Đề tài Thực trạng đầu tư vào các khu công nghiệp Hà Nội

Là một nước đi sau trong việc phát triển KCN, KCX. Việt Nam phải chấp nhận sự cạnh tranh gay gắt về vốn đầu tư nước ngoài với các nước khác. Tuy nhiên có lợi thế là nước đi sau, Việt Nam có điều kiện để tránh những sai lầm, học tập những kinh nghiệm của các nước đi trước từ đó có những hoạch định đúng đắn về phát triển và quản lý các KCN. Hà Nội là trung tâm văn hóa, chính trị kinh tế của đất nước, với vai trò của mình Hà Nội phải là đầu tiên về phát triển kinh tế ở phía Bắc cũng như cả nước. Để thực hiện được điều này thì phát triển công nghiệp trong đó có các KCN là một yếu tố tất yếu. Các KCN Hà Nội chỉ thực sự hình thành từ năm 1994. Mặc dù còn nhiều vấn đề tồn tại cần giải quyết nhưng không thể phủ nhận những lợi ích mà phát triển KCN Hà Nội mang lại. Các KCN Hà Nội đã góp phần quan trọng trong thu hút vốn đầu tư, tác động tích cực đến sản xuất công nghiệp và dịch vụ. Các KCN này đã góp phần bảo vệ môi trường, một yếu tố trước đây chúng ta chưa làm được. Các KCN này đã góp phần nâng cao KH-CN của ngành công nghiệp thủ đô, góp phần nâng cao dân trí, hình thành các đô thị mới.

doc33 trang | Chia sẻ: Kuang2 | Lượt xem: 826 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng đầu tư vào các khu công nghiệp Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ủa Việt Nam chịu sự điều chỉnh của pháp luật Việt Nam như: luật đầu tư nước ngoài, luật lao động, quy chế về khu công nghiệp và khu chế xuất... - Về mặt kinh tế: khu công nghiệp là nơi tập trung nguồn lực để phát triển công nghiệp, Các nguồn lực của nước sở tại, của các nhà đầu tư trong và ngoài nước tập trung vào một khu vực địa lý xác định, các nguồn lực này đóng góp vào phát triển cơ cấu, nhưng ngành mà mới sở tại ưu tiên, cho phép đầu tư. Bê cạnh đó, thủ tục hành chính đơn giản, có các ưu đãi về tài chính, an ninh, an toàn xã hội tốt tại đây thuận lợi cho việc sản xuất - kinh doanh hàng hóa hơn các khu vực khác. Mục tiêu của nước sở tại khi xây dựng khu công nghiệp là thu hút vốn đầu tư với quy mô lớn, thúc đẩy xuất khẩu tạo việc làm, phát triển cơ sở hạ tầng, chuyển giao công nghệ kiểm soát ô nhiễm môi trường. 1.3 Các lĩnh vực đượcphép đầu tư trong công nghiệp Trong các khu công nghiệp, các nhà đầu tư trong nước và ngoài nước, các doanh nghiệp Việt Nam thuộc các thành phần kinh tế, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được đầu tư vào các lĩnh vực sau: - Xây dựng và kinh doanh các công trình kết cấu hạ tầng. - Sản xuất, gia công, lắp ráp các sản phẩm công nghệ để xuất khẩu và tiêu thụ tại thị trường trong nước, phát triển và kinh doanh bằng sáng chế, bí quyết kỹ thuật, quy trình công nghệ. - Dịch vụ và hỗ trợ sản xuất công nghiệp. - Nghiên cứu triển khai khoa học - công nghệ để nâng cao chất lượng sản phẩm và tạo ra sản phẩm mới. Các ngành công nghiệp dưới nhà nước khuyến khích đầu tư là cơ khí, luyện kim, điện tử, công nghệ thông tin, hóa chất, hóa dầu, công nghiệp hàng dùng và một số ngành khác. 2. đầu tư phát triển 2.1. Khái niệm hoạt động đầu tư phát triển Đầu tư theo nghĩa chung nhất được hiểu đó là sự bỏ ra, sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại như tiền của, sức lao động, trí tuệ... nhằm đạt được một kết quả có lợi cho nhà đầu tư trong tương lai. Đầu tư phát triển là loại đầu tư trong đó người đầu tư có tiền bỏ tiền ra để tiến hành các hoạt động nhằm tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế làm tăng tiềm lực sản xuất kinh doanh và mọi hoạt động xã hội khác. Là điều kiện chủ yếu để tạo việc làm và nâng cao đời sống cho mọi người dân trong xã hội. 2.2 Vai trò của đầu tư phát triển Đầu tư tác động đến tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế, kết quả nghiên cứu của các nhà kinh tế cho thấy: muốn giữ tốc độ tăng trưởng ở mức độ trung bình thì tỉ lệ đầu tư phải đạt từ 15-25% so với GDP tuỳ thuộc vào ICOR của mỗi nước. Đầu tư góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế đối với những ngành nông, lâm, ngư nghiệp do những hạn chế về đất đai, các khả năng sinh học do vậy muốn đạt tốc độ tăng trưởng cao rất khó khăn. Theo kinh nghiệm của các nước trên thế giới, muốn đạt tốc độ tăng trưởng cao phải tăng cường đầu tư vào khu vực công nghiệp và dịch vụ. Do tập trung phát triển công nghiệp, nên đã làm thay đổi công nghệ, Có hai con đường cơ bản để có được công nghệ đó là tự nghiên cứu phát minh công nghệ và nhập công nghệ từ nước ngoài. Dù là tự nghiên cứu hay nhật từ nước ngoài cần phải có tiền, phải có vốn đầu tư. Do đó mọi phản ánh đổi mới công nghệ phải gắn liền với nguồn đầu tư. Đầu tư quyết định sự ra đời, tồn tại và phát triển của mỗi cơ sở, để tạo dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật của doanh nghiệp đòi hỏi phải có vốn đầu tư. 2.3 Vốn đầu tư phát triển 2.3.1. Vốn đầu tư phát triển của đất nước nói chung được hình thành từ hai nguồn cơ bản đó là vốn huy động từ trong nước và vốn huy động từ nước ngoài -- Vốn đầu tư trong nước: Được hình thành từ các nguồn vốn sau đây: + Vốn tích luỹ từ ngân sách. + Vốn tích luỹ của các doanh nghiệp. + Vốn tiết kiệm của dân cư. -- Vốn đầu tư từ nước ngoài: Bao gồm vốn đầu từ trực tiếp và vốn đầu tư gián tiếp. Vốn đầu tư trực tiếp là vốn đầu tư của các doanh nghiệp, các cá nhân người nước ngoài đầu tư sang các nước khác và trực tiếp quản lý hoặc tham gia quản lý quá trình sử dụng và thu hồi vốn. Vốn đầu tư gián tiếp là vốn của các chính phủ, các tổ chức quốc tế, các tổ chức phi chính phủ được thực hiện dưới hình thức viện trợ không hoàn lại, có hoàn lại, cho vay ưu đãi với thời hạn dài và lãi suất thấp, vốn viện trợ phát triển chính thức của các nước công nghiệp phát triển (ODA). 2.3.2. Nguồn vốn đầu tư của các cơ sở Đối với các cơ quan quản lý Nhà nước, các cơ sở hoạt động xã hội phúc lợi công cộng vốn đầu tư do ngân sách cấp (tích luỹ từ ngân sách và viện trợ qua ngân sách) vốn viện trợ không hoàn lại trực tiếp cho cơ sở và vốn tự có của cơ sở. 3. Sự cần thiết phải xây dựng các khu công nghiệp Vai trò của khu công nghiệp, khu chế xuất rất quan trọng. Với lợi thế của nó việc phát triển khu công nghệ, khu chế xuất sẽ góp phần to lớn phát triển kinh tế địa phương. 3.1.