Đề tài Thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam

Tiếp tục xây dựng hoàn thiện môi trường đầu tư hấp dẫn thông thoáng, rõ ràng, ổn định và mang tính cạnh tranh cao. * Đơn giản hoá công tác hành chính, thực hiện công tác hoàn thiện thủ tục tại mỗi đầu mối, rút ngắn thủ tục hải quan, thủ tục thuế quan. * Mở rộng thêm một số lĩnh vực cho phép đầu tư 100% vốn nước ngoài, khuyến khích hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài đối với dự án công nghệ cao, công nghệ mới, cho phép linh hoạt chuyển đổi hình thức đầu tư liên doanh thành doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. * Nhanh chóng ban hành văn bản hướng đãn về việc cấp giấy phép chứng nhận quyền sử dụng đất sổ đỏ cho các doanh nghiệp hoạt động trong khu vực công nghiệp, khu chế xuất cần nhanh chóng sửa đổi luật đất đai cho phù hợp với những cam kết trong hiệp định thương mại cho phép các nhà đầu tư nước ngoài và Việt kiều về đầu tư lâu dài ở Việt Nam có thể mua nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất.

doc49 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1356 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
7,3 4,2 Gia Lai 3 29,9 19,1 Ninh Bình 8 90,3 41,8 Đắk Lắk 6 28,9 12,0 Đông Bắc 171 1623,1 649,0 Lâm Đồng 57 871,3 131,4 Hà Giang 1 0,5 0,5 Đông Nam Bộ 2230 20663,7 9098,1 Cao Bằng 2 2,0 1,7 TP.HCM 1178 10721,9 5013,4 Lào Cai 11 3,2 17,5 Ninh Thuận 3 27,1 11,5 Bắc Kạn 15 64,8 29,9 Bình Phước 390 2016,9 926,7 Lạng Sơn 17 18,8 13,45 Tây Ninh 47 242,8 98,8 Tuyên Quang 2 8,2 2,9 Bình Dương 111 174,6 68,1 Yên Bái 7 16,9 11,5 Đồng Nai 370 3999,5 1558,3 Thái Nguyên 2 3,4 1,7 Bình Thuận 23 93,4 39,8 Phú Thọ 37 441,2 191,9 Bà Rịa-Vũng Tàu 108 33387,5 1381,5 Bắc Giang 14 148,2 63,6 Đồng Bằng SCL 173 953,6 491,8 Quảng Ninh 63 885,9 314,3 Long An 56 294,8 169 Tây Bắc 12 59,0 22,3 Đồng Tháp 9 16,6 9,6 Lai Châu 2 14,2 4,4 An Giang 12 18,9 10,9 Sơn La 3 21,6 7,9 Tiền Giang 11 96,0 41,1 Hòa Bình 7 2,2 17,0 Vĩnh Long 6 10,8 7,0 Bắc Trung Bộ 57 887,0 352,4 Bến Tre 9 34,0 14,2 Thanh Hóa 11 430,1 143,2 Kiên Giang 16 231,5 113,9 Nghệ An 13 222,6 88,3 Cần Thơ 35 182,1 74,5 Hà Tĩnh 9 52,9 19,5 Trà Vinh 6 36,9 15,2 Quảng Bình 6 34,6 12,0 Sóc Trăng 1 0,8 0,7 Quảng Trị 1 3,2 3,2 Bạc Liêu 12 31,2 35,7 Huế 17 143,6 86,2 Tổng số 3630 3871,1 17644,9 4.2 Những kết quả chưa đạt được: FDI chỉ tập trung vào những địa phương có nhiều thuận lợi như các thành phố lớn, các trung tâm công nghiệp trong khi các tỉnh miền núi, nông thôn còn quá nhỏ bé, không đáng kể. Chẳng hạn, TP. Hồ Chí Minh chiếm 33,6% số dự án và 28,8% tổng vốn đầu tư; Hà Nội chiếm 13,8% số dự án và 28,8% tổng vốn đầu tư; Đồng Nai chiếm 9,3% số dự án và 8,7% vốn đầu tư. Tính chung cho 12 năm (1988 - 1999) bẩy tỉnh: TP.Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu chiếm tới 75% số dự án và 76% tổng số vốn đăng ký trong cả nước. Trong khi ở các địa phương khác chiếm chưa đến 1% số dự án cũng như vốn đầu tư. Qua số liệu trên ta thấy sự mất cân đối quá lớn trong việc huy động FDI vào các dịa phương. Nhà nước cần có các biện pháp, chính sách huy động FDI vào các địa phương sao cho cân đối, hợp lý, đáp ứng được nhu cầu vốn đầu tư phát triển kinh tế của từng địa phương, góp phần giảm khoảng cách giữa các địa phương, giữa nông thôn với thành thị, giữa miền núi và đồng bằng. Nhà nước nên khuyến khích đầu tư vào khu vực nông thôn và miền núi, tạo công ăn việc làm, nâng cao thu nhập cho người dân khu vực này góp phần xóa đói giảm nghèo, đồng thời tạo ra một lượng cầu lớn về lao động góp phần giải quyết thất nghiệp trá hình ở khu vực nông thôn và dần chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ phù hợp với chính sách của Đảng và Nhà nước ta. 5. Kết quả huy động FDI theo đối tác đầu tư nước ngoài 5.1 Những kết quả đạt được: Theo số liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, đến nay đã có 67 nước và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư tại Việt Nam, trong đó xuất hiện ngày càng nhiều các tập đoàn, công ty xuyên quốc gia có năng lực về tài chính và công nghệ như: Toyota, Samsung, Nissan, Ford... Đặc biệt những chính sách thích hợp để chuyển hướng thu hút FDI của Việt Nam trong năm 1998 đã có những tác động tích cực nên cơ cấu đối tác nước ngoài trong lĩnh vực FDI đã có sự thay đổi quan trọng. Nếu như giai đoạn đầu, các chủ đầu tư lớn đều thuộc các nước láng giềng, thì gần đây, FDI từ các nước Châu Âu, Mỹ tiếp tục chiếm tỷ lệ cao trong tổng nguồn FDI như: riêng Pháp có 13 dự án, vốn đăng ký 303 triệu USD; kể từ tháng 12 năm 1994 khi lệnh cấm vận kinh tế của Mỹ được bãi bỏ, ngày càng nhiều các công ty lớn của Mỹ như: Coca Cola, Pepsi Cola, IBM, Motorola... đã và đang tiếp tục đầu tư vào Việt Nam; đầu tư của Anh, Canada, Đức vào Việt Nam vẫn còn nhỏ, không đáng kể. Trong năm 1999, FDI vào Việt Nam của nhóm G7 đạt 532,2 triệu USD, chiếm 34% tổng vốn FDI vào Việt Nam, tuy vậy trong năm 2000, các nước Châu á (đặc biệt là các nước Bắc á) vẫn dẫn đầu bảng tổng sắp. Trong đó Đài Loan vươn lên hàng đầu, đứng thứ ba là Nhật Bản, kế đó là Hàn Quốc. Theo bảng thống kê dưới đây ta sẽ thấy rõ hơn. Số dự án đầu tư nước ngoài được cấp giấy phép 1988 - 2001 phân theo đối tác đầu tư Quốc gia Số dự án Vốn đăng ký Vốn pháp định Singapore 274 6157,3 2095,3 Đài Loan 749 5351,9 2322,8 Nhật Bản 336 3604,2 1866,1 Hồng Kông 338 3701,5 1546,1 Hàn Quốc 388 3338,8 1308,6 Pháp 168 2582,7 1346,7 Liên bang Nga 70 1589,3 963,0 Mỹ 144 1452,5 622,6 Anh 48 1782,6 1430,8 Nguồn: Niên giám thống kê 2001. 5.2 Những kết quả chưa đạt được: Trong huy động FDI của các nước đối tác, kết quả đạt được cho thấy sự mất cân đối và kém hiệu quả trong huy động FDI. Theo số liệu thống kê thì nguồn FDI từ các nước Châu á chiếm hơn 70%, trong đó Đài Loan, Hàn Quốc và Nhật Bản chiếm tới 57% tổng số dự án FDI và 57% vốn FDI vào Việt Nam. Trong khối ASEAN chỉ có Singapore, Malaysia có dự án đầu tư ở Việt Nam với 575 dự án, chiếm 21% và vốn đăng ký đạt 8868 triệu USD. Phần lớn nguồn FDI giai đoạn 1988 - 2000 tại Việt Nam là từ các nước trong khu vực. Trong khi vốn đầu tư từ các nước Tây Âu, Bắc Mỹ, G7 trừ Nhật Bản lại quá thấp. Chính vì thể khi cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực xảy ra, Việt Nam đã phải chịu ảnh hưởng không tốt từ cuộn khủng hoảng này, làm cho tốc độ thu hút FDI từ năm 1997 đến năm 2000 bị giảm đáng kể. Do môi trường đầu tư còn kém hấp dẫn so với các nước khác trong khu vực nên khả năng cạnh tranh để huy động FDI của Việt Nam còn kém, nên dòng