Đề tài Thực trạng đầu tư vào tài sản hữu hình và tài sản vô hình trong các doanh nghiệp Việt Nam

Cần đầu tư và đánh giá cao những sang kiến và giải pháp hữu ích của đội ngũ nhân sự. Sức cạnh tranh của công ty trogn hội nhập suy cho cùng” công ty bạn phải bán hang chất lượng cao với gía thấp hơn các đối thủ cạnh tranh khác” khách hang ngày nay càng tinh tế và đòi hỏi nhiều hơn họ sắc sảo hoen trong việc xác định giá trị của sản phẩm. Vì thế bạn phải biện minh cho được mức giá mà bạn đưa ra cho sản phẩm thay vì chỉ dựa trên hình dáng bên ngoài”( Philip Kotler – Rơan Gibson). Muốn có được điều đó, cần phải huy động khả năng sang tạo của toàn bộ đội ngũ nhân sự mà công ty đang sử dụng thay vì chỉ tập trung vào một bộ phận, Khi đội ngũ nhân sự thực sự trở thành chủ thể của sáng tạo thì sức sáng chế của doanh nghiệp là vô tận. Trong hội nhập thì việc huy động được khả năng sang chế phất minh của nguồn nhân lực có ý nghĩa quyết định đối nới sự thành cong của các công ty.

doc47 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1779 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng đầu tư vào tài sản hữu hình và tài sản vô hình trong các doanh nghiệp Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
à InterSputnik với khả năng cung cấp các đường kết nối trực tiếp tới gần 30 nước trên thế giới. Bốn trung tâm viễn thông quốc tế đã được lắp đặt ở Hà Nội, TP.HCM, Đà Nẵng và Bình Dương... Ngành viễn thông Việt Nam đã và đang trên đà phát triển vũ bão của mình nên vậy thì các doanh nghiệp viễn thông còn cần phải tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa đầu tư xây dựng cơ sở ,đầu tư máy móc kỹ thuật cao,công nghệ tiên tiến,hiện đại. 3.Nhóm ngành Giao thông vận tải Năm 2008 có thể sẽ đánh dấu là 1 năm nhiều khởi sắc trong hoạt động đầu tư cảng biển nước ta với hàng loạt các dự án lớn được đầu tư khởi công xây dựng đặc biệt là 2 cảng trọng điểm Vân Phong và Lạch Huyện ,với tổng vốn đầu tư là 400 triệu $. Nhiều dự án nâng cấp đầu tư mới cũng sẽ được thực hiện .Tại Quảng Ninh,công ty Vinalines sẽ tổ chức khởi công xây dựng bến 2,3,4 cảng Cái Lân, Tại Hải Phòng, Tổng công ty sẽ triển khai xây dựng và hoàn tất các cảng theo kế hoạch tại Đình Vũ. Cũng trong giai đoạn này, tại Đà Nẵng, Tổng công ty sẽ nghiên cứu xây dựng thêm cảng biển ở bán đảo Sơn Trà. Năm 2008 cũng là năm mà nhiều tuyến đường cao tốc cũng được triển khai xây dựng Có nhiều dự án đầu tư thuộc ngành giao thông vận tải với giá trị đầu tư lớn đã được cấp giấy phép đầu tư ,những dự án này khi hoàn thanh sẽ đóng góp vào tăng trưởng GDP của quốc gia.Hiện nay trong lĩnh vực giao thông vận tải có cơ hội lớn cho các doanh nghiệp trong ngành nếu doanh nghiệp có đủ cơ sở hạ tầng,vật chất kỹ thuật để đáp ứng yêu cầu của khách hàng.Kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam trong những năm qua là minh chứng rõ ràng nhất về cơ hội của các doanh nghiệp trong ngành giao thông vận tải .Kim ngạch xuất nhập khẩu liên tục tăng trong những năm qua .Nó đòi hỏi các doanh nghiệp phải tự đổi mới ,đồng thời phải xây dựng được hệ thống luân chuyển đáp ứng tốt yêu cầu vận chuyển. 4.Doanh nghiệp Dệt may – Da giầy 1 số dữ liệu: Đầu tư cơ sở hạ tầng :nguyên phụ liệu Đổi mới đầu tư sản xuất,mở rộng hệ thống phân phối,đầu tư chiều sâu tại thị trường trong nước. dự án xây dựng nhà máy dệt vải denim (vải may quần jean) với công suất 30 triệu mét/năm đã được khởi công tại Khu công nghiệp Hòa Xá (Nam Định), với tổng số vốn đầu tư 40 triệu USD. Dệt may đã chính thức qua mặt dầu thô để vượt lên vị trí dẫn đầu trong danh mục các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Ngành dệt may của Việt Nam trong thời gian qua đã có sự tham gia của rất nhiều doanh nghiệp mới, đặc biệt là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Điều này đã làm cho tốc độ tăng trưởng của toàn ngành trong năm qua đạt 33%, trong khi đó mỗi một doanh nghiệp riêng lẻ chỉ có tốc độ tăng trưởng khoảng 15 -16%. Các doanh nghiệp dệt may Việt Nam đã và đang thực hiện bắt tay với nhiều doanh nghiệp nước ngoài để xây dựng các nhà máy dệt may mới,đây là hướng đi đúng để trang thủ nguồn vốn và kỹ thuật nước ngoài.Tạo và nâng cao hơn nữa sức cạnh tranh của doanh nghiệp trên thương trường. 5.Nhóm ngành năng lượng dầu khí Đối với nhóm ngành tư liệu sản xuất như ngành điện: đạt 112,6-117,3 tỷ kWh vào năm 2010, điện thương phẩm đạt 97,1-101,1 tỷ kWh, đáp ứng cơ bản nhu cầu, đạt 4,48% giá trị sản xuất toàn ngành; Dầu khí: Sản lượng khí vào năm 2010 ước đạt 11 tỷm3; Ngành than: đến 2010 sản xuất 40 triệu tấn than sạch, đáp ứng đủ nhu cầu; Ngành thép: sản xuất đạt 6,3-6,5 triệu tấn thành phẩm, đáp ứng 100% nhu cầu thép xây dựng và 50% nhu cầu phôi; Hoá chất cơ bản: sản xuất 1,7 triệu tấn lân đáp ứng 100% nhu cầu, 3 triệu tấn NPK và 2 triệu urê; Xi măng: tăng trưởng 10%/năm, tương đương sản lượng 45 triệu tấn vào 2010… Để đạt được sản lượng như dự kiến thì các doanh nghiệp điện cần nâng cao hiện đại hóa cơ sở khai thác ,chế biến, sản xuất…Các nhà máy điện, nhà máy dầu đang được các doanh nghiệp khẩn trương xây dựng và hoàn thành theo đúng tiến độ để đi vào hoạt động. Theo Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PetroVietnam), dự kiến trong tháng 4 tới, PetroVietnam cùng các đối tác KPI (Kuwait) và Idemitsu (Nhật Bản) sẽ hoàn thành toàn bộ các tài liệu về việc thành lập liên doanh đầu tư dự án lọc hóa dầu Nghi Sơn tại Thanh Hoá để trình Chính phủ. SCG - tập đoàn công nghiệp hàng đầu của Thái Lan và Đông Nam Á - đang nghiên cứu khả thi một dự án tầm cỡ tại Việt Nam. Đó là dự án khu liên hợp hóa dầu tại Long Sơn, Bà Rịa - Vũng Tàu, với tổng vốn đầu tư khoảng 3,7 tỉ USD. Theo Quyết định số 619/QĐ-UBND của UBND tỉnh Sơn La, Công ty Cổ phần Phát triển đa năng HTL (do APECI là một trong 3 cổ đông sáng lập) làm chủ đầu tư dự án thủy điện To Buông có tổng mức đầu tư 109 tỷ đồng tại xã Tú Nang, huyện Yên Châu, tỉnh Sơn La. Đây là một trong những dự án đầu tư trực tiếp trọng điểm trong lĩnh vực đầu tư năng lượng hạ tầng của IPA giai đoạn từ nay đến 2010. Năng lượng dầu khí là ngành công nghiệp trọng điểm quốc gia cần được chú trọng đầu tư phát triển .Giá trị xuất khẩu năm 2007 của 1 số ngành năng lượng: Dầu thô 8,5 tỷ USD, than đá trên 1 tỷ USD, tăng 11,3%.