Đầu tư nước ngoài vào khu công nghiệp, khu chế xuất là nguồn vốn bổ sung quan trọng cho nguồn vốn phát triển kinh tế Đối với Việt Nam, để tăng trưởng và phát triển nền kinh tế đòi hỏi một khối lượng vốn đầu tư rất lớn.Vốn trong nước chưa đủ để đáp ứng nhu cầu đó. Do đó thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào KCN, KCX là rất quan trọng vì KCN, KCX phản ánh tiềm năng phát triển công nghiệp của mỗi nước. Theo ngân hàng thế giới(WB), các dự án thực hiện trong KCN, KCX do các nhà đầu tư nước ngoài hoặc do liên doanh với nước ngoài thực hiện (24% do liên doanh với nước ngoài, 33 do các nhà đầu tư nước ngoài, 43% do đầu tư trong nước). Do vậy KCN, KCX đã góp phần đáng kể trong việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài cho nước chủ nhà. 3. 2.Thu hút công nghệ Việc tiếp thu công nghệ và kỹ năng là mục đích mà các nước đang và chưa phát triển rất quan tâm.Tình trạng lạc hậu về công nghệ của các nước này làm cho họ hy vọng thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài vào KCN, KCX công nghệ sẽ được chuyển giao. Bởi vì để tạo ra sản phẩm có sức cạnh tranh trên thị trường thế giới và thị trường nội địa, nhà đầu tư thường đưa vào KCN, KCX những công nghệ tương đối hiện đại và cả những công nghệ loại tiên tiến nhất của thể giới. Mặc dù trong các KCN, người ta chủ yếu thực hiện sản xuất hàng tiêu dùng, gia công lắp ráp, song qúa trình chuyển giao công nghệ vẫn diễn ra dưới nhiều hình thức: đào tạo công nhân nước chủ nhà sử dụng máy móc, công nghệ sản xuất. Ngoài ra chúng ta còn học hỏi được rất nhiều kinh nghiệm quản lý của nước ngoà 3.3.Đầu tư vào KCN, KCX thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH Do tác động của vốn, khoa học kỹ thuật do đầu tư trực tiếp nước ngoài mang lại làm cơ cấu kinh tế được chuyển dịch. Hướng chuyển dịch là tăng tỷ trọng sản phẩm công nghiệp và dịch vụ, giảm tỷ trọng sản phẩm nông nghiệp. Số doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào trong KCN, KCX tăng sẽ thu hút được số lượng khá lớn lao động, giải quyết được công ăn việc làm cho nước sở tại. Ngoài ra, KCN, KCX còn góp phần đẩy mạnh xuất khẩu, tăng thu ngoại tệ cho đất nước. Theo thống kê của WEPZA (Hiệp hội KCX thế giới) một KCX diện tích khoảng 100ha, cần đầu tư 50 triệu USD cho cơ sở hạ tầng trong vòng 20 năm sẽ tạo việc làm làm cho 10.000 lao động. Từ đó tạo ra hàng xuất trị giá 100 triệu USD/năm và 100 triệu USD/năm thông qua thu nhập gián tiếp ngoài KCX. Như vậy tính bình quân một công nhân trong KCX tạo ra giá trị 5.000-10.000USD/năm. Thực tế có rất nhiều nước đã tiến hành CNH, HĐH đất nước thành công nhờ một phần không nhỏ vào kết quả hoạt động của KCN, KCX. Trung Quốc thời kỳ bắt đầu mở cửa đã chọn các tỉnh duyên hải xây dựng hàng loạt các KCX tập trung đã biến các vùng đất không có khả năng sản xuất nông nghiệp thành trung tâm công nghiệp, đô thị từ đó mở rộng hơn vào nội địa. Hàn Quốc từ cuối thập kỷ 60 đã xây dựng mới hàng loạt các KCX cùng các thành phố mới, các tập đoàn công nghiệp lớn lên từ đó... Nhật Bản, Đài Loan thành công trong việc xây dựng các khu công nghệ cao tạo ra các đột phá về công nghệ thúc đẩy các ngành sản xuất phát triển, chiếm vị trí hàng đầu thế giới như các sản phẩm điện tử, tin học, viễn thông, chế tạo xe hơi, luyện kim... Tại Việt Nam vào đầu thập kỷ này đã hình thành một số KCN, KCX. Thành công bước đầu và quá trình phát triển, lớn mạnh các KCX góp phần quan trọng đưa đất nước ta tiến nhanh trên con đường CNH, HĐH đất nước. 3.4.Mở rộng hợp tác đầu tư quốc tế Ngày nay trên thế giới không chỉ diễn ra sự cạnh tranh của các nước tiếp nhận đầu tư mà còn diễn ra cuộc cạnh tranh quyết liệt giữa các nước đi đầu tư. Xu hướng đa cực trong đầu tư trực tiếp nước ngoài đã tạo điều kiện cho các nước thực hiện đường lối mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế. Vì vậy, đầu tư trực tiếp vào KCN, KCX cũng góp phần mở rộng quan hệ kinh tế giữa nước chủ nhà với các nước, lãnh thổ của chủ đầu tư. 4. Những nhân tố tác động đến sự hình thành và phát triển Khu công nghiệp 4.1.Vị trí địa lý Trong 10 yếu tố thành công của KCN, KCX của hiệp hội các khu chế xuất thế giới đã tổng kế thì có hai yếu tố thuộc về yếu tố địa lý và điều kiện tự nhiên. Đó là: Gần các tuyến giao thông đường bộ, đường hàng không, đường biển. Có nguồn cung cấp nguyên vật liệu và lao động. Rõ ràng việc xây dựng các khu công nghiệp, khu chế xuất ở các khu vực này sẽ tận dụng được đầu vào sẵn có, làm giảm chi phí vận chuyển, có điều kiện mở rộng trong điều kiện khu công nghiệp thành công. 4.2.Vị trí kinh tế xã hội Các trung tâm đô thị vừa là trung tâm kinh tế, vừa là trung tâm chính trị. Do đó sẽ là nơi tập trung nhiều ngành sản xuất, cơ sở vật chất kỹ thuật tốt, đội ngũ lao động có trình độ cao, chuyên môn giỏi. Do vậy hiện nay ở nước ta các KCN, KCX chủ yếu tập trung ở các thành phố lớn để tận dụng các điều kiện sẵn có, giảm rủi ro cho các nhà đầu tư, tạo sức hấp dẫn các nhà đầu tư. 4.3.Kết cấu hạ tầng Đây là yếu tố (xuất phát điểm) có ảnh hưởng rất lớn đến việc thu hút vốn đầu tư vào KCN, KCX. Với các nhà đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng mối quan tâm là vị trí thì với các nhà đầu tư sản xuất kinh doanh lại là kết cấu hạ tầng. Kết cấu hạ tầng: điện, nước, công trình công cộng khác đường xá, cầu cống... Tác động trực tiếp đến giá thuế đất, ảnh hưởng đến tâm lý đầu tư. 4.4.Thị trường Đối với các công ty nước ngoài, mục tiêu đầu tư vào các KCN, KCX là tận dung thị trường nước chủ nhà, đưa nguồn vốn và hoạt động sinh lợi tránh tình trạng ứ đọng vốn, đồng thời có thể tận dụng được nguồn tài nguyên nhân công rẻ cộng với thị trường rộng lớn. Nghiên cứu thị trường là một trong các hạng mục phải xem xét trong quá trình lập dự án nghiên cứu khả thi. 4.5.Vốn đầu tư nước ngoài Trong khi các nước đang phát triển gặp phải tình trạng thiếu vốn thì các công ty xuyên quốc gia đang có nguồn vốn lớn mong muốn có một môi trường đầu tư có lợi nhất song không phải bất kỳ đâu họ cũng bỏ vốn vào đầu tư. 4.6.Yếu tố chính trị Quan hệ chính trị tốt đẹp sẽ là dấu hiệu tốt cho việc mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế. Thông thường những tác động này thể hiện ở: Việc giành cho các nước kém phát triển điều kiện ưu đãi về vốn đặc biệt là vốn ODA, các khoản việc trợ không hoàn lại hoặc các khoản cho vay ưu đãi. Tạo điều kiện xuất nhập khẩu nguyên vật liệu, sản phẩm, thiết bị công nghệ. Ký kết các hiệp ước thương mại giữa các Chính phủ cho phép các tổ chức kinh tế, cá nhân, các đơn vị kinh tế đầu tư sang nước kia. Chương II: Thực trạng đầu tư vào các khu công nghiệp ở Hà Nội 1. Tình hình đầu tư vào các khu công nghiệp của Việt Nam 1.1.Tình hình phát triển Từ ngày 24/9/1991 khu ủy ban hợp tác và đâu tư (nay là Bộ KH và đầu tư) được Thủ tướng Chính phủ ủy nhiệm cấp giấy phép số 245 thành lập khi chế xuất đầu tiên với quy mô 300 ha đất tại xã Tân Thuận Đông, huyện Nhà Bè, thành phố Hồ Chí Minh, đến