cơ quan thông tin đại chúng ( Đài truyền hình, truyền thanh, báo chí ) để tuyên truyền sâu rộng hơn về BHXH. Nội dung tuyên truyền cần ngắn gọn, dễ hiểu, gây được sự chú ý của mọi người. + Tổ chức các hội nghị, các cuộc họp trong đó có các đại diện của người lao động để nhằm mục đích tuyên truyền về BHXH giúp các bên tham gia hiểu rõ tính pháp luật của BHXH, nắm được quyền lợi và nghĩa vụ của mình. Đồng thời qua đó thu thập tổng hợp các ý kiến thắc mắc, đóng góp của người lao động , chủ sử dụng người lao động để đưa ra các biện pháp phù hợp với nguyện vọng của học. + Phấn đấu mỗi cán bộ BHXH là một tuyên truyền viên ì hơn ai hết họ hiểu rõ mục đích, bản chất, tác dụng và cách thức thực hiện các chính sách BHXH. Hoàn thiện việc quản lý thu chi kết hợp vi tính hoá trong công tác quản lý thu chi quỹ BHXH Công tác thu quỹ BHXH có yêu cầu rất cao đối với những cán bộ làm công tác này, đòi hỏi người cán bộ phải năng động, sáng tạo, nhiệt tình trong công việc. Do vậy cần có chế độ ưu đãi đối với họ như: phương tiện đi lại, thanh toán công tác phí theo chế độ riêng phù hợp với hoàn cảnh cụ thể. Bên cạnh đó chúng ta cũng nên quan tâm đến các tổ chức, đơn vị mà chúng ta quản lý. Chúng ta có thể tiến hành các hình thức khen thưởng, cám ơn tới các đơn vị luôn thực hiẹn tiến độ thu BHXH. Còn đối với các đơn vị nộp chậm, nộp thiếu tiền BHXH thì chúng ta nên xem xét tình hình cụ thể của đơn vị. Nếu đơn vị thực sự gặp khó khăn thì đề nghị các cơ quan chức năng tạo điều kiện thuận lợi, giúp họ nhanh chóng thoát khỏi tình trạng khó khăn. Nếu đơn vị cố tình chiếm dụng quỹ trong khi có đủ khả năng nộp tiền BHXH thì phải có biện pháp sử phạt hành chính vì nhiều đơn vị sẵn sàng nộp phạp nếu như họ thấy tiền lãi thu được do chiến dụng quỹ BHXH vào hoạt động sản xuất kinh doanh lớn hơn số tiền họ phải nộp mà trong một số trường hợp chúng ta phải yêu cầu cơ quan chức năng thi hành pháp luật tiến hành truy tố họ vì không đảm bảo quyền lợi cho người lao động. Đối với các đơn vị hoạt động sản xuất kinh doanh mang tính chất thời vụ thì cần xác định thời điểm hợp lý để tạo điều kiện cho họ nộp đúng, nộp đủ. Công tác chi trả cũng cần phải được đổi mới cho phù hợp với nhu cầu của cuộc sống. Đối với các cán bộ chi trả lương hưu và trợ cấp tại các tổ, phường trên địa bàn quận thì phải không ngừng nâng cao mức thù lao cho họ để họ có thể yên tâm làm công tác này, đem lại hiệu quả chi trả cao hơn. Đối với các cán bộ làm công tác chi trả 2 chế độ ốm đau, thai sản ở các đơn vị thì cũng phải có mức thù lao thoả đáng, đặc biệt là những đơn vị có đông lao động, có nhiều lao động nữ, điều kiện làm việc cho người lao động chưa đảm bảo. Hiện nay nền kinh tế nước ta đang dần bắt kịp nền kinh tế thế giới. Chúng ta đang mạnh mẽ áp dụng công nghệ tin học vào công tác quản lý, vào hoạt động sản xuất kinh doanh trên tất cả các lĩnh vực đời sống. Ngành BHXH cũng đưa hệ thống tin học vào hoạt động của mình nhưng mới dừng lại ở mức độ “có máy vi tính”. Hiện nay ở hầu hết các cơ quan BHXH đều có hơn 2 chiếc máy vi tính nhưng số lượng cán bộ BHXH biết sử dụng thành thạo nó thì có rất ít thậm chi có nơi không có. Các cán bộ ngành BHXH chỉ mới dừng lại ở mức biết sử dụng máy vi tính mà chưa khai thác hết hiệu quả mà máy vi tính đem lại trong công tác thu chi quỹ BHXH. Mặt khác do chưa được quan tâm dúng mức nên hệ thống các chương trình phần mềm chuyên ngành của BHXH vẫn chưa được đồng bộ, chưa tạo ra sự thuận lợi cho các cán bộ khi làm việc trực tiếp với máy tính. Bên cạnh đó hệ thống phần mềm này còn thiếu tính năng bảo mật nên rất dễ bị đánh cắp số liệu. Chính vì vậy mà trong những năm tiếp theo Nhà nước nên cung cấp kinh phí cho ngành BHXH để họ có đủ điều kiện đưa hoạt động tin học trong quản lý có hiệu quả cao thông qua việc mua máy vi tính, mua phầm mềm quản lý cũng như mở các lớp đào tạo tin học cho tất cả các cán bộ ngành BHXH cả về kỹ năng sử dụng máy tính và kỹ năng khai thác hiệu quả phần mềm chuyên ngành. 