Đề tài Thực trạng đánh giá tình hình thu hút FDI của Nhật Bản vào Việt Nam trong thời kỳ từ 1996 đến nay

Đánh giá những thành công trong mối quan hệ kinh tế Việt- Nhật và xu hướng trong tương lai chúng ta có thể nói rằng hiện nay Việt Nam đang bước vào giai đoạn mới – công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước- đòi hỏi phải có một lượng vốn đầu tư lớn. Việt Nam dự kiến sẽ thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài khoảng 20 tỷ USD, trong đó Nhật Bản là một trong những nước chúng ta hy vọng có lượng vốn đầu tư lớn nhất. Tuy nhiên bất cứ ai trong chúng ta cũng có thể nhận thấy rằng ảnh hưởng của FDI vào từng nước là khác nhau, kể cả những mặt tích cực và những mặt tiêu cực. Nước ta hiện nay, qua một thời gian thực hiện luật đầu tư nước ngoài bên cạnh những thành tựu đạt được đáng khích lệ vẫn còn những vấn đề nảy sinh gây vướng mắc cho việc thu hút FDI của nước ngoài vào Việt Nam. FDI tạo ra sự thay đổi trong cơ cấu ngành nghề và phân chia các khu vực lãnh thổ một cách cơ bản theo hướng phát triển công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Những nơi được đầu tư thì kinh tế phát triển nhanh hơn, nhưng bên cạnh những mặt tích cực đó vẫn song song tồn tại những mặt trái của FDI. Mong muốn của cá nhân người viết bài này là chỉ ra được những tồn tại và từ đó có một vài giải pháp để đóng góp vào qúa trình thu hút FDI của Nhật Bản nói riêng và của nước ngoài nói chung có hiệu quả hơn. Góp phần vào công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước

doc29 trang | Chia sẻ: haianh_nguyen | Lượt xem: 1076 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng đánh giá tình hình thu hút FDI của Nhật Bản vào Việt Nam trong thời kỳ từ 1996 đến nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
u tư này nhỏ nhất phải bằng 30% tổng số vốn pháp định, qui định này có sự khác biệt so với một số nước khác vì họ qui định giới hạn mức vốn lớn nhất của các chủ đầu tư nước ngoài đóng góp. Điều này cũng dễ hiểu vì các đối tác Việt Nam chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, lượng vốn ít, nên có qui định như vậy thì các chủ đầu tư phía Việt Nam mới có điều kiện góp vốn. - Quyền quản lý các xí nghiệp phụ thuộc vào số vốn góp của mỗi bên. Nếu doanh nghiệp là doanh nghiệp 100% vốn của nước ngoài thì doanh nghiệp hoàn toàn do chủ đầu tư nước ngoài điều hành và quản lý. Như vậy: từ những đặc điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài ta thấy nó rất khác so với đầu tư gián tiếp và mục tiêu chính của đầu tư trực tiếp nước ngoài là kinh doanh để thu lợi nhuận. Các qui luật kinh tế được các chủ đầu tư vận dụng để làm sao giảm được tối đa về chi phí mà lại thu được lợi ích về phía mình nhiều nhất. Vì vậy phía Việt Nam cũng cần phải có một đội ngũ cán bộ có trình độ cao để có thể làm ăn được với các chủ đầu tư nước ngoài làm sao hạn chế được những bất lợi về phía mình. 3. Các hình thức của đầu tư trực tiếp Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được Quốc hội nước Cộng hoà XHCN Việt Nam thông qua ngày 29/12/1987. Từ khi được ban hành đến nay luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đã được sửa đổi: - Lần thứ nhất ngày 30/6/1990 - Lần thứ hai ngày 23/12/1992 - Lần thứ ba ngày 23/11/1996 Tới nay đã có hơn 150 văn bản hướng dẫn thi hành luật đầu tư nước ngoài, trong đó quan trọng nhất là nghị định 12/CP ngày 18/2/1997; nghị định 36/CP ngày 24/4/1997 về qui định khu chế xuất, khu công nghệ cao; công văn số 1849/KTTH ngày 17/4/1997 và các văn bản khác qui định các tổ chức, cá nhân nước ngoài được đầu tư trực tiếp vào Việt Nam dưới các hình thức sau: - Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh - Doanh nghiệp liên doanh - Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài. a. Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh Là hình thức đầu tư trực tiếp trong đó các bên qui định trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên để tiến hành đầu tư kinh doanh ở Việt Nam mà không cần thành lập một pháp nhân mới. Các hợp đồng thương mại, hợp đồng chuyển giao nguyên liệu lấy sản phẩm, hợp đồng mua thiết bị trả chậm,và các hợp đồng khác mà không thực hiện việc phân chia lợi nhuận và kết qủa kinh doanh thì không thuộc phạm vi hợp đồng này. Hợp đồng hợp tác kinh doanh là do đại diện có thẩm quyền của các bên hợp doanh ký. Thời hạn có hiệu lực của hợp đồng do các bên thoả thuận và được cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam y chuẩn. b. Doanh nghiệp liên doanh Doanh nghiệp liên doanh là doanh nghiệp được thành lập tại Việt Nam trên cơ sở hợp đồng kinh doanh ký giữa bên hoặc các bên Việt Nam với bên hoặc các bên nước ngoài để đầu tư kinh doanh tại Việt Nam. Khác với hợp đồng hợp tác kinh doanh, doanh nghiệp liên doanh là một pháp nhân mới được thành lập từ hai bên ( một bên Việt Nam và một bên nước ngoài) hoặc nhiều bên ( một hay nhiều bên VN với một hay nhiều bên nước ngoài). Doanh nghiệp liên doanh đã được phép hoạt động tại Việt Nam, được liên doanh với các doanh nghiệp liên doanh khác hoặc với một nhà đầu tư nước ngoài hoặc với doanh nghiệp Việt Nam hoặc với doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài đã được hoạt động tại Việt Nam. Trong trường hợp đặc biệt, doanh nghiệp liên doanh có thể được thành lập trên cơ sở hiệp định ký kết giữa Chính phủ nước Cộng hoà XHCN Việt Nam với Chính phủ nước ngoài; doanh nghiệp liên doanh được thành lập theo hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn có tư cách pháp nhân theo pháp luật Việt Nam.Mỗi bên liên doanh chịu trách nhiệm đối với bên kia và đối với doanh nghiệp liên doanh theo phần vốn góp của mình vào vốn pháp định. Doanh nghiệp liên doanh hoạt động trên nguyên tắc tự chủ về tài chính, trên cơ sở hợp đồng liên doanh, điều lệ doanh nghiệp liên doanh phù hợp với giấy phép đầu tư và pháp luật Việt Nam. Doanh nghiệp liên doanh được thành lập sau khi cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về hợp tác đầu tư của Việt Nam cấp giấy phép đầu tư và chứng nhận đăng ký điều lệ của doanh nghiệp. c. Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là doanh nghiệp thuộc sở hữu của nhà đẩu tư nước ngoài, do nhà đầu tư nước ngoài thành lập tại Việt Nam,tự quản lý và tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh. Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài được thành lập theo hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn có tư cách pháp nhân theo pháp luật Việt Nam. Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài được thành lập sau khi cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về hợp tác và đầu tư Việt Nam cấp giấy phép đầu tư và chứng nhận đăng ký điều lệ doanh nghiệp. Vốn pháp định và thời hạn hoạt động của doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài được qui định giống như đối với doanh nghiệp liên doanh.Vốn pháp định ít nhất bằng 30%. Vốn đầu tư của doanh nghiệp trong trường hợp đặc biệt thì tỷ lệ này có thể thấp hơn 30% nhưng phải đọc cơ quan thẩm quyền về hợp tác đầu tư của Việt Nam chấp nhận. 4. Khu chế xuất và khu công nghiệp a. Khu chế xuất Khu chế xuất có những tên gọi khác nhau và các định nghĩa về nó cũng rất khác nhau. Luật pháp Việt Nam qui định: khu chế xuất là khu công nghiệp chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, thực hiện các dịch vụ cho sản xuất hàng xuất hàng xuất khẩu và hoạt động của khu có danh giới địa lý xác định, do Chính phủ thành lập và cho phép hoạt động bao gồm một hay nhiều doanh nghiệp.Theo nghĩa rộng, khu chế xuất bao gồm tất cả các khu vực được Chính phủ nước sở tại cho phép chuyên môn hoá sản xuất hàng công nghiệp chủ yếu vì mục đích xuất khẩu. Nó là khu vực biệt lập có chế độ thuế quan riêng theo phương thức tự do, không phụ thuộc vào chế độ mậu dịch và thuế quan của nước đó.Theo nghĩa hẹp, khu chế xuất chỉ giới hạn trong một khu vực riêng biệt có ấn định gianh giới quốc gia, có ấn định luồng hàng hoá vào và ra khu vực. Doanh nghiệp chế xuất gồm các tổ chức kinh tế và các cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, các tổ chức kinh tế Việt Nam có tư cách pháp nhân thuộc các thành phần kinh tế. Các doanh nghiệp này hoạt động dưới hình thức các công ty trách nhiệm hữu hạn.Doanh nghiệp chế xuất có tư cách pháp nhân theo pháp luật Việt Nam, hoạt động theo quy định của luật đầu tư nước ngoài tạiViệt Nam và quy chế khu chế xuất. b. Khu công nghiệp Theo luật Việt Nam qui định, khu công nghiệp là khu chuyên sản xuất hàng công nghiệp và các dịch vụ cho sản xuất hàng công nghiệp do Chính phủ thành lập hoặc cho phép thành lập. Trong khu công nghiệp có các doanh nghiệp khu công nghiệp hoạt động. Doanh nghiệp khu công nghiệp là doanh nghiệp được hình thành và hoạt động trong khu công nghiệp.Để khuyến khích các nhà đầu tư bỏ vốn vào khu công nghiệp,Chính phủ đã ban hành qui chế khu công nghiệp.Qui chế đầu tiên ban hành vào ngày 28/12/1994, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/1995. Mới đây Chính phủ đã ban hành nghị định 36/CP ngày 24/04/1997 về qui chế khu chế xuất, khu công nghiệp tập trung và khu công nghệ cao. Các nhà đầu tư trong khu công nghiệp được phép đầu tư vào các lĩnh vực sau: xây dựng và kinh doanh công trình cơ sở hạ tầng; sản xuất gia công lắp ráp các sản phẩm công nghệ để xuất khẩu và tiêu thụ tại thị trường trong nước; các dịch vụ hỗ trợ sản xuất hàng công nghiệp. Về mặt pháp lý thì các khu công nghiệp tập trung là phần lãnh thổ của nước sở tại, các doanh nghiệp hoạt động trong khu công nghiệp tập trung chịu sự điều chỉnh của luật pháp nước sở tại. 5. Tác động của đầu tư trực tiếp Hoạt động đầu tư trực tiếp có những tác động tích cực và những tác động tiêu cực đối với các bên tham gia đầu tư. Vì vậy trước khi tham gia đầu tư chúng ta phải đánh giá được những tác động từ đó đưa ra được những quyết định đúng đắn a. Đối với bên xuất khẩu vốn đầu tư - Tác động tích cực Đối với bên xuất khẩu vốn: họ có khả năng trực tiếp kiểm soát được hoạt động của doanh nghiệp và họ đưa ra những quyết định có lợi cho mình. Do đó vốn đầu tư được sử dụng có hiệu quả cao.Điều này cũng thật dễ hiểu bởi vì khi họ trực tiếp bỏ vốn tham gia đầu tư thì họ có quyền tham gia vào quản lý và ra quyết định đối với các hoạt động đầu tư để làm sao đạt được hiệu quả cao nhất vì mục đích chính của họ là thu được lợi nhuận cao. Chính đầu tư trực tiếp đã giúp cho các chủ đầu tư nước ngoài chiếm lĩnh được thị trường nước ngoài và nguồn cung cấp các nguyên liệu chủ yếu của nước sở tại.Khi mà thị trường trong nước đã bão hoà, nguyên liệu đầu vào trong nước đã khan hiếm thì để duy trì cho hoạt động đầu tư, các nhà đầu tư phải hướng sản phẩm của mình ra thị trường nước ngoài để duy trì chu kỳ sống của sản phẩm, mặt khác để khai thác các nguồn lực sẵn có của nước ngoài phục vụ cho việc sản xuất các sản phẩm của mình. Và đây là lý do quan trọng để các nhà đầu tư nước ngoài mang vốn đi đầu tư. Họ có thể khai thác được nguồn nhân lực rẻ mạt ở nước ngoài để làm giảm chi phí và nâng cao năng suất lao động. Thường thì ở các nước phát triển giá tiền lương trả cho người lao động cao gấp 10-22 lần so với các nước đang phát triển, nhất là ở các ngành đòi hỏi nhiều lao động thì chi phí này rất lớn.Vì thế, để đảm bảo tính cạnh tranh về giá cả sản phẩm thì các nhà đầu tư nước ngoài phải hướng đầu tư sang các nước đang phát triển để khai thác được nguồn nhân công rẻ. Một tác động nữa không kém phần quan trọng đó là: các nhà đầu tư nước ngoài khi bỏ vốn đầu tư thì họ đã xây dựng được các doanh nghiệp nằm trong lòng các nước sở tại, vì thế mà tránh được các hàng rào bảo hộ mậu dịch của các nước sở tại _ mà một trong những hàng rào quan trọng đó là thuế quan. Việc sản phẩm bị đánh thuế cao làm giảm sức cạnh tranh của hàng hoá ngoại nhập, vì thế mà khó bảo đảm được tính cạnh tranh ở thị trường nước ngoài, nhất là trong hoàn cảnh hiện nay khi mà các nước chưa ký được các hiệp định về thương mại thì cách tốt nhất để tránh hàng rào thuế quan là đầu tư sang các nước khác. - Tác động tiêu cực Khi sang nước ngoài đầu tư, có sự khác nhau về môi trường đầu tư như: luật pháp, kinh tế, chính trị, văn hoá mà những nhân tố này có tác động mạnh mẽ đến hoạt động kinh doanh của các nhà đầu tư. Không ít các nhà đầu tư do không xem xét kỹ các yếu tố nêu trên đã thất bại trong việc đầu tư kinh doanh ở nước ngoài như: do bất ổn về chính trị làm cho các doanh nghiệp bị quốc hữu hoá; do nghiên cứu không kỹ về môi trường văn hoá dẫn tới những xung đột trong lĩnh vực quản lý nhân sự; hay sản phẩm không phù hợp với thị trường nước sở tại... b. Tác động tới nước tiếp nhận đầu tư - Tác động tích cực Tác động tích cực lớn nhất đối với các nước tiếp nhận đàu tư có thể kể đến là nó tạo điều kiện cho các nước này thu hút được kỹ thuật và công nghệ tiên tiến, kinh nghiệm quản lý của nước ngoài vì các nước phát triển thường có công nghệ tiên tiến và trình độ quản lý cao trong khi các nước đang phát triển lại cần có công nghệ và trình độ quản lý cao để phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá , hiện đại hoá của mình. Khi đó cách tốt nhất là kêu gọi đầu tư bởi phương pháp này giúp họ từ từ tiếp nhận được các công nghệ đó, tránh được những rủi ro khi mua nó. Tạo điều kiện cho nước sở tại khai