hết 12/2001 trên địa bàn cả nước đã có 69 dự án khu công nghiệp, khu chế xuất được hình thành phát triển hoặc được Chính phủ cấp phép thành lập đang trong quá trình triển khai, giải phóng mặt bằng, xây dựng hạ tầng. Trong số đó có 65 khu công nghiệp tập trung, 3 khu chế xuất, một khu công nghệ cao với tổng diện tích lên tới hơn 10.500 ha bình quân khu công nghiệp có diện tích 160 ha. Các khu công nghiệp được hình thành tại 27 tỉnh thành trong đó các tỉnh miền Bắc có 15 KCN, miền Trung có 13 KCN và miền Nam có 1. Về loại hình, có 16 KCN hình thành trên cơ sở đã có một số doanh nghiệp công nghiệp đang hoạt động, 10 KCN phục vụ di dời, 22 KCN có quy mô nhỏ ở các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ, duyên hải miền Trung và đồng bằng sông Cửu Long, 21 KCN mới được xây dựng quy mô khá lớn, trong đó có 13 KCN có hợp tác với nước ngoài để thu hút vốn vào, phát triển cơ sở hạ tầng. 1.2. Những đóng góp của mô hình khu công nghiệp tập trung ở Việt Nam Tính đến thời điểm năm 2000 đã có 914 doanh nghiệp được cấp giấy phép hoạt động trong các khu công nghiệp với tổng vốn kinh doanh đăng ký là 7,8 tỷ USD. Trong đó có 596 doanh nghiệp nước ngoài thuộc 24 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, có tổng vốn đầu tư đăng ký là 6,4 tỷ USD chiếm 82% tổng vốn đăng ký kinh doanh trong các khu công nghiệp 345 doanh nghiệp trong nước được cấp giấy phép với tổng vốn đăng ký 18.000 tỷ, chiếm 36% số dự án (tương đương 1,4 tỷ USD), chiếm 18% tổng vốn kinh doanh trong các khu công nghiệp được cấp phép. Số vốn thu hiện đạt khoảng 40% số vốn đăng ký. Ngành nghề phát triển kinh doanh trong các KCN gồm có các doanh nghiệp thuộc các ngành công nghiệp nhẹ, điện tử, hóa chất, cơ khí chế tạo, luyện thép, dầu khí, chế biến thức ăn gia súc, phân bón, dịch vụ thương mại xuất khẩu... Trong các khu công nghiệp, đã giải phóng mặt bằng và xây dựng cơ sở hạ tầng hoàn chỉnh, có 2.300 ha mặt bằng được thuê, chiếm 32% diện tích đất công nghiệp, 21 khu công nghiệp cho thuê trên 50% diện tích đất công nghiệp. Các doanh nghiệp tại KCN, KCX có tốc độ tăng trưởng ngày càng cao nhờ khai thác các nguồn lực từ bên ngoài kết hợp với các nguồn lực của từng vùng, địa phương. Chỉ tính riêng 3 năm 1997-1999, giá trị sản lượng và xuất khẩu của các doanh nghiệp trong các KCN cả nước là: Giá trị sản lượng (triệu USD) Giá trị xuất khẩu (triệu USD) Tốc độ tăng trưởng hàng năm Giá trị sản lượng Giá trị xuất khẩu 1997 1.155 848 1998 1.871 1.300 61% 53% 1999 2.982 1.761 59% 35% Năm 1999, các KCN đóng góp 25% giá trị sản lượng công nghiệp và 16% giá trị của cả nước, thu hút 140.000 lao động, tạo thêm sức mua cho thị trường các nước khoảng 1.000 tỷ đồng/năm. Ngay trong các KCN phần lớn các nhà máy có công nghệ tiên tiến, chất lượng sản phẩm cao đã trực tiếp đưa tỷ lệ xuất khẩu của KCN đạt hơn 70%, các KCN đã thực sự tiếp nhận được một số phương pháp quản lý tiến bộ, kinh nghiệm về tổ chức kinh doanh của nhiều nước công nghiệp hàng đầu trên thế giới. 2. Tình hình hoạt động của các KCN ở Hà Nội 2.1.Các khu công nghiệp mới tập trung của Hà Nội Để thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong xu thế mở cửa hội nhập với thế giới, Hà Nội đã sớm bắt tay vào xây dựng một số khu công nghiệp mới, coi đó là giải pháp thực tế để đẩy nhanh nhịp độ tăng trưởng kinh tế. Hiện nay trên địa bàn Hà Nội có 5 khu công nghiệp đã được Nhà nước cấp giấy phép hoạt động, đó là KCN Sài Đồng B, KCN Nội Bài, KCN Đài Tu, KCN Thăng Long, KCN Sài Đồng A (Daewoo Hanel). Các khu công nghiệp mới tập trung trên địa bàn Hà Nội TT Khu công nghiệp Năm cấp GP Diện tích (ha) Chủ đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng Vốn ĐT (tr.USD) Vốn T.hiện (tr.USD) 1 KCN Sài Đồng B 1996 97 Việt Nam 12 5 2 KCN Thăng Long 1997 121 Nhật Bản - Việt Nam 53,2 12 3 KCN Nội Bài 1994 100 Malaysia - Việt Nam 30 20 4 KCN Sài Đồng A 1996 407 Hàn Quốc - Việt Nam 152 2 5 KCN Hà Nội - Đài Tư 1995 40 Đài Loan 12 3 2.1.1. Khu công nghiệp Sài Đồng B Sài Đồng B, khu công nghiệp duy nhất trên địa bàn Hà Nội, chủ đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật là bên Việt Nam (Công ty Điện tử Hanel). Tổng diện tích KCN là 97 ha, trong đó đất xây dựng công nghiệp là 79 ha. Hướng ưu tiên đầu tư KCN này là các sản phẩm điện tử và các sản phẩm không có chất thải gây ô nhiễm môi trường. 2.1.2. Khu công nghiệp Thăng Long Chủ đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng là công ty liên doanh giữa tập đoàn Sumitomo và Công ty Cơ khí Đông Anh. Tổng số vốn đầu tư của dự án là 53228000 USD, vốn pháp định là 16.867.000 USD, trong đó bên Việt Nam đóng góp 42%, phía Nhật Bản đóng góp 58%. Tổng diện tích KCN là 121 ha. Hạ tầng kỹ thuật KCN Thăng Long được hoàn thành vào 6/2000 chỉ trong một thời gian ngắn, KCN đã thu hút được 6 doanh nghiệp với tổn vốn đầu tư 123.350.000 USD. Hướng ưu tiên đầu tư vào KCN là các sản phẩm điện, điện tử, viễn thông và các sản phẩm công nghiệp tiêu dùng khác. 2.1.3. Khu công nghiệp Nội Bài Chủ đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật là Công ty liên doanh giữa công ty Renong Malaysia và công ty xây dựng công nghiệp Hà Nội. Tổng số vốn đầu tư của dự án là 29.950.000 USD, vốn pháp định là 11.667.000 USD với tổng diện tích 100 ha. Hướng ưu tiên cho đầu tư vào KCN Nội Bài là các sản phẩm cơ khí, máy móc. 2.1.4. Khu công nghiệp Hà Nội - Đài Tư Đây là KCN duy nhất của Hà Nội có 100% vốn đầu tư nước ngoài (Đài Loan). KCN có tổng vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng là 12 triệu USD, trong đó vốn pháp định là 3.600.000 USD. Tổng diện tích KCN là 40 ha. Đến 4/2000 hạ tầng kỹ thuật KCN đã cơ bản được hoàn thành. Tính đến 6/2000 đã có 4 doanh nghiệp đầu tư vào KCN với tổng vốn đầu tư 6210 USD. Chủ đầu tư KCN hy vọng có thể lấp đầu KCN trong thời gian không xa. Hướng ưu tiên đầu tư vào KCN Hà Nội - Đài Tư là các sản phẩm điện tử, chế biến nông sản thực phẩm, may mặc và sản xuất các đồ dùng gia đình. 2.1.5. Khu công nghiệp Sài Đồng A (chưa triển khai) Đây là dự án hợp tác giữa tập đoàn điện tử Daewoo và công ty điện tử Hanel. Tổng diện tích KCN là 407 ha với 3 chức năng: KCN 197 ha, khu nhà ở 100 ha, 110 ha làm công viên, vườn hoa. Do một số khó khăn phía đối tác là tập đoàn Daewoo nên KCN vẫn chưa thể đi vào hoạt động. Đầu năm 2001 KCN đã được khởi công xây dựng cơ sở hạ tầng. Ngoài những KCN tập trung trên, thành phố đã xây dựng đề án KCN vừa và nhỏ ven đô: KCN Phú Thụy - Gia Lâm, Vĩnh Tuy - Thanh Trì... Các KCN này sẽ giải quyết được những yêu cầu bức xúc của các doanh nghiệp trong diện phải di dời khỏi nội đô, giải quyết được tình trạng khu sản xuất xen kẽ với khu dân cư. 2.