Đề tài Thực trạng đào tạo và sử dụng lao động kỹ thuật của VN trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế

Số lượng lao động mới phản ánh được một mặt sự đóng góp của lao động vào phát triển kinh tế. Mặt khác cần được xem xét đến chất lượng lao động, đó là yếu tố làm cho lao động có năng suất cao hơn. Chất lượng lao động có thể được nâng cao nhờ giáo dục, đào tạo, nhờ sức khoẻ của người lao động, nhờ việc bố trí điều kiện lao động tốt hơn. Giáo dục được coi là một dạng quan trọng nhất của sự phát triển tiềm năng của con người theo nhiều nghĩa khác nhau. Yêu cầu chung đối với giáo dục là rất lớn, nhất là đối với giáo dục phổ thông,con người ở mọi nơi đều tin rằng giáo dục rất có ích cho bản thân mình và con cháu họ. Bằng trực giác, mọi người có thể nhận thấy mối quan hệ giữa giáo dục và mức thu nhập. Mặc dù không phải tất cả những người, ví dụ như đã tốt nghiệp hết cấp III có thu nhập cao hơn những người mới chỉ tốt nghiệp cấp I, nhưng đa số là như vậy, và mức thu nhập của họ đều cao hơn nhiều.Nhưng để đạt được trình độ nhất định cần phải chi phí khá nhiều, kể cả chi phí của gia đình và quốc gia. Đó chính là khoản chi phí đầu tư cho con người. ở các nước đang phát triển giáo dục được được thể hiện dưới nhiều hình thức nhằm không ngừng nâng cao trình độ văn hoá và chuyên môn cho mọi người.

doc38 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1045 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng đào tạo và sử dụng lao động kỹ thuật của VN trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
học, theo vùng và nơi cư trú Cấp đang học Tiểu học Phổ thông cơ sở Phổ thông trung học Tổng số 42,1 37,4 20,5 - Thành thị 40,2 35,7 24,1 - Nông thôn 42,6 37,9 19,5 Đồng bằng sông Hồng 37,8 38,1 24,2 Đông Bắc 40,8 37,1 22,1 Tây Bắc 45,9 37,9 16,2 Bắc Trung bộ 37,4 39,8 22,8 Duyên hải Nam Trung bộ 41,7 38,9 19,4 Tây Nguyên 48,1 35,0 16,8 Đông Nam bộ 43,9 36,0 20,1 Đồng bằng sông Cửu Long 47,5 35,9 16,6 3. Vai trò của lao động kĩ thuật trong tăng trưởng và phát triển kinh tế. a.Vai trò hai mặt của lao động trong quá trình phát triển kinh tế Lao động, một mặt là một bộ phận của nguồn lực phát triển, đó là yếu tố đầu vào không thể thiếu được của quá trình sản suất. Mặt khác lao động là một bộ phận của dân số, những người được hưởng lợi ích của sự phát triển. Sự phát triển kinh tế suy cho đến cùng đó là tăng trưởng kinh tế để nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho con người. b. Lao động với tăng trưởng kinh tế. Vai trò của lao động với tăng trưởng kinh tế được xem xét qua các chỉ tiêu về số lượng lao động, trình độ chuyên môn, sức khoẻ người lao động và sự kết hợp giữa lao động và các yếu tố đầu vào khác. Các chỉ tiêu này được thể hiện tập trung qua mức tiền công của người lao động. Khi tiền công của người lao động tăng có nghĩa chi phí sản suất tăng, phản ánh khả năng sản suất tăng lên. Đồng thời khi mức tiền công tăng làm cho thu nhập có thể sử dụng của người lao động cũng tăng, do đó khả năng chi tiêu của người tiêu dùng tăng. ở các nước đang phát triển, mức tiền công của người lao động nói chung là thấp, do đó ở những nước này lao động chưa phải là động lực mạnh cho sự phát triển. Để nâng cao vai trò của người lao động trong phát triển kinh tế cần thiết có các chính sách nhằm giảm bớt lượng cung lao động, đồng thời tạo ra các nguồn lực khác một cách đồng bộ. Chương2:thực trạng đào tạo và sử dụng lao động kỹ thuật của việt nam hiện nay. 1. Khái quát về tình hình phát triển chung của lực lượng lao động: ở VN có 25% lao động qua đào tạo.Năm 2005, lực lượng lao động có việc làm là 43,46 triệu người, chiếm 97,9% lực lượng lao động cả nước.Tỉ lệ tăng trưởng việc làm 2,67%; cơ cấu việc làm tiếp tục chuyển dịch tích cực: Lao động trong khu vực dịch vụ chiếm 25,33%; công nghiệp và xây dựng chiếm 17,88%; nông nghiệp chiếm 56,79%Lao động qua đào tạo chiếm khoảng 25%, trong đó 19% qua đào tạo nghề. a. Số lượng lao động:Việt Nam là một nước có tổng số dân số thuộc loại cao trên thế giới. Trong những năm vừa qua, chúng ta đã cố gắng giảm tốc độ tăng dân số tự nhiên và đã đạt được những thành công đáng kể. Đó là giảm được tốc độ tăng dân số từ trên 2%/năm xuống còn 1,7%/năm vào năm 1999 và 1.6% năm 2001. Tuy nhiên với tình hình dân số đông như vậy vẫn là một áp lực lớn cho toàn xã hội. Ta hãy xét bảng sau để đánh giá tình hình dân số cũng như lực lượng lao động của Việt Nam: Bảng 1: Dự báo dân số việt Nam 1/4 năm 1999-2010 Đơn vị : Nghìn người Nhóm tuổi 1999 2004 2010 0 - 9 16592,5 15780,5 15320,0 10 - 14 8853,3 8270,1 8112,5 Dân số trong tuổi lao động 44470,2 50656,3 55606,0 60-64 1704,9 1678,3 1868,1 65- 4168,0 4537,2 4752,7 Dân số cả nước 76787,1 82004,2 87218,1 Tỷ lệ % so với dân số 57,91 61,77 63,76 (Nguồn: Tổng cục thống kê) Như vậy, nhìn vào bảng trên ta có thể thấy giai đoạn 2001-2005 , hay cụ thể hơn vào năm 2004, dân số nước ta là 82004,5 nghìn người, trong đó dân số ở độ tuổi lao động là 50656,3 nghìn người, chiếm 61,77% so với dân số. Đây là một áp lực lớn cho xã hội trong việc giải quyết việc làm .Năm 2005, theo bảng trên sẽ có khoảng 8853,3 nghìn người bước vào độ tuổi lao động và đây là con số đủ khả năng cung cấp nhu cầu lao động của xã hội. Nhìn vào bảng trên ta cũng thấy dân số trong độ tuổi lao động liên tục tăng qua các năm . Cụ thể ,, năm 1999 chiếm 57,91% và năm 2004 sẽ chiếm khoảng 61,77%. Con số này cho chúng ta biết tỷ lệ tăng trưởng dân số tuy đã hạ xuống nhưng vẫn ở mức cao, áp lực công việc nặng nề, nếu không có những phương pháp giải quyết thích hợp sẽ dẫn tới tỷ lệ thất nghiệp cao. Tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động cao cũng cho chúng ta thấy một khả năng dồi dào về lao động, có đủ khả năng giải quyết mọi công việc. Trên thực tế, năm 1998, cả nước có khoảng 45,2 triệu lao động, Đây là kết quả của tốc độ tăng dân số tương đối cao và ổn định của những năm trước. Trong đó số lao động có khả năng lao động cũng tăng từ 83,7% năm 1995 lên 84,4% năm 1998. Năm 1996, lực lượng lao động nước ta là 35,9 triệu người. Tốc độ tăng bình quân 2,95%/năm.Với số lao động mới tăng thêm, 4 triệu người, số lao động thất nghiệp hoàn toàn chưa được giải quyết việc làm năm 1996 là 0,7 triệu người, năm 1997 là 1,05 triệu người; số lao động dôi ra do chuyển dịch cơ cấu kinh tế dưới tác động của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và sắp xếp lại doanh nghiệp phải tìm việc làm mới cho khoảng 3 triệu người; yêu cầu của việc nâng quỹ thời gian lao động trong nông thôn đã được sử dụng 72,11% năm 1996 lên 75% năm 2000. Trong 4 năm (1996-2000) đã có 8 triệu người cần được giải quyết việc làm. 2.1. đào tạo lao động kỹ thuật trước nhu cầu hội nhập wto. Hội nhập đồng nghĩa với rất nhiều cơ hội nhưng thực tế cũng cho thấy, cơ hội chỉ đến khi chúng ta đáp ứng được các yêu cầu của hội nhập và phát triển. Trong nhiều hội thảo về thực trạng và giải pháp phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam thời gian qua, các chuyên gia kinh tế đều quan ngại tình trạng "vừa yếu vừa thiếu" của lực lượng lao động kỹ thuật trẻ - nhân tố trực tiếp tham gia vào tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Sau khi gia nhập WTO, lợi thế nhân công giá rẻ sẽ không còn hấp dẫn đối với các doanh nghiệp, thay vào đó là sự đòi hỏi một nguồn lực nhân công có trình độ kỹ thuật và tay nghề cao.  