thác một cách có hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên. Do sự kém phát triển về công nghệ, không đáp ứng được những yêu cầu của việc khai thác tài nguyên thiên nhiên, nhất là đối với những ngành đòi hỏi dây chuyền công nghệ tiên tiến như: dầu khí, khai khoáng nên các nước đang phát triển gặp không ít khó khăn trong việc khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên phục vụ cho sự phát triển đất nước. Vì vậy họ phải hợp tác với các nhà đầu tư nước ngoài để tránh lãng phí. Một tác động nữa đó là giúp các nhà đầu tư của nước sở tại sử dụng có hiệu quả đồng vốn, mở rộng tích luỹ và góp phần nâng cao tốc độ phát triển kinh tế. Do có hoạt động đầu tư mà vốn của các nhà đầu tư nước sở tại được sử dụng có hiệu quả hơn vì họ được áp dụng các công nghệ hiện đại, được tiếp cận với phương thức quản lý mới khoa học hơn. Chính điều này đã tạo điều kiện cho họ sử dụng đồng vốn một cách có hiệu quả. - Tác động tiêu cực Bên cạnh những tác động tích cực trên thì đầu tư trực tiếp cũng có một số tác động tiêu cực đến phía tiếp nhận đầu tư, cụ thể như: Nếu nước sở tại mà không có một quy hoạch đầu tư cụ thể và khoa học thì có thể dẫn tới sự đầu tư tràn lan và kém hiệu quả. Như vậy thì tài nguyên thiên nhiên bị khai thác quá mức dẫn đến lãng phí, môi trường bị ô nhiễm nặng nề. Hạn chế này đã xảy ra ở các nước đang phát triển như Việt Nam. Khi chúng ta chưa có một qui hoạch tổng thể cho các ngành, các lĩnh vực đầu tư đã dẫn đến tình trạng khai thác tài nguyên một cách lãng phí gây ra hậu quả nghiêm trọng về môi trường và khan hiếm về tài nguyên. Một tác động nữa thường xảy ra với phía tiếp nhận đầu tư là: khi tiếp nhận, do trình độ năng lực của nước sở tại trong việc thẩm định công nghệ chuyển giao có hạn nên dẫn tới việc chuyển giao những công nghệ lạc hậu vào trong nước, gây ảnh hưởng tới quá trình sản xuất và ô nhiễm môi trường. Khi môi trường chính trị không ổn định thì dẫn tới hạn chế nguồn FDI và nước sở tại thường khó chủ động trong việc bố trí cơ cấu đầu tư theo ngành và lãnh thổ vì nó còn phụ thuộc nhiều vào phía đối tác nước ngoài. Chương II: Thực trạng và những đánh giá tình hình thu hút, sử dụng FDI của Nhật Bản vào Việt Nam I- Thực trạng FDI của Nhật Bản vào Việt Nam 1. Xét về vốn đầu tư Sau khi luật đầu tư của Việt Nam được ban hành ngày 29/12/1987 đã có một lượng lớn các dự án đầu tư trực tiếp của các công ty Nhật Bản đổ vào Việt Nam. Đầu tiên là dự án đầu tư liên doanh chế tạo thiết bị cảng của công ty Kansaikyodo ở Hải Phòng năm 1989 với số vốn đăng ký là 50 triệu USD và vốn thực hiện là 35,92 triệu USD, doanh thu là 28,108805 triệu USD. Tính đến hết ngày 27/01/2001 Nhật Bản đã đầu tư khoảng 299 dự án với tổng số vốn là 3,85 tỷ USD, Nhật Bản đã đứng thứ ba về vốn đăng ký nhưng với 177 dự án với tổng số vốn là 2,4 tỷ USD đã đi vào sản xuất kinh doanh thì Nhật Bản đã trở thành nước đứng đầu trong việc thực hiện vốn đầu tư trực tiếp tại Việt Nam - trên Đài Loan(2,1 tỷ USD ) và Singapore ( 1,8 tỷ USD ) Biểu 1: Bảng số liệu về đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam từ 01/10/1989 đến 01/06/2000 ( Nguồn từ: Project Management Departmment Ministry of Planning and Investment ) ( Đơn vị 1000 USD ) Năm Số dự án Vốn đăng ký Vốn thực hiện 01/01/89-31/12/89 1 50 35,920000 01/01/90-31/12/90 4 1,504939 2,064910 01/01/91-31/12/91 5 75,274000 48,575811 01/01/92-31/12/92 9 113,150489 247,862143 01/01/93-31/12/93 15 111,271662 86,199395 01/01/94-31/12/94 30 285,505774 244,139228 01/01/95-31/12/95 62 1043,985713 768,480215 01/01/96-31/12/96 66 716,550247 254,843361 01/01/97-31/12/97 57 398,911013 134,092129 01/01/98-31/12/98 20 215,579680 4,439283 01/01/99-31/12/99 13 46,968809 9,5 01/01/00-01/06/00 11 26,262 17,484 Nhìn vào bảng số liệu trên ta thấy từ năm 1989 đến 1996 thì mỗi năm số dự án đăng ký tăng thêm đáng kể nhất là từ 1994 đến 1996 trung bình mỗi năm có khoảng 30 dự án được đăng ký thêm. Về vốn: nhìn vào bảng ta thấy khoảng thời gian từ 1989 đến 1993 thì tổng số vốn đầu tư mỗi năm của Nhật Bản chỉ đạt mức trung bình.Trong khi Nhật Bản đứng đầu vế viện trợ mậu dịch thì họ lại chỉ giữ một vị trí khiêm tốn về đầu tư trực tiếp. Nguyên nhân phải kể đến đó là nền kinh tế Nhật Bản gặp khó khăn, mặt khác hoạt động đầu tư của các công ty Nhật Bản ở nước ngoài bị giảm sút, thứ nữa là ngoài Việt Nam thì Nhật Bản còn rất nhiều thị trường khác để lựa chọn Từ năm 1993 đến 1996, ta thấy, số dự án đăng ký thêm mỗi năm tăng lên đáng kể và với số vốn cũng rất lớn.Mỗi năm có trung bình từ 15 đến 34 sự án được đăng ký với số vốn đăng ký từ 111,271622 triệu USD ( 1993 ) lên đến 716,550247 triệu USD (1996 ), và số vốn thực hiện là từ 86,199395 trệu USD ( 1993 ) lên đến 254,843361 triệu USD (1996 ). Nguyên nhân của sự tăng lên này là do môi trường đầu tư của Việt Nam có sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư Nhật Bản như: môi trường luật pháp được sửa đổi; lệnh cấm vận của Mỹ đối với Việt Nam bị bãi bỏ làm cho các nhà đầu tư của Nhật không bị ràng buộc khi đầu tư vào Việt Nam.Mặt khác lúc này nền kinh tế Nhật Bản cũng đã dần lấy lại được thế cân bằng và ngoài ra còn nhiều nguyên nhân khác nữa... Từ năm 1996 đến 01/06/2000 thì ta thấy mỗi năm số dự án tăng thêm ngày càng giảm, như năm 1997 có 57 dự án đăng ký với số vốn là 398,911013 triệu USD và vốn thực hiện là 254,843361 triệu USD thì đến tháng 6/2000 số dự án đăng ký là 11 dự án với tổng số vốn là 26,262 triệu USD và trong các năm từ 1996 đến 2000, số dự án đăng ký thêm tiếp tục giảm. Nguyên nhân của sự giảm sút này là do bị ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở khu vực châu á và sự cạnh tranh gay gắt về thu hút vốn đầu tư của các nước trong khu vực Đông Nam á, môi trường đầu tư của Việt Nam so với một số nước trong khu vực còn kém hấp dẫn. 2. Xét về ngành nghề đầu tư Thời kỳ đầu, để tạm thời thu được nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài nên chúng ta có phần ít chú ý đến việc lựa chọn các dự án đầu tư sao cho phù hợp với yêu cầu xây dựng cơ cấu kinh tế. Về sau, yêu cầu này được đặt ra ngày càng nghiêm ngặt hơn. Theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, những lĩnh vực mà Nhà nước khuyến khích đầu tư là: thực hện theo các chương trình kinh tế lớn; sản xuất hàng nhập khẩu thay thế hàng xuất khẩu; sử dụng kỹ thuật cao, công nghệ lành nghề, đầu tư theo chiều sâu để khai thác và vận dụng công suất các cơ sở kinh tế hiện có; sử dụng nguồn lao động, nguồn tài nguyên sẵn có của Việt Nam; xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng, dịch vụ ngoại tệ như du lịch, sửa chữa tàu, sân bay cảng và