FDI vào các nước Malaysia, Singapore, Trung Quốc, Thái Lan... cao hơn Việt Nam rất nhiều. Theo số liệu thống kê FDI vào Singapore là 45.254 triệu USD; Malaysia 27.437 triệu USD; Thái Lan 18.275 triệu USD. Trong khi đó FDI vào Việt Nam trong thời gian tương ứng chỉ đạt 11.852 triệu USD, nghĩa là chỉ bằng 26% so với Singapore, 43% so với Malaysia và bằng 65% so với Thái Lan. Khác với các nhà đầu tư ở Châu á như Hàn Quốc, Hồng Kông, Đài Loan, Singapore thì Mỹ, Nhật Bản và các nước Tây Âu là những nước có tiềm lực kinh tế mạnh, đầu tư khắp thế giới nhưng có trọng điểm. Ví dụ như: Nhật Bản phân bố đầu tư trực tiếp nước ngoài từ năm 1990 đến năm 1998 là 49.108,5 tỷ yên, trong đó vào ASEAN chỉ có 11% và vào Việt Nam là 3% trong tổng đầu tư của Nhật vào ASEAN. Trong khi đó đầu tư của Nhật vào Indonexia là 32%, Thái Lan 32%, Singapore 20%, Malaysia 15%, Philipin 8% trong tổng đầu tư của Nhật vào ASEAN. Các số liệu trên co thấy Nhật Bản đã quan tâm đầu tư vào ASEAN nói chung nhưng so với các nước trong khu vực thì Việt Nam kém hơn nhiều. Sau lệnh cấm vận của Mỹ được rỡ bỏ, đầu tư của Mỹ vào Việt Nam tăng nhanh hơn so với Nhật Bản nhưng thị phần của Việt Nam trong FDI của Mỹ thì rất nhỏ bé. Các nước và các khu vực có lợi thế cạnh tranh hơn so với Việt Nam, đó là lợi thế cạnh tranh cấp cao như: lợi thế lao động, vốn lớn, công nghệ hiện đại, người lao động có chuyên môn cao... còn lợi thế cạnh tranh của Việt Nam là lợi thế cạnh tranh cấp thấp, lợi thế tĩnh: tài nguyên tự nhiên không có khả năng tái sinh, tiền lương thấp, lao động có trình độ và tay nghề cao còn hạn chế. Mà Nhật, Mỹ và các nước Tây Âu có tiềm lực kinh tế mạnh và có nhiều lợi thế cạnh tranh cấp cao nên thị trường đầu tư của các nước này là phạm vi toàn cầu, phù hợp với phạm vi hoạt động rộng lớn của các công ty xuyên quốc gia và để thực hiện liên kết sản xuất theo chiều ngang trong một ngành sản xuất, như thế hiệu quả sẽ lớn hơn. Điều đó khác với các đối tác như Đài Loan, Singapore, Hồng Kông còn kém Nhật, Mỹ và các nước Tây Âu nhiều mặt vì thế Nhật, Mỹ và các nước Tây Âu mới chỉ đầu tư vào Việt Nam với tính chất thăm dò, thị trường đầu tư của Việt Nam thực sự chưa hấp dẫn các nhà đầu tư khó tính này. 6. Kết quả huy động theo hình thức đầu tư: 6.1 Những kết quả đạt được: Hình thức đầu tư Số dự án còn hiệu lực Vốn đầu tư đăng ký (triệu USD) Vốn thực hiện (triệu USD) Tỷ trọng (%) 1, Liên doanh 1042 21192 9942 57,91 2, 100% vốn nước ngoài 1560 11193 5176 30,58 3, Hợp đồng hợp tác kinh doanh 130 3796 2648 10,37 4, BOT 4 415 37 1,14 Tổng 2736 36596 17803 100 Nếu phân tích theo hình thức đầu tư thì bức tranh đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đang chuyển biến theo khuynh hướng hình thức 100% vốn nước ngoài ngày càng tăng, hình thức liên doanh ngày càng giảm. Nếu chia 13 năm thu hút FDI của Việt Nam thành những giai đoạn nhỏ, ta sẽ thấy: * Giai đoạn 1988 - 1992: Hình thức liên doanh đống vai trò chủ đạo, chiếm trên 70% tổng số dự án FDI, hình thức 100% vốn chỉ chiếm 12% tổng số dự án. * Giai đoạn 1993 - 1996: Số dự án 100% vốn nước ngoài đã tăng lên 38% tổng số dự án. * Giai đoạn 1996 - 1999: Số dự án 100% vốn nước ngoài chiếm tới 64% tổng số dự án. Riêng năm 2000, số dự án 100% vốn nước ngoài đã lên đến 286 dự án, gấp lần 5 lần số dự án liên doanh (58 dự án). Ngoài ra hình thức BOT đang được Nhà nước cho phép đăng ký thực hiện và triển khai ngày càng tăng. Nghiên cứu các hình thức đầu tư cho thấy, các hình thức FDI hiện nay vẫn chưa đủ sức hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài, Nhà nước cần tiếp tục nghiên cứu mở rộng, bổ sung thêm các hình thức đầu tư mới như: cho phép thành lập các công ty cổ phần có vốn FDI. 6.2 Kết quả chưa đạt được: * Trong quá trình phát triển, các doanh nghiệp liên doanh ở Việt Nam đã xuất hiện tình trạng không tương xứng giữa đối tác trong nước là những doanh nghiệp có tiềm lực tài chính nhỏ bé, công nghệ và trình độ quản lý lạc hậu với đối tác nước ngoài là các tập đoàn đa quốc gia hùng mạnh; nên trong thời gian qua giảm cả về số lượng và vốn đăng ký đầu tư theo hình thức liên doanh chứng tỏ sự yếu kém của đối tác Việt Nam, hợp tác không có hiệu quả làm cho đối tác nước ngoài cảm thấy phiền hà, rắc rối trong điều hành quản lý doanh nghiệp. Do đó, nhà đầu tư nước ngoài muốn nhanh chóng thoát khỏi sự tham gia quản lý của phía Việt Nam. Với sự thay đổi của hệ thống pháp luật của nước ta cùng với sự cạnh tranh thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đang trở nên gay gắt, hình thức doanh nghiệp liên doanh đang dần bị thu hẹp. * Hình thức kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh thực chất là hình thức liên doanh theo hợp đồng chứ không liên doanh theo vốn nên quyền hạn và trách nhiệm của các bên tham gia rất khó xác định. Và hình thức đầu tư này, các nhà đầu tư nước ngoài mới chỉ đầu tư theo tính chất thăm dò, tìm hiểu lẫn nhau. * Đối với hình thức 100% vốn nước ngoài, ta rất khó học tập được kinh nghiệm quản lý kinh doanh và tiếp thu công nghệ hiện đại của đối tác nước ngoài, đồng thời khó kiểm soát được đúng thực chất hoạt động cảu nó nên hình thức 100% vốn nước ngoài chủ yếu tập trung vào những ngành sản xuất trong nước không được khuyến khích. * Hình thức xây dựng - kinh doanh - chuyển giao (BOT) mới hình thành còn rất hạn chế về lượng và lĩnh vực đầu tư. II. Những mặt mạnh trong việc huy động FDI vào Việt Nam trong thời gian qua. 1. Kinh tế chính trị ổn định: Việt Nam là nước có môi trường chính trị ổn định và môi trường hòa bình, hữu nghị, hợp tác trong quan hệ quốc tế đã mở rộng vơi hầu khắp các nước. Môi trường pháp chế đang được tích cực và hoàn chỉnh. Trong điều kiện tình hình chính trị thế giới biến động hết sức phức tạp như cuộc chiến ở Trung đông ngày càng gay gắt, các cuộc khủng bố nổ ra ở khắp nơi, đặc biết vụ khủng bố ngày 11/9 vừa qua ở Mỹ làm cho tình hình chính trị kinh tế thế giới biến động không ngừng. Việt Nam được đánh giá là một trong những nước có môi trường chính trị ổn định nhất. Về kinh tế tương đối ổn định, có khả năng kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, tốc độ tăng trưởng kinh tế thuộc loại cao trên thế giới (năm 2001 tốc độ tăng trưởng là 7%). Đặc biệt trong cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực Đông Nam á năm 1997, Việt Nam là nước ít chịu ảnh hưởng nhất, điều đó chứng tỏ nền kinh tế Việt Nam khá ổn định, những điều chỉnh kinh tế vĩ mô là hợp lý. Môi trường kinh tế - chính trị ổn định tạo tâm lý yên tâm cho các