2.3 Đối với BHXH tỉnh Thanh Hóa Về công tác thu Quản lý thu BHXH phải đảm bảo, quán triệt nguyên tắc quản lý đầy đủ, chính xác, kịp thời đối tượng tham gia BHXH và quỹ tiền lương làm cơ sở để nộp và xác định mức hưởng BHXH; do đó đòi hỏi phải có một phương thức quản lý thu BHXH hợp lý. Để thực hiện tốt công tác quản lý thu BHXH, cần phải thực hiện một số biện pháp sau: - Kết hợp với các cơ quan, ban, ngành chức năng có liên quan, việc kết hợp này rất quan trọng trong công tác thu BHXH, nó tạo điều kiện cho công tác thu được dễ dàng, triệt để, tận dụng được sự giúp đỡ các cấp, các ban, ngành chức năng đối với công tác BHXH; đặc biệt càng có ý nghĩa hơn đối với ngành BHXH trong việc thống kê nắm bắt đầy đủ số lượng đơn vị sử dụng lao động, số lượng người lao động trong khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Ví dụ như đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh cần phải phối hợp chặt chẽ với cơ quan cấp giấy phép thành lập và hoạt động của doanh nghiệp, cơ quan quản lý và thu thuế ở địa phương. - Tổ chức cấp sổ BHXH cho người lao động để kịp thời ghi chép toàn bộ quá trình tham gia BHXH và mức đóng góp của họ vào quỹ BHXH. - Cần sớm nghiên cứu và đưa vào sử dụng công nghệ quản lý mới để thay thế cho phương pháp làm việc thủ công hiện nay, theo dõi quản lý và ghi chép kịp thời, đầy đủ sự biến động của từng đơn vị sử dụng lao động, từng cá nhân người lao động (thời gian đóng, mức đóng) - Dần từng bước áp dụng công nghệ thông tin trên cơ sở xây dựng hoàn chỉnh mạng máy tính toàn ngành để có thể quản lý hoạt động BHXH nói chung và hoạt động quản lý hoạt động thu BHXH nói riêng. Đặc biệt, quản lý hồ sơ của đối tượng tham gia BHXH trên cơ sở phát triển hệ thống công nghệ thông tin của ngành BHXH, từ đó có được những thông tin cần thiết về số lượng các đơn vị sử dụng và người lao động tham gia BHXH một cách dễ dàng, kiểm tra kiểm soát hoạt động BHXH một cách thống nhất, giải quyết kịp thời các khiếu nại của những người lao động xung quanh vấn đề thu BHXH. Bằng những giải pháp công nghệ thông tin quản lý đối tượng tham gia BHXH phù hợp cũng có thể tiết kiệm ddợc chi phí quản lý. - Về quản lý số tiền thu BHXH, hệ thống các tài khoản "chuyên thu" cần phải được quản lý chặt chẽ. Đây là các giải pháp cần phải có sự kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ trong công tác thu BHXH. Nguồn tiền của các cơ sở thu được phải nộp vào tài khoản "chuyên thu" trong hệ thống Ngân hàng Nhà nước, yêu cầu các cơ sở phải thu và nộp ngay số tiền thu BHXH cho tài khoản của cơ quan BHXH Việt Nam để hình thành nên quỹ BHXH tập trung, không được phép sử dụng nguồn thu này cho bất cứ công tác chi nào khác. Do đó, cần phải có những chế độ khen thưởng kịp thời cho những cán bộ công nhân viên chức, các đơn vị sử dụng lao động và các cơ sở thực hiện tốt. Bên cạnh đó, phải có hình thức kỷ luật thật nghiêm khắc đối với những cán bộ công nhân viên chức vi phạm những quy định của Nhà nước, của ngành. - Đào tạo đội ngũ cán bộ chuyên trách trong hoạt động quản lý thu BHXH, đảm bảo cho công tác BHXH được thực hiện một cách đồng bộ, đúng theo các quy định của ngành và pháp luật nói chung; đặc biệt là phải đào tạo được đội ngũ cán bộ chuyên môn trong hoạt động quản