dịch vụ các loại. Từ 1989 đến 1995, sau khi ban hành luật đầu tư, các công ty Nhật Bản chủ yếu quan tâm đến các dự án về tài nguyên thiên nhiên và dịch vụ ( dầu khí, khách sạn, du lịch... ) hơn là các ngành công nghiệp chế tạo. Số vốn đầu tư vào ngành dầu khí chiếm 32,2%, khách sạn du lịch chiếm 20,6%. Sau đó đầu tư của Nhật Bản đã dần dần mở rộng ra các ngành khác như chế biến thực phẩm, điện tử dầu khí. Các công ty Nhật Bản đã lập 11 liên doanh chế biến từ Thái Lan sang Việt Nam như các hãng điện tử Matsushita đã đầu tư xây dựng nhà máy Victor sản xuất 1,2 triệu tivi mỗi năm chiếm 50% thị trường tivi màu ở Việt Nam trong những năm 1993, 1994 Biểu 2 : Vốn đầu tư vào các ngành ( nguồn: theo thống kê của thông tấn xã Việt Nam 27/01/2001 ) Các ngành Số dự án ( % ) Số vốn ( tỷ ) ( % ) Công nghiệp nặng 117 39,1 % 1,88 47,0 % Công nghiệp vật liệu 14 4,7% 0,423 % 12 % Công nghiệp nhẹ 59 19,7 % 0,341 10,5% Ngành khác 109 36,4 % 1,281 30,5 % Thời kỳ từ 1996 đến nay, các nhà đầu tư Nhật Bản đã tham gia một cách tích cực vào nhiều lĩnh vực của các ngành kinh tế như xây dựng cơ sở hạ tầng khu công nghiệp bưu chính viễn thông, vận tải, dầu khí, khách sạn, văn phòng. Tuy nhiên các nhà đầu tư Nhật Bản đã tập trung phần lớn vào các ngành công nghiệp cụ thể ở biểu 2. Ta có thể thấy các nhà đầu tư Nhật Bản tập trung phần lớn vào các ngành công nghiệp nặng, các ngành này chiếm phần lớn số vốn và số dự án, tiếp theo là đến các ngành công nghiệp nhẹ, công nghiệp vật liệu. Trong khi đó, chính những ngành công nghiệp này chúng ta lại đang rất cần để tiếp thu học hỏi phục vụ cho công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Nhật Bản đã tập trung vào lĩnh vực sản xuất hàng xuất khẩu, xây dựng cơ sở hạ tầng và các cơ sở công nghiệp then chốt và đã bắt đầu tập trung vốn lớn ở Việt Nam. Hầu hết các tập đoàn kinh tế thương mại hàng đầu Nhật Bản như Sony, Mitsubishi, Toyota, Honda, Suzuki... đều bắt tay vào xây dựng các dự án có qui mô khá lớn, trong số đó cần phải kể đến dự án xây dựng khu công nghiệp Hải Phòng của tập đoàn Nomura. Nói tóm lại là trong thời gian vừa qua thì việc các nhà đầu tư của Nhật Bản đã đầu tư vào những ngành nghề chủ chốt mà chúng ta đang cần là phù hợp với chiến lược công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Mặt khác, hiện giờ chúng ta đang có cơ hội thu hút được lượng vốn đầu tư của Nhật Bản nói riêng và của nước ngoài nói chung, nhưng không vì thế mà chúng ta thu hút một cách tràn lan mà chúng ta phải thu hút nó một cách có chọn lọc, đúng ngành nghề mà chúng ta đang cần. 3. Xét về cơ cấu địa bàn đầu tư Cơ cấu đầu tư đã có những chuyển biến tích cực từ năm 1995 cho tới nay. Về thời kỳ trước 1996 thì đầu tư của Nhật Bản chủ yếu tập trung vào các tỉnh phía Nam, nhưng tính đến hết ngày 27/1/2001 thì Nhật Bản đã đầu tư vào hơn 29 tỉnh, thành phố đặc biệt là các tỉnh thành phố lớn như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Thanh Hoá, Hải Phòng. Biểu 3 : Bảng số liệu về đầu tư của Nhật Bản tại 5 tỉnh, thành phố lớn ( nguồn: thông tấn xã Việt Nam 27/01/2001) Khu vực Số dự án Số vốn ( triệu ) Hà Nội 59 668 Thành phố HCM 118 745 Đồng Nai 28 279 Thanh Hoá 2 373,6 Hải Phòng 195 Nhìn vào biểu trên ta thấy xu hướng đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam trong những năm qua đã có những sự chuyển biến từng bước phù hợp với cơ cấu đầu tư nói chung và phù hợp với nhu cầu xây dựng và phát triển đất nước trong những năm qua và trong thời gian tới. Tuy nhiên việc tiếp nhận vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài nói chung và của Nhật Bản nói riêng vẫn còn mang tính tự nhiên, xuất phát từ sự quan tâm gợi ý của các nhà đầu tư nước ngoài và từ công tác điều hành của các cơ quan quản lý Nhà nước về đầu tư nước ngoài hơn là từ chính địa phương. Nguyên nhân chính của tình trạng này là do chúng ta chưa có một qui hoạch chi tiết về thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, định hướng còn chung chung, nhiều điểm còn chưa phù hợp với thực tế. Mặt khác chính sách ưu đãi có phân biệt chưa đủ hấp dẫn, lôi kéo được các chủ đầu tư theo sự sắp xếp của nước chủ nhà. Về khu công nghiệp và khu chế xuất, tính cho đến ngày 27/01/2001, Nhật Bản đã đầu tư vào ba khu công nghiệp gồm : khu công nghiệp Nomura ( ở Hải Phòng ) có số vốn đầu tư khoảng 163 triệu USD hiện đã xây dựng hoàn thiện cơ cấu cơ sở hạ tầng với diện tích là 153 triệu ha đạt chất lượng cao với các công trình phụ trợ như nhà máy điện, nước, tuy nhiên diện tích đất cho thuê còn giảm; khu công nghiệp Thăng Long ( Hà Nội ) có số vốn đầu tư là 53 triệu USD, hiện nay đã hoàn chỉnh cơ sở hạ tầng và là một địa chỉ hấp dẫn cho các nhà đầu tư; khu công nghiệp Long Bình ( Đồng Nai ) có số vốn đầu tư là 41 triệu USD, hiện đang xây dựng giai đoạn một với diện tích 50 ha. 4. Xét về hình thức đầu tư Theo như luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam quy định có 3 hình thức đầu tư chủ yếu là: xí nghiệp liên doanh, xí nghiệp 100 % vốn nước ngoài, và hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh. - Hình thức liên doanh Tổng số các xí nghiệp liên doanh được cấp giấy phép đầu tư tính đến tháng 12/1998 là 141 dự án với số vốn đăng ký là 2,68 tỷ USD (chiếm 68% ). Chính hình thức liên doanh là một trong những hình thức được các nhà đầu tư Nhật Bản ưa chuộng nhất vì một số nguyên nhân như hạn chế bớt rủi ro, tranh thủ được sự hỗ trợ của đối tác Việt Nam khi mà thị trường còn chưa quen biết. Chính hình thức liên doanh làm cho các nhà đầu tư Nhật Bản dễ dàng hơn trong việc mở rộng đầu tư sang các ngành khác. Về phía đối tác Việt Nam, khi tham gia liên doanh có tới 98% là các doanh nghiệp nhà nước còn 2% là doanh nghiệp ngoài quốc doanh đây chính là điều đặc biệt so với các nước khác. Chính vì lẽ đó mà cơ quan Nhà nước đã can thiệp quá sâu vào quá trình tổ chức sản xuất kinh doanh của các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, điều này gây trở ngại không ít đến các hoạt động đầu tư. Chính vì thế mà trong thời gian gần đây các nhà đầu tư Nhật Bản đang có xu hướng giảm dần đầu tư vào hình thức liên doanh và họ muốn chuyển sang hình thức 100 % vốn nước ngoài. - Hình thức 100% vốn nước ngoài Vào thời gian đầu thì các dự án đầu tư vào để thành lập các doanh nghiệp 100% vốn Nhật Bản không nhiều. Song từ năm 1996 trở lại đây thì xu hướng gia tăng vào hình thức này ngày càng mạnh mẽ. Nó được chứng minh từ 1989 đến 1990 các dự án loại này chiếm 6% đến 7% trong tổng số các dự án được cấp giấy phép, nhưng thời gian từ 1998 đến 2000 thì nó đã chiếm 18% - 22% ( theo Vietnam Economic Times Jan – 2000). Xu hướng tăng