nhà đầu tư nước ngoài về những rủi ro do biến động kinh tế, chính trị. Đây chính là điểm mạnh để ta tích cực khai thác dòng FDI vào Việt Nam. 2. Luật đầu tư nước ngoài ngày càng hoàn thiện: Thực hiện đường lối mở cửa, phát triển mạnh kinh tế đối ngoại, luật đầu tư nước ngoài của Việt Nam đã được ban hành từ tháng 12 năm 1987 trải qua hơn 10 năm đí vào thực tiễn cuộc sống, đầu tư nước ngoài (FDI) đã phát huy nhiều tác dụng như chúng ta đã thu hút được 3672 dự án, tổng vốn đăng ký 41603,8 triệu USD với tổng số vốn pháp định 19617,8 triệu USD; thu hút được khoảng 67 đối tác trên khắp thế giới đầu tư vào hầu hết các ngành nghề sản xuất. Vốn FDI cũng được thu hút vào 61 tỉnh, thành phố, đóng góp đáng kể vào tăng trưởng kinh tế và tạo ra nhiều công ăn việc làm cho người lao động. Kết quả đạt được là do luật đầu tư nước ngoài của Việt Nam ngày càng được sửa đổi hoàn thiện theo hướng ngày càng thông thoáng và hấp dẫn các đối tác đầu tư nước ngoài. Những sửa đổi tạo sức hấp dẫn thu hút FDI cụ thể một số điểm sau: * Luật sửa đổi bổ sung một số điều của luật đầu tư nước ngoài được Quốc Hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua tháng 6 năm 2000 đã bổ sung thêm điều khoản: “Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các bên tham gia hợp đồng, hợp tác kinh doanh trong quá trình hoạt động được phép chuyển đổi hình thức đầu tư, chia, tách, sát nhập, hợp nhất doanh nghiệp. Chính phủ quy định về điều kiện, thủ tục chuyển đổi hình thức đầu tư, sát nhập, hợp nhất doanh nghiệp.” * Nghị định 24/2000/NĐ-CP ngày 31-7-2000 của Chính phủ: Theo nghị định này, một số lĩnh vực đầu tư như xây dựng, kinh doanh cơ sở hạ tầng khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao đã được dưa ra khỏi doanh mục bắt buộc phải liên doanh, thay vào đó nhà đầu tư có thể đầu tư dưới hình thức 100% vốn nước ngoài. Hiện nay, luật đầu tư nước ngoài của Việt Nam chỉ hạn chế đầu tư dưới hình thức 100% vốn nước ngoài trong 8 lĩnh vực là: - Xây dựng kinh doanh mạng viễn thông quốc tế, viễn thông nội hạt. - Khai thác chế biến dầu khí, khoáng sản quý hiếm. - Dịch vụ tư vấn (trừ tư vấn kỹ thuật). - Vận tải đường hàng không, đường sắt, đường biển, vận tải hành khách công cộng, xây dựng cảng, ga hàng không. - Sản xuất thuốc nổ công nghiệp. - Trồng rừng. - Du lịch lữ hành. - Văn hóa. Ngoài những lĩnh vực này, nhà đầu tư nước ngoài được chủ động lựa chọn dự án đầu tư, hình thức đầu tư, đối tác đầu tư, địa bàn, thời hạn đầu tư, thị trường tiêu thụ sản phẩm, tỷ lệ góp vốn pháp định phù hợp với quy định của luật đầu tư nước ngoài. Đối với hình thức hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh, để tạo điều kiện cho triển khai các dự án và cho các nhà đầu tư nước ngoài , nghị định 24/2000/NĐ-CP quy định rằng trong quá trình kinh doanh, nếu xét thấy cần thiết các bên hợp doanh có thể thỏa thuận thành lập ban điều phối để thực hiện hợp đồng hợp tác kinh doanh. Theo luật sửa đổi bổ sung một số điều của luật đầu tư nước ngoài thì các doanh nghiệp liên doanh không bắt buộc phải lấy ý kiến thống nhất của hội đồng quản trị đối với quyết định liên quan đến bổ nhiệm và miễn nhiệm kế toán trưởng, chấp thuận báo cáo tài chính, chi phí hàng năm và vay vốn đầu tư. Sự điều chỉnh như trên tạo điều kiện lành mạnh hơn cho quá trình ra quyết định của nhà đầu tư. Theo luật mới sửa đổi thì doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các bên hợp doanh thực hiện dự án đầu tư không thuộc lĩnh vực đầu tư có điều kiện về hình thức đầu tư được chuyển đổi hình thức đầu tư. Như vậy, với việc xây dựng và sửa đổi luật đầu tư nước ngoài của Việt Nam ngày càng hoàn thiện, thông thoáng, tạo thế chủ động và có lợi cho đối tác đầu tư, làm cho môi trường đầu tư của Việt Nam ngày càng trở nên hấp dẫn hơn. 3. Môi trường đối với đầu tư nước ngoài ngày càng thông thoáng: Chính phủ Việt Nam đã có nhiều thay đổi trong các chính sách đối với đầu tư nước ngoài theo hướng có lợi hơn cho đối tác. Với mục đích đẩy nhanh tốc độ thực hiện các dự án đã đăng ký trên tinh thần coi trọng vốn thực hiện hơn vốn đăng ký, nghị định số 10 và chỉ thị số 11 của Chính phủ ra đời nhằm phát huy nội lực, tận dụng FDI làm mọi việc giúp các nhà đầu tư yên tâm, trụ vững ở Việt Nam trong hoàn cảnh khó khăn. Thời điểm bắt đầu là sau hội nghị đầu tiên của Chính phủ và các nhà đầu tư nước ngoài vào khoảng tháng 2/1998, Nhà nước chủ trương xóa bỏ một số thủ tục hành chính rườm rà như việc cấp giấy phép đầu tư, thành lập doanh nghiệp, đăng ký kinh doanh... thời gian làm thủ tục kiểm hàng, giao nhận hàng ở hải quan cũng đã rút ngắn bằng nửa so với trước đây. Chính phủ thực hiện các chính sách ưu đãi đối với đầu tư nước ngoài như: Tăng mức thuế ưu đãi lợi tức cho một số doanh nghiệp, miễn thuế lợi tức 4 năm và giảm 5% trong 4 năm tiếp theo, thậm chí thuế lợi tức đến 8 năm đối với các dự án ưu đãi đặc biệt. Đông thời cũng tiến hành giảm giá thuê đất khoảng 25% cho 170 doanh nghiệp. Bên cạnh đó, Chính phủ đã cho phép điều chỉnh tỷ lệ nội tiêu và khuyến khích xuất khẩu, đồng thời các doanh nghiệp có vốn FDI cũng được mua hàng hóa Việt Nam để xuất khẩu... Việc phân cấp giấy phép đầu tư cũng được phân cấp toàn diện cho tất cả các tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương được cấp giấy phép đối với các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài với quy mô không quá 5 triệu USD cho một dự án (riêng Hà Nội và TP.Hồ Chí Minh là 10 triệu) không kể 10 ban quản lý đã được ủy quyền trước đây, nay bộ Kế hoạch và đầu tư tiếp tục ủy quyền cho các ban quản lý khu công nghệp khác. Cách phân cấp quản lý này đã rút ngắn thời gian chờ đợi cho các doanh nghiệp có vốn FDI, đảm bảo thời gian tối đa là 30 ngày, ở TP.Hồ Chí Minh chỉ mất có 9 đến 15 ngày để nhận được giấy phép. Bên cạnh đó, do chủ trương ủy quyền cấp giấy phép mà việc nhập khẩu thiết bị, vật tư của doanh nghiệp cũng diễn ra nhanh chóng hơn. Các địa phương thì có điều kiện theo dõi ngay từ đầu khi các dự án mới hình thành và chủ động điều chỉnh, giải quyết các vấn đề phát sinh trong quá trình hoạt động của dự án. 4. Có vị trí địa lý thuận lợi, tài nguyên thiên nhiên phong phú. * Về vị trí địa lý: Việt Nam có vị trí địa lý thuận lợi thể hiện ở các mặt sau: - Nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa Đông Nam á, ở ngã tư nơi gặp gỡ của những luồng gió xuất phát từ các trung tâm lớn bao quanh nên tự nhiên Việt Nam phong phú và đa dạng, có tác động đến cơ cấu, quy mô và hướng phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. - Việt