lý thu BHXH đáp ứng được những nhu cầu thực tế đặt ra. - Trao đổi hợp tác, học hỏi kinh nghiệm thực tiễn về công tác thu BHXH của các cơ quan BHXH khác trong tỉnh bạn. - Chống thất thu, nợ đọng tiền nộp BHXH. Đây là một vấn đề cần giải quyết dứt điểm trong hoạt động BHXH, bởi lẽ trên thực tế tình trạng nợ đọng tiền nộp BHXH, trốn tránh thực hiện BHXH cho người lao động đang diễn ra tương đối phổ biến ở các doanh nghiệp. Hiện nay, đang có quá nhiều các đơn vị sản xuất nhỏ và doanh nghiệp ngoài quốc doanh, thậm chí ngay cả các đơn vị nhà nước cũng trốn tránh nghĩa vụ đóng BHXH cho người lao động. Vấn đề này đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi của người lao động (không được giải quyết chế độ bởi vì đơn vị sử dụng lao động đang nợ đọng tiền đóng BHXH). - Tình trạng trục lợi BHXH đang diễn ra với mức độ ngày càng tăng như: giả mạo hồ sơ, khai khống tuổi đời và năm công tác để hưởng BHXH, chậm cắt giảm đối tượng hưởng chế độ khi hết thời gian hưởng; trốn tránh nghĩa vụ đóng BHXH hoặc khai giảm số lượng lao động và quỹ tiền lương làm căn cứ đóng BHXH Do đó, để tránh tình trạng thất thu và nợ đọng tiền BHXH, ngoài những biện pháp riêng nghiệp vụ thu BHXH còn cần thiết phải có những biện pháp tổng hợp, sự phối kết hợp giữa các cấp các ngành. Tuy nhiên, trước hết trong công tác thu cần phải có sự quản lý chặt chẽ đối tượng thu, quản lý chặt chẽ tiền lương và quỹ tiền lương làm căn cứ để đóng và xác định mức hưởng BHXH; cần thiết phải có hình thức xử lý nghiêm minh đối với những cơ quan, doanh nghiệp, đơn vị sử dụng lao động cố tình dây dưa nợ đọng tiền đóng BHXH. Về công tác chi BHXH. Quản lý chi BHXH nhằm giải quyết các chế độ BHXH và chi trả kịp thời, chính xác, đúng lúc, đúng đối tượng cho những người được hưởng trợ cấp của các chế độ BHXH. Đảm bảo sự an toàn, tránh những thất thoát không đáng có của quỹ BHXH. Do đó, trong công tác hoàn thiện phương thức quản lý chi BHXH cần phải thực hiện một số giải pháp sau: - Tiến hành kiểm ta, rà soát lại toàn bộ hồ sơ đối với những đối tượng đang hưởng BHXH được hưởng chế độ BHXH. Đối với những đối tượng thiếu hồ sơ, phải tiến hành bổ sung, hoàn chỉnh, kiểm tra lại; đối với những hồ sơ có sự sai sót thì phải kiên quyết xử lý, phù hợp với những qui định của Nhà nước. Mặt khác, nếu trong quá trình kiểm tra, phát hiện được những hành vi gian lận nghiêm trọng thì cần thiết phải chuyển sang các cơ quan pháp luật có chức năng để xử lý, cần phải có hình thức xử lý nghiêm khắc để làm gương tránh tình trạng trục lợi BHXH. - Với những đối tượng hưởng BHXH mới phát sinh, phải thực hiện đúng quy trình lập, kiểm tra và thẩm định hồ sơ theo quy định. - Tăng cường các biện pháp quản lý tiền mặt trong tất cả các công đoạn vận chuyển tiền mặt từ nơi giao nhận tới khi chi trả cho các đối tượng được hưởng chế độ BHXH, giao nhận tiền ở kho bạc, ngân hàng, trên đường vận chuyển đến các xã, phường, tổ dân phố, trong quá trình tổ chức chi trả cho trả từng đối tượng hưởng BHXH. Nếu cần thiết phải bố trí lực lượng bảo vệ (thuê công an, bảo vệ áp tải) và trang bị những phương tiện bảo vệ (như: trang bị hòm sắt, két bạc bảo vệ, thiết bị bảo vệ). Thực hiện thanh toán ngay trong ngày đối với hình thức chi trả trực tiếp, không quá từ 3 đến 5 ngày đối với hình thức chi trả thông qua các cơ sở xã, phường. Thường xuyên kiểm tra định kỳ, đột xuất tồn quỹ tiền mặt ở các đại lý và BHXH cấp huyện và BHXH thành phố. - Tại một số đơn vị ở xa, đối tượng hưởng BHXH ít, cần tìm ra được phương thức và mô hình chi trả hợp lý để đảm bảo quyền lợi, đời sống cho các đối tượng được hưởng quyền lợi BHXH, đồng