Để có thể duy trì và gia tăng sản lượng khai thác ,việc đầu tư xây dựng mới các cơ sở sản xuất khai thác là hướng đi đúng của các doanh nghiệp.Song song với quá trình đó là sự nỗ lực tìm kiếm các nguồn năng lượng mới.Các nguồn năng lượng mới lại tiếp tục làm nảy sinh yêu cầu xây dựng mới cơ sở khai thác,đây cũng là xu hướng phát triển của ngành năng lượng hiện nay. 6.Nhóm ngành xây dựng vật liệu 1 số dữ liệu về ngành vật liệu xây dựng: China Steel, tập đoàn sản xuất thép lớn nhất của Đài Loan, thông báo sẽ xây dựng nhà máy thép trị giá 1,5 tỷ USD ở Việt Nam. Nhà máy dự kiến được khởi công vào tháng 6/2008 và đi vào sản xuất từ năm 2011 với công suất 1,7 triệu tấn/năm. Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố Hải Phòng đã chính thức trao giấy chứng nhận đầu tư cho Công ty TNHH Một thành viên Phôi thép Úc (viết tắt là VII). Theo dự án, tại giai đoạn đầu, tập đoàn sẽ xây dựng một nhà máy sản xuất phôi thép lớn, công suất 500.000 tấn/năm áp dụng công nghệ hiện đại châu Âu, với quy mô vốn đầu tư 70 triệu USD. Hoạt động xây dựng ở nước ta hiện nay đang rất nóng,đặc biệt tại các đô thị lớn như Hà Nội,TP Hồ Chí Minh,…Để có thể đáp ứng yêu cầu xây dựng các doanh nghiệp vật liệu xây dựng phải tăng cung nhóm hàng vật liệu xây dựng.Đồng thời các doanh nghiệp VLXD phải xây dựng hệ thống phân phối rộng khắp,đa dạng hóa mặt hàng… 7.Nhóm ngành du lịch Đây là thời điểm vừa là thời cơ vừa là thách thức đối với ngành du lịch,năm 2007 lượng du khách đến Việt Nam là kỷ lục 4,2 triệu khách.Ngành du lịch đặt mục tiêu năm 2008 là 5 triệu khách , Chỉ tiêu 5,5 – 6 triệu khách vào năm 2010 sẽ đạt sớm hơn hoặc nên đạt sớm hơn. Chỉ tiêu thu 4,5 tỷ USD cũng phải cao lên, chứ con số đó vẫn là khiêm tốn.Để nắm lấy cơ hội này,để thực sự cất cánh,các doanh nghiệp trong ngành cần tiếp tục đẩy mạnh đầu tư xây dựng hệ thống khách sạn theo tiêu chuẩn sao,để đáp ứng yêu cầu của khách du lịch về phòng nghỉ,tăng cường đầu tư các khu giải trí ,…tăng cường ,xúc tiến công tác quảng cáo,truyền bá hình ảnh Việt Nam ra thế giới. 1.2.1. Đầu tư XDCB của doanh nghiệp nhà nước Thứ nhất, đầu tư xây dựng cơ bản đã góp phần phát triển nhanh kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Nguồn vốn đầu tư của Nhà nước trong thời gian qua đã tập trung đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật và kinh tế - xã hội ở các vùng, ngành trong cả nước; quan tâm đầu tư kết cấu hạ tầng nông thôn và nông nghiệp, các vùng sâu, vùng xa, vùng có nhiều khó khăn. Kết cấu hạ tầng kỹ thuật và kinh tế - xã hội ngày càng được phát triển, hoàn thiện làm thay đổi diện mạo của nhiều địa phương trong cả nước, một số đô thị mới ra đời; nhiều khu công nghiệp được hình thành; nhiều sân bay, bến cảng được hiện đại hóa; giao thông đường bộ (quốc lộ, tỉnh lộ) phát triển mạnh; giao thông nông thôn được cải thiện; vận tải đường sắt được nâng cấp; bệnh viện, trạm y tế đạt tiêu chuẩn cao hơn; các trường đại học, cao đẳng, trung học dạy nghề, các trường trung học phổ thông được xây dựng khang trang hơn; các trường trung học cơ sở, tiểu học ở các vùng, kể cả các vùng khó khăn đang nhanh chóng được kiên cố hóa... Tốc độ và quy mô tăng đầu tư xây dựng cơ bản đã góp phần quan trọng vào tốc độ tăng GDP hằng năm, tăng cường tiềm lực nền kinh tế, cải thiện và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Thứ hai, đầu tư xây dựng cơ bản đã góp phần quan trọng chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tăng đáng kể năng lực sản xuất mới. của đất nước. Thứ ba, nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ Nhà nước thực sự có vai trò chủ đạo, dẫn dắt, thu hút và làm cho các nguồn vốn của xã hội được huy động cho đầu tư phát triển không ngừng tăng nhanh hằng năm và ngày càng đa dạng. Tỷ trọng nguồn vốn đầu tư của Nhà nước ngày càng tăng. Mặc dù ngân sách còn hạn hẹp, nhưng Đảng và Nhà nước vẫn dành một phần ngân sách đáng kể cho đầu tư phát triển, trong đó phần lớn cho đầu tư xây dựng cơ bản. Trong 3 năm (2001 - 2003), nguồn vốn đầu tư phát triển của Nhà nước nói chung, vốn đầu tư xây dựng cơ bản nói riêng (bao gồm nhiều nguồn vốn đầu tư khác nhau như: vốn ngân sách, vốn tín dụng đầu tư Nhà nước, vốn doanh nghiệp nhà nước...) luôn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội và tăng lên qua các năm. Nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ Nhà nước thực sự giữ vai trò chủ đạo, tạo môi trường để thu hút mạnh các nguồn vốn khác. Trong khi vốn đầu tư của Nhà nước tiếp tục là nguồn chủ lực chiếm 54,9%, thì các nguồn vốn khác đã tăng nhanh, vốn đầu tư nước ngoài chiếm 17,4%; vốn dân cư và tư nhân chiếm 25,7%; vốn huy động khác chiếm 2%. Tính chung nguồn lực trong xã hội dành cho đầu tư phát triển, đặc biệt từ năm 2001 đến nay tăng khá. Thứ tư, quản lý nhà nước về đầu tư xây dựng cơ bản có một số mặt tiến bộ hơn những năm trước. Việc sửa đổi, bổ sung các quy chế về quản lý đầu tư, xây dựng, đấu thầu đã tạo khung pháp lý hoàn thiện hơn về đầu tư xây dựng cơ bản. Công tác chỉ đạo, điều hành, lập và tổ chức thực hiện quy hoạch, kế hoạch được quan tâm. Cơ chế quản lý đầu tư được cải tiến một bước theo hướng tăng cường phân công, phân cấp cho các bộ, ngành và địa phương. Tính công khai, minh bạch, công bằng, hợp lý trong việc phân bổ vốn đầu tư xây dựng cơ bản theo Luật Ngân sách nhà nước mới đã được quan tâm hơn. Công tác kiểm tra, thanh tra, kiểm toán của các cơ quan chức năng của Chính phủ, công tác giám sát của các cơ quan dân cử đối với đầu tư xây dựng cơ bản bước đầu phát huy hiệu quả trong việc phát hiện yếu kém, tiêu cực trong quản lý và thực hiện các dự án, công trình, góp phần hạn chế và khắc phục những vi phạm pháp luật trong lĩnh vực này. Một số vấn đề khác cũng rất đáng quan tâm như: Một là, số dự án, công trình sử dụng vốn đầu tư trong cân đối ngân sách nhà nước tăng lên qua các năm, không tương xứng với tốc độ tăng của vốn đầu tư. Nhiều dự án, công trình được phê duyệt không dựa vào khả năng cân đối nguồn vốn, hay chưa đủ thủ tục cũng được ghi vốn. Việc triển khai thực hiện dự án, công trình kéo dài, không theo kế hoạch, khối lượng đầu tư dở dang nhiều. Hai là, tình trạng thất thoát, lãng phí vốn đầu tư xây dựng cơ bản diễn ra trong các dự án đầu tư thuộc các nguồn vốn, ở các ngành, các địa phương và trong tất cả các giai đoạn của quá trình đầu tư, thậm chí một số dự án, công trình bị thất thoát lớn do tham nhũng, vụ việc phải khởi tố hình sự; cán bộ quản lý bị xử lý kỷ luật, truy tố trước pháp luật. Ba là, số nợ đọng vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ nguồn vốn nhà nước ở mức cao, kéo dài, vẫn tiếp diễn và có xu hướng tăng, dẫn đến tình trạng chiếm dụng vốn lẫn nhau, ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động sản xuất kinh doanh và công ăn việc làm, đời sống của người lao động. Báo cáo của các bộ, ngành và địa phương chưa phản ánh đầy đủ số nợ tồn đọng vốn đầu tư xây dựng cơ bản. Tình hình này sẽ rất khó khăn cho việc tổng hợp, phân loại và xử lý các khoản nợ, nhất là các khoản nợ giữa các cấp ngân sách ở địa phương. Bốn là, hiệu quả đầu tư xây dựng cơ bản thấp thể hiện cả ở tầm vĩ mô của nền kinh tế và ở tầm vi mô của từng dự án, công trình, hạng mục công trình thuộc các bộ, ngành, địa phương. 