lên này là do một số nguyên nhân như: + Các nhà đầu tư Nhật Bản muốn giữ bí quyết công nghệ, bí mật kinh doanh. + Do các nhà đầu tư Nhật Bản đã hiểu được thị trường Việt Nam nên họ không cần phải liên doanh. + Những hạn chế do sự can thiệp quá sâu của cơ quan Nhà nước Việt Nam vào hoạt động kinh doanh của họ. + Các nhà đầu tư Nhật Bản muốn tự mình điều hành quản lý doanh nghiệp mà không muốn bị lệ thuộc, chi phối trong các quyết định của mình. Các dự án theo hình thức này thường là các dự án vừa và nhỏ (chiếm khoảng 60% trong tổng số dự án thuộc hạng 100% vốn của Nhật Bản ). Đối với hình thức này về trước mắt thì thấy có lợi cho phía Việt Nam, nhưng về lâu dài thì ít có lợi hơn so với các hình thức khác, lý do chính là vì chúng ta không được tham gia vào các quyết định trong sản xuất, kinh doanh dẫn đến khó quản lý. - Hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh Đây là một hình thức xuất hiện sớm ở Việt Nam, nhưng đáng tiếc cho đến nay vẫn chưa hoàn thiện được các qui định pháp lý, vì thế nên nó ít được các nhà đầu tư quan tâm. Tuy nhiên nếu xét kỹ hình thức này thì ta thấy có nhiều ưu điểm đối với cả bên đi đầu tư và bên tiếp nhận đầu tư vì hình thức này có sự phối hợp sản xuất các sản phẩm kỹ thuật cao đòi hỏi phải có sự kết hợp của nhiều công ty ở nhiều quốc gia khác nhau. ở Việt Nam, tính đến năm 1999 đã có 336 triệu USD đầu tư theo hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh, trong số đó thì các dự án thăm dò khai thác dầu khí chiếm tối đa. Mặc dù loại hình này chỉ chiếm khoảng 9 % trong tổng số vốn đầu tư vào các dự án nhưng hình thức này được coi như một xu hướng tương lai gần, xu hướng của phân công lao động, chuyên môn hoá sản xuất trên phạm vi quốc tế. ii- Đánh giá tình hình thu hút và sử dụng FID của Nhật Bản vào Việt Nam. 1. Những thành công Từ khi ban hành luật đầu tư nước ngoài tới nay thì các công ty lớn có tên tuổi ở Nhật đã đầu tư vào Việt Nam và cho đến nay vẫn làm ăn rất có hiệu quả như: Honda, Sanyo, Mitsubishi...và tính đến hết tháng 12/1999 thì đã có hơn 100 doanh nghiệp có vốn đầu tư Nhật Bản đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh với tổng doanh thu trên 700 triệu USD và thu hút hơn 2 vạn lao động, đạt giá trị xuất khẩu hơn 60% Ta có thể đơn cử ra một vài ví dụ về các dự án khá thành công ở thị trường Việt Nam: Đầu tiên là công ty máy tính Fujitsu Việt Nam (FCV) thành lập năm 1995 có vốn đầu tư ban đầu là 78 triệu USD.Sau hai năm hoạt động số vốn này đã tăng lên 198 triệu USD. Việc tăng vốn lên chứng tỏ các nhà đầu tư khá tin tưởng vào thị trường và các chính sách của Việt Nam và quyết tâm làm ăn lâu dài với chúng ta. FCV được tập đoàn Fujitsu đầu tư 100% vốn. Fujitsu là tập đoàn lớn thứ 2 thế giới về máy tính, có 25 chi nhánh, 450 công ty,và hơn 160 nghìn nhân viên ở nhiều nước,doanh thu mỗi năm vài chục tỷ USD. FCV luôn coi chất lượng sản phẩm và uy tín là điều tối quan trọng. Bởi thế, họ đã đầu tư các dây chuyền sản xuất hiện đại như dây chuyền hàn gắn không lửa, đó là công nghệ tiên tiến nhất hiện nay và tất cả các dây chuyền hàn đều được trang bị máy dò trở kháng, máy thử chức năng tự động đi kèm. Thứ hai là công ty Rorze Robotech 100% vốn Nhật Bản cũng là một trong những địa chỉ đầu tư được phía Việt Nam đánh giá cao và mới đây bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường thay mặt Chính phủ Việt Nam cấp giấy phép chứng nhận là “ Doanh nghiệp công nghệ kỹ thuật cao’’ và đang là doanh nghiệp chuyên sản xuất các loại rôbôt dùng trong lĩnh vực điện tử bán dẫn để lắp ráp các thiết bị tinh vi mà bàn tay con người không thể với tới được. Theo ông Nakamura, giám đốc công ty, cho biết toàn bộ những chi tiết bằng kim loại của rôbôt đều được các công nhân Việt Nam sản xuất và sau đó xuất khẩu 100% sang các nước phát triển như: Hoa Kỳ Singapore, Đài Loan...và tất cả sản phẩm của công ty đều đạt kỹ thuật hoàn hảo. Thứ ba là lĩnh vực sản xuất phân bón. Đây là lĩnh vực rất cần thiết đối với chúng ta. Nhận thức được điều này, các hãng Nisho Iwai, Central Class đã xúc tiến đầu tư hợp tác với công ty phân bón miền Nam cho ra đời liên doanh “ Công ty phân bón Việt – Nhật ”, đây được đánh giá là nhà máy phân bón PNK hiện đại nhất ở Việt Nam với công suất là 35000 tấn /năm được đặt tại huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai,có tổng số vốn là 40 triệu USD.Theo như các chuyên gia trong ngành thì với sự ra đời của nhà máy này thì Việt Nam sẽ không phải nhập khẩu loại phân bón NPK nữa kể từ năm 1999 Biểu 5: Kết quả thực hiện các dự án FDI của Nhật Bản tại Việt Nam trong thời kỳ 1989 – 2000 (nguồn: Project Management Department Ministry of Planning and Investment ) Năm Số dự án Doanh thu ( triệu ) Xuất khẩu (triệu ) Lao động 01/01/89-31/12/89 1 28,108805 0 102 01/01/90-31/12/90 4 17,794303 16,378602 684 01/01/91-/31/12/91 5 41,059046 0,373576 245 01/01/92- 31/12/92 9 230,259273 12,444515 623 01/01/93-31/12/93 15 123,525236 52,717719 25 01/01/94-31/12/94 30 421,358312 76,974882 193 01/01/95-31/12/95 62 1344,870710 1029,174574 23 01/01/96-31/12/96 66 371,323861 60,434258 20 01/01/97-31/12/97 57 37,364251 8,290108 170 01/01/98-31/12/98 20 1,296491 0,220166 25 01/01/99-31/12/99 13 0 0 0 01/01/00-01/06/00 11 0 0 0 Thứ tư: Công ty Ajinomoto Việt Nam Co.Ltd là liên doanh giữa công ty công nghiệp thực phẩm với hai công ty của Nhật Bản là Ajinomoto Co. Ltd và Broderwek Co.Ltd.Liên doanh có tổng số vốn đầu tư là 40,94 triệu USD, trong đó phía Việt Nam đóng góp 10,84 triệu USD năm 1996 và 12,26 triệu USD 1997. Thành công này có được một phần là do đội ngũ quản lý có trình độ. Vì vậy mà liên doanh đã được uỷ ban nhân dân tỉnh đồng nai xếp hàng đầu trong số 180 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở địa bàn tỉnh về các mặt như: thực hiện đúng quy định về lao động, đóng góp cho ngân sách quốc gia... và liên doanh cũng được huy chương vàng của liên minh châu Âu cho sản phẩm Ajinomoto sản xuất tại Việt Nam. Thứ năm là về ngành công nghệ chế biến thực phẩm chúng ta có công ty Vifon Acecook Co.Ltd (VAC). Đây là công ty liên doanh đầu tiên giữa Việt Nam và Nhật Bản trong lĩnh vực chế biến thực phẩm. Việt Nam góp 40 % vốn, phía Nhật gồm 3 đối tác là Acecook Co. Ltd; Marubem Corp ; và Japan International Development Organization Ltd góp 60%. Liên doanh này chính thức đi vào hoạt động từ tháng 6/1995 và hiện tại thị trường tiêu thụ là thị trường trong nước. Năm 1997 công ty đã tiêu thụ 46 triệu gói phở ăn liền, mì ăn liền, bột gia vị đạt doanh thu 59 tỷ đồng và trong 5 tháng đầu năm 1998 đã tiêu thụ 30 triệu gói sản phẩm. Hiện tại VAC có một dây chuyền