Nam nằm ở rìa phía đông của bán đảo Đông Dương, gần trung tâm Đông Nam á, nước ta trở thành đầu mối giao thông quan trọng đi từ ấn Độ Dương sang Thái Bình Dương và xuống Châu úc hoặc ngược lại. Ngoài ra còn có vùng biển chủ quyền rộng lớn và giàu tiềm năng. Vị trí đó cho phép nước ta có thể dễ dàng phát triển các quan hệ kinh tế - thương mại, văn hóa và khoa học kỹ thuật, đồng thời hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt Nam. * Về tài nguyên thiên nhiên: Việt Nam có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú và đa dạng, trong đó nhiều loại có giá trị kinh tế lớn như: Than trữ lượng khoảng 6 tỷ tấn đứng đầu ở Đông Nam á; dầu khí trữ lượng khoảng 5 tỷ tấn; khoáng sản phong phú về chủng loại, đa dạng về loại hình, một số loại khoáng sản quý hiếm, khoáng sản phi kim loại và suôi khoáng tuyền... có trữ lượng lớn. Theo phát hiện, thăm dò, khoáng sản nước ta có hơn 3500 mỏ và điểm quặng với khoảng 80 loại khoáng sản khác nhau. VD: Sắt, bôxít, thiếc, apatit, nhôm, đồng, vàng, bạc... Những tài nguyên thiên nhên này không những tạo thuận lợi cho các ngành sản xuất công nghệp thỏa mãn yêu cầu phát triển nền kinh tế trong nước mà còn có thể tham gia hợp tác với nước ngoài. 5. Nguồn lao động dồi dào, giá rẻ và có thị trường tương đối lớn. Có hai lý do chính để khiến các công ty đa quốc gia đầu tư vào Việt Nam: yếu tố chi phí thúc đẩy và yếu tố hấp dẫn lôi kéo. Việt Nam được các nhà đầu tư nước ngoài xem là có một nguồn lao động dồi dào, chăm chỉ, trung thành, được giáo dục, với giá rẻ. Dân số Việt Nam tương đối trẻ, đây là một trong những yếu tố hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt Nam bởi vì trong điều kiện thị trường đầu tư trong nước dần bị thu hẹp, cơ hội đầu tư kém hấp dẫn và xu hướng giá lao động ngày càng tăng đẩy chi phí lên cao thì việc đầu tư ra nước ngoài nơi có giá lao động rẻ giúp cho các nhà đầu tư giảm được rất nhiều chi phí, tăng sức cạnh tranh và thuận lợi cho nhà đầu tư. Với một đất nước có trên 80 triệu dân, Việt Nam là một thị trường tiềm năng tiêu thụ sản phẩm và dịch vụ của nước ngoài. Cùng với luật đầu tư nước ngoài của ta cho phép các doanh nghiệp có vốn FDI được chủ động lựa chọn, tìm kiếm thị trường tiêu thụ thì đây là một yếu tố hấp dẫn nhà đầu tư. Ngoài ra Việt Nam còn có đường biên giới giáp với Trung Quốc, Thái Lan và Lào là thị trường lớn cho các nhà đầu tư vào Việt Nam nhắm tới mà họ có nhiều lợi thế cạnh tranh. III. Những hạn chế trong việc huy động FDI vào Việt Nam trong thời gian qua. Trong thời gian qua, chính phủ Việt Nam thường xuyên lắng nghe các nhà đầu tư và ban hành nhiều biện pháp cải thiện môi trường đầu tư, tháo gỡ những khó khăn cho doanh nghiệp có vốn FDI như: sửa đổi luật đầu tư nước ngoài, miễn giảm thuế, tiền thuê đất, giảm giá một số mặt hành, dịch vụ; điều chỉnh mục tiêu hoạt động của nhiều dự án, bổ sung các biện pháp khuyến khích và bảo đảm đầu tư... Tuy nhiên, cho đến nay vẫn còn một số hạn chế gây khó khăn cho việc huy động FDI vào Việt Nam, cụ thể là một số hạn chế sau: 1. Hệ thống luật pháp: Hiến pháp là nguồn gốc của hệ thống pháp luật, luật do Quốc Hội thông qua là hình thức lập pháp tối cao. Các cấp luật pháp thấp hơn bao gồm các chỉ thị của Hội đồng Nhà nước, tiếp đến là các nghị định của hội đồng Bộ trưởng và thông tư của các bộ, ngoài ra còn nhiều quyết định quan trọng do UBND cấp thành phố, tỉnh và huyện đưa ra. Trên thực tế, một nghị định hành chính có thể làm thay đổi cách áp dụng của luật, như trong trường hợp về quyền sử dụng đất áp dụng cho đầu tư nước ngoài. Tư pháp được thể hiện qua các Tòa án nhân dân, mà trên thực tế đây không phải là cơ quan tách biệt hay độc lập với cơ cấu Chính phủ quốc gia như ở những nước Tư bản. Đây là điều mà các nhà đầu tư nước ngoài sợ nhất. Các tòa án kinh tế xử những vụ tranh chấp kinh tế và kinh doanh. Các hội thẩm viên không chuyên nghiệp, cùng với thẩm phán không chuyên nghiệp, được luật cho phép hành xử đối với cả những vấn đề quy tắc và sự việc. Luật có trên giấy tờ, nhưng việc được cưỡng chế thi hành còn yếu và ở mỗi lĩnh vực hay mỗi bên hữu quan lại áp dụng khác nhau. Các tranh chấp thương mại vẫn thường xảy ra vì luật kinh doanh không phải lúc nào cũng được áp dụng hoặc luôn luôn thay đổi, cho nên khuôn khổ pháp lý biến động... 2. Chính sách với đầu tư nước ngoài: Mặc dù Chính Phủ đã có nhiều thay đổi trong các chính sách huy động vốn FDI nhưng vẫn còn một số hạn chế sau: * Chính sách hai giá: Việt Nam đã áp dụng chính sách hai giá giống như Trung Quốc. Theo chính sách này, chúng ta đòi nước ngoài trả gấp đôi cho hầu hết mọi thứ, kể cả nguồn nước và nhà ở so với người trong nước ví dụ: Giá quảng cáo gấp 6 lần so với giá các công ty trong nước phải trả, về vé tầu đi Hà Nội Sài Gòn giá 260 USD/1 người trong khi đó giá vé của một người trong nước thì chỉ có 50 USD/1 người một vé máy bay đi từ Hà Nội vào thành phố Hồ Chí Minh là 350 USD /1 người áp dụng đối với khách nước ngoài so với 135 USD/1 người khách trong nước. Với số tiền đó ở Mỹ có thể bay từ Washington đến Los Angeles với khoảng cách gấp 5 lần từ Hà Nội đến thanh phố Hồ Chí Minh. Mức hoạt động FDI càng cao người nước ngoài đến Việt Nam và chịu trả giá cao hơn để trợ giá cho người tiêu thụ và các ngành công nghiệp trong nước. Do đó chính sách hai giá đã gián tiếp tăng chi phí cho các nhà đầu tư nước ngoài và thực tế đã làm giảm các đối tác đầu tư nước ngoài vào Việt Nam đầu tư. * Chính sách quyền sử dụng đất: Có tới 65% số dự án FDI là các liên doanh giữa các nhà đầu tư nước ngoài với các doanh nghiệp Nhà nước. Thông thường nhà đầu tư nước ngoài góp 70% vốn vào liên doanh bằng máy móc, thiết bị, tiền mặt. Doanh nghiệp Nhà nước góp 30% còn lại mà trong hầu hết các trường hợp dưới hình thức đất đai, bất luận mảnh đất đó là bao nhiêu. Ngay cả luật đất đai mới ban hành 1993 cũng quy định về quyền sử dụng đất, thừa kế và chuyển nhượng đất, đồng thời cũng đưa ra khung giá cơ bản cho các loại đất ở các vùng khác nhau, nhưng các doanh nghiệp có khuynh hướng thổi phồng giá đất đáp ứng đủ 30% vốn đòi hỏi cho liên doanh. Một số doanh nghiệp Nhà nước còn tìm cách đấnh giá phần đóng góp của mình lên đến 50 - 51% số tài sản của liên doanh. Kết quỷ là đẩy giá đất lên gây ra thị trường đất đầu tư đất phi sản xuất Việt Nam. Điều này có hại cho chính sách huy động FDI cho nền kinh tế. Nhiều thủ tục quan liêu đến đất đai còn chưa hợp lý Việt Nam vẫn còn có một tổ chức Chính Phủ đứng ra kiểm soát, công bố các thông tin