2, Đầu tư bổ sung hàng tồn trữ Nhu cầu hàng tồn kho ở các doanh nghiệp là khác nhau ,ta đi xét ở các loại hình doanh nghiệp .Doanh nghiệp sản xuất và doanh nghiệp tiêu dùng ,doanh nghiệp thương mại. Hiện nay các doanh nghiệp Việt Nam thường xuyên phải đối mặt với bài toán nan giải :giải quyết lượng hàng hóa ,tài sản tồn kho ,chậm luân chuyển .Hàng tồn kho có thể là hàng dự trữ,hàng thừa từ việc xuất khẩu ,hàng bán trái mùa,hàng bán bị trả lại…Mặc dù ,doanh nghiệp đã cố gắng làm tốt ở khâu cung ứng ,Marketting nhưng do vốn tồn đọng ,chi phí ,mất mát nên trở thành mối quan ngại lớn. Một phương pháp thường được sử dụng là bán thanh lý nhưng hiệu quả thấp ,ít người mua ,tính cạnh tranh thấp,vốn thu hồi không cao . Một phương pháp hiện đại là thông qua sàn đấu giá trực tuyến Daugia247.com,trên trang Web này hàng hóa ,tài sản tồn đọng ,chậm lưu chuyển ,được tổ chức bán theo phương thức đấu giá hiện đại và chuyên nghiệp .Thông qua sàn đấu giá ,doanh nghiệp giảm thiểu gánh nặng do hàng hóa tồn đọng gây ra… II, Thực trạng đầu tư vào tài sản vô hình 1, Đầu tư phát triển nguồn lực + Đầu tư cho hoạt động đào tạo đội ngũ lao động: Hoạt động đào tạo: chính quy, dài hạn, ngắn hạn, bồi dưỡng nghiệp vụ… Giáo dục cơ bản cung cấp những kiến thức cơ bản để phát triển năng lực cá nhân. Giáo dục nghề và giáo dục Đại học (đào tạo) vừa giúp cho người học có kiến thức đồng thời giúp cung cấp tay nghề, kỹ năng, chuyên môn Với mỗi trình độ nhất định, người được đào tạo biết được họ sẽ phải đảm nhận những việc gì? Yêu cầu kỹ năng cũng như chuyên môn nghề nhiệp phải như thế nào? Vai trò của hoạt động giáo dục đào tạo đối với việc nâng cao chất lượng lao động được cụ thể như sau: Tăng tích lũy vốn con người đặc biệt là tri thức và sẽ giúp cho việc sáng tạo ra công nghệ mới, tiếp thu công nghệ mới. Do đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế dài hạn. Tạo ra một lực lượng lao động có trình độ, có khả năng làm việc với năng suất cao là cơ sở thúc đẩy tăng trưởng nhanh và bền vững. Bổ sung cho các dịch vụ y tế. Dịch vụ y tế, chăm sóc sức khỏe và cải thiện chất lượng lao động. Sức khỏe có tác động tới chất lượng lao động cả hiện tại và tương lai. Người có sức khỏe tốt có thể mang lại những lợi nhuận trực tiếp hoặc gián tiếp bằng việc nâng cao sức bền bỉ, dẻo dai và khả năng tập trung cao. Vì vậy nhanh chóng tiếp thu kiến thức, kỹ năng qua giáo dục – đào tạo. Như vậy, hoạt động giáo dục- đào tạo và y tế có tác động hỗ trợ nhau, bổ sung cho nhau trong việc cải thiện chất lượng nguồn nhân lực. Trả lương đúng và đủ Người lao động nhận thức đúng đắn công việc và vai trò của mình trong doanh nghiệp. Lương phù hợp với khả năng khiến người lao động vững tâm và phấn đấu trong công việc. Cơ cấu theo trình độ chuyên môn kỹ thuật 1996 1999 2003 Không có chuyên môn 89.080 85.860 78.850 Sơ cấp, học nghề 11.000 14.140 21.150 CN kí thuật có bằng trở lên 7.260 10.100 11.830 - Hàng năm có khoảng 200.000 sinh viên tốt nghiệp ra trường song chỉ một phần nhỏ có thể đáp ứng được nhu cầu tuyển dụng nhân lực trung, cao cấp của thị trường lao động. Nguồn lao động chất lượng cao hiện vừa thiếu về số lượng, vừa thiếu về chất lượng. - Nguồn nhân lực bậc cao mới chỉ đáp ứng được 30% - 40% nhu cầu của các công ty. Nhiều doanh nghiệp có đủ khả năng tài chính muốn mở rộng sản xuất, kinh doanh,nhưng nguồn lao động hiện hành không thể đáp ứng được nhu cầu, còn việc tuyển dụng người lao động chất lượng cao từ bên ngoài khó khăn. Do thiếu lao động nên một người phải đảm nhiệm công việc nhiều hơn dẫn đến chất lượng công việc giảm. - Các doanh nghiệp chưa ý thức được tầm quan trọng của công tác quản lý và phát triển nguồn nhân lực, thiếu hẳn cơ chế tổ chức rõ ràng để thu hút và giữ chân nhân tài dẫn tới hiện tượng chảy máu chất xám. - Nhiều công ty, tập đoàn lớn đã có kế hoạch tìm nhân tài ngay từ khi đối tượng này còn ngồi trên ghế nhà trường. Ví dụ, từ năm 2000, công ty Unilever đã thường niên tổ chức ngày hội quản trị viên tập sự, thu hút khoảng 2000 sinh viên. Proter & Gamble có chương trình Career camp, huấn luyện nghề nghiệp và học bổng học tập. Công ty Pricewaterhousr Coopers tổ chức ngày hội giao lưu với sinh viên năm cuối. Lúng túng trong việc xử lý những tranh chấp lao động phát sinh do khung pháp lý chưa hoàn thiện, do cơ chế và quá trình giải quyết tranh chấp chưa thật rõ ràng, chưa phát huy vai trò của các tổ chức trung gian. Các doanh nghiệp liên kết với nhau, doanh nghiệp liên kết với nhà nước mở lớp đào tạo ngành, nghề nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu công việc. Ví dụ: Tp HCM có 10 trung tâm đào tạo công nghệ thông tin liên kết với nước ngoài. + Trung tâm thiết kế điện tử EDTC hợp tác với tập đoàn Cadence. + Trung tâm đào tạo Java hợp tác với tập đoàn SanMicrosgten Về quản trị nhân sự Tổ chức cồng kềnh Trong nội bộ doanh nghiệp chưa hình thành hệ thống thông tin chính thống để nhân viên có thể hiểu được chiến lược của công ty. Cách trả lương của một số doanh nghiệp không theo tiêu chí rõ ràng và không theo kết quả công việc nên hạn chế về mức độ cống hiến của nhân viên trong doanh nghiệp 2, Đầu tư nghiên cứu và triển khai các hoạt động khoa học và công nghệ - Đầu tư vào công nghệ Ban chỉ đạo công nghệ thông tin quốc gia đã làm một cuộc khảo sát việc ứng dụng công nghệ thông tin tại 217 doanh nghiệp và những con số có được đã khiến mọi người không khỏi bất ngờ. Hiện các doanh nghiệp Việt Nam mới chỉ đầu tư khoản chi phí rất nhỏ bé là 0,05- 0,08% doanh thu cho công nghệ thông tin, trong khi ở Mỹ con số trung bình là 1,5%. Chính sách đầu tư cho công nghệ thông tin của doanh nghiệp còn nhiều bất cập. Đa phần doanh nghiệp chỉ đầu tư một lần cho hệ thống thông tin và nâng cấp các ứng dụng, do đó đầu tư đã thấp và hiệu quả của nó còn thấp hơn. Cuộc khảo sát còn cho thấy đến thời điểm này vẫn có những doanh nghiệp chưa có một ứng dụng công nghệ thông tin nào. Khối doanh nghiệp nhà nước còn 10%, trong khi các thành phần