sản xuất 2 ca/ngày với 200 công nhân thu nhập bình quân 1 triệu đồng /tháng. Bắt đầu từ năm 1998 VAC sản xuất 3 ca/ngày và đến lúc đó mỗi năm nó sẽ đạt 150-200 triệu gói sản phẩm. Trên đây chỉ là 5 trong tổng số 177 dự án đã đi vào hoạt động của Nhật, và đó là những dự án hoạt động khá thành công và được nhiều tổ chức biết đến, ngoài ra còn có rất nhiều dự á nữa làm ăn rất có hiệu quả nhưng do khuôn khổ bài viết có hạn nên không thể kiệt kê hết được. Xét về tổng quát, theo thông tấn xã Việt Nam 27/01/2001 thì Nhật Bản hiện có 318 dự án đã đăng ký, trong đó có 177 dự án với tổng số vốn đăng ký là 3,85 tỷ USD và số vốn thực hiện là 2,4 tỷ USD, đã đem lại cho Việt Nam rất nhiều lợi ích và họ là những nhà đầu tư lớn thứ ba sau Đài Loan và Singapore. Các dự án của Nhật đã đem lại doanh thu hàng năm khoảng 1932 triệu USD trong đó xuất khẩu đạt hoảng 950 triệu USD và như vậy hiệu suất doanh thu trên vốn thực hiện của Nhật cao hơn nhiều so với mức chung của toàn khối đầu tư nước ngoài. Trong số các dự án của Nhật Bản có tới 42% là các dự án theo hình thức 100 % ( tính đến 27/012000- Thông tấn xã Việt Nam). Mặc dù vốn thực hiện đạt khoảng 400 triệu USD nhưng doanh thu đạt 56 triệu USD chứng tỏ hình thức đầu tư 100% vốn nước ngoài đạt hiệu quả khá cao. Nhóm các dự án liên doanh chiếm khoảng 52% số dự án và 621 tổng số vốn đầu tư với tổng số vốn thực hiện là 1400 triệu USD và doanh thu khoảng 1100 triệu USD, như vậy hiệu suất doanh thu trên vốn thực hiện cũng khá lớn. Ngoài ra còn phải kể đến nhóm các dự án hợp doanh theo hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh. Nhóm các dự án này đã đóng góp vào nền kinh tế rất nhiều thành tựu. Số dự án của Nhật Bản bị giải thể rất ít, cho tới nay mới có 24 dự án bị giải thể với tổng số vốn đầu rư gần 170 triệu USD chiếm 8% về số dự án trên, và 4% tổng số vốn đầu tư của Nhật tại Việt Nam. 2. Những hạn chế và nguyên nhân Tuy đánh giá cao về tiềm năng của Việt Nam nhưng Nhật Bản vẫn chưa thực sự tích cực triển khai FDI.Như đã phân tích ở biểu 1 thì ta thấy số vốn đăng ký so với số vốn thực hiện còn thấp. Mặc dù từ 1996-1998 cả số dự án lẫn số vốn đăng ký đều tăng nhưng tỷ lệ giữa vốn đăng ký và vốn thực hiện vẫn chỉ ở con số thấp ( khoảng 30 % ) và tính đến hết ngày 27/1/2001, theo thông tấn xã Việt Nam, cho dù Nhật dã dăng ký 299 dự án với số vốn là 3,85 tỷ USD nhưng chỉ có 177 dự án đi vào sản xuất kinh doanh với số vốn là 2,4 tỷ USD và nếu chia ra thì số dự án thực hiện chỉ chiếm khoảng 50% và số vốn thực hiện so với số vốn đăng ký chỉ bằng 60%,vậy còn lại các dự án đã đăng ký là khoảng 122 dự án với số vốn là 1,45 tỷ USD thì liệu có thể đi tới giai đoạn triển khai và đi vào sản xuất, kinh doanh được không ? Đây là câu hỏi đặt ra cho các nhà lãnh đạo, các nhà quản lý của chunngs ta.Bên cạnh các dự án chưa triển khai, thì đối với các dự án đã đi vào hoạt động vẫn càn tồn tại nhiều bất cập như việc nghiên cứu không kỹ về môi trường văn hoá giữa Việt Nanm và Nhật Bản đã dẫn tới những xung đột về văn hoá dẫn đến tình trạng quản lý người Nhật đánh công nhân Việt Nam, hay việc không tìm hiểu kỹ nhu cầu thị trường trong quá trình hoạt động cũng khiến nhiều doanh nghiệp gặp phải không ít khó khăn khi bám trụ lại như: Công ty ôtô Mekong, đầu tư rất lớn vào cả hai miền Nam –Bắc nhưng cho đến nay vẫn chưa tìm riêng được thị phần cho mình trên thị trường; hay như nhà máy xi măng Nghi Sơn – Thanh Hoá quy mô đầu tư khá nhưng do nghiên cứu khu vực địa lý không kỹ đã dẫn nhà máy đến bờ vực phá sản. Điều này không những làm ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của cả hai bên mà còn làm ảnh hưởng đến uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế. Cái đáng nói nữa là khi các liên doanh đi vào hoạt động thì thị phần của chúng ta thấp, lượng vốn dự trữ lại không có nên các nhà đầu tư Nhật Bản thường lấn át chúng ta trong các quyết định và chúng ta thường bị rơi vào những mưu mô kinh doanh của họ và do ít vốn nen chúng ta dễ bị họ thâu tóm toàn quyền để trở thành doanh nghiệp 100% vốn hay là làm lợi cho hộ và gây thiệt hại cho ta. Vậy những tồn tại ở trên xuất phát từ những nguyên nhân nào ? và đâu là nguyên nhân chính dẫn tới những tồn tại đó ? Để trả lời được câu hỏi đó thì chúng ta phải đi vào xem xét từng khía cạnh, từng vấn đề. 3. Nguyên nhân dẫn đến những tồn tồn tại trên Thứ nhất: Xuất phát từ môi trương pháp lý Môi trường pháp lý của Việt Nam chưa ổn định,luật lệ và chính sách hay thay đổi,nên các nhà đầu tư khó đặt kế hoạch lâu dài.Điều này làm cho các nhà đầu tư không muốn đầu tư và có khuynh hướng đợi cho tới khi cho tơi khi khi họ thấy nó ổn đinh.Ngoài ra còn có nhiều trường hơp các phương châm,chính sách đúng đắn nhưng không được quán triệt một cách triệt để. Ví dụ: trường hợp của công ty TOSHIBA,công ty này đánh giá cao tiềm năng của việt nam nên đã quyết định chuyển cơ sở sang Viêt Nam từ SINGAPORE,chọn Việt Nam làm cơ sở sản xuất và xuất khẩu quan trọng tại châu á,chính sách của Việt Nam cũng khuyến khích sản xuất để xuất khẩu và cũng có quy định về việc miễn giảm thuế nhập khẩu linh kiện,bộ phận dùng cho sản xuất để xuất khẩu. Tuy nhiên công ty này gặp rất nhiều khó khăn trong việc nhập khẩu linh kiện, bộ phận do sự hạch sách của các cán bộ hải quan và sự quán triệt chính sách này chưa triệt để nên vì thế mà nó phải thu hẹp quy mô sản xuất. Đây là một công ty lớn có tầm cỡ quốc tế vì thế mà uy tín về môi trường đầu tư ở Việt Nam bị ảnh hưởng không tốt. Thứ hai: Về chi phí dịch vụ phục vụ cho quá trình sản xuất. Tuy Việt Nam là nước có nguồn lao động dồi dào, tiền lương của lao động Việt Nam tương đối thấp hơn các nước ASEAN khác, nhưng ngoài tiền lương phí tổn cho tất cả các mặt khác ở Việt Nam đắt hơn nhiều so với các nước khác trong khu vực như: thuế đất để lập văn phòng, cước phí điện thoại quốc tế, giá cả sinh hoạt của người nước ngoài tại Việt Nam quá cao, thuế thu nhập của các nhà kinh doanh nước ngoài... đó là những yếu tố gây cản trở cho quá trình thu hút và triển khai dự án của các nhà đầu tư Nhật Bản. Thứ ba: Về cơ sở hạ tầng công nghiệp và xã hội càn nhiều hạn chế. Các nhà kinh doanh Nhật Bản đều có nhận xét rằng cơ sở hạ tầng ở Việt Nam còn nhiều yếu kém.Theo ngài Yujimura _trưởng văn phòng đại diền của Jettro ( tổ chức ngoại thương của Nhật Bản ) tại Hà Nội _ các nhà đầu tư Nhật Bản vẫn còn do dự vấp phải không chỉ về thủ tục hành chính mà còn nhiều phiền hà và sự mơ hồ về luật phap Việt Nam, thêm nữa là cơ sở hạ tầng như đường xá, cầu cống, cảng, đường sắt,sân bay còn nhiều yếu kém gây khó khăn cho quá trình vận chuyển nguyên vật liệu đầu vào các sản