có liên quan đến đất đai như: Địa chỉ, thời hạn sử dụng khả năng quy hoạch trong tương lai ... có những doanh nghiệp bị giải thể không biết tính giá trị quyền sử dụng đất như thế nào vì sau cơn biến động, giá đất đai giảm nhiều so với khi liên doanh mới ra đời. Bên cạnh đó tình trạng chậm trễ trong công tác đền bù, giải phóng mặt bằng chi phí đã quá cao gây nên những khó khăn cho doanh nghiệp, làm cho chủ trương giảm thuế đất của Chính Phủ đã ban hành mất đi phần nào ý nghĩa của nó. * Thuế thu nhập cá nhân Việt Nam hệ thống thuế lợi tức cá nhân luỹ tiến. Đối với người nước ngoài làm việc tại Việt Nam mà thu nhập hàng năm khoảng 360 đến 600 triệu VND (khoảng 25.700 - 43.000 USD) thuế suất thu nhập là 40% với khoản thu nhập vượt 600 triệu VND thì chịu mức thuế suất áp dụng là 50% ngoài ra tổng thu nhập gộp cũng phải chịu thuế, do chưa có chế độ khấu trừ thuế ở Việt Nam . Do đó, thuế thu nhập là cao so với các nước khu vực và trên thế giới ví dụ: ở Thái Lan thuế suất là 30% cho khoản thu nhập 25.000 - 102.000 USD và 37% cho mức trên 102.000 USD, và ở Trung Quốc còn thấp hơn nữa. Hệ thống thuế của Việt Nam không cho phép khấu trừ thuế theo trợ cấp cá nhân, mức đóng góp và quỹ dự phòng, trả lãi vay, đóng góp vào quỹ bảo hiểm xã hội, vẫn có sự phân biệt giữa người trong nước và nước ngoài, cư trú và không cư trú. * Thủ tục nhập khẩu hàng hoá còn phức tạp, nhiều hải quan nhiều cửa khẩu vẫn yêu cầu phải xuất trình kế hoạch nhập khẩu. * Bổ sung hệ thống ngân hàng. 3. Hạn chế thủ tục hành chính. Thủ tục hành chính còn rườm rà, tệ nạn quan liêu, thiếu của một bộ phận cán bộ công chức gây ách tắc triển khai thực hiện dự án và sản xuất kinh doanh, tình trạng "nhiều cửa nhiều khoá" vẫn đang tồn tại. 4. Cơ sở hạ tầng còn yếu kém. Việt Nam là một trong những nước có thu nhập bình quân trên đầu người thấp nhất khu vực nhưng giá đất và tiện ích ở Việt Nam vào loại cao nhất. Theo ước tính của Việt Nam phải trải qua tình trạng thiếu điện theo mùa là khoảng 250 - 450 MW tức là khoảng 10% công suất điện. Giá của dịch vụ bưu chính viễn thông Việt Nam vào loại cao nhất thế giới ví dụ: một cuộc điện thoại trong một phút gọi từ Hà Nội đi Washington mất 3 USD trong khi gọi từ Washington đến Hà Nội chỉ mất có 75 xu, mức phí Iternet cũng vào loại cao nhất thế giới 15.000 USD phí kết nối đường truyền 64k phí sử dụng 1,24USD/1 giờ trong khi thu nhập bình quân đầu người /ngày khoảng 1 USD. Việt Nam có hệ thống đường bộ cũ kỹ với khoảng 10500 km, chỉ có một phần tư trong số đó được trải nhựa nhưng không được bảo dưỡng tốt. Hệ thống đường sắt dài 2600 km cũng cũ kỹ với 87% tổng chiều dài của đường ngang hẹp 1m với hầu hết các đầu tầu đã vượt quá tuổi thọ cho phép. Hệ thống đường thuỷ mà tầu bè có thể chạy được là 17700 km trong đó chỉ có 5149 km có thể chạy vào mọi thời điểm với hầu hết số lượng tầu bè đã quá cũ và thường xuyên chạy quá tải. Việt Nam có 36 sân bay có đường trải xi măng trong đó có 16 sân bay lớn nhưng chỉ có 3 sân bay cho chuyên gia quốc tế Ngoài ra hệ thống nhà xưởng, các công trình công cộng của ta còn thiếu và phần lớn được xây dựng từ lâu không đáp ứng được yêu cầu sử dụng 5. Hạn chế trong việc xúc tiến, chuẩn bị và triển khai thực hiện FDI. * Về xúc tiến FDI. Công tác vận động xúc tiến đầu tư nước ngoài tuy có cố gắng song vẫn chủ yếu tập trung ở trong nước, trong khi đó thông tin về Việt Nam ở nước ngoài chưa đủ để đáp ứng cho các đối tác nước ngoài hợp tác kinh doanh với chúng ta. Công tác thông tin tuyên truyền phục vụ cho đầu tư nước ngoài của cơ quan Việt Nam ở nước ngoài và kể cả trong nước cũng phải được quan tâm đúng mức. * Về chuẩn bị đầu tư xắp xếp và quản lý dự án đầu tư ở tầm vĩ mô không tốt, thời gian qua đã có nhiều dự án bị giải thể, mất giấy phép đầu tư đưa đến sự thua lỗ thiệt hại cho bên đối tác và Việt Nam, gây nên sự mất tín nhiệm vào môi trường đầu tư đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Hơn nữa khâu quy định đầu tư còn kém, nhiều dự án đầu tư của đối tác muốn đầu tư vào Việt Nam nhưng không nằm trong quy hoạch chúng ta phải từ chối. Về thẩm định dự án đầu tư nước ngoài còn nhiều yếu kém có nhiều dự án lớn của đối tác nước ngoài chúng ta đã bỏ qua vì không có khả năng thẩm định, một số dự án khi thẩm định thì khả thi nhưng sau một số năm hoạt động thì lại không như kết quả thẩm định gây thiệt hại cho cả hai bên nhất là đối với phía Việt Nam. * Về triển khai thực hiện dự án đầu tư. Việc triển khai thực hiện một số dự án đầu tư còn tiếp tục gặp khó khăn trong khâu giải tỏa mặt bằng, chuẩn bị đất đai gây lãng phí mất nhiều công sức kinh phí thời gian của nhà đầu tư, đặc biệt là các dự án có quy mô lớn. Quy định hiện hành chưa rõ ràng thời gian giải phóng mặt bằng chi phí ai chịu, vấn đề cưỡng chế di dời, chi phí đền bù quá lớn, vượt ra ngoài dự kiến của chủ đầu tư, làm tăng chi phí chuẩn bị cho dự án là một trong những nguyên nhân gây ra tình trạng trì trệ thực đầu tư. Chương III Những giải pháp cơ bản đảm bảo vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cho phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2001 - 2005 I. Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2001 - 2005. 1. Mục tiêu tổng quát kế hoạch 5 năm 2001 - 2005 Tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững; ổn định và cải thiện đời sống nhân dân. Chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Nâng cao rõ rệt hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế, mở rộng kinh tế đối ngoại. Tạo chuyển biến rõ rệt và mạnh mẽ về giáo dục và đào tạo, Khoa học, công nghệ, phát huy yếu tố con người. Tạo nhiều việc làm, cơ bản xóa đói giảm nghèo, đẩy lùi các tệ nạn xã hội. Tiếp tục tăng cường kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội hình thành một bước quan trọng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia. 2. Các chỉ tiêu kinh tế. Đưa GDP năm 2005 gấp 2 lần so với năm 1995, nhịp độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm thời kỳ 5 năm 2001 - 2005 là 7,5% trong đó nông lâm ngư nghiệp tăng 4,3%, công nghiệp và xây dựng tăng 10,8%, dịch vụ tăng 6,2%. - Giá trị sản xuất nông lâm ngư nghiệp tăng 4.8%/năm. - Giá trị sản xuất ngành công nghiệp tăng 13%/năm. - Giá trị dịch vụ tăng 7,5%/năm. - Tổng kim ngạch xuất khẩu tăng 16%/năm. * Cơ cấu ngành kinh tế trong GDP đến năm 2005 dự kiến: - Tỷ trọng nông lâm ngư nghiệp 20 - 21%. - Tỷ trọng công nghiệp và xây dựng khoảng 38 - 39%. - Tỷ trọng các ngành dịch vụ 41 - 42%. 