doanh nghiệp khác thì có đến 60% chưa đưa công nghệ thông tin vào công việc của mình. 40% doanh nghiệp chưa dám đầu tư mạnh vào công nghệ thông tin vì không đủ nhân viên có trình độ để quản lý và khai thác. Các doanh nghiệp tuy đã có nhận thức bước đầu về tầm quan trọng của công nghệ thông tin nhưng số lượng các doanh nghiệp có thể khai thác được sâu khả năng của công nghệ thông tin mới chỉ dừng lại ở con số ít ỏi. Một doanh nghiệp phát biểu: “Nhiều nơi đã dùng máy tính làm các loại văn bản từ khá lâu, nhưng máy tính có thể ứng dụng được vào công việc gì nữa và làm như thế nào để thật sự hiệu quả, thì có lẽ đến 80% vẫn rất lúng túng”. Không có gì đáng ngạc nhiên khi chương trình quan trọng nhất, được sử dụng rộng rãi nhất trong các doanh nghiệp là quản lý tài chính, kế toán. Khoảng 88% số doanh nghiệp áp dụng công nghệ thông tin có sử dụng phần mềm kế toán tài chính, nhưng ngay cả đối với những doanh nghiệp đã ứng dụng công nghệ thông tin, chỉ có khoảng 20% các phần mềm thoả mãn được yêu cầu của họ. 53% phần mềm cài đặt trên máy tính trong năm 2003 là phần mềm không có bản quyền, gây tổn thất khoảng 7,5 tỷ USD cho các nhà sản xuất. Việt Nam có tỷ lệ vi phạm bản quyền phần mềm được công bố là 92% theo điều tra của BSA, song mức thiệt hại về tài chính chỉ khoảng 40,8 triệu USD, thua xa so với các nước trong khu vực và thế giới như Trung Quốc (3.822,5 triệu USD), Hàn Quốc (1.633 triệu USD), Thái Lan (140,9 triệu USD), hay Mỹ (1,96 tỷ USD). Những năm lại đây, tình trạng xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ (SHTT) đang ngày càng có chiều hướng gia tăng trên thế giới và ở Việt Nam. Theo số liệu điều tra của Tổ chức Hải quan thế giới thì giá trị hàng giả, hàng nhái của thế giới năm 2006 vào khoảng 500 tỷ USD, chiếm 5 - 7% giá trị khối lượng hànghoáthếgiới. Cũng theo thông tin của vị Đại diện khu vực CA-TBD, Hội điện ảnh (MPA) trong một cuộc hội thảo về thực thi quyền SHTT được tổ chức gần đây tại Hà Nội đã đưa ra dẫn chứng về việc xâm phạm quyền SHTT (bản quyền) của hơn 10 nước trong khu vực, trong đó tình trạng xâm phạm ở mức cao nhất là Trung Quốc (trên 95%), Malaysia (90%), Thái Lan, Philippins (xắp xỉ 80%)... và thấp nhất khu vực là Hàn Quốc (6%), Hồng Công (9%), Australia (11%), Nhật Bản (12%). -Đầu tư vào nhãn hiệu hàng hóa Nhãn hiệu có vị trí đặc biệt quan trọng và trở thành “linh hồn” của mỗi doanh nghiệp trong quá trình phát triển. Hiện nay, cùng với bằng sáng chế, bằng kiểu dáng công nghiệp và tên gọi xuất xứ, nhãn hiệu là một trong những đối tượng sở hữu công nghiệp đang được bảo hộ nhiều nhất ở Việt Nam. Mỗi năm, Cục Sở hữu trí tuệ đã nhận được không dưới 17.000 đơn đăng ký nhãn hiệu hàng hoá từ các doanh nghiệp trong nước và hơn 100 quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên, trong số hơn 110.000 nhãn hiệu được đăng ký và bảo hộ ở Việt Nam thì chủ yếu là của doanh nghiệp nước ngoài (chiếm tới 75%) và còn lại là của doanh nghiệp Việt Nam. Mặc dù trong những năm qua, lượng đơn đăng ký từ doanh nghiệp trong nước đã tăng lên đáng kể nhưng cũng còn không ít doanh nghiệp Việt Nam còn thờ ơ với việc bảo hộ nhãn của mình. Đây chính là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng nhãn hiệu bị nhái, bị đánh cắp, tranh chấp. Thực tế ở Việt Nam mỗi năm đã có tới trên 3.000 vụ xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp bị xử lý bằng các biện pháp hành chính, hàng trăm vụ làm hàng giả và vi phạm nhãn hiệu bị xử tại toà hình sự. Đặc biệt, số vụ vi phạm sở hữu công nghiệp mỗi năm một tăng mạnh. Nếu như năm 2000, mới chỉ có 176 vụ vi phạm thì đến năm 2002 đã tăng lên 395 vụ và năm 2004 là 404 vụ. Theo ông Lê Văn Kiều, Chánh thanh tra Bộ Khoa học Công nghệ, hàng năm, thanh tra Bộ đã kết hợp cùng công an kinh tế phát hiện, xử lý hàng trăm vụ vi phạm kiểu dáng, nhãn mác, nhãn hiệu hàng hoá. Không phủ nhận đã có nhiều doanh nghiệp xây dựng, quan tâm đăng ký bảo hộ nhãn hiệu của mình nhưng cũng vẫn còn không ít đơn vị không đầu tư tạo dựng thương hiệu mà ăn cắp, nhái nhãn mác hàng hoá... để làm hàng giả, hàng kém chất lượng. Tại Việt Nam, đã có một số nhãn hiệu được định giá trong quá trình chuyển nhượng và góp vốn kinh doanh như: “P/S” (được định giá 5 triệu USD năm 1996), “Dạ Lan” (được định giá 2,5 triệu USD vào năm 1997). Mặc dù mức này còn khiêm tốn so với các nhãn hiệu nổi tiếng trên thế giới nhưng nó là khá cao ở Việt Nam và là minh chứng cho giá trị của nhãn hiệu các doanh nghiệp cần phải gìn giữ, bảo vệ. -Đầu tư vào bản quyền sáng chế +tỷ lệ vi phạm bản quyền PM của Việt Nam năm 2004 là 92% - là một trong những nước có tỷ lệ vi phạm bản quyền phần mềm cao nhất thế giới với giá trị vi phạm 55 triệu USD. Số bằng Việt Nam xin cấp bằng sáng chế cũng vô cùng thấp. Vào các năm 2002, 2003, và 2004 lần lượt là 2, 7, và 2. Trong khi đó năm 2005, Trung Quốc đang tiến mạnh về bằng sáng chế. Các nhà khoa học Trung Quốc có 2.452 đơn xin cấp bằng sáng chế. So với năm 2004, số lượng đơn của Trung Quốc tăng hơn 43%, khiến nước này từ vị trí 13 vượt lên đứng thứ 10 trong các nước có số bằng sáng chế lớn nhất thế giới. Theo WIPO, vào năm 2005, đã có hơn 134. 000 đơn đăng ký cấp bằng sáng chế thuộc các lĩnh vực, tăng 9,4% so với năm 2004. 5 quốc gia dẫn đầu trong việc đăng ký bằng sáng chế vẫn không thay đổi là các nước Mỹ, Nhật, Đức, Pháp và Anh. Các nhà sáng chế và ngành công nghiệp của Mỹ đã nộp 45.111đơn xin cấp bằng sáng chế, chiếm 33,6% tổng số đơn của năm 2005. Trong lúc Nhật, đứng thứ hai, chiếm 18,8%. Bên cạnh đó, theo thống kê của WIPO, đây là năm thứ hai liên tiếp, tỉ lệ đơn tăng cao nhất đến từ các nước Đông Bắc Á, tức Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc. Tất cả chiếm 24,1% tổng số đơn. Số đơn của Nam Hàn chiếm 3,5%, và Trung Quốc chiếm 1,8% trong tổng số đơn xin cấp bằng sáng chế. Số đơn của một số nước Đông Nam Á năm 2005: Brunei: 13, Indonesia: 12, Malaysia: 33, Philippines: 34, Singapore: 438, Thái Lan: 10. "Tốc độ gia tăng từ các nước Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc tiếp tục trở thành những trường hợp đặc biệt. Điều đó phản ánh sự phát triển mạnh mẽ của sức mạnh công nghệ ở các nước này. Từ năm 2000, đơn xin cấp bằng sáng chế của các nước Nhật, Hàn Quốc, và Trung Quốc đã tăng lần lượt 162%, 200% và 212%," Ông Francis Gurry, Phó tổng giám đốc WIPO, nhận xét Số liệu về tình hình nộp đơn yêu cầu bảo hộ và cấp bằng sáng chế ở VN: Ðơn yêu cầu bảo hộ sáng chế đã được nộp từ 1981 đến 2004  Năm Số đơn yêu cầu bảo hộ sáng chế đã được nộp bởi Người nộp đơn Việt Nam Người nộp đơn nước ngoài Tổng số 1981 - 1988 453 7 460 1989 53 18 71 1990 62 17 79 1991 39 25 64 1992 34 49 83 1993 33 194 227 1994 22 270 292 1995 23 659 682 1996 37 971 1008 1997 30 1234 1264 1998 25 1080 1105 1999 35 1107 1142 2000 34 1205 1239 2001 52 1234 1286 2002 69 1142 1211 2003 78 1072 1150 2004 103 1328 1431    Bằng độc quyền sáng chế đã được cấp từ 1984 đến 2004   Năm Số Bằng độc quyền sáng chế đã được cấp cho Người nộp đơn Việt Nam Người nộp đơn nước ngoài Tổng số 1984 - 1989 74 7 81 1990 11 3 14 1991 14 13 27 1992 19 16 35 1993 3 13 16 1994 5 14 19 1995 3 53 56 1996 4 58 62 1997 0 111 111 1998 5 343 348 1999 13 322 335 2000 10 620 630 2001 7 776 783 2002 9 734 743 2003 17 757 774 2004 22 676 698   (Nguồn: Cục Sở hữu Trí tuệ)  3, Đầu tư cho hoạt động Marketing 3.1Đầu tư vào tài sản hữu hình thuộc lĩnh vực marketing Thực tế hiện nay cho thấy, các doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam thường không mấy chú trọng tới chiến lược Marketing. Ngay bản thân trong bộ máy quản lý doanh nghiệp, các bộ phận sản xuất, kinh doanh hay bán hàng chỉ chú trọng vào công việc chính là sản xuất và bán sản phẩm cho những khách hàng "có mối làm ăn" từ trước. Họ ít khi lập ra những chính sách, kế hoạch, những chiến lược marketing dài hạn, thậm chí là trong ngắn hạn. Chủ doanh nghiệp thì luôn bận bịu với công việc quản lý và kinh doanh hàng ngày, họ thường nghĩ rằng, "trong đầu" mình đã vạch sẵn các chiến lược, rằng doanh nghiệp đã có cả một đội ngũ kinh doanh, sản xuất giỏi, thế là đủ. Song, để có được một chiến lược Marketing hiệu quả, phải dành một khoảng thời gian nhất định để phân tích thị trường, vạch ra mục tiêu, định hướng, cách thức...chứ không phải đơn giản chỉ là những suy nghĩ trong đầu. Điều này đặt ra yêu cầu cho người quản lý đó là họ phải có những kiến thức nhất định về lĩnh vực Marketing và các lĩnh vực liên quan   Một khó khăn cố hữu đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong việc thực thi chiến lược Marketing, đó chính là vấn đề về vốn. Đối với các doanh nghiệp lớn, việc xây dựng một chiến lược Marketing được coi là công việc của các chuyên gia, các nhà tư vấn, thiết kế và để thực hiện những chiến lược này, không ít những công ty, tập đoàn lớn đã phải bỏ ra một số tiền khổng lồ. Vậy thì làm thế nào để các doanh nghiệp vừa và nhỏ với vài nhân viên, kinh phí hạn hẹp, không có nhiều thời gian có thể xây dựng và thực hiện được chiến lược Marketing cho doanh nghiệp mình? Hiện nay, có không ít các chủ doanh nghiệp vẫn còn giữ quan điểm làm Marketing có nghĩa là chi tiền để quảng cáo. Nhưng không, Marketing là đầu tư để tạo dựng, định vị thương hiệu và tạo sự khác biệt cho thương hiệu. Chính vì vậy mà khoản tiền chi ra để thực hiện hoạt động Marketing là những khoản đầu tư cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp chứ không phải là chi phí sản xuất 3.2thương hiệu và sở hữu trí tuệ - 2 tài sản quí của doanh nghiệp Cho đến thời điểm hiện nay,có một thực tế chắc chắn mà hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam đều đã nhận thức được đó là nếu muốn tồn tạivà phát triển lâu dài thì phải không ngừng chủ động hội nhập kinh tế quốc tế theo xu hướng chung của nền kin tế đất nước. Mặc dù vậy để hội hập thành công , có rất nhiều vấn đề mang tính chiến lược các doanh nghiệp phải tiến hành thực hiện. Trước sức ép của quá trình hội nhập ngày càng ra tăng mạnh mẽ, buộc các doanh nghiệp Việt Nam phải đồng thời thực hiện nhiều công việc trong cùng thời điểm làm cho các doanh nghiệp VN vốn đang có nhiều hạn chế trong hoạt động lại càng thêm phần phức tạp. Một trong những hạn chế lớn nhất của doanh nghiệp VN hiện nay là chưa chú ý nhiều trong việc xây dựng chiến lược thương hiệu cũng như chiến lược về sở hữu trí tuệ để chủ động hội nhập mặc dù chủ đề về thương hiệu đã được nhiều các nhà nhgiên cứu đề cập và khuyến cáo. Tỷ lệ đầu tư trên doanh thu Doanh nghiêp khu vưc tư nhân Doanh nghiệp khu vực nhà nước Không đầu tư 18 16 Đầu tư dưới 5% 56 73 Đầu tư từ 5% - 10% 10 8 Đầu tư trên 10% 16 3 Nguồn: Thời báo kinh tế Việt Nam số 41-2003 Sở hữu trí tuệ - tài sản quý của các doanh nghiệp .Thực trạng đầu tư sở hữu trí tuệ trong các doanh nghiệp Trước xu thế hội nhập, chúng ta đang đồng thời chứng kiến 2 xu hướng: quá trình tự do hoá thương mại phát triển mạnh mẽ với việc dỡ bỏ các rào cản thương mại, tạo một sân chơi chung toàn cầu với luật lệ chung, bình đẳng trong khuôn khổ của tổ chức thương mại thế giới (WTO) và xu thế tăng cường bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ với những đòi hỏi chặt chẽ, khắt khe hơn nhằm bảo hộ đối vớe các đối tượng sở hữu trí tuệ. Theo hội doanh nhân tre TP.HCM, thương trường cạnh tranh ngày càng khốc liệt giữa các doanh nghiệp trong và ngoài nước,nhất là khi VN gia nhập WTO, thách thức đặt ra cho DN là làm thế nào để hoà nhập và bảo vệ được tài sản trí tuệ như thương hiệu, logo, sologan… Do vậy, một trong những tếu tố sống còn của DN ngoài việc tăng cường khả năng cạnh tranh, mở rộng thị phần là bảo vệ và phát triển tài sản trí tuệ. Mặc dù, lĩnh vực sở hữu trí tuệ là một vấn đề mới đối với Việt Nam (mới được vài chục năm so với hàng trăm năm trên thế giới). Sự quan tâm của cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam đối với vấn đề sở hữu trí tuệ đã được cải thiện, nhất là trong thời gian gần đây.Tuy nhiên, kết quả khảo sát nghiên cứu gần đây cho thấy các DNVVN ở VN chưa nhận thức việc phát triển, bảo hộ và khai thác quyền SHTT là nguồn lực kinh tế. Ngoài ra, doanh nghiệp còn thiếu đầu tư vào hoạt động nghiên cứu và phát triển, để từ đó thương mại hoá các sản phẩm được bảo hộ sáng chế độc quyền. Doanh nghiệp cũng không nhận thức được ý nghĩa hay giá trị của việc đăng ký các thủ tục xin cấp bằng sáng chế. Số doanh nghiệp Việt Nam nộp đơn đăng ký và được cấp văn bằng bảo hộ một số hướng dẫn về SHCN cũgn chiếm tỷ lệ thấp so với các soanh nghiệp nước ngoài, nhất là ở các nước công nghiệp phát triển. Trong 3 năm gần đây số lượng dn VN đăng kí bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp (tài sản trí tuệ) tăng gấp 4 lần so với trước. Từ năm 2002 trở về trước hầu hết các đơn xin bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ là của dn nước ngoài,còn dn trong nước thì vẫn dửng dưng. Theo số liệu thống kê tư cục sở hữu trí tuệ, trong 2006 này đã có khoảng 20000 đơn xin cục bảo hộ sở hữu công nghiệp, tăng hơn 10% so với năm 2005(18.000 đơn). Một