Hội nhập kinh tế quốc tế và vấn đề đào tạo lực lượng lao động kĩ thuật trẻ ở Việt Nam hiện nay.Thực hiện chủ trương đa phương hoá các quan hệ kinh tế đối ngoại, đến nay nước ta đã có quan hệ thương mại với 221 nước và vùng lãnh thổ. Trở thành thành viên chính thức của WTO, lực lượng lao động Việt Nam đang đứng trước những thời cơ và thách thức to lớn.  Trước hết, hội nhập kinh tế quốc tế sẽ tạo ra một "dòng chảy" về vốn và công nghệ, dịch vụ từ các nước phát triển vào Việt Nam. Khi gia nhập WTO nhiều chuyên gia đánh giá Việt Nam đang có một "làn sóng đầu tư thứ hai" với diện rộng và cường độ lớn. Tiêu biểu là việc Nhật Bản đầu tư vào khu công nghệ cao Hoà Lạc( Hà Tây) với tổng số vốn lên đến 1 tỉ USD, Hoa Kỳ đã có 298 dự án đầu tư vào nước ta với tổng số vốn đăng kí trên 2 tỉ USD ( riêng tập đoàn Intel đầu tư 1 tỉ USD). Đã có 16/21 nền kinh tế thành viên của APEC đầu tư vào Việt Nam với 5681 dự án và tổng số vốn đăng kí 41,7 tỉ USD ( vốn thực hiện trên 20 tỉ USD). Dự báo từ năm 2007 trở đi sẽ có thêm nhiều công ty, các tập đoàn kinh tế đến đầu tư làm ăn tại nước ta với quy mô ngày càng lớn trên nhiều ngành nghề lĩnh vực khác nhau. Như vậy, để sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn đầu tư chúng ta phải tập trung đào tạo nâng cao trình độ tay nghề của lực lượng lao động, đây cũng là yếu tố quyết định tới sự thành công của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Thứ hai, hội nhập kinh tế quốc tế tạo điều kiện rất thuận lợi cho Việt Nam phát huy lợi thế so sánh, tăng cường sức cạnh tranh của nền kinh tế. Các công ty trong và ngoài nước cạnh tranh mạnh mẽ với nhau để giành năng suất lao động cao hơn, chất lượng sản phẩm tốt hơn. Việc đầu tư vào công nghệ sản xuất tiên tiến và trình độ quản lí sản xuất hiện đại đang và sẽ là yêu cầu cấp thiết đặt ra. Muốn tồn tại và phát triển trong một " thế giới phẳng" nhưng cạnh tranh khốc liệt hiện nay, vư ợt lên trên lợi thế về tài nguyên, vị trí địa lí chính là yếu tố chất lượng nguồn nhân lực và việc sử dụng nó một cách tốt nhất. Thực tế cho thấy, một số nước như Hàn Quốc, Singapor, Hồng Kông... nhờ có sự đầu tư phát triển nguồn nhân lực nói chung và lực lượng lao động trẻ nói riêng mà chỉ trong một thời gian ngắn họ đã nhanh chóng trở thành những "con rồng" châu Á. Ở các nước có trình độ tiên tiến, sự đóng góp của tri thức đang ngày càng chiếm tỉ trọng cao trong GDP (ở Mĩ: 50%, Anh: 48,5%, Pháp: 45,1%). Riêng ở Việt Nam, yếu tố này còn thấp, sự tăng trưởng kinh tế có tới 60% là do yếu tố vốn mang lại. Hiện nay, tỉ lệ lao động qua đào tạo ở nước ta mới đạt 27%, các nước đang phát triển trong khu vực là 50% đến 60%, còn đối với các nước phát triển thì hầu như 100% lực lượng lao động đã được qua đào tạo. Để cạnh tranh có hiệu quả trong bối cảnh nền kinh tế tri thức, chúng ta chỉ có thể tập trung đào tạo nâng cao trình độ kĩ thuật cho người lao động. Thứ ba, hội nhập kinh tế, Việt Nam sẽ tham gia vào quá trình phân công lao động quốc tế theo hướng chuyên môn hoá. Sau khi gia nhập WTO, thị trường sức lao động ở nước ta sẽ có những biến động lớn, vận động theo cả hướng tích cực lẫn tiêu cực và đứng trước sự cạnh tranh rất gay gắt. Với khoảng 83 triệu dân ( đứng 13 thế giới) trong đó có trên 42 triệu người ở độ tuổi lao động ( hơn 30 triệu trong độ tuổi thanh niên),Việt Nam được đánh giá là nước có nguồn lao động dồi dào và rất trẻ. Song thực tế lao động nước ta có sức cạnh tranh thấp so với các nước trong khu vực, giá nhân công rẻ là yếu tố duy nhất được đánh giá cao (rẻ hơn Trung Quốc 20-30%). Tuy nhiên, hiện nay, tại các khu công nghiệp, 75% lao động mới có trình độ học vấn trung học cơ sở trở xuống. Ở khu kinh tế Dung Quất đang có tình trạng máy móc "nằm chờ" công nhân có tay nghề cao vận hành. Lao động Việt Nam không chỉ yếu về kĩ năng nghề nghiệp, thiếu hiểu biết về pháp luật mà phần đông hạn chế về trình độ ngoại ngữ. Một bộ phận vẫn còn thói quen và tập quán của người sản xuất nhỏ, chưa có ý thức và kỷ luật của lao động công nghiệp. Điều này cũng ảnh hưởng không nhỏ tới dự tham gia của lao động Việt Nam trong việc phân công lao động quốc tế ngay tại thị trường trong nước ( khi có sự tham gia của các doanh nghiệp liên doanh, của các công ty đa quốc gia). Điều đó cho thấy, để cạnh tranh được trên thị trường sức lao động trong nước cũng như quốc tế, vấn đề cấp bách đặt ra hiện nay là phải tăng cường đào tạo lực lượng lao động kĩ thuật nước ta đủ khả năng đáp ứng với yêu cầu của các ngành sản xuất. Một số giải pháp đào tạo lao động kĩ thuật trẻ: Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã chỉ rõ:" Phát triển mạnh hệ thống giáo dục nghề nghiệp, tăng nhanh quy mô đào tạo cao đẳng nghề, trung cấp nghề cho các khu công nghiệp, các vùng kinh tế động lực và cho việc xuất khẩu lao động". Theo định hướng lớn trên, để đào tạo lực lượng lao động kĩ thuật trẻ trong bối cảnh hội nhập kinh tế hiện nay chúng ta cần tập trung vào các giải pháp sau:Một là, đổi mới nhận thức xã hội về lao động kỹ thuật, nhất là nhận thức của thanh niên trong xác định xu hướng nghề nghiệp, khắc phục tâm lý xem nhẹ, hạ thấp vai trò của lao động kỹ thuật trong xã hội.