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động của các doanh nghiệp trong KCN 2.2.1.Thủ tục cấp giấy phép đầu tư Ban Quản lý cỏc khu cụng nghiệp và chế xuất Hà Nội được Thủ tướng Chớnh phủ quyết định thành lập để quản lý cỏc khu cụng nghiệp và khu chế xuất trờn địa bàn. Ban Quản lý cỏc khu cụng nghiệp và chế xuất Hà Nội hoạt động theo cơ chế "một cửa", "tại chỗ", giải quyết nhanh cỏc thủ tục hành chớnh cho cỏc nhà đầu tư vào khu cụng nghiệp. Ban Quản lý được Bộ Kế hoạch và éầu tư ủy quyền cấp GPéT cho cỏc loại dự ỏn sau đõy: + Phự hợp với quy hoạch khu cụng nghiệp + Doanh nghiệp chế xuất cú quy mụ vốn đầu tư dưới 40 triệuUSD. + Cỏc dự ỏn sản xuất cú quy mụ đến 10 triệu USD. + Cỏc dự ỏn dịch vụ cụng nghiệp cú quy mụ vốn đến 5 triệu USD. + Khụng thuộc danh mục dự ỏn cú tiềm năng gõy ảnh hưởng lớn đến mụi trường. Thời gian cấp GPéT là 15 ngày kể từ ngày cơ quan cấp GPéT nhận được hồ sơ hợp lệ. Ban Quản lý được Bộ Thương mại ủy quyền cấp giấy phộp xuất nhập khẩu, cấp chứng chỉ xuất xứ hàng húa vào cỏc nước ASEAN. Ban quản lý tổ chức đào tạo và cung ứng lao động cho cỏc doanh nghiệp. 2.2.2. Các ưu đãi về thuế dành cho các dự án đầu tư trong KCN Mức thuế thu nhập doanh nghiệp ỏp dụng chung cho cỏc dự ỏn đầu tư ngoài khu cụng nghiệp là 25%. Mức thuế thu nhập doanh nghiệp cho cỏc dự ỏn đầu tư vào khu cụng nghiệp bao gồm cỏc mức sau: + 20% đối với doanh ngiệp dịch vụ khu cụng nghiệp. Doanh nghiệp được miễn thuế 1 năm và giảm 50% trong 2 năm tiếp theo kể từ khi kinh doanh cú lói. + 15% đối với doanh nghiệp sản xuất trong khu cụng nghiệp. Doanh nghiệp được miễn thuế 1 năm và giảm 50% trong 3 năm tiếp theo kể từ khi kinh doanh cú lói. + 10% đối với doanh nghiệp sản xuất sản phẩm thuộc danh mục dự ỏn đặc biệt khuyến khớch đầu tư và cỏc dự ỏn đầu tư vào khu cụng nghiệp Nội Bài mà cú xuất khẩu sản phẩm. Doanh nghiệp được miễn thuế 4 năm và giảm 50% trong 4 năm tiếp theo kể từ khi kinh doanh cú lói. 2.2.3.Tình hình thuế sử dụng đất và giá các dịch vụ Tổng diện tích của 5 khu công nghiệp của Hà Nội là 765 ha, trong đó đất để xây dựng công nghiệp là 597 ha. Đến đầu năm 2001 đã có 250 ha trong tổng số 597 ha, đã hoàn thành cơ sở hạ tầng kỹ thuật giai đoạn 1 (dự tính để hoàn thành cơ sở hạ tầng 5 KCN này cần 250 triệu USD và 107 tỷ VNĐ vốn đầu tư). Hiện nay, diện tích đất của các KCN được sử dụng (cho thuê) vẫn còn hạn chế. Đến hết năm 2000 mới có 80 ha đất được thuê với 22 dự án. Trong 4 khu công nghiệp đã đi vào hoạt động, chỉ có KCN Sài Đồng B có tỷ lệ sử dụng đất cao nhất và được đánh giá là một trong 4 KCN thành công nhất tại Việt Nam. Tổng diện tích đất mà KCN Sài Đồng B được thuê là 39,1 ha. Như vậy, 3 KCN còn lại chỉ cho thuê được 40,9 ha. Đây là 1 tỷ lệ khá thấp so với các KCN trong cả nước. Tình hình xây dựng CSHT và sử dụng đất của các KCN Hà Nội TT Khu công nghiệp Tổng diện tích DTCSHT đã hoàn thành DT đã cho thuê 1 KCN Sài Đồng B 97 39 39 2 KCN Thăng Long 121 121 - 3 KCN Nội Bài 100 50 - 4 KCN Đài Tư 40 40 6,6 5 KCN Sài Đồng A 407 - - Về giá thuê đất tùy thuộc vào diện tích thuê, thời gian thuê có thể trả theo từng năm hoặc cả đời dự án. Mức giá cụ thể kể cả chi phí hạ tầng không quá 3 USD/m2/năm. Doanh nghiệp có thể thỏa thuận mức giá thấp hơn với Công ty kinh doanh cơ sở hạ tầng KCN. TT Khu công nghiệp Giá thuê đất USD/m2/năm CF hạ tầng USD/m2/năm Giá điện USD/kWh Giá nước USD/m3 1 KCN Sài Đồng B 1,2 0,5 0,07 0,2 2 KCN Thăng Long 1,2 1 0,08 0,2 3 KCN Nội Bài 1,3 1 0,08 0,2 4 KCN Sài Đồng A 1,3 0,5 0,08 0,2 5 KCN Hà Nội - Đài Tư - - - - Nhìn chung giá thuê đất và phí quản lý của các KCN Hà Nội còn khá cao so với các KCN khác trong cả nước. Đây là một trong những yếu tố bất lợi về cạnh tranh của các KCN Hà Nội. 2. 3.Tình hình đầu tư, sản xuất kinh doanh trong các KCN của Hà Nội Đến hết năm 2000 đã có 4/5 KCN của Hà Nội đi vào hoạt động, đó là Sài Đồng B, Thăng Long, Nội Bài, Hà Nội - Đài Tư. Đến đầu năm 2001, đã có 35 dự án được cấp giấy phép đầu tư vào các KCN với tổng số vốn đăng ký đầu tư là 379,5 triệu USD. TT Khu công nghiệp Số dự án đầu tư Tổng số vốn đầu tư 1 KCN Sài Đồng B 19 299.223.320 USD và 6,5 tỷ VNĐ 2 KCN Thăng Long 6 123.350.000 USD 3 KCN Nội Bài 6 50.764.000 USD 4 KCN Hà Nội - Đài Tư 4 6.210.000 USD Ngoài các dự án đầu tư mới, nhiều doanh nghiệp đã và đang hoàn tất hồ sơ xin tăng vốn đầu tư và mở rộng sản xuất, điển hình là Công ty Orio-Hanel, Zamil Steel, Daewoo Hanel... Trong số các dự án đăng ký đầu tư vào KCN Hà Nội, chỉ có 1 dự án có vốn đầu tư hoàn toàn trong nước (dự án xây dựng cơ sở hạ tầng KCN Sài Đồng B với tổng vốn đăng ký là 12 triệu USD, chiếm 3,16% tổng số vốn đăng ký đầu tư vào 4 KCN trên địa bàn Hà Nội). Thế nhưng dự án này lại là một trong những dự án đang hoạt động có hiệu quả cao nhất do việc sử dụng vốn hợp lý, hiệu quả cao. Các chủ đầu tư vào các KCN của Hà Nội chủ yếu là từ các nước châu á như Malysia, Hàn Quốc, Nhật Bản, Singapore, Đài Loan... trong một số KCN đã hình thành các nhà đầu tư theo khu vực. KCN Thăng Long đang là điểm thu hút, chú ý của các nhà đầu tư Nhật Bản. Đa phần các dự án đầu tư ở đây là vốn của các nhà đầu tư Nhật Bản. Bên cạnh đó KCN Hà Nội - Đài Tư cũng đang được sự chú ý của các nhà đầu tư Đài Loan. Có một câu hỏi đặt ra: tại sao các KCN Hà Nội lại không thu hút được các nhà đầu tư đến từ Tây Âu và Mỹ, những nhà đầu tư với tiềm lực về tài chính, công nghệ lớn? Tình hình cấp giấy phép đầu tư và vốn đăng ký 1997-2000 1997 1998 1999 2000 Tổng Số giấy phép đầu tư 15 3 2 13 33 Vốn đăng ký và điều chỉnh vốn 307,3 4,2 9,4 24,1 345 Từ bảng báo cáo về tình hình cấp giấy phép ta có thể thấy số giấy phép đầu tư được cấp năm 1998 và 1999 rất thấp. Nguyên nhân là sự tác động xấu của cuộc khủng hoảng kinh tế vừa xảy ra trong khu vực. Tuy nhiên cũng còn có một lý do nữa là môi trường đầu tư tại Việt Nam đã giảm sự thu hút đối với các nhà đầu tư nước ngoài vì nhiều lý do. Mặc dù vậy chúng ta vẫn thấy những tín hiệu khả quan khi năm 2000 có 13 dự án được cấp giấy phép với tổng vốn đầu tư 24,1 triệu USD. Trong năm 2002 đó cú thờm 19 dự ỏn đầu tư vào cỏc khu cụng nghiệp (KCN) và chế xuất (KCX) Hà Nội, nõng tổng số dự ỏn đầu tư trong cỏc KCN và KCX lờn thành 56 dự ỏn với diện tớch thuờ đất là 1.164.275 m2; số vốn đăng ký là gần 600 triệu USD và gần 106 tỷ đồng. Trong số 5 KCN Hà Nội, hiện cú KCN Sài éồng B đó lấp đầy phần đất cú hạ tầng. Dự bỏo KCN Thăng Long cũng sẽ lấp đầy trong năm 2003. KCN Nội Bài sau nhiều năm vắng búng cỏc nhà đầu tư, năm 2002 vừa qua cũng đó cú 2 dự ỏn vào đầu tư. Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng: Trong 5 dự án đầu tư cơ sở hạ tầng KCN có một dự án đầu tư vốn trong nước (KCN Sài Đồng B) có 3 dự án liên doanh giữa doanh nghiệp trong nước và nhà đầu tư nước ngoài (KCN Nội Bài, KCN Thăng Long, KCN Sài Đồng A), có 1 dự án 100% vốn nước ngoài (KCN Hà Nội - Đài Tư). Công ty phát triển cơ sở hạ tầng KCN Sài Đồng B hoạt động khá hiệu quả theo hình thức vốn đầu tư trong nước. Công ty đã biết dùng hợp lý và có hiệu quả nguồn vốn kết hợp với thế mạnh về kinh nghiệm. Phương pháp đầu tư chủ yếu mà công ty áp dụng là cuốn chiếu đầu tư trong xây dựng, vừa cho thuê đất vừa lấy lợi nhuận để tái đầu tư. Quá trình đầu tư của Công phát triển phát triển cơ sở hạ tầng làm nhiều giai đoạn. Trong tổng số 97 ha (trong đó xây dựng công nghiệp là 79 ha) của KCN được hoàn thành từng phần một. Giai đoạn 1 hoàn thiện cơ sở hạ tầng 30 ha, giai đoạn 2 sẽ hoàn thiện cơ sở hạ tầng 18 ha tiếp theo. Đây là một hình thức đầu tư khá hiệu quả đối với doanh nghiệp Việt Nam còn hạn chế về nguồn vốn đầu tư. Đối với các công ty liên doanh với nước ngoài ở KCN Nội Bài, KCN Thăng Long lại có lợi thế nguồn vốn đầu tư lớn nên họ có thể xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng tương đối đồng bộ và hiện đại. Mặc dù có cơ sở hạ tầng tốt, tuy nhiên các KCN này gặp phải giai đoạn khủng hoảng tài chính trong khu vực, do vậy hiện nay vẫn còn khá ít dự án đầu tư vào các KCN này. Ngoài ra, còn có một số điểm về chính sách đền bù, giải phóng mặt bằng vẫn còn bất cập. Hiện nay tình trạng nhà đầu tư phải chấp nhận bỏ vốn đầu tư giải phóng mặt bằng là một trong những gánh nặng đối với nhà đầu tư. Hiện nay có tình trạng xảy ra tiền đề bù một mét vuông đất lớn hơn cả tiền thuê đất trong 50 năm. Với tình trạng như vậy đã làm nản lòng các nhà đầu tư nước ngoài. Công ty phát triển hạ tầng KCN Hà Nội - Đài Tư có ưu điểm là tận dụng được vốn đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên tiến độ xây dựng cơ sở hạ tầng KCN tùy thuộc toàn bộ vào nhà đầu tư nước ngoài. Về quy mô đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, trung bình vốn đầu tư các công ty phát triển hạ tầng KCN Hà Nội là 51,84 triệu USD so với 42 triệu USD mỗi KCN cả nước. Dự án có quy mô lớn nhất là 152 triệu USD (tuy nhiên do sự chậm trễ của nhà đầu tư nước ngoài nên dự án vẫn chưa thể đi vào hoạt động) và dự án có quy mô nhỏ nhất là 12 triệu USD (KCN Sài Đồng B, Đài Tư). Năm 2003, Thành phố sẽ đầu tư xõy dựng 4 KCN vừa và nhỏ, nõng tổng số KCN vừa và nhỏ tại Hà Nội lờn con số 11.Danh sỏch cỏc KCN vừa và nhỏ đang được chuẩn bị đầu tư gồm KCN Ngọc Hồi (Thanh Trỡ, với diện tớch trờn 56 ha, tổng vốn đầu tư trờn 211 tỷ đồng), KCN Toàn Thắng (tại Lệ Chi, Gia Lõm, diện tớch 30 ha, vốn đầu tư 40 tỷ đồng), KCN Phỳ Minh (Từ Liờm, diện tớch 23ha, tổng vốn đầu tư khoảng 40 tỷ đồng) và Cụm Cụng nghiệp Ninh Hiệp (tại Gia Lõm, với diện tớch khoảng 65ha, tổng vốn đầu tư trờn 96 tỷ đồng). Hiện nay, 7 KCN vừa và nhỏ đang hoạt động ở Hà Nội đó cú 69 dự ỏn vào đầu tư, với tổng số vốn đǎng ký là gần 642 tỷ đồng. Nhưng nhìn chung tình hình đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, thu hút vốn đầu tư của các KCN Hà Nội vẫn chưa đạt hiệu quả cao. 3. Đánh giá hoạt động đầu tư vào các khu công nghiệp trên địa bàn Hà Nội 3.1. Những ưu điểm 3.1.1. Góp phần tăng trưởng kinh tế Mặc dù mới chỉ có 14 doanh nghiệp hoạt động trong các KCN nhưng doanh thu của doanh nghiệp này năm 2000 đã đạt 150 triệu USD, chiếm 30% giá trị sản xuất của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài trên địa bàn Hà Nội. Khi các doanh nghiệp trong KCN đi vào hoạt động đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trên địa bàn phát triển (nhờ cung cấp các sản phẩm đầu vào và dịch vụ cho KCN). Do đó các KCN ngoài việc trực tiếp góp phần tăng trưởng kinh tế còn giáp tiếp tác động đến sự tăng trưởng kinh tế. Các KCN sẽ là một phần quan trọng trong nền kinh tế thủ đô. Năm 2002, hoạt động sản xuất kinh doanh của cỏc doanh nghiệp trong khu cụng nghiệp trờn địa bàn đạt mức tăng trưởng khỏ cao, với doanh thu tăng 38%, đạt 263 triệu USD so với năm 2001. 3.1.2. Thúc đẩy phát triển ngoại thương Hầu hết các sản phẩm của KCN Hà Nội đều xuất khẩu với chất lượng cao. Các sản phẩm có khả năng cạnh tranh trên các thị trường Mỹ, Nhật, EU... Mặc dù chỉ có 14 doanh nghiệp nhưng tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp này chiếm 35,7% kim ngạch xuất khẩu của cả thành phố. Điều đó chứng tỏ các doanh nghiệp này có khả năng cạnh tranh cao, sử dụng hợp lý các nguồn lực của mình. 1998 1999 2000 KCN Hà Nội SS tỷ lệ (%) KCN Hà Nội SS tỷ lệ (%) KCN Hà Nội SS tỷ lệ (%) XK 93,9 306,5 30,6 107,5 325 33 122,55 341,2 35,7 NK 83,7 369,5 22,6 96,8 375 25,8 102,5 351 29,2 Xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp trong KCN. Qua số liệu trên ta thấy tỷ trọng XNK của các doanh nghiệp trong KCN so với toàn thành phố khá lớn và đang có xu hướng tăng lên. Tỷ trọng xuất khẩu năm 1998 đạt 30,6%, năm 1999 tăng lên 33%, năm 2000 đạt 35,7%. Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của các doanh nghiệp KCN hàng năm trên 14%, tốc độ này cao hơn nhiều so với mục tiêu tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu mà thành phố đề ra là 10%. 3.1.3. Góp phần tăng thu ngân sách trên địa bàn Hoạt động của các doanh nghiệp trong KCN góp phần làm tăng ngân sách nhà nước. Trong 9 tháng đầu năm 2000, 14 doanh nghiệp đã nộp ngân sách nhà nước 5,3 triệu USD. 1997 1998 1999 2000 Số DN hoạt động 10 12 12 14 Số thuế nộp NS (Triệu USD) 4,6 4,8 4,6 5,3 3.1.4. Hỗ trợ chuyển dịch cơ cấu, tạo việc làm Các KCN được hình thành tại các vùng sản xuất nông nghiệp ở một số huyện ngoại thành của thành phố. Sự xuất hiện các KCN đã có tác động đến cơ cấu kinh tế của các huyện cũng như cơ cấu của kinh tế thành phố. Năm 1997, các KCN thu hút được khoảng 2500 lao động, năm 1998 có khoảng 3000 lao động trong đó 2750 người là lao động Việt Nam. Đến năm 2000 các KCN thu hút được khoảng 3877 người. Trong số lao động được tuyển dụng thì số lao động địa phương chiếm 35-40%. Ngoài việc thu hút trực tiếp lao động vào các KCN, các hoạt động của KCN còn tạo công ăn việc làm cho nhiều lao động cung cấp sản phẩm, dịch vụ cho các doanh nghiệp KCN. Sự xuất hiện của các KCN đã làm thay đổi bộ mặt các huyện ngoại thành, góp phần nâng cao dân trí, thu hẹp khoảng cách phát triển giữa nông thôn và thành thị. 3.1.5. Tăng cường chuyển giao công nghệ Với việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đã góp phần thúc đẩy quá trình chuyển giao công nghệ trong các công ty liên doanh, một phần nào đó là các công ty 100% vốn nước ngoài. Trong bối cảnh công nghệ nước ta còn lạc hậu, việc chuyển giao công nghệ tiên tiến góp phần đẩy nhanh CNH, HĐH ở nước ta. Một số ngành nhờ thu hút được công nghệ tiên tiến của nước ngoài đã có sức cạnh tranh mạnh mẽ trên thị trường khu vực và quốc tế. 3.1.6. Bảo vệ môi trường Nhờ có quy hoạch cụ thể, đồng bộ, các KCN có hệ thống xử lý chất thải khá tốt. Điều này đã khắc phục được phần nào nhược điểm của các khu công nghiệp cũ của Hà Nội. 150 KCN rất đề cao vấn đề bảo vệ môi trường. Điển hình trong số đó là KCN Thăng Long. KCN Thăng Long đảm bảo môi trường theo tiêu chuẩn ISO 14001. 