3. Vốn đầu tư cần thiết để thực hiện các chỉ tiêu. Theo tính toán và dự báo ban đầu khả năng huy động vốn cho đầu tư phát triển trong những năm tới vào khoảng 830 - 850 nghìn tỷ đồng (theo giá năm 2000), tương đương 59 - 61 tỷ USD, tăng khoảng 11 - 12%/năm, trong đó nguồn vốn đầu tư trong nước chiếm 2/3. Tỷ lệ đầu tư so với GDP chiếm khoảng 31 - 32%, bảo đảm tốc độ tăng trưởng kinh tế 7,5%/năm và có công trình gối đầu cho kế hoạch 5 năm tiếp theo. Trong tổng số vốn đầu tư xã hội, đầu tư phát triển ngân sách Nhà nước chiếm 20 - 21%, đầu tư khu vực doanh nghiệp Nhà nước chiếm 19 - 20%, đầu tư bằng tín dụng Nhà nước chiếm 17 - 18%, khu vực dân cư, doanh nghiệp tư nhân đầu tư trực tiếp 25 - 25%, đầu tư trực tiếp nước ngoài theo dự báo và tính toán ban đầu, dự kiến và đưa vào thực hiện chiếm 16 17%. II. Những giải pháp cơ bản đảm bảo vốn FDI cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2001 - 2005từ phía Nhà nước 1. Hoàn thiện pháp luật về đầu tư. * Trước hết, sửa đổi bổ sung một số điều về luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam để đảm bảo môi trường đầu tư có sức hấp dẫn và tính cạnh tranh cao hơn so với các nước trong khu vực đó là: Phải phù hợp với pháp luật chung của nước ngoài để tạo mặt bằng ưu đãi bình đẳng cho các dự án đầu tư trong và ngoài nước. Đảm bảo sự ổn định của luật pháp và chính sách đối với đầu tư nước ngoài nhằm tạo và giữ lòng tin cho các nhà đầu tư nước ngoài. * Sửa đổi một số điều khoản trong văn bản pháp luật có liên quan đến đầu tư nước ngoài nhằm tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp: Cho phép các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài được thế chấp tài sản gắn với giá trị quyền sử dụng đất tại các ngân hàng Việt Nam, ngân hàng liên doanh và chi nhánh ngân hàng nước ngoài để tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp được vay vốn phát triển sản xuất - kinh doanh. Điều chỉnh mức phải chựu thuế thu nhập cao hơn cho người lao động làm việc tại các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam để khuyến khích người Việt Nam đảm nhận các vị trí cao, vị tri quản lý và chuyên môn cao. Đó chính là cơ hội tốt để nâng cao trình đọ cho người lao động, để có thể tự đảm trách nhiệm công việc có hiệu quả khi chuyển giao các doanh nghiệp có vón đầu tư nước ngoài dưới mọi hình thức và thành phần kinh tế. Quy định chặt chẽ hơn nữa việc ký kết hợp đồng lao động với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nhằm đảm bảo quyền lợi cho người lao động Việt Nam, tránh những xung đột mà thiệt hại về tinh thần và vật chất thường nghiêng về phía người Việt Nam. Tóm lại: Phải ra sức xây dựng hệ thống pháp luật đầu tư đồng bộ, hấp hẫn, điều chỉnh quá trình đầu tư đồng thời, hoàn thiện và sửa đổi các quan hệ có liên quan như về luật công dân, luật thương mại, luật bảo vệ môi trường, luật phá sản doanh nghiệp, luật đất đai, luật về cạnh tranh... phải coi yếu tố pháp lý vừa là nhân tố quan trọng vừa là cơ sở để xây dựng vững chắc quyền tự chủ kinh tế, tự chủ chính trị của đất nước. 2. Xây dựng hoàn thiện môi trường đầu tư: Tiếp tục xây dựng hoàn thiện môi trường đầu tư hấp dẫn thông thoáng, rõ ràng, ổn định và mang tính cạnh tranh cao. * Đơn giản hoá công tác hành chính, thực hiện công tác hoàn thiện thủ tục tại mỗi đầu mối, rút ngắn thủ tục hải quan, thủ tục thuế quan. * Mở rộng thêm một số lĩnh vực cho phép đầu tư 100% vốn nước ngoài, khuyến khích hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài đối với dự án công nghệ cao, công nghệ mới, cho phép linh hoạt chuyển đổi hình thức đầu tư liên doanh thành doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. * Nhanh chóng ban hành văn bản hướng đãn về việc cấp giấy phép chứng nhận quyền sử dụng đất sổ đỏ cho các doanh nghiệp hoạt động trong khu vực công nghiệp, khu chế xuất cần nhanh chóng sửa đổi luật đất đai cho phù hợp với những cam kết trong hiệp định thương mại cho phép các nhà đầu tư nước ngoài và Việt kiều về đầu tư lâu dài ở Việt Nam có thể mua nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất. * Tiếp tục sửa đổi chế độ hai giá (còn ở mức khá cao) đối với người nước ngoài và chi phí hạ tầng để tạo sự cạnh tranh: nhanh chóng điều chỉnh giá chi phí hàng hoá và dịch vụ, từng bước tiến tới mặt bằng giá, phí thống nhất giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài về giá vé máy bay, đường sắt, điện nước, phí tư vấn thiết kế cước vận chuyển,... soát xét lại giá cho thuê đất và bổ sung các chính sách ưu đãi có sức hấp dẫn cao đối với nhưng lĩnh vực, khu chế xuất, khu công nghiệp cần thu hút vốn FDI. * Tiếp tục nghiên cứu mức khởi điểm, chịu thuế thu nhập cá nhân đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp thực hiện chính sách thay thế dần nhân viên người nước ngoài bằng người Việt Nam. * Rà soát, loại bỏ các giấy phép, quy định không cần thiết liên quan đến đầu tư nước ngoài. * Về cơ sở hạ tầng. Cần tiến hành nâng cấp hệ thống đường bộ cả nước, cải tiến sâu săc các hoạt động của ngành hàng không Việt Nam trên cơ sở phải hoạch toán kinh tế, cần hiện đại hoá sân bay Nội Bài, Đà Nẵng, sân bay Tân Sơn Nhất nhằm đáp ứng các chuyến bay trong nước và quốc tế, mặt khác đảm bảo độ an toàn cho các chuyến bay, cải thiện hệ thống giao thông đô thị và chú trọng phát triển mạng lưới giao thông ở các vùng nông thôn, vùng xa căn cứ trong quy hoạch phát triển chi tiết của từng địa phương; cần hợp tác với các nước láng giềng để mở rộng hệ thống giao thông quốc tế, cụ thể mở các tuyến đường sang các nước Lào, Campuchia và Trung Quốc; cải tạo hệ thống cảng biển, nâng cao hiệu quả hoạt động đặc biệt các cảng: Sài Gòn, Vũng Tầu; hệ thống đường sắt cũng cần cải tạo nâng cấp như mở rộng độ rộng đường ray, làm mới, thay dần các tầu cũ bằng các tầu mới hiện đại chất lượng cao; phát triển hoàn thiện hệ thống thông tin liên lạc, lưu ý tăng số kênh thông tin quốc tế, cần điều chỉnh mức cước phí thông tin và bưu điện theo hướng phù hợp với người sử dụng và ngang bằng với các nước trong khu vực và thế giới, mở rộng mạng lưới internet trên toàn quốc, đặc biệt là những trung tâm phát triển kinh tế; cải tạo và xây dựng mới các công trình cung cấp điện nước và đảm bảo đủ cho sinh hoạt và sản xuất đồng thời cũng phải điều chỉnh giá điện nước cho hợp lý; Nhà nước cần xây dựng hiện đại các công trình phục vụ sản xuất, các công trình công cộng và khu vui chơi giải trí đáp ứng nhu cầu nghỉ ngơi giải trí. 3. Đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến đầu tư, xúc tiến thương mại và chuẩn bị triển khai các dự án