phẩm làm ra của các doanh nghiệp Nhật Bản. Thứ tư: Về mặt quản lý của các cơ quan chức năng Hệ thống quản lý cá hoạt động kinh tế đối ngoại càn có sự chồng chéo, thiếu tập trung phân tán và hiệu quả kinh tế chưa cao. Trong một cuộc điều tra do các nhà tổ chức uỷ ban kinh tế Nhật-Việt và Keidanren thực hiện, các nhà kinh doanh Nhật Bản đã yều cầu phải cải thiện một loạt các lĩnh vực bao gồm: - Tiếp tục cải thiện những điều kiện trong các lĩnh vực thương mại và đầu tư chủ yếu như cơ sở hạ tầng, hệ thống luật pháp, thủ tục hành chính và các bảng biểu thống kê. - Phát triển và ổn định nguồn cung cấp điện nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng phát triển trong tương lai, xoá bỏ hệ thống hai giá do Nhà nước thực hiện. - Mở rộng các cảng biển, sân bay giảm mức lệ phí của các cửa hàng, tăng hiệu quả và đẩy nhanh tốc độ giải phóng tàu nhập cảng. - Giảm cước phí điện thoại quốc tế, một mặt phát triển thêm các đường cáp quốc tế ngầm dưới biển có chi phí thấp hơn nhiều so với sử dụng các kênh qua vệ tinh. - Điêù chỉnh các luật lệ về tỷ giá hôí đoái, hải quan thuế quan và sửa đổi các bộ luật về thương mại gồm có luật công ty;luật dân sự; luật về sở hữu trí tuệ... - Thực hiện thống nhất một cơ quan cấp giấy phép đầu tư như hội đồng đầu tư ( BOI) của Thái Lan, hoặc Mida ở Malaixia, xoá bỏ chế độ duyệt trước không chính thức qua nhiều cơ quan chính phủ. Thứ năm:Về phía đối tác của Việt Nam trong các liên doanh. Do chúng ta liên doanh chủ yếu là các doanh nghiệp Nhà nước nên phần lớn tác phong làm việc của đối tác Việt Nam chưa phù hợp với phong cách một nhà doanh nghiệp, trách nhiệm đối với công việc chưa cao, gây trở ngại tới hoạt động kinh doanh. Mặt khác, quyền hạn của phía đối tác Việt Nam chỉ tập trung vào một số người mà những người này đôi lúc cũng rất bận nên không thể dành hết thời gian và tâm huyết cho hoạt động của liên doanh. Thứ sáu: tính chất toàn cầu hoá trong đầu tư trực tiếp của Nhật Bản là rất cao vì vậy mà yêu cầu của các nhà đầu tư Nhật Bản cũng cao hơn mà Việt Nam lại chưa đáp ứng được điều này. Khác với các nhà đầu tư ở châu á khác như Hàn Quốc, Hồng Kông, Đài Loan, Singapore..., Nhật Bản là một nước có tiềm lực kinh tế đầu tư khắp thế giới. Theo số liệu công bố của ban thư ký ASEAN về phâm bố đâu tư trực tiếp của Nhật ra nước ngoài năm 1990-1998 là 49108,5 tỷ yên, trong đó vào các nước ASEAN chỉ có 11% ( 5217,7tỷ yên ) và lượng vốn đầu tư vào Việt Nam chỉ chiếm 3 % trong tổng số vốn đầu tư vào ASEAN; trong khi đó lượng vốn đầu tư của Nhật vào Indonexia là 32%; Thái Lan là 23 %;Singapore là 20 %; Malaixia là 15%; Philippin là 8 %. Qua số liệu trên có thể thấy so với các nước ASEAN thì Việt Nam còn thua kém xa các nước trong khu vực trong việc thu hút đầu tư, Việt Nam đứng gần cuối bảng chỉ trên Campuchia và Myanma, còn Lào và Brunei chưa công bố. Đây chính là vấn đề đặt ra cho các nhà lãnh đạo Việt Nam. Chương 3: Một số giải pháp nhằm thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn FDI Nhận thức được những yếu kém còn tồn tại và nhằm hạn chế và khắc phục những tồn tại đó, chúng ta cần phải phân tích tìm ra các nguyên nhân thì mới có thể đưa ra được những giải pháp có hiệu quả tối ưu. 1. Điều đầu tiên chúng ta phải làm là nhận thức đúng đắn vai trò và định hướng rõ ràng về vấn đề thu hút FDI của Nhật Bản. Trong bối cảnh thế giới hiện nay và quan hệ của Việt Nam với các nước lớn thì FDI của Nhật Bản vẫn đóng vai trò đặc biệt quan trọng đối với các nước ASEAN nói chung và đối với Việt Nam nói riêng. Hiện nay quan hệ hợp tác kinh tế giữa Việt Nam và Nhật Bản đang không ngừng phát triển, Nhật Bản đánh giá cao vai trò của Việt Nam trong khu vực châu á Thái Bình Dương và ủng hộ Việt Nam gia nhập WTO. Nhật Bản là bạn hàng thương mại lớn nhất của Việt Nam và là nước cấp ODA nhiều nhất cho Việt Nam đồng thời là nước đứng thứ 3 về FDI tại Việt Nam. Do vậy khả năng đầu tư của Nhật vào Việt Nam sẽ có triển vọng lớn hơn trong thời gian tới. Tuy nhiên nếu xét về tỷ trọng của Việt Nam so với các nước ASEAN mà Nhật đầu tư thì lượng vốn mà Nhật đầu tư vào Việt Nam chỉ chiếm một con số rất khiêm tốn _ 3 % ( 5217,7 tỷ yên), trong khi đó Thái Lan là 23 % Indonexia là 32 %. Vì vậy, để tăng cường hơn nữa việc thu hút FDI của Nhật Bản thì Việt Nam cần phải cải thiện môi trường đầu tư mà trước tiên là phải học hỏi kinh nghiệm của các nước ASEAN cả những thành công và thất bại từ đó rút ra những phương pháp phù hợp với mình. 2. Về môi trường đầu tư Môi trường đầu tư của Việt Nam, theo các nhà đầu tư Nhật Bản, thì vẫn còn nhiều vấn đề cần phải điều chỉnh và sửa đổi. Thứ nhất: Về môi trường pháp lý. Môi trường pháp lý vừa phải thông thoáng vưa phải hạn chế kẽ hở để các nhà đầu tư Nhật Bản không lợi dụng làm trái và luôn phải có một chế độ luật pháp ổn định, tránh sửa đi, sửa lại nhiều lần và không được có sự chồng chéo giữa các văn bản pháp lý Cải cách thủ tục hành chính, tránh phải qua nhiều cửa, nhiều thủ tục phức tạp ( đối với các dự án đơn giản không đòi hỏi quá chặt chẽ). Tránh can thiệp quá sâu vào công việc của các doanh nghiệp liên doanh để tránh đi sự nhũng nhiễu cố tình gây khó khăn cản trở. Các biện pháp quản lý sau giấy phép sẽ được thực hiện theo hướng giúp đỡ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phát triển theo hướng lành mạnh. Thứ hai: Về hệ thống cơ sở hạ tầng.Chúng ta cần phải xác định những khu kinh tế, những vùng kinh tế trọng điểm để từ đó đầu tư xây dựng một hệ thống công trình giao thông, thông tin liên lạc, điện nước thật sự thuận tiện cho các nhà đầu tư khi họ muốn vào khu vực đó để đầu tư. Hiện nay, hệ thống giao thông vận tải và thông tin liên lạc của chúng ta quá xuống cấp, chi phí thì quá cao gây cản trở cho các nhà đầu tư của Nhật nói riêng và các nhà đầu tư nước ngoài nói chung. Thứ ba: về đào tạo cán bộ quản lý và đội ngũ công nhân lành nghề phục vụ cho quản lý và sản xuất kinh doanh. Bởi vì một trong những nguyên nhân dẫn đến việc sử dụng không hiệu quả nguồn vốn đầu tư của Nhật là chúng ta chưa có đủ một đội ngũ cán bộ quản lý giir và lực lượng công nhân lành nghề để đáp ứng nhu cầu. Muốn làm được điều này chúng ta cần phải: - Đối với cán bộ quản lý Hàng năm chúng ta nên mở các lớp học về phương pháp thẩm định và quản lý dự án dành cho các cán bộ phụ trách đầu tư chuyên nghiệp và các giáo viên đại học đang giảng dạy về đầu tư. Các cán bộ phụ trách đầu tư chuyên nghiệp cần phải học để khỏi bị thua kém khi làm việc với người nước ngoài, tránh tổn thất về lợi ích cho phía Việt Nam. Mạnh dạn tổ chức đưa các cán bộ chủ chốt đi đào tạo ở nước ngoài và đề nghị các đơn vị có vốn