3.2. Những hạn chế và nguyên nhân Bên cạnh những đóng góp tích cực, các KCN Hà Nội còn có những tồn tại, hạn chế ảnh hưởng đến quá trình hoạt động và phát triển. 3.2.1. Những tồn tại và hạn chế - Các thủ tục hành chính để một doanh nghiệp tiến hành đầu tư còn kéo dài, gây khó khăn cho các nhà đầu tư. Một dự án đầu tư vào Hà Nội phải cần khoảng 33 ngày với khá nhiều thủ tục. So với thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội còn phải cải thiện nhiều về thủ tục hành chính. - Các KCN Hà Nội triển khai khá chậm. Một ví dụ điển hình là KCN Sài Đồng A. KCN này được cấp giấy phép từ năm 1996 nhưng hiện nay vẫn chưa thể đưa vào hoạt động. KCN Hà Nội - Đài Tư cũng gặp phải tình trạng tương tự, được cấp giấy phép năm 1995 nhưng phải đến năm 2000 mới hoàn thành xây dựng cơ sở hạ tầng đưa vào hoạt động. - Chưa chú trọng đến công tác quảng bá, tiếp thị, vận động đầu tư cho các KCN. Ban quản lý các KCN các công phát triển phát triển cơ sở hạ tầng chưa có những hoạt động vận động đầu tư một cách hiệu quả. Các cơ quan quản lý nhà nước chưa tích cực giúp đỡ họ tổ chức các hoạt động như tổ chức hội thảo trong và ngoài nước về cơ hội đầu tư vào các KCN. - Các KCN trên địa bàn Hà Nội chưa đạt được hiệu quả cao, lượng vốn đầu tư còn thấp. Hiện nay, mới thu hút được một số nhà đầu tư thuộc khu vực châu á. Do đó, nếu khu vực này có khủng hoảng sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến các KCN. Ngoài ra các KCN chưa thu hút được các nhà đầu tư trong nước. Mới có 1 dự án đầu tư với số vốn đăng ký 12 triệu USD, chiếm 40%. Đây là một con số quá nhỏ. 3.2.2 Nguyên nhân Mặc dù Hà Nội đã có quy hoạch tổng thể đến năm 2020, thế nhưng quy hoạch vẫn là một vấn đề nổi cộm. Việc thay đổi, điều chỉnh quy hoạch đã gây khó khăn đối với các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp kinh doanh cơ sở hạ tầng tạo mặt bằng sản xuất. Cùng với việc quy hoạch thiếu đồng bộ đã tạo nên tình trạng cơ sở hạ tầng trong và ngoài khu công nghiệp thiếu đồng bộ. Về nguyên tắc thì Nhà nước phải đảm bảo các công trình hạ tàng đến chân hàng rào KCN. Thế nhưng trong quá trình phát triển các KCN vừa qua việc phối hợp phát triển các công trình trong và ngoài KCN chưa đồng bộ. Điều này làm giảm khả năng thu hút vốn đầu tư vào KCN. Việc tuyển dụng lao động vẫn còn nhiều bất cập. Hà Nội có nguồn lao động dồi dào, nhưng đa số là lao động có tay nghề thấp, khả năng cung ứng nhu cầu về lao động có tay nghề cao còn thấp, trong khi đó, các KCN đều nằm ở các vùng ngoại thành, ở đó chưa đáp ứng đầy đủ điều kiện cơ sở hạ tầng xã hội như: nhà ở, trường học, bệnh viện... do đó khó thu hút được những lao động có tay nghề cao. Phí quản lý ở các KCN đang phải chịu cước dịch vụ khá cao so với các quốc gia khác (điện, nước, vận tải...). Điều này cũng làm giảm ưu thế cạnh tranh trong việc thu hút vốn đầu ta vào các KCN. Chương III: Một số giải pháp tăng cường hoạt động đầu tư phát triển vào các khu công nghiệp Hà Nội Trước thực trạng hoạt động của các khu công nghiệp còn nhiều yếu kém, vấn đề được đặt ra là phải có giải pháp thực hiện để thúc đẩy sự phát triển của loại hình kinh tế này, góp phần tích cực thực hiện chủ trương công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. 1. Định Hướng phát triển khu công nghiệp trong thời gian tới 1.1. Định hướng phát triển KCN, KCX của Việt Nam Vấn đề hình thnàh phát triển KCN, KCX là một trong những nội dung cơ bản của quốc sách công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong chương trình phát triển công nghiệp của Đảng đã xác định: - Hình thành các khu công nghiệp tập trung, tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển xây dựng các cơ sở công nghiệp mới. - Phát triển công nghiệp nông thôn và ven đô thị ở các thành phố thị xã cần nâng cấp cải tạo các cơ sở hiện có, đưa các cơ sở không có khả năng xử lý ô nhiễm ra khỏi thành phố hạn chế việc xây dựng các cơ sở công nghiệp mới xen lẫn và khu dân cư. Theo dự báo phát triển kinh tế xã hội, đến năm 2005 sẽ có khoảng 100 KCN, KCX và sẽ có khoảng 17 khu công nghiệp được thành lập với tổng diện tích 170ha, trong đó Hà Nội chiếm 2 khu công nghiệp với diện tích 64ha (giai đoạn I), Thực hiện phương hướng trên có ý nghĩa chiến lược vừa là giải pháp lớn góp phần đảm bảo nhiệp độ tăng trưởng công nghiệp những năm 2000-2005. Đến năm 2005, dự báo GDP bình quân khoảng 800USD/người, tỷ trọng nông nghiệp khoảng 17-18%, công nghiệp và xây dựng 35-36%, dịch vụ 46-47% trong GDP. Quy hoạch phát triển khu công nghiệp đến năm 2010 bao gồm các mục tiêu chủ yếu sau: - Việc xây dựng hình thành các KCN, KCX, khu công nghệ cao trên phạm vi cả nước phải mang tính phù hợp chung đối với quy hoạch phát triển vùng, lãnh thổ và quốc gia. - Các KCN, KCX, khu công nghệ cao phải được xây dựng trên những vùng đất chủ yếu là đất xấu, cằn cỗi. Không thể canh tác hoặc phát triển nông nghiệp cho năng suất cao. Việc lựa chọn địa điểm xây dựng như vựa tận dụng được đất đai lại vừa có thể làm giàu đất đai đó lên nhiều lần so với sản xuất nông nghiệp. Xây dựng KCN, KCX, khu công nghệ cao phải đặc biệt đảm bảo đúng quy định về an toàn môi sinh, môi trường. - Như dự kiến năm 2005 sẽ hình thành 100 KCN, KCX, khu công nghệ cao thì tổng diện tích đất khoảng 10.000ha. Nhìn chung, quy hoạch tổng thể phát triển KCN từ nay đến năm 2010 mới chỉ nên lên những hướng đi chủ yếu dựa vào những kết quả ban đầu đã đạt được. Mặc dù quy hoạch tổng thể phát triển KCN đã được Thủ tướng phê duyệt nhưng thực tế vẫn còn rất nhiều khó khăn vướng mắc cần phải sửa đổi từng bước trong qúa trình hình thành và xây dựng KCN, KCX trên phạm vi cả nước. 1.2.