đầu tư. * Các công tác vận động xúc tiến đầu tư, xúc tiến thương mại cần được nghiên cứu cải tiến đổi mới về nội dung và phương pháp thực hiện, coi trọng công tác thực hiện kế hoạch và chương trình hành động một cách cụ thể và hiệu quả hơn, coi việc xúc tiến đầu tư, xúc tiến thương mại là nhiệm vụ trung tâm của cơ quan TW và địa phương: * Nhà nước cần lập các trung tâm xúc tiến đầu tư, xúc tiến thương mại tại các Bộ ngoại giao, Bộ thương mại, Bộ kế hoạch và đầu tư, Bộ công nghiệp, Bộ tài chính, UBND tỉnh, thành phố, các đại sứ quán để chủ động quảng bá vận động thu hút vốn đầu tư nước ngoài. * Đối với các danh mục dự án kêu gọi đầu tư đã được phê duyệt quy hoạch thì cần có chương trình, kế hoạch chủ động động động viên, xúc tiến đầu tư một cách cụ thể đối với từng dự án trực tiếp với từng tập đoàn, công ty đa quốc gia, các nhà đầu tư có tiềm năng và cả Việt kiều tại hải ngoại. * Các chính sách vận động thu hút FDI phải hết sức linh hoạt, phù hợp với đặc điểm của từng nước, từng công ty đa quốc gia. Do vậy, các cơ quan nhà nước cần nghiên cứu kỹ tình hình kinh tế, thị trường đầu tư, luật pháp các nước, chính sách thu hút đầu tư của các nước để kịp thời có đối sách thích hợp. * Định kỳ 6 tháng, 1năm, chính phủ các bộ ngành, UBND tỉnh thành liên quan cần tổ chức cuộc họp với các nhà đầu tư đang có dự án hoạt động tại Việt Nam để lắng nghe ý kiến, trao đổi, tháo gỡ vướng mắc, hỗ trợ và giải quyết kịp thời các vấn đề phát sinh. Đây cũng là biện pháp có ý nghĩa rất quan trọng để vận động đầu tư có hiệu quả và có sức thuyết phục đối với các nhà đầu tư mới. * Cần xây dựng và công bố sớm danh mục các dự án đầu tư tiền khả thi trong thời kỳ mới theo hướng khuyến khích mạnh mẽ việc thu hút FDI vào các ngành mà nước ta có thế mạnh về tài nguyên nguyên liệu, lao động và phát triển kết cấo hạ tầng, cụ thể là theo thứ tự ưu tiên các ngành: - Công nghiệp chế biến hàng xuất khẩu. - Công nghiệp chế biến hàng tiêu dùng thay thế hàng nhập khẩu. - Công nghệ cao, công nghệ thông tin, viễn thông. - Công nghiệp dầu khí, điện lực. - Công nghiệp cơ khí. - Công nghiệp hàng điện tử. - Xây dựng, dịch vụ XNK, dịch vụ phân phối, giải trí... Các dự án khi được lựa chọn đưa vào danh mục kêu gọi đầu tư nước ngoài phải được thống nhất về chủ trương và quy hoạch. Các cơ quan hữu quan cần cụ thể hóa thêm mục tiêu, nội dung của dự án, địa điểm và hình thức đầu tư. Danh mục này phải định kỳ được cập nhật và mở rộng cho những lĩnh vực mà thời gian qua các chủ trương không cấp phép hoặc hạn chế cấp phép. *Về triển khai thực hiện dự án đầu tư: Cần có các biện pháp tháo gỡ khó khăn trong khâu giải phóng mặt bằng, chuẩn bị đất đai giảm chi phí, công sức và thời gian cho nhà đầu tư, cần quy định rõ ràng thời gian giải phóng mặt bằng, chi phí từng bên, vấn đề cưỡng chế di rời... để giảm chi phí chuẩn bị dự án là một trong những biện pháp hữu hiệu huy động FDI vào Việt Nam . 4. Thực hiện chiến lược khuyến khích đầu tư Cần có chiến lược khuyến khích đầu tư của các công ty đa quốc gia, công ty xuyên quốc gia, công ty toàn cầu để tiếp nhận chuyển giao khoa học công nghệ hiện đại. * Thông qua nguồn gốc FDI, các công ty đa quốc gia, xuyên quốc gia, toàn cầu, với các ưu thế của mình đã tạo nên những ảnh hưởng to lớn đến các nước tiếp nhận đầu tư. Nguồn vốn của các công ty này tham gia đóng góp bổ sung nguồn vốn thiếu hụt trong nước, cân bằng cán cân thanh toán tại nước tiếp nhận. Ngoài ra việc tiếp nhận đầu tư có nhiều cơ hội nhận sự chuyển giao công nghệ, kỹ thuật tiên tiến, kinh nghiệm tổ chức quản lý kinh doanh, đào tạo đội ngũ lao động, tăng khả năng cạnh tranh và có nhiều cơ hội tiếp cận, hội nhập với kinh tế thế giới. Do đó, đòi hỏi phải có những biện pháp và chính sách cởi mở nhằm khuyến khích các công ty đa quốc gia, công ty xuyên quốc gia, công ty toàn cầu của các nước đến đầu tư vào Việt Nam . 5. Nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài. Việc sửa đổi, bổ sung luật cùng với các chính sách, chế độ đầu tư đối với nước ngoài thì một vấn đề khác khá quan trọng đó là công tác quản lý Nhà nước. Vì vậy cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ tổng hợp, bộ quản lý chuyên ngành và UBND các địa phương theo đúng thẩm quyền và trách nhiệm của mình đối với đầu tư nước ngoài. Tránh tình trạng chồng chéo hoặc trì trệ trong việc thực hiện các chủ trương chính sách cụ thể đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài trong từng vùng, từng giai đoạn và từng ngành nghề. UBND tỉnh, thành phố và ban quản lý khu công nghiệp được phân cấp ủy quyền quản lý hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài phải đảm bảo nguyên tắc tập trung, thống nhất về quy hoạch, cơ cấu, cơ chế, chính sách đồng thời tăng cường sự hướng dẫn, kiểm tra các bộ, ngành ở Trung ương, nâng cao kỷ cương và kỷ luật để phát huy cao độ tính chủ động sáng tạo của các địa phương và cơ sở nhưng không phá vỡ quy hoạch chung và tạo ra sơ hở trong quản lý: - Cần hình thành chế độ kiểm tra nghiêm túc của các cơ quan quản lý Nhà nước để tránh sự tuỳ tiện hoặc hình sự hoá các quan hệ kinh tế của các doanh nghiệp và xử lý được những vi phạm của pháp luật doanh nghiệp . Trên đây là một số giải pháp cơ bản từ phía Nhà nước có tính chất tạo môi trường có tính chất hấp dẫn hơn cho các nhà đầu tư nước ngoài. Ngoài ra cần phải có các giải pháp khác như: cải thiện chất lượng lao động cụ thể như đào tạo đội ngũ cán bộ chuyên môn nghiệp vụ, kỹ sư, công nhân lành nghề đáp ứng cần lao động cho các đối tác; giải pháp ngăn ngừa hạn chế rủi ro cho các doanh nghiệp có vốn FDI ... Những giải pháp này một mặt là tạo môi trường đầu tư hấp đẫn, mặt khác gián tiếp tạo điều kiện để các doanh nghiệp trong nước phát huy nội lực của mình nhằm phát huy nội lực của mình nhằm phát triển có hiệu quả nền kinh tế . III. Những giải pháp cơ bản đảm bảo vốn FDI cho phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2001-2005 từ phía các doanh nghiệp 1. Nâng cao trình độ cán bộ quản lý của đối tác doanh nghiệp Việt Nam. Trong các doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài, phía đối tác Việt Nam đã bộc lộ rõ những hạn chế về khả năng quản lý, điều hành xí nghiệp liên doanh của cán bộ quản lý, dẫn đến không hoàn thành nhiệm vụ, trách nhiệm được giao. Do trình độ chuyên môn, trình độ quản lý khác nhau nên có sự bất đồng trong việc ra quyết định, nhiều quyết định mang tính thời cơ bị bỏ lỡ do thiếu dứt khoát và quyết đoán. Ngoài ra sự bất đồng về ngôn ngữ, sự khác nhau về phong tục tập