đầu tư nước ngoài hỗ trợ kinh phí cho quỹ đào tạo này. - Đối với lực lượng công nhân Tăng cường khâu giáo dục hướng nghiệp trong nhà trường phổ thông, hoàn thiện hệ thống trường dạy nghề, trường công nhân kỹ thuật trong cả nước. Chúng ta mở trường đào tạo công nhân kỹ thuật có chất lượng quốc tế bằng cách khuyến khích đầu tư nưóc ngoài vào lĩnh vực này. Thứ tư: Về đối tác tham gia liên doanh. Để tạo điều kiện phát huy tính năng động vav làm ăn có hiệu quả của các doanh nghiệp liên doanh, thì Việt Nam chúng ta nên cho phép và khuyến khích các nhà đầu tư của khu vực tư nhân, có như vậy ta mới khai thác được tính năng động và tinh thần trách nhiệm cao của họ trong công việc. Nên hạn chế các doanh nghiệp Nhà nước tham gia vào liên doanh vì có thể khi tham gia vào liên doanh thì tính cá nhân của các cán bộ phía Việt Nam có thể gây ảnh hưởng đến hiệu quả của hoạt động liên doanh. Thứ năm: Một tồn tại nữa khiến cho các nhà đầu tư nước ngoài còn hạn chế đó là chúng ta chưa có những cơ quan tư vấn và cung cấp thông tin chuẩn xác. Vì vậy chúng ta phải thành lập một hệ thống các công ty tư vấn đầu tư với những thông tin cung cấp thật chuẩn xác để cho các nhà đầu tư nước ngoài dễ dàng thu thập và xử lý. Thứ sáu: Do tính toàn cầu hoá của người Nhật rất cao, vì vậy mà để đáp ứng được vấn đề này thì chúng ta cần phải mở rộng giao lưu học hỏi kinh nghiệm của các nước bạn, từ đó có được hệ thống các chính sách pháp lý phù hợp với cơ chế và chính sách của các nước khác. Thứ bảy: Đó là để tăng cường khả năng sử dụng nguồn vốn của Nhật thì chúng ta phải gia tăng tỷ lệ góp vốn của phía Việt Nam trong các liên doanh, có như thế chúng ta mới không bị lấn át. Muốn làm được điều này thì luật đầu tư nước ngoài nên bỏ quy định mức vốn góp tối thiểu mà thay vào đó phải là quy định mức vốn góp tối đa đối với các nhà đầu tư nước ngoài ( trừ các dự án quan trọng có mức vốn quá lớn ). Trong trường hợp các bên tham gia chọn hình thức liên doanh mà bên Việt Nam thiếu vốn góp thì doanh nghiệp Việt Nam có thể phát triển vốn, tăng cường thực lực tài chính bằng các giải pháp như cổ phần hoá nếu đó là các doanh nghiệp Nhà nước hay các công ty trách nhiệm hữu hạn. Thứ nữa là cho phép các doanh nghiệp phát hành các trái phiếu trung và ngắn hạn hoặc vay vốn ở các ngân hàng thương mại, ngân hàng đầu tư phát triển. Thứ tám: Đó là về chính sách ưu đãi, nhất là chính sách về thuế và một số các ưu đãi khác như vay vốn... Cần tạo sự bình đẳng về thuế giữa đầu tư nước ngoài và đâu tư trong nước. Khác với luật thuế doanh thu trước đây, hiện nay các nhà đầu tư nước ngoài sản xuất kinh doanh theo ngành nghề khác nhau tại Việt Nam chỉ phải nộp thuế giá trị gia tăng với thuế suất như các doanh nghiệp Việt Nam. Riêng các nhà đầu tư nhập khẩu máy móc, phương tiện vận chuyên dụng trong nước, cần tiến hành soạn thảo danh mục các máy móc mà trong nước đã sản xuất được để từ đó có cơ sở cho các cơ quan ra quyết định về thuế. Sửa đổi lại thuế xuất nhập khẩu của Việt Nam, đặc biệt là những quy định về đối xử tối huệ quốc ba loại thuế suất: thuế suất ưu đãi, thuế suất thông thường, và thuế suất ưu đãi đặc biệt. Dự thảo các danh mục không khuyến khích đầu tư, các danh mục hạn chế đầu tư theo quy hoạch từng giai đoạn cù thể. Mở rộng ưu tiên ngoại tệ cho doanh nghiệp đầu tư nước ngoài đẻ giúp doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài giả quyết khó khăn trong giai đoạn đầu đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Ngân hàng Nhà nước xem xét để các doanh nghiệp mua ngoại tệ theo một thứ tự ưu tiên. Kết luận Đánh giá những thành công trong mối quan hệ kinh tế Việt- Nhật và xu hướng trong tương lai chúng ta có thể nói rằng hiện nay Việt Nam đang bước vào giai đoạn mới – công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước- đòi hỏi phải có một lượng vốn đầu tư lớn. Việt Nam dự kiến sẽ thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài khoảng 20 tỷ USD, trong đó Nhật Bản là một trong những nước chúng ta hy vọng có lượng vốn đầu tư lớn nhất. Tuy nhiên bất cứ ai trong chúng ta cũng có thể nhận thấy rằng ảnh hưởng của FDI vào từng nước là khác nhau, kể cả những mặt tích cực và những mặt tiêu cực. Nước ta hiện nay, qua một thời gian thực hiện luật đầu tư nước ngoài bên cạnh những thành tựu đạt được đáng khích lệ vẫn còn những vấn đề nảy sinh gây vướng mắc cho việc thu hút FDI của nước ngoài vào Việt Nam. FDI tạo ra sự thay đổi trong cơ cấu ngành nghề và phân chia các khu vực lãnh thổ một cách cơ bản theo hướng phát triển công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Những nơi được đầu tư thì kinh tế phát triển nhanh hơn, nhưng bên cạnh những mặt tích cực đó vẫn song song tồn tại những mặt trái của FDI. Mong muốn của cá nhân người viết bài này là chỉ ra được những tồn tại và từ đó có một vài giải pháp để đóng góp vào qúa trình thu hút FDI của Nhật Bản nói riêng và của nước ngoài nói chung có hiệu quả hơn. Góp phần vào công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Bài viết này được hoàn thành nhờ sự giúp đỡ và hướng dấn tận tình của cô giáo Nguyễn Thanh Hà - giảng viên khoa Kinh tế và Kinh doanh quốc tế. Tuy nhiên, do không có điều kiện để nghiên cứu sâu hơn nên bài viết chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót. Tác giả rất mong nhận được những nhận xét, những ý kiến đóng góp từ phía cô giáo và bạn đọc để những bài viết sau được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn ! Danh mục tài liệu tham khảo T ạp chí nghiên cứu kinh tế số 3/ 2001: Các giải pháp của Việt Nam đối với thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài từ Nhật Bản. Tạp chí Nghiên cứu kinh tế số 3/2000:Quan hệ Việt Nam – Nhật Bản trong thời kỳ mới Tạp chí nghiên cứu kinh tế số 4/2001: Quan hệ Việt Nam – Nhật Bản trong thập kỷ 90. Thời báo Kinh Tế Sài Gòn số 18 /2001: Môi trường kinh doanh tại Việt Nam qua điều tra của Jet Ro. Nghiên cứu Nhật Bản số 4 /2001: Vai trò của Nhật Bản trong phát triển kinh tế ASEAN. Tạp chí kinh tế và dự báo số 6/ 2001: Tiềm lực thu hút FDI nước ngoài vào Việt Nam. Kinh tế quốc tế _ Trường Đại học KTQD (xuất bản 1999) Một cái nhìn về cải cách kinh tế Việt Nam – Hishi Naktomi ( NXB Khoa học Xã hội, trung tâm kinh tế châu á - Thái Bình Dương – Hà Nội 1998). Đầu tư nước ngoài của Nhật Bản và sự phụ thuộc kinh tế lẫn nhau ở châu á - Shojiro Tokugana ( NXB Khoa học Xã hội, trung tâm kinh tế châu á Thái Bình Dương- Hà Nội 1996) Một vài tài liệu lấy từ các nguồn như: Thông tấn xã Việt Nam, Bộ Kế hoạch và Đầu tư... Mục lục Trang

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docC0239.doc
Tài liệu liên quan