Định hướng phát triển KCN, KCX Hà Nội Theo báo cáo chiến lược trong 10 năm tới (2001-2010) để nền kinh tế cả nước tăng trưởng ở mức trung bình 7-8% thì các thành phố lớn phải có tốc độ tăng gấp 1,4-1,5 lần. Như vậy Hà Nội cần phấn đấu đạt nhịp độ tăng trưởng 10% năm, trong đó công nghiệp là: 3%. Theo đó các ngành mũi nhọn được xác định là: cơ khí, điện điện tử, tin học, dệt may, da giầy, chế biến lương thực, thực phẩm sẽ chiếm 63-70% tổng giá trị sản xuất công nghiệp trên cả địa bàn tuỳ theo từng giai đoạn. Nhu cầu vốn đầu tư phát triển công nghiệp Hà Nội giai đoạn 2001-2005 là 16.613 tỷ đồng, giai đoạn 2006-2016 là 36.013 tỷ đồng. Để thu hút được một lượng vốn đầu tư lớn như vậy đòi hỏi chúng ta phải có nhiều cố gắng cần thực hiện những điều kiện có nhằm hấp dẫn các nhà đầu tư. Mục tiêu phát triển công nghiệp Hà nội trong giai đoạn 2001- 2010 là: nâng cao hiệu quả sử dụng các KCN tập trung đã có, xây dựng thêm một số KCN mới tập trung bằng nguồn vốn trong nước, hỗ trợ để phát triển các cụm sản xuất công nghiệp ở các quận, huyện và các làng nghề. Sớm có biện pháp cùng các nhà đầu tư hạ tầng nước ngoài đưa các KCN tập trung đã có vào hoạt động. 2. Một số giải pháp nhằm tăng cường hoạt động đầu tư phát triển khu công nghiệp trên địa bàn Hà Nội 2.1. Xem xét lại quy hoạch phát triển KCN Điều chỉnh quy hoạch thành phố Hà nội đến năm 2020 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đã chỉ rõ: cải tạo 9 KCN hiện có là: Minh Khai – Vĩnh Tuy, Trương Định – Giáp Bát, Pháp Vân – Văn Điển, Cỗu Bươi, Thượng Đình – Nguyễn Trãi, Cầu Diễn – Mai Dịch, Chèm, Gia Lâm – Yên Viên, Đông Anh và một số xí nghiệp, cơ sở công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp nằm rải rác trong khu vực nội thành. Giải pháp cải tạo các KCN này là di chuyển các xí nghiệp công nghiệp gây ô nhiễm ra ngoài khu vực nội thành, thay đổi chức năng sản xuất cho phù hợp quy hoạch, hạn chế mở rộng về diện tích, đầu tư chiều sâu, nâng công suất, bảo đảm vệ sinh môi trường. Phát triển một số KCN tập trung mới, một số cụm công nghiệp được bổ xung mở rộng như Cỗu Diễn, Cỗu Bưou, Pháp Vân, Đức Giang. Đối với các KCN tập trung cần bảo đảm cơ cấu sử dụng đất theo quy chuẩn, trong đó đất xây dựng nhà máy không quá 60%. Qua đó ta thấy, việc xây dựng khu công nghiệp trước hết phải xuất phát từ hiệu quả kinh tế xã hội, không thể quyết định một cách chủ quan. Hơn nữa sau khủng hoảng kinh tế khu vực, khả năng tăng đầu tư trực tiếp của nước ngoài vào Việt Nam chưa mạnh, cho nên trong quy hoạch phát triển KCN trong những năm tới cần có những điều chỉnh thích hợp. 2.2. Tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho phát triển các KCN Tuy nước ta đã có nhiều quy định ưu đãi đối với các nhà đầu tư trong KCN, KCX nhưng so với các nước trong khu vực còn kém hấp dẫn. Nhà nước vẫn có sự phân biệt giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong thời gian tới cần có sự ưu đãi hơn nữa đối với các doanh nghiệp KCN (ví dụ: có mức thuế ưu đãi hơn), đồng thời cần tạo sự bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuốc các thành phần kinh tế khác nhau. Nhà nước cần khuyến khích các doanh nghiệp trong nước đầu tư vào KCN. Chúng ta cần xem xét bổ sung một số vấn đề mà các nhà đầu tư khác quan tâm. Thực hiện cơ chế đăng ký với thủ tục hàn chính đơn giản hơn. Cần quy hoạch cụ thể việc phát triển các công trình hạ tầng kỹ thuật và xã hội ngoài hàng rào phục vụ hoạt động của KCN. Có các chính sách khuyến khích, các ngành sử dụng nguyên vật liệu trong nước, đầu tư công nghiệp mới. Có các chính sách ưu đãi cho các KCN tại những vùng ưu tiên (vùng sâu, vùng xa, vùng có nhiều khó khăn). 2.3. Cải tiến cơ chế quản lý thực hiện việc giao cho Ban Quản lý các KCN thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với các KCN, các KCN, KCX tiếp tục phân cấp và ủy quyền cho Ban Quản lý các KCN, KCX một cách đồng bộ, tạo điều kiện thực hiện thủ tục hành chính đơn giản, thông thoáng hơn chính phủ và thành phố cần tiếp tục phân cấp và ủy quyền cho Ban Quản lý các KCN, KCX Hà Nội trong việc ra quyết định có liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp trong KCN. Cần cải tiến mô hình công ty phát triển để đảm bảo sự hoạt động có hiệu quả lớn của KCN. Các công ty sẽ chuẩn bị đề án khi thi hành thành KCN, sau khi được phê duyệt thì công ty sẽ tổ chức phát triển để đạt được mục đích đề ra (công ty không chỉ còn khinh doanh cơ sở hạ tầng). Công ty không can thiệp vào quyền tự chủ sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp theo yêu cầu. Về thủ tục hành chính: Hiện nay, một vấn đề rất được các nhà đầu tư quan tâm là cải cách thủ tục hành chính trước đây để có được giấy phép yêu cầu, các nhà đầu tư cần phải qua rất nhiều cấp, ngành và đủ loại các con dấu. Có dự án phải kéo dài từ 3-5 năm, chỉ riêng giai đoạn xin giấy tờ thủ tục hành chính. Do vậy đây là một vấn đề nổi cộm cần được giải quyết. 2.4 Chủ động tiếp thu cho các khu công nghiệp Để đẩy mạnh việc vận động đầu tư vào KCN Ban Quản lý các KCN, công ty phát triển cơ sở hạ tầng cần chủ động phối hợp với thành phố, Bộ kế hoạch đầu tư, Bộ thương mại, Bộ công nghiệp, tổ chức các hội nghi nhằm giới thiệu các KCN với các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Đồng thời có kế hoạch mới các doanh nghiệp có tiềm năng ở trong nước, nước ngoài vào thăm các KCN để tạo điều kiện cho họ có thể hiểu rõ các KCN của Hà Nội. Ban Quản lý các KCN cần hợp tác chặt chẽ với phòng thương mại ở các nước phát triển, bên cạnh đó Ban Quản lý cần đặt mối quan hệ với các tổ chức công nghiệp khác (ví dụ: UNIDO). Các KCN cần kết hợp với Bộ Công nghiệp qua các phương tiện thông tin đại chúng như đài, báo, truyền hình, mạng điện tử để cung cấp các thông tin về chính sách, thủ tục thực hiện đầu tư, giới thiệu các thông tin cơ bản về KCN: cơ sở hạ tầng, giá thuê đất... đến các nhà đầu tư có quan tâm. Trong công tác vận động tiếp thị cũng cần trú trọng thu hút các chủ đầu tư nước ngoài ở nhiều khu vực khác nhau tạo nên sự đa dạng trong hoạt động đầu tư, hạn chế rủi ro khi có những biến động xảy ra. 2. 5 Có chính sách cơ chế huy động vốn đề đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng. Ngoài hàng rào KCN, KCX xác định rõ trách nhiệm của các đối tác có liên quan đến việc xây dựng cơ sở hạ tầng ngoài hàng rào KCN. Đặc biệt khuyến khích các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư và kinh doanh hạ tầng KCN nhằm tạo điều kiện cho họ làm quen với lĩnh vực kinh doanh có lợi này và tạo thêm việc làm. Tuy nhiên cần quản lý chặt chẽ đối với liên doanh, nhất là việc kiểm soát giá vật tư, thiết bị nhập khẩu và phía Việt Nam phải "chia sẻ" lợi ích cũng như rủi ro với bên nước ngoài. Nếu tìm được các đối tác có năng lực tài chính và khả năng vận động đầu tư thì cần tận dụng thời cơ, không hạn chế thành lập liên doanh để đầu tư kinh doanh kết cấu hạ tầng khu công nghiệp. 2. 6. Có chính sách thuế đất hợp lý, giảm giả cho thuê đất và chi phí quản lý Chúng ta cần có chính sách về thuế đất hợp lý để khuyến khích các nhà đầu tư đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng. Bên cạnh việc xây dựng cơ sở hạ tầng KCN, KCX còn phải trú trọng đến việc đầu tư lấp đầy diện tích KCN, KCX. Phải có giá thuế đất phù hợp mới có thể thu hút được các nhà đầu tư. Các KCN Hà Nội với nhiều lợi thế của mình trong việc thu hút các nhà đầu tư cũng cần phải quan tâm. Hiện nay giá thuế đất của các KCN, KCX cao hơn so với các KCN khác trong cả nước. Bên cạnh đó chi phí quản lý của các KCN Hà Nội hiện nay cũng khá cao. Giải pháp ở đây là nên miễn tiền thuế đất hoặc chỉ thu tượng trưng với mức thấp nhất để phát triển hạ tầng khu công nghiệp. Phải coi việc giải phóng mặt bằng để lập khu công nghiệp thuộc loại đất sử dụng vào mục đích công cộng vì lợi ích quốc gia thì mới có chính sách đền bù và giải tỏa nhanh. Cho phép các doanh nghiệp thuê lại đất trong khu công nghiệp cũng có đầy đủ các quyền theo quy định của pháp luật, ít nhất phải có quyền chuyển nhượng để tạo điều kiện cho họ tiếp tục cho thuê lại mới thuận lợi cho việc thu hút đầu tư lấp đầy KCN. 2.7.Cần có cơ chế chính sách tài chính và thuế hợp lý để thực sự khuyến khích hoạt động của KCN Cần có cơ chế chính sách tài chính và thuế hợp lý để thực sự khuyến khích hoạt động của các KCN. Muốn vậy phải nới lỏng việc sử dụng thị trương nội địa cho các KCN tại Việt Nam sử dụng thị trường trong nước đối với những sản phẩm mà trong nước chưa sản xuất được hoặc đã sản xuất nhưng kém hiệu quả và sức cạnh tranh. Song nên khuyến khích họ từng bước nâng cao tỷ lệ nội địa hóa, hạn chế hình thức đơn thuần gia công đề vừa đảm bảo chiến lược hướng về xuất khẩu nhưng cũng không coi nhẹ thị trường nội địa. Có thể giảm thuế đối với các dự án đầu tư trong nước, và có thể gia thêm thời hạn miễn thuế đối với các dự án đầu tư trong nước để xóa bỏ sự phân biệt đối xử giữa dự án đầu tư nước ngoài và dự án đầu tư trong nước. Và tuỳ theo từng trường hợp việc miễn thuế có thể là toàn bộ hay từng phần và có thể kết hợp với các khuyến khích khác như: miễn trừ khấu hao hoặc trả sau, không hạn chế mức thua lỗ, giảm thuế cho các khoản lợi nhuận tái đầu tư. Các khuyến khích về tài chính bao gồm việc miễn mọi chế độ quản lý về ngoại hối, đảm bảo cho chuyển về nước không hạn chế số lợi nhuận thu được... và một số các biện pháp khuyến khích khác như: - Trợ cấp về thành tích xuất khẩu. - Có trao giải thường hàng năm cho các công trình sáng tạo hoặc cải tiến sản phẩm. - Trợ cấp khấu hao nhanh. - Trợ cấp lãi suất vay tín dụng. - Trợ cấp một phần chi phí cho tài sản cố định, chi phí đào tạo công nhân. 2.7. Đào tạo tay nghề công nhân cung ứng cho các khu công nghiệp Tập trung đầu tư cho việc đào tạo đội ngũ lao động đang chuẩn bị làm việc trong các KCN, KCX vì vấn đề này đang là điểm yếu trong giáo dục - đào tạo cua chúng ta. Do vậy vấn đề lao động kỹ thuật và lao động quản lý phải là giải pháp cần được quan tâm trước hết. Tương lai thành công hay không thành công phần lớn phụ thuộc vào đội ngũ những nhà lao động và những nhà quản lý này. Phần lớn các KCN, KCX đang ở giai đoạn xây dựng và hoàn thiện, mới chỉ có ít nhà máy nên số lượng chưa cần nhiều nhưng những năm tới chắc chắn chúng ta phải cần tới mốt số lượng lớn. Do đó chúng ta phải có một kế hoạch đào tạo sát thực với nhu cầu và đáp ứng được yêu cầu của chủ đầu tư. Điều tất yếu không thể đào tạo một cách ồ ạt mà trung tâm phải xuống tận nơi, phối hợp từng huyện xã để phát phiếu học nghề đăng ký theo trình độ. Các trung tâm huấn luyện tay nghề có thể được thành lập theo chuyên ngành: cơ khí, điện từ, công nghiệp may... Nguồn kinh phí để thành lập các trung tâm là nguồn viên trợ từ OAD, địa phương góp phần xây dựng đất xây dựng trường, một phần kinh phí đào tạo tuyển dụng của doanh nghiệp. Một vấn đề quan trọng là học phí cho người lao động. Theo đánh giá của một lãnh đạo huyện ngoại thành Hà Nội, mức giá từ 700.000-800.000đ cho môt lao động cộng cả xin việc là một con số quá cao so với đời sống và thu nhập của một gia đình nông dân hiện nay. Hiện trạng đó đòi hỏi phải có một chính sách đào tạo riêng cho người các địa phương tại những nơi đã phaỉ nhường đất để xây dựng các KCN, KCX. Kết luận Là một nước đi sau trong việc phát triển KCN, KCX. Việt Nam phải chấp nhận sự cạnh tranh gay gắt về vốn đầu tư nước ngoài với các nước khác. Tuy nhiên có lợi thế là nước đi sau, Việt Nam có điều kiện để tránh những sai lầm, học tập những kinh nghiệm của các nước đi trước từ đó có những hoạch định đúng đắn về phát triển và quản lý các KCN. Hà Nội là trung tâm văn hóa, chính trị kinh tế của đất nước, với vai trò của mình Hà Nội phải là đầu tiên về phát triển kinh tế ở phía Bắc cũng như cả nước. Để thực hiện được điều này thì phát triển công nghiệp trong đó có các KCN là một yếu tố tất yếu. Các KCN Hà Nội chỉ thực sự hình thành từ năm 1994. Mặc dù còn nhiều vấn đề tồn tại cần giải quyết nhưng không thể phủ nhận những lợi ích mà phát triển KCN Hà Nội mang lại. Các KCN Hà Nội đã góp phần quan trọng trong thu hút vốn đầu tư, tác động tích cực đến sản xuất công nghiệp và dịch vụ. Các KCN này đã góp phần bảo vệ môi trường, một yếu tố trước đây chúng ta chưa làm được. Các KCN này đã góp phần nâng cao KH-CN của ngành công nghiệp thủ đô, góp phần nâng cao dân trí, hình thành các đô thị mới... Do đó việc phát triển KCN Hà Nội là một con đường đúng đắn để tiến hành CNH, HĐH thủ đô và đất nước. Sự đóng góp của các KCN vào nền kinh tế đã được khẳng định, tuy nhiên để giải quyết những tồn tại chúng ta cần sự phối hợp giữa các ngành, các cấp để các KCN tiếp tục phát triển ổn định, vững chắc. Tài liệu tham khảo 1. GS.PTS Nguyễn Đình Phan, Giáo trình kinh tế và quản lý công nghiệp. NXB Giáo dục 1999 2. PGS.PTS Nguyễn Ngọc Mai, Giáo trình kinh tế đầu tư, Nxb Giáo dục 1998. 3. Tạp chí Nghiên cứu lý luận 10/2000. 4. Tạp chí Thương mại, 13/2000. 5. Tạp chí Công nghiệp, số 12/2001, 13/2001,4/2002,6/2002 6. Tạp chí Kinh tế phát triển, số 50/2001, 1/2002,8/2002. 7. Thời báo kinh tế, số 31/2000 9. Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, số 6/2000, 7/2000, 12/2001. 10. Tạp chí Tài chính, số 4/2001, 12/1999. 11. Tạp chí Lao động xã hội, số 8/2001. Tạp chí Kinh tế dự báo, 2/2001,3/2001 Báo điện tử: vneconomy.com.vn/thudo.gov.vn/vir.com.vn/

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docV0667.doc
Tài liệu liên quan