quán, phong cách làm việc gây cản trở lớn trong công việc. Chính những điều này là một trong những nguyên nhân chính làm cho hiệu quả sử dụng vốn không cao, có nhiều dự án đã bị giải thể mà nguyên nhân từ mâu thuẫn trong công việc giữa hai bên đối tác. Vì vậy cần phải nâng cao trình độ chuyên môn, hiểu biết về phong tục tập quán, lối sống của bên đối tác, đồng thời phải rèn luyện tác phong làm việc công nghiệp, khoa học có hiệu quả. 2. Đảm bảo vốn đối ứng. Nhiều chuyên gia đã cho rằng tình hình các dự án triển khai hiện nay nguyên nhân chủ yếu là phần góp vốn bằng hiện vật hoặc bằng tiền của Việt Nam là rất ít, trong đó giá trị vốn góp chủ yếu là quyền sử dụng đất chiếm đến 90%, 8 - 9% là giá trị nhà xưởng, tài sản hiện có và chỉ 1 - 2% bằng tiền, mà giá đất ở thị trường Việt Nam hiện nay lại quá cao là nguyên nhân khiến đối tác nước ngoài rất ngần ngại. Vì vậy cần có những giải pháp về mở rộng nguồn vốn đối ứng đầu tư trực tiếp nước ngoài, từ phía doanh nghiệp là đối tác Việt Nam như: Huy động vốn nhàn rỗi trong dân, đẩy mạnh cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước. Cổ phần hoá sẽ cho phép các doanh nghiệp Nhà nước mở nguồn tài chính để góp vốn liên doanh với các công ty nước ngoài thay vì chủ yếu dựa vào giá trị quyền sử dụng đất như hiện nay. Cổ phần hoá cũng tạo điều kiện nâng cao trình độ của đội ngũ quản lý Việt Nam giúp họ sẵn sàng tham gia vào bộ máy quản lý của xí nghiệp liên doanh và nâng cao vai trò của đối tác Việt Nam trong các doanh nghiệp liên doanh. Kết luận Trong hơn 13 năm qua, FDI đã góp phần quan trọng vào việc thực hiện những mục tiêu kinh tế xã hội theo xu hướng đổi mới mở cửa và hội nhập. Khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài đã trở thành mọt bộ phận trong chiến lược đầu tư phát triển của nước ta, góp phần phát huy nội lực, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và khai thác triệt để lợi thế so sánh. Trong thời gian qua, Việt Nam đã thu được nhiều thành công trong việc huy động FDI như: vốn huy động được khá lớn khoảng hơn 40 tỷ USD với hơn 300 dự án, gần 70 nước đối tác và đầu tư đưới mọi hình thức, vào mọi lĩnh vực, thành phần kinh tế của Việt Nam . Tuy nhiên trong thời gian gần đây, nguồn FDI vào Việt Nam liên tục giảm sút đặc biệt sau cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Đông Nam á(1997). Ngoài nguyên nhân này ra còn một số nguyên nhân chính khác dẫn đến giảm sút huy động FDI vào Việt Nam như: Môi trường đầu tư còn kém: chính sách hai giá , quyền sử dụng đất, thủ tục hành chính... Vì vậy, việc đưa ra các giải pháp chiến lược nhằm đẩy mạnh hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam trong giai đoạn 2001- 2005 bền vững, ổn định có ý nghĩa quyết định đến việc thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xã hội đất nước giai đoạn 2001- 2005. Theo nhận xét còn mang tính chủ quan của em thì đề án đã đạt được phần lý luận chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài, đã nêu được một cách tổng quát tình hình thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài và những hạn chế về huy động FDI vào Việt Nam, trên cơ sở đó đã đưa ra một số giải pháp cần thiết để huy động FDI đảm bảo phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2001- 2005. Tuy nhiên do trình độ có hạn, với thời gian và tài liệu tham khảo còn hạn chế đề án chắc chắn còn nhiều thiếu sót mong thầy bổ sung, phê bình để đề án được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn! Mục lục Mở bài ChươngI: Những vấn đề lý luận chung về đầu tư I.Đầu tư 1.Khái niệm đầu tư: 2.Những đặc điểm của hoạt động đầu tư phát triển: 3.Nguồn vốn đầu tư: 4.Nội dung của vốn đầu tư: II. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) trong đầu tư: 1. Khái niệm và đặc điểm của FDI: 2.Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI): 3.Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài: Chương II:Thực trạng đầu tư trực tiếp ước ngoài tại Việt Nam I. Kết quả huy động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam từ năm 1988 - 2001 1. Kết quả huy động FDI chung: Kết quả huy động FDI theo ngành: Kết quả huy động GDP theo vùng: Kết quả huy động FDI theo địa phương: 5. Kết quả huy động FDI theo đối tác đầu tư nước ngoài: 6. Kết quả huy động theo hình thức đầu tư: II. Những mặt mạnh trong việc huy động FDI vào Việt Nam trong thời gian qua. 1. Kinh tế chính trị ổn định: 2. Luật đầu tư nước ngoài ngày càng hoàn thiện: 3. Môi trường đối với đầu tư nước ngoài ngày càng thông thoáng: 4. Có vị trí địa lý thuận lợi, tài nguyên thiên nhiên phong phú. 5. Nguồn lao động dồi dào, giá rẻ và có thị trường tương đối lớn. III. Những hạn chế trong việc huy động FDI vào Việt Nam trong thời gian qua. 1. Hệ thống luật pháp: 2. Chính sách với đầu tư nước ngoài: 3. Hạn chế thủ tục hành chính. 4. Cơ sở hạ tầng còn yếu kém. 5. Hạn chế trong việc xúc tiến, chuẩn bị và triển khai thực hiện FDI. Chương III: Những giải pháp cơ bản đảm bảo vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cho phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2001 - 2005 I. Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2001 - 2005. 1. Mục tiêu tổng quát kế hoạch 5 năm 2001 - 2005 2. Các chỉ tiêu kinh tế. 3. Vốn đầu tư cần thiết để thực hiện các chỉ tiêu. II. Những giải pháp cơ bản đảm bảo vốn FDI cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2001 - 2005 từ phía Nhà nước 1. Hoàn thiện pháp luật về đầu tư. 2. Xây dựng hoàn thiện môi trường đầu tư: 3. Đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến đầu tư, xúc tiến thương mại và chuẩn bị khai thác các dự án đầu tư. 4. Thực hiện chiến lược khuyến khích đầu tư. 5. Nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài. III. Những giải pháp cơ bản đảm bảo vôn FDI cho phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2001-2005 từ phía các doanh nghiệp . 1. Nâng cao trình độ cán bộ quản lý của đối tác doanh nghiệp Việt Nam. 2. Đảm bảo vốn đối ứng. Kết luận Tài liệu tham khảo Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc làn thứ IX Giáo trình Kinh tế phát triển, giáo trình kinh tế quốc tế. Tạp chí Kinh tế phát triển số 44,47,48,53,123,127 năm 2001. Tạp chí Thông tin tài chính số 6,15,18 năm 2001 Tạp chí Kinh tế dự báo số 3,6 năm 2001 Tạp chí tài chính số 6 năm 2001 Tạp chí kinh tế thế giới số 2,3 năm 2001 Tạp chí địa chính số 2 năm 2001 Tạp chí kinh tế Châu á - Thái Bình Dương số 1(30),2 năm 2001.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docB0178.doc
Tài liệu liên quan