thời đảm bảo sự phù hợp với khả năng đáp ứng được yêu cầu chi trả của các cơ quan BHXH cơ sở. Do đó, có thể kết hợp với ngành Bưu điện để tổ chức chi trả kịp thời hàng tháng cho đối tượng. - Phối hợp chặt chẽ với các tổ chức y tế, tổ chức công đoàn ở các đơn vị để kiểm tra, giám sát việc cấp giấy chứng nhận nghỉ ốm, nghỉ thực hiện kế hoạch hoá gia đình, thai sản và nghỉ dưỡng sức để khắc phục triệt để hiện tượng làm giả hồ sơ, khai khống thời gian nghỉ để rút tiền từ quỹ BHXH không đúng chế độ, không đúng các quy định. 3 Một số kiến nghị Để đạt được những hiệu quả cao hơn nữa và giảm thiểu những vấn đề tồn tại trong cơ quan BHXH tỉnh Thanh Hóa tôi có một số kiến nghị sau: Thứ nhất: Nâng cao hơn nữa chất lượng đội ngũ cán bộ công nhân viên chức, thực tế cho thấy ở BHXH tỉnh số cán bộ có trình độ đại học còn chiếm tỷ lệ nhỏ phải dần dần thay thế bộ phận cán bộ có trình độ chuyên môn kém trách tình trạng “ Con ông cháu cha” Thứ hai: Thường xuyên giám sát hoạt động của các cơ quan BHXH cấp huyện, đôn đốc việc triển khai và thực hiện các chế độ BHXH trên địa bàn các địa phương. Thứ ba: Giải quyết các khiếu nại tố cáo, thực tế trên địa bàn Thanh Hóa trong những năm vừa qua có rất nhiều các doanh nghiệp nước ngoài hoạt động tại địa phương nợ đọng BHXH kéo dài, phạt nặng những một số trường hợp để răn đe. Phối hợp hoạt động với các tổ chức đoàn thể, UBND tỉnh trong việc tuyền truyền, hướng dẫn người lao động, người dân tham gia các chế độ BHXH coi đó là chính sách quan trong nhất để đảm bảo lợi ích người lao động. Thứ tư: Thường xuyên giao lưu học hỏi kinh nghiệm với các đơn vị tỉnh bạn, thực hiện mối liên hệ thông suốt với BHXH Việt Nam và các cơ quan BHXH tỉnh khác. KẾT LUẬN: Ở Thanh Hóa nói riêng và ở nước ta nói chung BHXH đã đóng góp một phần tích cực trong công cuộc xây dựng và phát triển, kinh tế xã hội và văn hóa . BHXH tỉnh Thanh Hóa ngày được các cấp chính quyền quan tâm và ủng hộ coi đây là chính sách quan trọng trong hệ thống an sinh xã hội, nòng cốt để giải quyết các mâu thuẫn trong đời sống kinh tế. Triển khai BHXH, BHYT trong toàn nhân dân là nhiệm vụ dài hạn của BHXH Việt Nam cũng như BHXH tỉnh nhà. Xác định đây không phải là nhiệm vụ đơn giản của cơ quan trong thời gian tới, các đồng chí ban lãnh đạo, các cán bộ phòng ban ra sức thi đua lập nhiều thành tích mới. Thu – chi là nội dung cơ bản nhất trong hoạt động của bất cứ doanh nghiệp hay tổ chức nghề nghiệp nào khác ngay cả những tổ chức hành chính sự nghiệp. Công tác xây dựng cơ sỡ vật chất, tuyển cán bộ, đào tạo cán bộ, mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm, giải quyết các khiếu nại đều liên quan tới 2 vấn đề chính thu – chi. Trong những năm qua, BHXH tỉnh Thanh Hóa đã đạt được nhiều thành tích đáng mừng song không phải là không có những bất cập, xét đến cùng thì BHXH tỉnh cũng đã đáp ứng được những chỉ tiêu mà BHXH Việt Nam giao cho trên cơ sỡ những gì đã làm được BHXH tỉnh sẽ phát huy hơn nữa. Đoàn kết xây dựng để thực hiện tốt chính sách BHXH, BHYT ở quê hương, xây dựng quê hương Thanh Hóa ngày càng giàu mạnh. Tài liệu tham khảo: Nguyễn Văn Định (2005) – Giáo trình Bảo hiểm Nguyễn Văn Định (2004) – Giáo trình quản trị kinh doanh Bảo hiểm Tạp chí BHXH số 03/2008 Bảo hiểm xã hội tỉnh Thanh Hóa, Báo cáo tổng kết công tác BHXH các năm tử (2003 – 2008) Bảo hiểm xã hội Thanh Hóa quá trình xây dựng và phát triển Nghị định 152/2006/NĐ – CP ngày 22/12/2006 của chính phủ hướng dẫn một số điều luật BHXH về BHXH bắt buộc www.baohiemxahoi.gov.vn Contents

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc2519.doc
Tài liệu liên quan