con số cũng khá thú vị là tổng số dn đăng kí bảo hộ sở hữu trí tuệ tại TP.HCM cao gấp 2 lần dn tại Hà Nội. Bên cạnh đó, số doanh nhân là lãnh đạo doanh nghiệp thông hiểu biết về sở hữu trí tuệ nói chung còn it. Rất it doanh nghiệp thong hiểu về sở hữu trí tuệ nói chung còn ít. Rất ít doanh nghiệp có phòng, ban, bộ phận hoặc cán bộ chuyên trách về sở hữu trí tuệ. Sự quan tâm chưa thoả đáng đối với vấn đề sở hữu trí tuệ. Sự quan tâm chưa thoả đáng đối với vấn đề sở hữu trí tuệ còn thể hiện ở chính sách đầu tư của các doanh nghiệp. Nhiều doanh nghiệp đầu tư rất lớn cho lĩnh vực tài sản vật chất như nhà xưởng máy móc, thiết bị… nhưng hầu như không đầu tư gì cho lĩnh vực tài sản trí tuệ, không đầu tư cho viêc tạo ra, đăng ký xác lập quyền khai thác sử dụng và phát triển tài sản trí tuệ của mình. Ông Trần Quang Huy, Chuyên viên kỹ thuật Công ty cổ phần Xi măng Bắc Giang cho biết:” Không chỉ riêng công ty này, mà đa số các công ty thuộc tỉnh Bắc Giang đều chưa quan tâm đến vấn đề sở hữu trí tuệ. Nguyên nhân chính là do công ty chỉ hoạt động kinh doanh trong địa bàn tỉnh, sản lượng làm ra được tiêu thụ hết chứ không để tồn kho nên chưa quan tâm đến vấn đề này. Hiện nay, công ty có ý định mở rộng sản xuất và thị trường tiêu thụ, nên bắt đầu quan tâm tới vấn đề sở hữu trí tuệ” Cũng vấn đề này, ông Trần Duy Chiến, Phó giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Thừa Thiên Huế nói: “Đa số doanh nghiệp trong tỉnh đều là những doanh nghiệp nhỏ và vừa nên quy mô sản xuất , vốn đầu tư, hiểu biết về văn hoá doanh nghiệp… còn hạn chế. Từ đó,dẫn đến sự thiếu hiểu biết về sở hữu trí tuệ, mặc dù sở đã có nhiều hoạt động tuyên truyền, đào tạo nhằm nâng cao hiểu biết của doanh nghiệp đối với vấn đề này Tỷ lệ đầu tư cho thương hiệu của các doanh nghiệp Việt Nam Tỷ lệ đầu tư trên doanh thu Doanh nghiệp khu vực Tư nhân Doanh nghiệp thuộc khu vực nhà nước Không đầu tư 18 16 Đầu tư dưới 5% 56 73 Đầu tư từ 5% - 10% 10 8 Đầu tư trên 10% 16 3 III, Quan hệ giữa đầu tư vào tài sản hữu hình và đầu tư vào tài sản vô hình ở các doanh nghiệp Việt Nam 1.Đầu tư vào tài sản hữu hình và đầu tư vào tài sản vô hình là hai hoạt động thiết yếu,không thể thiếu trong hoạt động đầu tư của doanh nghiệp . Có thể nói TSHH và TSVH là chính là những đầu vào quan trọng của hoạt động sản xuất ,muốn mở rộng sản xuất doanh nghiệp sẻ phải sử dụng các nguồn lực về TSHH và TSVH.Sự phát triển và mở rộng sản xuất của doanh nghiệp cũng đồng thời là sự tạo ra và làm gia tăng các giá trị về tài sản mà doanh nghiệp sở hữu. Một ý kiến khác thì TSHH và TSVH cũng là 2 nguồn lực thiết yếu quan trọng bậc nhất của hoạt động nghiên cứu triển khai đầu tư của các doanh nghiệp.Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng,doanh nghiệp Việt Nam muốn đứng vững và phát triển trước sự cạnh tranh của doanh nghiệp khác,thì việc phát huy sức mạnh từ các nguồn lực của doanh nghiệp là vấn đề sống còn.Công việc này đòi hỏi các tài sản của doanh nghiệp phải được sử dụng đạt hiểu quả cao nhất về mặt giá trị hay số lượng.Do đó tất yếu là các doanh nghiệp phải thường xuyên chú trọng đầu tư nâng cao ,mở rộng hệ thống tài sản của doanh nghiệp. Mặt khác nữa ,đầu tư là hoạt động kinh tế đóng vai trò quyết định đến tăng trưởng phát triển kinh tế . Chính bởi các nguyên do này có thể khẳng định chắc chắn rằng đầu tư vào TSHH và TSVH là hai hoạt động thiết yếu ,và không thể thiếu để đẩy mạnh tăng trưởng và phát triển kinh tế. 2.đầu tư vào tài sản hữu hình là tiền đề ,làm tăng tiềm lực để đầu tư tài sản vô hình. Để khẳng định giá trị của mình,doanh nghiệp cần chứng minh cho thấy được giá trị cả bên trong và bên ngoài của mình,TSHH và TSVH chính là đại diện của các mặt bên trong và bên ngoài đó.Một doanh nghiệp có giá trị tài sản hữu hình lớn sẽ có yêu cầu lớn về đầu tư nâng cao thương hiệu,đầu tư đội ngũ nhân lực có chất lượng…Hệ thống doanh nghiệp càng lớn thì các yêu cầu đó càng cao và càng khắt khe,đó như là những vấn đề sống còn của doanh nghiệp. 3.đầu tư vào tài sản vô hình là hoạt động tất yếu để đảm bảo cho đầu tư TSHH thuận lợi và đạt hiệu quả kinh tế xã hội cao. Để nâng tầm giá trị của doanh nghiệp các hoạt động đầu tư dành cho nguồn nhân lực ,Marketing,hay công nghệ thông tin là hết sức quan trọng.Chỉ có đầu tư cho TSVH tốt mới có thể tạo ra ,nâng cao thêm nữa giá trị của hệ thống vật chất của doanh nghiệp. IV, Đánh giá 1, Đánh giá về đầu tư xây dựng cơ bản Các vấn đề nổi cộm còn tồn tại của đầu tư xây dựng cơ bản + đầu tư kém hiệu quả +Đầu tư tràn lan +Nợ đọng kéo dài +Lãng phí, thất thoát CHƯƠNG III: Các giải pháp tăng cường đầu tư tài sản hữu hình và đầu tư tài sản vô hình và quan hệ …. I, Các giải pháp cho đầu tư TSHH 1, Đầu tư xây dựng cơ bản 1.1 Nhà nước 1.2 Doanh nghiệp 2, Đầu tư bổ sung hàng tồn trữ 2.1 Nhà nước 2.2 Doanh nghiệp 1 số cách để giảm lượng hàng tồn kho ,tăng tiền mặt: 1,xác định chuẩn xác hơn về nhu cầu dự kiến trong tương lai 2,tăng hiệu suất của chu trình sản xuất Những yếu tố làm giảm hiệu quả như phế phẩm ,sự chậm trễ của công đoạn nào đó … là có thể tính toán được.Nguyên liệu thô được chuyển hóa thành sản phẩm cuối cùng càng nhanh càng tốt .Tốc độ chuyển hóa này quyết đến hiếu xuất của chu trình sản xuất . 3,tăng tốc quay vòng của nguồn cung 4,chọn hàng kỹ khi mua,loại bỏ những khuyết tật 5,loại bỏ những khác biệt trong phân phối 6,đào tạo đội ngũ nhân sự quản lý nguyên vật liệu và mua hàng. II, Các giải pháp cho đầu tư TSVH 1, Đầu tư phát triển nguồn lực 1.1 Nhà nước -Thực hiện chính sách đào tạo nghề và phát triển nguồn nhân lực -Nâng cao chất lượng của hệ thống đào tạo ở tất cả các cấp -Đổi mới vai trò của chính phủ trong lĩnh vực đào tạo để đạt được công bằng hơn trong lĩnh vực đào tạo -Xã hội hóa công tác đào tạo -Hoàn thiện hệ thống đào tạo, nâng cao tính linh hoạt, khả năng liên thông của các chương trình đào tạo -Tập trung cho công tác đào tạo nghề theo định hướng thị trường nhằm tạo ra đội ngũ lao động lành nghề đáp ứng được quá trình công nghiệp hóa- hiện đại hóa. 1.2 Doanh nghiệp -Nâng cao chất lượng đào tạo trong doanh nghiệp, cơ sở dạy nghề của doanh nghiệp +Đổi mới nội dung, chương trình đào tạo +Đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị trong đào tạo +Gắn đào tạo nghề với nhu cầu thị trường +Kiểm định chất lượng đào tạo - Tập trung vào đầu tư cho chăm sóc sức khỏe và cải thiện môi trường làm việc -Có chế độ khen thưởng kịp thời và đúng lúc cho các cá nhân, đơn vị hoàn thành nhiệm vui đạt hiệu quả cao, các