Đặc điểm nổi bật của người dân Việt Nam là tâm lí trọng khoa cử, trọng bằng cấp. Thông thường, học sinh bậc trung học phổ thông dù có học lực thế nào cũng đăng kí dự thi vào một trường đại học nhất định, rất ít học sinh ngay từ đầu lựa chọn giải pháp học nghề. Tuy nhiên, trong bối cảnh hội nhập kinh tế hiện nay, việc lập nghiệp của thanh niên không chỉ là vào học ở các trường đại học, mà học nghề, đào tạo nghề đang và sẽ là hướng đi đúng đắn. Khi nước ta đã gia nhập WTO sẽ có thêm nhiều công ty nước ngoài vào đầu tư và có nhiều doanh nghiệp trong nước thuộc các thành phần kinh tế được thành lập. Điều đó cho thấy nhu cầu tuyển dụng lao động sẽ rất cao, người lao động dù ở bất cứ ngành nghề lĩnh vực nào nếu có trình độ, kĩ năng nghề nghiệp đều có cơ hội rất lớn tìm được việc làm và có thu nhập thoả đáng. Thực tế hiện nay, học viên ở các trường dạy nghề sau khi tốt nghiệp về cơ bản có việc làm ổn định trong khi đó phần đông sinh viên các trường đại học khó tìm được việc hoặc làm trái với chuyên môn đào tạo. Thực tiễn sinh động trên đã và đang tác động mạnh mẽ đến nhận thức của các bậc phụ huynh và học sinh trong lựa chọn nghề nghiệp. Hai là, đổi mới một cách cơ bản và toàn diện hệ thống các trường đào tạo nghề (đặc biệt là lao động nông nghiệp, nông thôn khi Việt Nam gia nhập WTO). Đào tạo nghề phải xuất phát từ yêu cầu của sản xuất, phù hợp với đặc điểm cụ thể của từng địa phương, gắn với tạo việc làm, giảm thất nghiệp. Cần quan tâm đào tạo nghề cho lực lượng thanh niên nông thôn và bộ đội xuất ngũ. Phát triển hệ thống đào tạo nghề theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá. Cần sớm hiện thực hoá đề án " Quy hoạch phát triển mạng lưới các trường cao đẳng nghề, trung tâm dạy nghề đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020" của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, phấn đấu đến năm 2010, có 90 trường cao đẳng nghề, 270 trường trung cấp nghề ( trong đó có 40 trường chất lượng cao, 3 trường tiếp cận trình độ tiên tiến trong khu vực và thế giới).Ba là, thực hiện tốt công tác phân luồng học sinh để đáp ứng yêu cầu về số lượng và nâng cao chất lượng đầu vào cho các trường đào tạo nghề.Kết quả của một số khảo sát mà Bộ Giáo dục-Đào tạo chuẩn bị cho hội nghị "Đào tạo theo nhu cầu xã hội" cho thấy, tỷ lệ nguồn nhân lực các trình độ cung cấp cho nhu cầu phát triển xã hội mất cân đối nghiêm trọng. Số lao động trình độ cao đẳng, kỹ thuật viên chỉ chiếm 4,5%, lao động giản đơn đang được sử dụng trong các khu chế xuất và khu công nghiệp ở một số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm tới 60%. Một số liệu khác từ điều tra của Dự án giáo dục Đại học cho thấy có sự mất cân đối giữa các ngành đào tạo. Cụ thể, sinh viên nhóm ngành kinh tế và quản lý chiếm tỷ trọng cao nhất với 29,86%; trong khi số sinh viên ngành kỹ thuật công nghệ chỉ chiếm 15,29%. Thực tế ấy cho thấy vấn đề cấp bách đặt ra hiện nay là phải nhanh chóng làm tốt công tác phân luồng học sinh để tạo nguồn đào tạo lao động kỹ thuật hợp lý. Theo dự kiến của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, đến năm 2010 số lượng trường dạy nghề sẽ tăng nhanh chóng, do đó ngay từ bây giờ chúng ta cần phải làm tốt công tác phân luồng học sinh sau trung học cơ sở và trung học phổ thông. Thực hiện phân luồng học sinh một mặt sẽ góp phần giải quyết vấn đề số lượng và chất lượng đầu vào cho các trường đào tạo nghề từ đó có thể đáp ứng kịp thời nhu cầu của thị trường sức lao động hiện nay và các năm tiếp theo. Mặt khác, thực hiện thành công việc phân luồng học sinh sẽ giảm được áp lực thi cử, một vấn đề đang được toàn xã hội quan tâm trong thời điểm hiện nay. Chủ động trong công tác này, các trường dạy nghề cần đổi mới mô hình tổ chức đào tạo, tăng cường đào tạo liên thông, đa cấp học, đa ngành học phù hợp với yêu cầu phát triển nguồn nhân lực ở nước ta.Bốn là, tăng cường hợp tác đào tạo với các nước có trình độ tiên tiến để phát triển lực lượng lao động kĩ thuật cao đủ sức cạnh tranh khi hội nhập WTO. Thời gian qua, nước ta đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ trong đào tạo nhân lực xuất khẩu lao động, tạo hướng mở quan trọng trong tăng cường hợp tác đào tạo với các nước có trình độ tiên tiến để phát triển lực lượng lao động kĩ thuật cao đủ sức cạnh tranh khi hội nhập WTO. Năm 2006, Việt Nam đã đưa được hơn 78.800 lao động sang nước ngoài làm việc và mục tiêu cho năm 2007 sẽ là 80.000 lao động. Tuy nhiên, mục tiêu cần đặt ra là phải chú trọng hợp tác đào tạo để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cả "nội địa" và xuất khẩu. Trước mắt, trong triển khai đưa lao động sang các thị trường truyền thống như: Nga, Malaysia, Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản, hướng tới các thị trường mới như: Úc, Canada, Macao, Mỹ; nghiên cứu giải pháp mở lại thị trường Cộng hoà Síp, Cộng hoà Séc..., Việt Nam cần tăng cường mở rộng các hình thức đào tạo nghề liên kết với các trường danh tiếng của nước ngoài, trước mắt cần tập trung vào đào tạo đội ngũ giáo viên trẻ cho một số ngành nghề đòi hỏi kĩ thuật cao. Khuyến khích, và tạo điều kiện để các tập đoàn kinh tế, các doanh nghiệp nước ngoài tham gia tích cực vào quá trình đào tạo lực lượng lao động kĩ thuật. Theo chương trình mục tiêu quốc gia đầu tư cho hoạt động đào tạo nghề giai đoạn từ nay đến năm 2010, nhằm khắc phục tình trạng thừa thầy thiếu thợ trong thời gian vừa qua đồng thời nâng cao chất lượng đào tạo, hệ thống các trường dạy nghề cũng sẽ được nâng cấp để đến năm 2010 sẽ có khoảng 40 trường chất lượng cao, 3 trường tiếp cận trình độ tiên tiến của khu vực và cung cấp cho thị trường khoảng 7,5 triệu lao động có tay nghề. Hy vọng, đây sẽ là một bước đột phá quan trọng trong tăng cường hợp tác đào tạo với các nước có trình độ tiên tiến 2.2 số lượng lao động tăng nhanh nhưng chất lượng vẫn còn thấp: Số lượng lao động tăng nhanh Có sự khác biệt chủ yếu giữa sự thách thức phát triển mà các nước đang phát triển gặp phải so với các nước phát triển là sự gia tăng chưa từng thấy của lực lượng lao động. ở hầu hết các nước, trung bình mỗi năm số người tìm việc làm tăng từ 2%trở lên. Sự gia tăng nguồn lao động liên quan chặt chẽ với việc gia tăng dân số. Dự báo ở nước ta mỗi năm bình quân tăng thêm hơn một triệu lao động dẫn đến sức ép rất lớn về việc làm. b. Phần lớn lao động làm việc trong khu vực nông nghiệp. Một trong những đặc điểm nổi bật nhất về lao động ở các nước đang phát triển là đa số lao động làm nông nghiệp.ở Việt Nam lao động nông nghiệp chiếm hơn 70% tổng số lao động . Loại hình công việc này mang tính phổ biến ở những nước nghèo. Xu hướng chung là lao động trong nông nghiệp giảm dần trong khi lao động trong công nghiệp và dịch vụ lại tăng. Mức độ chuyển dịch này tuỳ theo mức độ phát triển của nền kinh tế. c. Hầu hết người lao động được trả tiền công thấp Lực lượng lao động ở các nước đang phát triển có số lượng ngày càng tăng làm cho nguồn cung ứng lao động dồi dào. Trong khi đó hầu hết các nguồn lực khác đều thiếu và yếu: trang thiết bị cơ bản, đất trồng trọt, ngoại tệ và những nguồn lực khác như khả năng buôn bán, trình độ quản lý. Tiền công thấp còn một nguyên nhân cơ bản nữa là trình độ chuyên môn của người lao động thấp. ở Việt Nam số người không biết chữ hiện nay còn chiếm tỷ lệ đáng kể. Trong lực lượng lao động xã hội, số người lao động phổ thông cơ sở chiếm 25%, phổ thông trung học 13%. Hàng năm chỉ có 7% số thanh niên sau khi học hết phổ thông trung học được đào tiếp trong các trường học nghề, trung học và đại học chuyên nghiệp, chỉ có 9%trong tổng số lao động của xã hội là lao động kỹ thuật. Các chuyên viên kỹ thuật, đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế và công nhân kỹ thuật giỏi còn ít. Bên cạnh đó, ở các nước đang phát triển tình trạng chung là những người lao động còn thiếu khả năng lao động chân tay ở mức cao vì sức khoẻ và tinh trạng dinh dưỡng của họ thấp. d. Còn bộ phận lớn lao động chưa được sử dụng. việc đánh giá tình trạng chưa sử dụng hết lao động phải được xem xét qua các hình thức biểu hiện của thất nghiệp-thất nghiệp hữu hình và thất nghiệp trá hình. Do sức ép về dân số và những khó khăn về kinh tế ở các nước đang phát triến đã tác động lớn tới vấn đề công ăn việc làm ở cả hai khu vực thành thị và nông thôn. Tình trạng lao động thất nghiệp, thiếu việc làm có xu hướng gia tăng đặc biệt ở khu vực thành thị. Số lao động thiếu việc làm trong các doanh nghiệp Nhà nước hiện nay trên 8%, thậm chí còn có nơi lên tới 50-60%. Còn ở nông thôn, tỷ lệ thiếu việc làm khoảng 27,65%. Tính chung cho cả nước, tỷ lệ thời gian lao động được sử dụng cho hoạt động kinh tế năm 2007 là 80%. Thực tế đó cho thấy, vấn đề giải quyết việc làmđang là áp lực nặng nề đối với các nươc đang phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng. Vấn đề giải quyết việc làm ở nước ta được xem là vấn đề kinh tế-xã hội:đó là vấn đề rất tổng hợp và phức tạp. Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế-xã hội đến năm 2010 của Việt Nam đã khẳng định “Giải quyết việc làm, sử dụng tối đa tiềm năng lao động xã hội là mục tiêu quan trọng hàng đầu của chiến lược, là một tiêu chuẩn để đinh hướng cơ cấu kinh tế và lựa chọn công nghệ’’. Trên phạm vi rộng, giải quyết việc làm bao gồm những vấn đề liên quan đến phát triển nguồn lực và sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực; còn theo phạm vi hẹp, giải quyết việc làm chủ yếu hướng vào đối tượng và mục tiêu giảm tỷ lệ thất nghiệp, khắc phục tình trạng thiếu việc làm, nâng cao hiệu quả việc làm và tăng thu nhập. 2.2 đào tạo không theo nhu cầu của nền kinh tế(đào tạo không theo tín hiệu của thị trường): Mục tiêu có thành hiện thực hay không còn phụ thuộc vào chất lượng và số lượng đội ngũ lao động kỹ thuật có tay nghề. Tuy nhiên tính đến hết năm 2007, cả nước mới có hơn 2.000 cơ sở dạy nghề. Con số này chưa thể đáp ứng được nhu cầu thực tế của doanh nghiệp và thị trường lao động. Lệch cung - cầu:Theo số liệu của Bộ Lao động - Thương binh & Xã hội, tính đến hết ngày 31/12/2007, cả nước có 2.165 cơ sở dạy nghề (tăng 241 cơ sở so với năm 2006). Trong đó, số trường cao đẳng dạy nghề là 62 trường, trường trung cấp nghề là 180 trường, dạy nghề có 67 trường, trung tâm dạy nghề có 656 cơ sở, còn lại là các cơ sở dạy nghề tự phát chiếm đa số với hơn 1.000 cơ sở. Mặc dù đã có nhiều nỗ lực phát triển hệ thống dạy nghề nhưng tỷ lệ lao động kỹ thuật qua đào tạo nghề của nước ta còn khá khiêm tốn (chiếm khoảng hơn 20% tổng số lao động cả nước). Hình thức truyền dạy theo kiểu “cha truyền con nối” đang phổ biến nhằm giải quyết khâu thiếu lao động. “Cung chưa đáp ứng được cầu” . Cơ cấu ngành nghề chưa phù hợp, chưa kịp bổ sung mới theo nhu cầu của sản xuất. Chất lượng đào tạo còn thấp, nhiều bất cập và chưa đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp và thị trường lao động. Phần lớn thanh niên Việt Nam không mặn mà với các trường dạy nghề, chỉ tới khi trượt đại học (cao đẳng ) mới nghĩ tới việc đăng ký học nghề. Thói quen này đã khiến các trường dạy nghề rất vất vả trong khâu tuyển sinh, thậm chí không thể tuyển đủ học viên để mở lớp dạy. Giai đoạn từ năm 2008 – 2012, nhu cầu về lao động kỹ thuật có tay nghề của các tập đoàn công nghiệp Việt Nam (Tập đoàn Dầu khí, Tập đoàn Than - Khoáng sản, Vinashin) tăng mạnh, đặc biệt trong các ngành đóng tầu, hàn, tự động hoá, ô tô cần khoảng 58.000 lao động tay nghề, chiếm 70% nhu cầu cả nước. Riêng ngành công nghiệp đóng tầu cần khoảng 47.000 lao động kỹ thuật (trình độ cao đẳng: 29,8%; trung cấp: 58,5%; sơ cấp: 11,7%). Ngành hàn cần 10.600 lao động (cao đẳng: 31%; trung cấp: 56,6%; sơ cấp: 12,4%). Công nghiệp ô tô và tự động hoá cần từ 150 – 300.000 lao động có trình độ từ trung cấp trở lên. Tuy nhiên, khả năng cung ứng lao động tay nghề hiện chỉ đáp ứng được ½ nhu cầu thực tế của các tập đoàn công nghiệp lớn, chưa kể tới các doanh nghiệp dân doanh cũng đang cần một lượng lớn lao động kỹ thuật tay nghề cao. Những dự báo lạc quan:Bên cạnh những lo ngại về số lượng và chất lượng lao động tay nghề Việt Nam trong giai đoạn 2008 – 2010, nhiều dự báo lạc quan cho rằng lực lượng lao động qua đào tạo tay nghề của nước ta sẽ nhanh chóng được cải thiện từ nay tới năm 2015. Khi đó, trong tổng số 49,5 triệu lao động cả nước, tỷ lệ lao động qua đào tạo tay nghề sẽ chiếm tới 45%, lao động Việt Nam có thể cạnh tranh bình đẳng với thị trường thế giới. Nhưng để đạt được tỷ lệ này, chất lượng và quy mô các trường dạy nghề phải được cải thiện mạnh mẽ. Trước mắt, quy mô dạy nghề sẽ phải tăng 10%/năm để đến năm 2010 có tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề đạt 30 -32%. Mạng lưới cơ sở dạy nghề sẽ được phủ rộng, số trường cao đẳng tăng gấp đôi lên 120 trường (trong đó có 01 trường đạt trình độ tiên tiến thế giới, 05 trường đạt tiên tiến khu vực) và 250 trường trung cấp nghề. Các khung chương trình cao đẳng nghề, trung cấp nghề và giáo viên, cán bộ quản lý đào tạo nghề được chuẩn hoá đáp ứng yêu cầu thực tế. Mục tiêu đổi mới dạy nghề sẽ khó hoàn thành nếu thiếu sự tham gia của các DN. “Chỉ khi nào các doanh nghiệp vừa là nơi tiếp nhận nguồn lao động, vừa tham gia tích cực vào quá trình đào tạo mới có thể tạo nên sự đột phá về quy mô và chất lượng nguồn lao động” . Sự liên kết mật thiết giữa DN và các trường dạy nghề sẽ đồng thời giải quyết được cả bài toán đầu vào và đầu ra. 4. Thực trạng sử dụng lao động kĩ thuật hiện nay:ở nước ta hiện nay lao động kỹ thuật vẫn chưa được sử dụng một cách hiệu quả rất nhiều tình trạng lao động dù đã được đào tạo nhưng khả năng tìm kiếm việc làm vẫn còn thấp. 4.1 Thực trạng giải quyết việc làm lao động kĩ thuật : Giải quyết vấn đề việc làm và sử dụng tối đa tiềm năng lao động xã hội là mục tiêu chiến lược của nhiều quốc gia, đặc biệt là các nước đang phát triển. Nước ta cũng vậy, lao động và việc làm luôn được coi là một trong những vấn đề kinh tế xã hội vừa bức xúc, nhạy cảm. Nhìn lại hơn 20 năm đổi mới, vấn đề giải quyết việc làm đã đem lại những kết quả to lớn, là bước ngoặt quan trọng để sử dụng tiềm năng khái quát những kết quả đã đạt được trên các lĩnh vực của thời kỳ này như sau: Nhờ thực hiện đường lối đổi mới, thời kỳ 90-97 nền kinh tế Việt Nam đã đạt tốc độ tăng trưởng cao và tương đối ổn định, bình quân 8.3%/năm. Bước sang năm 1998, trong bối cảnh hầu hết các nước Đông Á dưới tác động của cuộc khủng hoảng tài chính-tiền tệ,có mức tăng trưởng không và âm thì Việt Nam vẫn đạt mức tăng trưởng kinh tế khá (5.83%). Nhờ đó, thời kỳ 1991-1998, bình quân mỗi năm số việc làm mới được tăng thêm khoảng 2.95%, tương đương với số lao động mới tăng. Như vậy, trong vòng 8 năm, trên 7.9 triệu việc làm đã được tạo ra, riêng năm 1998 tạo được 1.3 triệu việc làm. Tuy vậy, sức ép của tình trạng thiếu việc làm của Viêt Nam vẫn rất lớn. Chúng ta có thể xem bảng sau: 4.2 Những kết quả đạt được và những tồn tại cần giải quyết khắc phục:Giải quyết vấn đề việc làm và sử dụng tối đa tiềm năng lao động xã hội là mục tiêu chiến lược của nhiều quốc gia, đặc biệt là các nước đang phát triển. Nước ta cũng vậy, lao động và việc làm luôn được coi là một trong những vấn đề kinh tế xã hội vừa bức xúc, vừa nhạy cảm. Nhìn lại 15 năm đổi mới, vấn đề giải quyết việc làm đã đem lại những kết quả to lớn, là bước ngoặt quan trọng để sử dụng tiềm n ớc. Có thể nêu khái quát những kết quả đã đạt được trên các lĩnh vực của thời kỳ này như sau: Nhờ thực hiện đường lối đổi mới, thời kỳ 90-97 nền kinh tế Việt Nam đã đạt tốc độ tăng trưởng cao và tương đối ổn định, bình quân 8.3%/năm. Bước sang năm 1998, trong bối cảnh hầu hết các nước Đông A dưới tác động của cuộc khủng hoảng tài chính-tiền tệ,có mức tăng trưởng không và âm thì Việt Nam vẫn đạt mức tăng trưởng kinh tế khá (5.83%). Nhờ đó, thời kỳ 1991-1998, bình quân mỗi năm số việc làm mới được tăng thêm khoảng 2.95%, tương đương với số lao động mới tăng. Như vậy, trong vòng 8 năm, trên 7.9 triệu việc làm đã được tạo ra, riêng năm 1998 tạo được 1.3 triệu việc làm.Tuy vậy, sức ép của tình trạng thiếu việc làm của Viêt Nam vẫn rất lớn. Chúng ta có thể xem bảng sau: Bảng 9: Tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động trong độ tuổi ở khu vực thành thị (%) 1996 1997 1998 1999 Toàn quốc 5,88 6,01 6,85 7,40 1.Đồng bằng sông Hồng 7,57 7,06 8,25 9,34 Hà Nội 7,71 8,56 9,09 10,31 2.Vùng Đông Bắc 6,42 6,34 6,60 8,72 Quảng Ninh 9,63 7,06 6,80 9,29 3.Vùng Tây Bắc 4,51 4,73 5,92 6,58 4.Vùng Bắc Trung Bộ 6,96 6,68 7,26 8,62 5.Duyên hải Nam Trung Bộ 5,57 5,42 6,67 7,07 Đà Nẵng 5,53 5,42 6,35 6,64 6.Tây Nguyên 4,24 4,99 5,88 5,95 7.Vùng Đông Nam Bộ 5,43 5,89 6,64 6,52 TP Hồ Chí Minh 5,68 6,13 6,76 7,04 Đồng Nai 6,61 4,03 5,52 5,87 8.Đồng bằng sông Cửu Long 4,73 4,72 6,35 6,53 Nguồn: Tổng hợp kết quả điều tra Lao động-Việc làm hàng năm ở khu vực thành thị (1/7): 1996,1997,1998,1999 Sau khi đạt mức thất nghiệp thấp nhất là 5,88% năm 1996, tỷ lệ thất nghiệp chính thức ở khu vực thành thị có xu hướng tăng trở lại ở năm 1997 là 6,01%, năm 1998 là 6,08 % và năm 1999 là 7,4%số lao động thành thị bị thất nghiệp. Tại một số thành phố lớn, trung tâm công nghiệp, tỷ lệ thất nghiệp năm 1998 tăng nhanh đặc biệt ở Hà Nội (9,09%), Hải Phòng (8,43%), Đà Nẵng (6,35%), TP Hồ Chí Minh (6,76%) và tỷlệ tương ứng năm 1999 là:10,31%, 8,04%, 6,64%, 7,04%. Lao động thành thị làm việc chủ yếu trong khu vực công nghiệp, dịch vụ, đặc biệt tại các thành phố lớn, nơi thu hút phần lớn các nhà đầu tư nước ngoài. Sự đi xuống về kinh tế từ năm 1998, một phần chịu tác động của khủng hoảng kinh tế khu vực là nguyên nhân chính dẫn đến tăng tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực này. Năm 1998 một số ngành có tỷ lệ thất nghiệp tăng lên rõ rệt như: hoá chất (11,27%), khai thác mỏ(3,57%), dệt (2,06%), giày (2,15%), may mặc (2,66%) trong khi tỷ lệ tương ứng của năm 1997 tương đối thấp (0,08%, 0,26%, 0,26%, 0,05%, 1,91%). Trong số lao động thất nghiệp ở thành thị, tỷ lệ cao nhất rơi vào nhóm người trẻ tuổi từ 15-24 và nhóm tuổi 25-34. Số người này chủ yếu là học sinyh phổ thông chưa tốt nghiệp, sinh viên trung học và đại học ra trường muốn có việc nhưng không tìm được việc làm. Có thể thấy tình hình đó qua bảng sau đây: Tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị chia theo nhóm tuổi, vùng và giới tính Tổng số Nam Nữ Tổng số 4,4 4,8 3,9 Nhóm tuổi 15-19 17,4 19,6 14,7 20-24 11,0 11,7 10,3 25-29 4,6 5,0 4,2 30-34 2,7 2,7 2,7 35-39 2,1 2,3 1,8 40-44 2,0 2,5 1,3 45-49 2,3 3,0 1,5 50-54 2,4 3,2 1,4 55-59 1,9 2,4 1,1 60-64 1,2 1,4 1,0 65+ 1,5 1,4 1,5 Vùng Đồng bằng sông Hồng 5,6 6,0 5,2 Đông Bắc 3,8 4,6 2,9 Tây Bắc 3,0 4,1 1,8 Bắc Trung bộ 5,2 6,4 4,0 Duyên hải Nam Trung bộ 4,5 4,6 4,5 Tây Nguyên 1,8 2,0 1,5 Đông Nam bộ 4,6 5,1 3,8 Đồng bằng sông Cửu Long 3,5 3,4 3,5 Nguồn tổng cục thống kê Một vài dự báo của Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội đưa ra cho thấy, tỷ lệ thất nghiệp ở Việt Nam có thể diễn ra theo các kịch bản sau: 1)Mức tăng GDP là 5%/năm và lao động tăng theo xu hướng đầu tư là 1,4%; 2) Mức tăng trưởng GDP là 4,8% nhưng cơ cáu đầu tư được cải thiện nên có thể thu hút lao động tăng 2,5 %/năm; 3)Mức tăng GDP là 7%/năm, nhưng lao động chỉ tăng 2%/năm theo xu hướng đầu tư năm 1998. Như vậy số lao động thất nghiệp (kể cả hữu hình và trá hình) vào năm 2000 theo phương án một là 4.640.000 người; theo phương án hai là 3.449.900 người và theo phương án ba là 3.994.100 người.Tỷ lệ thất nghiệp tương ứngvới ba phương án trên là 11,3%, 8,45% và 9,79% và tỷ lệ thất nghiệp ở đô thị xấp xỉ 20%, 16% và 18%. Cả ba trường hợp trên đều cùng giả định thời gian sử dụng lao động ở nông thôn hiện nay là 75%, trong khi thực tế chỉ đạt xấp xỉ 70%. Mặt khác các phương án trên chỉ tính đến ảnh hưởng tích cực của các chương trình thị trường lao động.Năm 2000 sẽ có 1 triệu người được đào tạo nghề, 150 nghìn người trong các doanh nghiệp nhà nước được hỗ trợ để duy trì lao động , các doanh nghiệp vừa và nhỏ được lập dự án vay vốn để tạo ra 300.000 việc làm và cuối cùng là xuất khẩu 180.000 lao động. Như vậy, tổng số lao động được giải quyết đến năm 2000 là 1.630.000 người. số người thất nghiệp ở Việt Nam theo thứ tự ba phương án sẽ là 3.010.000,1.819.900 và 2.464.100; tỷ lệ thất nghiệp tương ứng sẽ là 7,37%, 4,46%, 5,79%; tỷ lệ thất nghiệp ở đô