cá nhân, đơn vị có sáng kiến, giải pháp công nghệ mới 2, Đầu tư nghiên cứu và triển khai các hoạt động khoa học và công nghệ 2.1 Nhà nước - Đường lối chính sách phát triển KH&CN của Đảng và Nhà nước phải được quán triệt đầy đủ và được triển khai kịp thời trong thực tiễn. - Nâng cao năng lực của các cơ quan tham mưu, quản lý KH&CN các cấp . - Tăng cường đầu tư cho phát triển khoa học và công nghệ . - Thay đổi cơ chế quản lý kinh tế tạo môi trường thuận lợi cho phát triển khoa học và công nghệ 2.2 Doanh nghiệp -Doanh nghiệp phải có chiến lược phát triển KH&CN rõ ràng và định hướng vào phục vụ cho chiến lược kinh doanh của đơn vị. -Bên cạnh việc học hỏi kinh nghiệm của doanh nghiêp nước ngoài, phải có những cải tiến để phù hợp với điều kiện Việt Nam Nói đến doanh nghiệp thì có nhiều loại doanh nghiệp: doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp vừa, doanh nghiệp nhỏ ...Thực tế qua khảo sát cho thấy nhiều doanh nghiệp lớn đã bước đầu chú trọng đến vai trò của công nghệ thông tin trong công tác sản xuất kinh doanh, công tác quản lý cũng như trong bán hàng. Còn các doanh nghiệp nhỏ và vừa, do chưa thực sự thấy được lợi ích lớn lao của công nghệ thông tin, chưa làm quen được với hình thức kinh doanh trong môi trường thương mại điện tử, chưa có am hiểu về công nghệ thông tin với một tầm nhìn chiến lược nên chưa có sự quan tâm cần thiết. Các vấn đề khác có liên quan đến doanh nghiệp là họ thiếu kiến thức và thời gian để tiếp thu kiến thức, thiếu kỹ năng quản lý, sợ tăng trưởng và ưa những triển vọng ngắn hạn, ít hướng ra bên ngoài mà điều đó có nghĩa là họ không nhận thấy những tín hiệu của môi trường, cho đến khi nhận ra thì đã quá muộn; khả năng tài chính yếu nên đầu tư thấp và không có phương tiện đào tạo công nhân ở tại công ty. Hơn nữa, tại Việt Nam, môi trường công nghệ thông tin chưa thuận lợi để các doanh nghiệp có thể áp dụng, hạ tầng kỹ thuật cho phát triển công nghệ thông tin còn hạn chế. Giải pháp được đưa ra Để khuyến khích phổ biến và áp dụng bất kỳ một đổi mới nào, điều đòi hỏi trước tiên là phải nâng cao nhận thức của doanh nghiệp. Một mô hình kịch bản với tư cách là một phương tiện để đi từ giai đoạn đổi mới nhận thức đến giai đoạn ứng dụng công nghệ thông tin một cách chiến lược sẽ đóng vai trò quan trọng. Ứng dụng đầu tiên của phương pháp xây dựng kịch bản trong bối cảnh kinh tế và quản lý được bắt đầu vào năm 1967. Phương pháp này khác với phương pháp dự báo truyền thống. Nếu phương pháp dự báo cố gắng loại bỏ sự bất định thì phương pháp kịch bản vẫn xét đến những điều còn bất định của hoàn cảnh bằng cách nêu ra những triển vọng cơ bản trong tương lai. Chúng là công cụ giúp hình thành tư duy chiến lược của các nhà quản lý và các doanh nghiệp. Mô hình kịch bản công nghệ thông tin là một công cụ cho doanh nghiệp trong việc giúp họ hiểu được sự ứng dụng có tính chiến lược của công nghệ thông tin từ triển vọng trung hạn. Vai trò của mô hình là nâng cao nhận thức của mọi người đang quan tâm đến công nghệ thông tin bằng cách kích thích các quá trình học hỏi mà sẽ có tác dụng tích cực. Mô hình có ba cấu phần chính: - Hoàn cảnh, - Giai đoạn, - Các khía cạnh liên quan (chiến lược, công nghệ, tổ chức). Nội dung của phần hoàn cảnh chủ yếu được diễn ra nhờ phương pháp lập kế hoạch kịch bản và liên quan đến những phát triển còn chưa xác định được nhưng sẽ diễn ra ở các cấp vĩ mô và trung gian. Điều này có liên quan đến những vấn đề như kinh tế vĩ mô, các phát triển của công nghệ, dân số và thị trường. 3, Đầu tư cho hoạt động Marketing 3.1 Nhà nước 3.2 Doanh nghiệp Nếu theo các nguyên nhân của những yếu kém như đã chỉ ra thì hai nguyên nhân đầu thuộc về nhân tố khách quan và việc khắ phục được các nguyên nhân này slf điều đòi hỏi thời gian, nhìn chung phải trải qua nhiều thế hệ doanh nhân VN nữa. Trước mắt, theo chúng tôi cần nâng cao nhận thức về vai trò của thương hiệu đối với chủ động hội nhập của các doanh nghiệp VN. Việc chưa nhận thức đầy đủ về thương hiệu và vai trò của chién lược thương hiệu dẫn đến thiếu sự đầu tư chuyên sâu làm cho việc xây dựng chiến lược cho hoạt động hội nhập đang gây nhiều khó khăn cho doanh nghiệp trong hội nhập. Đành rằng để hội nhập thành công và có thể khai thác hay tranh thủ được những cơ hội do hội nhập mang lại đòi hỏi phải hội đủ rất nhiều thành tố quan trọng đặc biệt là tính cạnh tranh của sản phẩm. Tuy nhiên lại có một thực tế là nhiều doanh nghiệp có sản phẩm có sức cạnh tranh trên thị trường thế giới tốt song do thiếu chú ý tới xây dựng và phát triển chiến lược thương hiệu ra bên ngoài nên đã gặp phải những thách thức và thiệt hại lớn. Do đó, các biện pháp tuyên truyền và hội thảo là chưa đủ mạnh để cộng đồng doanh nghiệp VN có thể có nhận thức tốt về vai trò của chiến lược thương hiệu được. Các doanh nghiệp cần được đào tạo bản về chiến lược và chiến lước thương hiệu. Đặc biệt đối với khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ, các doanh nghiệp mới thành đạt cần được sự quan tâm không chỉ của những nhà quản lý mà phải thông qua chương trình hỗ trợ quốc gia vế giúp nhận thức về chiến lược thương hiệu trogn hội nhập. Các chương trình đào tạo cần được mở rộng không ngừng cả về đối tượng tham gia cũng như các khu vực kinh tế trong nước, thay vì chỉ thông qua một số đại biểu được mới đi dự hội thảo như cách thức tiến hành phổ biến như hiện nay. Nguồn kinh phí cho đào tạo này cần được khai thác từ nguồn của chương trình thương hiệu quốc gia. Trong dài hạn cần phải tích cực xã hội hóa công tác đầu tư cho xây dựng chiến lược thương hiệu, mỗi doanh nghiệp cần tích cực đầu tư nguồn nhân lực và nguồn tài chính cho chiến lược thương hiệu, mỗi doanh nghiệp cần tích cực đầu tư nguồn nhân lực và nguồn tài chính cho chiến lược thương hiệu, đặc biệt là việc thực hiện chiến lược. Về phía nhà nước cần thay đổi quy chế tài chính cho chi hoạt động tiếp thị khống chế dưới 7% chi phí hợp lý như hiện nay nhằm tạo điều kiẹn cho doanh nghiệp đầu tư vào chiến lược thương hiệu phục vụ hội nhập. Về mặt nhận thức của doanh nghiệp đối với chiến lược thương hiệu cho hội nhập cần phải nhấn mạnh thêm rằng, thực chất chiến lược thương hiệu nằm trong chiến lược về sở hữu trí tuệ của doanh nghiệp khi tham gia hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Do đó một trong những nhiệm vụ quan trọng của chiến lược thương hiệu phải bao gồm mục tiêu dài hạn về đăng ký và bảo hộ thương hiệu của doanh nghiệp tại nước ngoài. Mặc dù việc theo đuổi bảo hộ thương hiệu ở