thị là 14%, 8%và 11%. Bức tranh trên cho thấy tình trạng thất nghiệp ở Việt Nam là tương đối nghiêm trọng, trong bối cảnh ngân sách nhà nước chưa được dự trữ để trợ cấp cho người thất nghiệp, khả năng đầu tư tạo việc làm lại phụ thuộc vào các nguồn vốn tài trợ quốc tế và việc thu hút FDI. Vậy Việt Nam sẽ lựa chọn phương cách nào để giải quyết một cách có hỉệu quả ván đề việc làm trong tương lai 4.3 Khủng hoảng thiếu về lao động lành nghề có tay nghề cao: Hiện nay, nhu cầu về lao động chất lượng cao ở khu công nghiệp, khu chế xuất, các vùng kinh tế trọng điểm là rất lớn do vậy cần thực hiện đồng bộ các giải pháp để đào tạo lao động chất lượng cao cho doanh nghiệp. Năm 2007, dân số nước ta có 85,155 triệu người, trong đó 46,61 triệu người trong độ tuổi lao động, chiếm 54,8%; số lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế quốc dân là 45,6 triệu người, chiếm 97,64% nguồn lao động. Cơ cấu kinh tế-cơ cấu lao động ở nước ta thời gian qua tiếp tục chuyển dịch theo hướng tích cực. Tỷ lệ lao động làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp giảm, lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ tăng. Hiện nay, nhu cầu về lao động chất lượng cao ở khu công nghiệp, khu chế xuất, các vùng kinh tế trọng điểm là rất lớn. Một số tập đoàn kinh tế lớn như Tập đoàn Tàu thủy Việt Nam, Tập đoàn Dầu khí, Tập đoàn Than-Khoáng sản Việt Nam, Tổng công ty Thép Việt Nam, Tổng công ty Lắp máy Việt Nam... thì nhu cầu lao động từ nay đến 2012 cần tuyển từ 80.000 đến 90.000 lao động, trong đó số lao động có trình độ cao đẳng nghề là 24.000 người. Tập đoàn Vinashin cần đến 55.000 lao động trong đó cao đẳng nghề 16.500 người; Tổng công ty Giấy Việt Nam cần 10.000 lao động, trong đó cao đẳng nghề 3.800 người; Tổng công ty Lắp máy Việt Nam cần từ 2.500 đến 4.500 lao động qua đào tạo nghề hằng năm. Nhiều nghề có nhu cầu tăng lớn như thợ hàn 10.630 người, thợ khai thác mỏ 18.425 người, các thợ cơ khí điện máy của ngành đóng tàu Việt Nam cần đến 20.000 thợ qua đào tạo nghề... Với chủ trương, chính sách rộng mở, cho nên nhiều khu công nghiệp, khu chế xuất của các tỉnh, thành phố tiếp tục phát triển như khu công nghệ cao TP Hà Nội, Khu kinh tế Nghi Sơn, Chu Lai, Dung Quất, các khu công nghiệp ở Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Hưng Yên, Hải Dương, Hải Phòng, Quảng Ninh, Nghệ An, Hà Tĩnh, ở các tỉnh, thành phố miền trung, miền nam cần hàng trăm nghìn lao động qua đào tạo nghề. Do không đáp ứng đủ nguồn lao động chất lượng cao, ở nước ta đã xuất hiện tình trạng doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tuyển công nhân kỹ thuật nước ngoài vào làm việc. Một số tỉnh, thành phố đã có 3.000 - 4.000 lao động nước ngoài vào làm việc, có khu công nghiệp đã tuyển hàng nghìn công nhân kỹ thuật là người nước ngoài. Tình trạng này tiếp tục gia tăng trong những năm tới, dẫn tới nghịch lý, ta đưa lao động phổ thông, trẻ khỏe ra nước ngoài làm việc với thu nhập thấp, các doanh nghiệp trong nước tuyển công nhân kỹ thuật nước ngoài vào nước ta ở những vị trí có thu nhập khá cao, đặt ra cho sự nghiệp đào tạo nghề ở nước ta những nhiệm vụ hết sức nặng nề, thậm chí rất bức bách, cần được sự quan tâm của Nhà nước cũng như các cấp, các ngành, trước hết là các khu công nghiệp, khu chế xuất, các doanh nghiệp. Thời gian qua, các cấp, các ngành từ T.Ư đến địa phương đều loay hoay lo việc làm cho dân, lo thất nghiệp, chưa quan tâm đầy đủ công tác đào tạo nghề, dẫn đến tình trạng "thừa thầy-thiếu thợ", không cung ứng đủ nguồn nhân lực cho các doanh nghiệp, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao cho khu công nghiệp, khu chế xuất, các vùng kinh tế trọng điểm. Ðến nay cả nước có 2.082 trường, cơ sở dạy nghề, trong đó có 75 trường cao đẳng nghề (9 trường ngoài công lập), 204 trường trung cấp nghề (85 trường tư thục); 665 trung tâm dạy nghề (250 tư thục). Trong số 828 cơ sở dạy nghề ngoài công lập có một số cơ sở dạy nghề có vốn đầu tư nước ngoài. Về quy mô đào tạo nghề cũng tăng nhanh, giai đoạn 2001-2006 đã dạy nghề cho 6,6 triệu người, tăng bình quân 6,5%/năm. Năm 2007 đã tuyển sinh 1,436 triệu học sinh, sinh viên, năm 2008 tuyển mới 1,538 triệu học sinh, sinh viên, trong đó trung cấp nghề 228 nghìn học sinh, cao đẳng nghề 60 nghìn sinh viên, đáp ứng được nhu cầu do những khó khăn bất cập: Chất lượng đào tạo chưa cao, chưa sát với nhu cầu của sản xuất, cơ sở vật chất của các trường nghề còn yếu. Ðể sự nghiệp đào tạo nghề vươn lên đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực chất lượng cao cho các khu công nghiệp, khu chế xuất, các vùng kinh tế trọng điểm,  cho các doanh nghiệp nhất là khi nước ta hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế thế giới và trước sự cạnh tranh khốc liệt về chất lượng nguồn nhân lực, cần thực hiện đồng bộ các giải pháp: Thứ nhất, phải làm chuyển biến nhận thức của các cấp, các ngành về ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác dạy nghề, nhân tố quyết định nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, mới đáp ứng yêu cầu của các doanh nghiệp, khắc phục cơ bản tình trạng vừa thừa, vừa thiếu nguồn lao động chất lượng cao. Thứ hai, phải gắn kết chặt chẽ giữa cơ quan cung ứng nguồn nhân lực với các doanh nghiệp, các trường đào tạo nghề. Cơ quan lao động dưới sự chỉ đạo của UBND các tỉnh, thành phố cần chủ động phối hợp chặt chẽ với các khu công nghiệp, khu chế xuất, các vùng kinh tế trọng điểm, các tập đoàn kinh tế, các tổng công ty và các doanh nghiệp để nắm sát nhu cầu nguồn nhân lực cho từng doanh nghiệp, từng ngành nghề, bậc thợ, cho từng năm, từng kế hoạch để ký hợp đồng đào tạo với các trường dạy nghề về số lượng, chất lượng lao động. Thứ ba, các trường dạy nghề phải nâng cao chất lượng đào tạo, trang bị cho người học kiến thức, kỹ năng nghề, kiến thức văn hóa nghề, giáo dục đạo đức nghề nghiệp, ý thức tổ chức kỷ luật lao động, tác phong công nghiệp, quan hệ ứng xử giữa người lao động với người sử dụng lao động, hoàn thiện nội dung, chương trình đào tạo hợp với yêu cầu sản xuất. Giảm thời gian học lý thuyết, tăng thời gian thực hành, thực tập để nâng cao kỹ năng nghề cho người lao động. Tăng cường đầu tư, nâng cấp cơ sở vật chất, máy móc, thiết bị, nhà xưởng để đáp ứng yêu cầu của các doanh nghiệp, của thị trường lao động trong và ngoài nước. Các trường trọng điểm quốc gia cần được đầu tư máy móc, thiết bị, phương tiện tiên tiến, hiện đại; thậm chí đón đầu đi trước sản xuất một bước về công nghệ, kỹ thuật. Thứ tư, xúc tiến xây dựng, ban hành một số cơ chế, chính sách khuyến khích phát triển các trường dạy nghề như: đầu tư cơ sở vật chất, máy móc, thiết bị, phương tiện phục vụ cho dạy và học phù hợp với yêu cầu sản xuất của doanh nghiệp, của thị trường lao động. Ði đôi với nguồn đầu tư cơ bản của Nhà nước, khuyến khích xã hội hóa để huy động thêm nguồn lực cho dạy nghề, xóa bỏ bất bình đẳng giữa các trường đào tạo nghề công lập, ngoài công lập, trường đào tạo nghề của các doanh nghiệp; có chính sách ưu đãi đối với người học nghề, đặc biệt các nghề yêu cầu chất lượng cao, các nghề đặc thù, công nghệ mới, cần mở rộng đối tượng vay vốn và nâng mức vay để người học nghề bớt khó khăn; có chính sách đối với giáo viên dạy nghề về chế độ tiền lương, phụ cấp để khuyến khích giáo viên nâng cao về kiến thức, kỹ năng nghề, phương pháp sư phạm; có cơ chế khuyến khích sự liên kết giữa các trường đào tạo nghề với các doanh nghiệp, gắn kết chặt chẽ giữa đào tạo với sử dụng lao động qua đào tạo nghề. Chính phủ ban hành Quỹ hỗ trợ dạy nghề; có giải thưởng tôn vinh những giáo viên, nghệ nhân xuất sắc trong hoạt động dạy nghề; khen thưởng học sinh đạt thành tích xuất sắc trong hội thi tay nghề quốc gia, khu vực và thế giới. Thứ năm, thực hiện đổi mới và phát triển dạy nghề theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa một cách đồng bộ, toàn diện từ nội dung chương trình, phương pháp, cơ sở vật chất trang thiết bị cho dạy và học để nâng cao chất lượng đào tạo, đào tạo lại và bồi dưỡng nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp cho công nhân, nhất là công nhân trẻ, công nhân từ nông dân, nhằm phát triển về số lượng, bảo đảm về chất lượng, hợp lý về cơ cấu để nước ta có một đội ngũ công nhân có trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp ngày càng cao, có khả năng tiếp thu nhanh và làm chủ công nghệ mới đáp ứng yêu cầu của doanh nghiệp, của thị trường lao động trong nước và cho xuất khẩu lao động. Chương3:định hướng.giải pháp đào tạo và sử dụng lao động kỹ thuật 1.định hướng đào tạo và sử dụng: Nghành nào chúng ta cũng thiếu rất nhiều lao động có tay nghề cao.Theo số liệu vừa công bố của Bộ LĐ-TB-XH, từ năm 2008 đến 2012, nhu cầu lao động kỹ thuật của các tập đoàn công nghiệp Việt Nam (như dầu khí, than - khoáng sản, Vinashin...) tăng mạnh. Trong đó, ngành công nghiệp đóng tàu cần khoảng 47.000 lao động kỹ thuật; ngành hàn cần 10.600 lao động; công nghiệp ô tô và tự động hóa cần từ 150.000 – 300.000 lao động có trình độ từ trung cấp trở lên. Tuy nhiên, khả năng đào tạo chỉ đáp ứng được 50% nhu cầu. Chưa kể các doanh nghiệp (DN) nhỏ và vừa cũng đang cần một lượng lớn lao động kỹ thuật tay nghề cao. Về tổng thể, nhu cầu lao động kỹ thuật sẽ tăng mạnh ở các ngành nghề. Các nhà đầu tư đòi hỏi một lực lượng lao động được đào tạo bài bản, có hàm lượng chất xám và tay nghề chuyên môn cao. Đây cũng là lý do mà một số chuyên gia kinh tế cho rằng con số đầu tư FDI đăng ký kỷ lục vừa qua tuy là một tín hiệu tích cực nhưng vẫn còn nhiều băn khoăn. Còn nhớ, năm 2007, vốn FDI đăng ký 20,3 tỉ USD, nhưng thực hiện chỉ đạt 4,6 tỉ USD. Một trong những lý do làm chậm tiến độ giải ngân là do các nhà đầu tư lo ngại không đủ nhân lực sau khi dự án đi vào hoạt động. 2.giải pháp chính sách của nhà nước: a. Chính sách khuyến khích và đãi ngộ người có trình độ. Mục đích của lao động là có thu nhập tương ứng với khả năng của mình, đảm bảo cuộc sống ổn định cho gia đình, vì vậy, càng có các yếu tố vật chất và tinh thần khuyến khích và đãi ngộ thì lao động càng nâng cao trình độ của mình đáp ứng nhu cầu xã hội. Cần tập trung vốn cho giáo dục và đào tạo nhằm khuyến khích mọi người tự nâng cao và được nâng cao trình độ học vấn, tay nghề của mình đồng thời phải có các hình thức đaic ngộ riêng những người có trình độ cao hơn người khác, xã hội đang khan hiếm từ đó có động lực hơn cho mọi lao động phấn đấu. b. Chính sách khuyến khích dạy và học nghề. Nước ta đang thiếu nghiêm trọng lực lượng lao động có kỹ thuật, vì vậy nâng cao số lượng lao động này để đáp ứng nhu cầu công nghiệp hoá- hiện đại hoá là việc cần làm ngay trong thời gian tới. Do đó, có những chính sách cụthể về khuyến khích dạy và học nghề bằng cách tang phụ cấp, tiền lương, tạo ra nhiều việc làm cho những học sinh học nghề, có kế hoạch sử dụng ngay nguồn lực này khi học tốt nghiệp đảm bảo điều kiện tốt nhất về mọi việc làm, diều kiện sinh hoạt hàng ngày cho họ. 3.phía doanh nghiệp: a.Khuyến khích mở rộng và phát triển các nghành nghề thu hút được nhiều lao động. Bởi đối với nước ta hiện nay tỷ lệ người thất nghiêp còn cao chính vì thế cho lên cần khuyến khích các nghành nghề này để tạo thêm nhiều việc lam mới cho người lao động. b. Phát triển mạnh mẽ kinh tế - xã hội ở khu vực nông nghiệp, nông thôn:Đó là các biện pháp nhằm phát triển sản xuất nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn, nhằm tạo nhiều việc làm, tăng thu nhập khắc phục hiện tượng nâng dân do tình thời vụ của nông nghiệp, do diện tích canh tác thấp, năng suất thấp. Nếu thực hiện tốt các biện pháp có liên quan trước hết là yếu rố tiêu thụ sản phẩm và giống cây con, đào tạo nghề cho người lao động ở nông thốn sẽ có cơ cấu kinh tế thay đổi, tăng đáng kể giá trị sản lượng nông nghiệp, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại, dịch vụ, nâng đời sống vật chất cho người lao động. Cùng với biện pháp phát triển kinh tế là biện pháp phát triển xã hội như: y tế, văn hoá, giáo dục, vệ sinh môi trường, sử dụng nguồn nước sạch và sản xuất theo yêu cầu an toàn vệ sinh thực phẩm.cũng sẽ thu hút nhiều lao động góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống, ổn định xã hội, giảm gia tăng dân số và nguồn lao động, giảm hiện tượng dân nông nghiệp, nông thôn ra thành phố, khu công nghiệp tìm việc làm một cách tự phát. c. Huy động các thành phần kinh tế phát triển mạnh mẽ ở thành thị. Với xu thế của mình, các doanh nghiệp Nhà nước sẽ phát triển theo chiều rộng và chiều sâu, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh , phát huy lại thế cạnh tranh sử dụng nhiều lao động có khả năng chiếm lĩnh thị trường trong nước về xuất khẩu của các ngành công nghiệp, xây dựng, giao thông, dịch vụ, du lịch Kinh tế tư nhân và các thành phần kinh tế khác cơ sự giúp đỡ và quản lý của Nhà nước, căn cớ vào nhu cầu sản xuất, tiêu dùng tại chỗ và xuất khẩu, với khả năng về vốn, trình độ quản lý và kỹ thuật có thể phát triển các doanh nghiệp vừa và thuốc các ngành công nghiệp, dịch vụ, du lịch, văn hoá, giáo dục, y tế. 4.phía người lao động kĩ thuật: Cần nhanh chóng nâng cao trình độ văn hoá cho nguồn nhân lực, phấn đấu phổ cập phổ thông trung học đối với những đối tượng và những vùng có điều kiện nhằm tạo thuận lợi cho việc tiếp thu các kiến thức trong đào tạo chuyên môn kỹ thuật cho người lao động. Để có cơ cấu lao động hợp lý, một trongnhững biện pháp quan trọng là thực hiện chính sách phân hàng học sinh sau khi tốt nghiệp trung học cơ sở để tạo ra cơ cẩu hợp lý. Theo kinh nghiệm của các nước phát triển, cứ 1 người có trình độ đại học, cao đẳng cần có 4-5 người có trình độ trung học chuyên nghiệp và 10 công nhân kỹ thuật. Đào tạo chuyên môn kỹ thuật cho người lao động, đặc biệt là đào tạo, bồi dưỡng nghề cho người lao động để tăng tỷ lệ được đào tạo thường được tiến hành qua các biện pháp xã hội hoá đào tạo, đa dạng hoá hình thức đào tạo, bồi dưỡng với nhiều thành phần kinh tế tham gia. Các lao động mới bước vào tuổi lao động, lao động dôi dư, lao động trẻ ở nông thôn cần được ưu tiên trong trang bị kiến thức kỹ thuật về công nghệ mới liên quan dến trồng trọt, chăn nuôi, các ngành thủ công có điều kiện phát triển ở địa phương cũng như các kiến thức cần thiết khác để cung cấp cho khu công nghiệp mới, các doanh nghiệp vốn đầu tư nước ngoài. Để tạo điều kiện thuận lợi cho công tác xuất khẩu lao động, có thể thành lập bộ phận đào tạo, bồi dưỡng riêng các trung tâm dạy nghề hợp tác với các trung tâm đào tạo trong nước và nước ngoài, để đào tạo, bồi dưỡng người lao động đi làm có thời hạn ở nước ngoài. Cùng với đẩy mạnh đào tạo lại các nguồn nhân lực với kiến thức về chuyên môn, kỹ thuật cũng như kỹ năng thực hành cho nhu cầu trước mắt còn phải trang bị cho lao động kiến thức về ngoịa nhgữ, tin hoc, pháp luật nhằm đáp ứng cho nhu cầu về hội nhập 5.sự kết hợp giữa doanh nghiệp và người lao động: Việc làm của sinh viên sau khi tốt nghiệp là một tiêu chí quan trọng để đánh giá chất lượng đào tạo của cơ sở giáo dục đại học. Tuy nhiên, theo khảo sát của Dự án giáo dục đại học, chỉ có khoảng 60% số sinh viên sau khi ra trường tìm được việc làm phù hợp với chuyên ngành đào tạo, đáp ứng yêu cầu của nhà tuyển dụng; 30% tìm được việc làm ít sử dụng đến chuyên môn được đào tạo; số còn lại làm việc không liên quan đến chuyên ngành được đào tạo. Còn theo các doanh nghiệp, một trong những nguyên nhân khiến không ít những sinh viên ra trường phải làm trái ngành, trái nghề là sinh viên chưa có định hướng nghề nghiệp đúng trước khi vào trường; thiếu sự tư vấn trong hướng nghiệp để chọn lựa việc làm phù hợp với năng lực; thiếu kỹ năng thực hành nghề nghiệp; lúng túng khi áp dụng lý thuyết vào thực tế; yếu kém về ngoại ngữ, v.v. Trong khi đó, tình trạng thiếu hụt nhân lực trầm trọng tại các ngành nghề vẫn tiếp tục xảy ra, chủ yếu là ngành tài chính - ngân hàng, công nghệ thông tin, du lịch, dệt may, da giày, gỗ, v.v. Ðể việc đào tạo đáp ứng nhu cầu xã hội, nhu cầu doanh nghiệp, cần có sự chuyển biến đột phá và liên kết giữa nhà trường - doanh nghiệp - sinh viên. 6.kết hợp đào tạo quốc tế:tận dụng những kinh nghiệm của các nước đi trước đã trải qua ta có thể mở rộng các hình thức liên kết đào tạo với những nước phát triển để có thể học hỏi được những kinh nghiệm kỹ thuật của họ mà không phải tốn kém đầu tư nhiều.chúng ta cũng có thể thuê, mời các chuyên gia giỏi sang nước ta làm việc từ đó sẽ học hỏi được rất nhiều. Cho lao động sang được ngoài lao động và học tập sau này quay về nước sẽ góp sức vào quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa song song với đó ta có thể kêu gọi sự đóng góp của kiều bào Việt Nam ở nước ngoài quay về nước đầu tư làm ăn.để thực hiện được những biện pháp này phải có sự kết hợp của nhiều bộ nghành địa phương và phải có những chính sách ưu đãi hợp lý. Kết luận Qua phân tích ở trên chúng ta đã thấy rằng tình trạng lao động kỹ thuật của chúng ta hiện nay vừa thiếu vừa yếu về mọi măt, trong mấy năm vừa qua tình trạng thiếu về số lượng lao động kỹ thuật đã được giải quyết phần nào nhưng vẫn còn thiếu rất nhiều trước bối cảnh nước ta đã gia nhập wto.tình trạng số lượng lao động kỹ thuật là vậy nhưng tình trạng chất lượng lao động kỹ thuật còn đáng báo động hơn. Để có thể hoàn thành mục tiêu đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại thì cần phải phát huy tối đa sức mạnh của lao động kỹ thuật. vì chỉ có thế chúng ta mới nắm bắt được những máy móc tiến bộ khoa học kỹ thuật hiện đại tiến tới làm chủ được những công nghệ hiện đại.để làm được điều đó chúng ta phải đẩy nhanh đào tạo lao động kỹ thuật có chất lượng cao để đáp ứng nhu cầu thực tế. cũng cần phải có sự tham gia của nhà nước người dân doanh nghiệp và toàn xã hội Giả quyết vấn đề lao động kỹ thuật trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay là một vấn đề phức tạp do hiểu biết còn hạn chế và thời gian có hạn nên đề tài không tránh khỏi những sai sót rất mong sự đóng góp của các thầy cô giáo và các bạn sinh viên. Mục lục Chương1:sự cần thiết của lao động kỹ thuật trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Khái quát về thị trường lao động việt nam. Vai trò của lao động kĩ thuật hiện nay 1. Một số khái niệm cơ bản 2.đặc điểm của lao động kĩ thuật . 2. Các nhân tố ảnh hưởng đến số lượng và chất lượng lao động kĩ thuật. 2.1. ảnh hưởng đến số lượng lao động kĩ thuật 2.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng lao động kĩ thuật 3. Vai trò của lao động kĩ thuật trong tăng trưởng và phát triển kinh tế. Chương2:thực trạng đào tạo và sử dụng lao động kỹ thuật của việt nam hiện nay. 1. Khái quát về tình hình phát triển chung của lực lượng lao động 2.đào tạo lao động kĩ thuật 2.1 số lượng 2.2 chất lượng 2.3 đào tạo không theo nhu cầu của nền kinh tế(đào tạo không theo tín hiệu của thị trường) 3.thực trạng sử dụng lao động kĩ thuật hiện nay 4.1 Thực trạng giải quyết việc làm lao động kĩ thuật 4.2 Những kết quả đạt được và những tồn tại cần giải quyết khắc phục 4.3 Khủng hoảng thiếu về lao động lành nghề có tay nghề cao Chương3:định hướng.giải pháp đào tạo và sử dụng lao động kỹ thuật 1.định hướng đào tạo và sử dụng 1.giải pháp chính sách của nhà nước 2.phía doanh nghiệp 3.phía người lao động kĩ thuật 4.sự kết hợp giữa nhà nước doanh nghiệp và người lao động. 5.kết hợp đào tạo quốc tế. Kết luận: - danh mục tài liệu tham khảo Danh mục tài liệu tham khảo: giáo trình kinh tế phát triển giáo trình kế hoạch hóa khoa kế hoạch và phát triển trường đại hoc kinh tế quốc dân giáo trình kinh tế công cộng thời báo kinh tế Việt Nam trang wed của tổng cục thống kê các công cụ tìm kiếm khác trên mạng internet

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc6005.doc
Tài liệu liên quan