nước ngoài đòi hỏi chi phí lớn, nhưng xét về mục tiêu chiến lược dài hạn thì không phải vì tốn kém mà xem nhẹ vai trò của chiến lược thương hiệu đối với quá trình hội nhập. Thậm chí trong chiến lược thương hiệu cũng cần thể hiện trạng thái sẵn sàng cho những tranh chấp thương hiệu khi tham gia thị trường thế giới. Bởi lẽ khi tham gia hội nhập thì doanh nghiệp cần phải hiểu rằng việc tranh chấp thương hiệu hay vi phạm sở hữu trí tuệ của doanh nghiệp là việc hết sức bình thường trong môi trường cạnh tranh quốc tế hiện nay. Do đó có được một chiến lược thương hiẹu tốt sẽ giúp cho các doanh nghiệp giảm thiểu được rủi ro về sở hữu trí tuệ khi tham gia hội nhập. Chính vì lý do như vậy mà mỗi doanh nghiệp sẽ phải chủ động xây dựng cho mình một chiến lược thương hiệu phù hợp, nhằm hội nhập kinh tế quốc tế thành công và phát triển bền vững trong cuộc cạnh tranh kinh doanh ngày càng gay gắt hiện nay. Hội nhập kinh tế Việt Nam vào nền kinh tế thế giới là một xu thế không thể đảo ngược. Và các doanh nghiệp Việt Nam muốn duy trì được sự tồn tại lâu dài của mình thì không thể chậm chạp trong tiến trình hội nhập này được. Trong những năm đầu của thế kỷ XXI này, sở hưũ trí tuệ ngày càng có ý nghĩa quan trọng trong kinh doanh. Với những gì mà chúng ta nghiên cứu trên đây về các chiến lwocj sở hữu trí tuệ của các công ty Nhật Bản, có thể rút ra những kinh nghiệm quan trọng như sau: Các doanh nghiệp cần chủ động xây dựng những chiến lược sở hữu trí tuệ cho mình. Thực tiễn kinh doanh và hội nhập những năm vừa qua cho thấy, chiến lược về sở hữu trí tuệ chưa được các doanh nghiệp chú ý, nhiều doanh nghiệp có sản phẩm có sức cạnh tranh cao và thương hiệu tốt đã bị xâm phạm, gây thiệt hại không nhỏ đối với các công ty, nhưng nguy hiểm hơn là gây khó khăn cho quá trình hội nhập của doanh nghiẹp Việt Nam vào thị trường thế giới. Kinh nghiệm của các công ty Nhật Bản cho thấy, một chiến lược sở hữu trí tuệ hiệu quả sẽ giúp cho các công ty có được một công cụ quản trị quan trọng trọng kinh doanh và hội nhập kinh tế quốc tế. Trước xu hướng biến đổi của kinh doanh thế giới hiện nay, kkhi mà các tài sản trí tuệ ngày càng có vai trò quan trọng trong bản cân đối tài snr của doanh nghiệp, việc bảo hộ sở hữu trí tuệ do đó thực chất là bảo vệ lợi nhuận và uy tín của doanh nghiệp. Thực thế cho thấy các doanh nghiệp Việt Nam nhận thức về vấn đề này nhìn chung chưa sâu sắc. Thể hiện ử việc đù tư và sự quan tâm tới chiến lược sở hưũ trí tuệ còn ở mức tất khiêm tốn, đặc biệt là vấn đề thươgn hiệu - một công cụ hội nhập hiệu quả Chủ động xây dựng chiến lược sở hữu trí tuệ trước hết thể hiện ở sự chủ động đầu tư nguồn lực cho các hoạt động đăng ký bảo hộ thương hiệu và bảo hộ nhãn hiệu hang hoá tại nước ngoàil Công việc này đòi hỏi chi phí lớn, song để hội nhập thành công thì hoạt đọng này vẫn phải được đánh giá cao. -Chủ động ứng xử với những tranh chấp về sở hữu triư tuệ. Kinh doanh trên thị trường quốc tế hiện nay, việc xảy ra những tranh chấp về sở hữu trí tuệ sẽ là điều hết sức bình thường, Kể cả trong trường hợp cac sang chế và các giá trị tài sản trí tuệ của doanh nghiệp được bảo hộ về mặt pháp lý rồi thì vẫn rất có thể xảy ra những tranh chấp. Nguyên nhân là vì việc bảo hộ trên luôn đơn giản hơn việc thực thi trên thực tế. Do vậy, khoảng cách giữa bảo hộ trên hồ sơ và thực thi bảo hội trên thực tế là một khoảng cách khá xa nhau. Vì vậy, mặc dù các sang chế hoặc giải pháp hữu ích của các công ty được cấp bằng bảo hộ rồi đi nữa thì khả năng bị vi phạm quyền sở hữu trí tuệ trogn kinh doanh hoàn toàn vẫn có nhiều cơ hội xảy ra. Hệ thống pháp luật quốc gia khác nhau sẽ là những lỗ hổng dẻ những chủ thể kinh doanh có thể lợi dụng. Mặt khác, lợi nhuận đem lại từ các tài sản trí tuệ ngày càng lớn trong bản cân đối tài chính của các công ty khi bước vào kinh doanh trong nền kinh tế tri thức, cho nên đó cũng là sức hút và động lực để các chủ thể kinh doanh nhiều khi sẵn sang vượt qua các quy định về mặt pháp lý để xâm phạmquyền sở hữu trí tuệ của nhau. Thậm chí có các chủ thể chuyên làm nhiệm vụ lhởi kiện các doanh nghiệp khác về sở hữu trí tuệ. Do đó, các doanh nghiệp khác về sở hữu trí tuệ sẽ là phổ biến trogn thế giới kinh doanh hiện đại; Cần chủ động ứng xử với những tranh chấp như vậy. Các công ty cần chủ động xây dựng cho mình các chiến lược sở hữu trí tuệ. Kinh nghiệm của các doanh nghiệp Nhật Bản cho thấy, mặc dù họ đã là những chủ thể kinh doanh hết sức có hiệu quả và thành thạo trong hoạt động kinh doanh qwcs tế, hơn thế họ là những tập đoàn kinh doanh lớn, song họ vẫn bị các chủ thể khác vi phạm sở hữu trí tuệ hoặc vi pham sở hữu trí tuệ của các doanh nghiệp của các quốc gia khu vực khác. Điều đó chứng tỏ rằng với những doanh nghiệp như của Việt Nam hiện nay, với quy mô và kinh nghiệm kinh doanh quốc tế còn rất hạn chế thì việc xem nhẹ chiến lược về sở hữu trí tuệ là một khiếm khuyết lớn. - Cần đầu tư và đánh giá cao những sang kiến và giải pháp hữu ích của đội ngũ nhân sự. Sức cạnh tranh của công ty trogn hội nhập suy cho cùng” công ty bạn phải bán hang chất lượng cao với gía thấp hơn các đối thủ cạnh tranh khác”… khách hang ngày nay càng tinh tế và đòi hỏi nhiều hơn họ sắc sảo hoen trong việc xác định giá trị của sản phẩm. Vì thế bạn phải biện minh cho được mức giá mà bạn đưa ra cho sản phẩm thay vì chỉ dựa trên hình dáng bên ngoài”( Philip Kotler – Rơan Gibson). Muốn có được điều đó, cần phải huy động khả năng sang tạo của toàn bộ đội ngũ nhân sự mà công ty đang sử dụng thay vì chỉ tập trung vào một bộ phận, Khi đội ngũ nhân sự thực sự trở thành chủ thể của sáng tạo thì sức sáng chế của doanh nghiệp là vô tận. Trong hội nhập thì việc huy động được khả năng sang chế phất minh của nguồn nhân lực có ý nghĩa quyết định đối nới sự thành cong của các công ty. III, Giải pháp tăng cường đầu tư và củng cố quan hệ giữa đầu tư TSHH và TSVH trong các doanh nghiệp VN 1.sử dụng phối hợp hai hình thức tài sản để đạt hiệu quả cao nhất 2.xây dựng đội ngũ lãnh đạo quản lý chất lượng cao 3.thực hành tiết kiệm nguồn lực trong hoạt động đầu tư Danh mục các tài liệu tham khảo 1.Giáo trình kinh tế đầu tư,nhà xuất bản đại học kinh tế quốc dân 2.Giáo trình tài chính tiền tệ,nhà xuất bản thống kê 3.Giáo trình tài chính doanh nghiệp,nhà xuất bản thống kê 4.Giáo trình Marketing căn bản đại học kinh tế quốc dân. 5.Giáo trình kinh tế lao động,trường đại học kinh tế quốc dân

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc34859.doc
Tài liệu liên quan