Đề tài Thực trạng điều hành chính sách tiền tệ ở Việt Nam, tồn tại và giải pháp

Một vấn đề cũng vô cùng quan trọng là phải lành mạnh hoá hệ thống ngân hàng của Việt Nam, củng cố khả năng tài chính của các ngân hàng cũng như đầu tư vào con người và công nghệ để có thể hội nhập vào thị trường ngân hàng trong khu vực và trên toàn thế giới- vốn là một lĩnh vực cạnh tranh rất khốc liệt, là nơi có những đối thủ cạnh tranh khổng lồ đến từ các quốc gia giàu có. Tất nhiên không hẳn là tiềm lực tài chính lớn hơn thì có thể cạnh tranh thắng lợi hoàn toàn, nhưng để đảm bảo tự chủ về tài chính quốc gia thì chúng ta phải phấn đấu bằng mọi biện pháp để hệ thống ngân hàng trong nước đủ sức khống chế thị phần ngân hàng Việt Nam. Các NHTM của chúng ta, đặc biệt là các NHTM quốc doanh, phải tăng cường hợp tác với nhau hơn nữa không chỉ để nâng cao khả năng cạnh tranh của mình trong việc cho vay mà còn để giúp NHNN thực hiện CSTT một cách độc lập, đảm bảo quyền tự chủ dân tộc.

doc35 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1580 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng điều hành chính sách tiền tệ ở Việt Nam, tồn tại và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ã ban hành Nghị định 115/CP thành lập Ngân hàng ngoại thương Việt Nam để có một ngân hàng có tư cách pháp nhân trong các quan hệ giao dịch thanh toán quốc tế, và đến ngày 1/4/1963 Ngân hàng ngoại thương chính thức xuất hiện trên thương trường quốc tế. Ngân hàng ngoại thương là một NHTM hoạt động với tư cách một pháp nhân độc lập, có vốn và có trụ sở độc lập với NHNN Việt Nam, có Hội đồng quản trị, có Ban điều hành và hoạt động theo Điều lệ được công bố. Tuy nhiên trong quan hệ đối nội thì ngân hàng ngoại thương vẫn đảm nhiệm chức năng của Cục ngoại hối, làm đơn vị tham mưu cho NHNN về các chính sách quản lý ngoại tệ và kinh tế đối ngoại, cho đến năm 1977 khi NHNN thành lập Vụ kinh tế ngoại tệ thì ngân hàng ngoại thương mới hoạt động như một NHTM thuần tuý. Ngoài ra, trong thời kỳ bao cấp còn có một ngân hàng khác trực thuộc NHNN là Ngân hàng đầu tư & phát triển, được thành lập theo Nghị định số 177/TTg ngày 26/4/1957 của Thủ tướng Chính phủ. Ban đầu tên gọi của ngân hàng này là Ngân hàng kiến thiết Việt Nam từ ngày 26/4/1957, rồi đổi thành Ngân hàng Đầu tư và xây dựng Việt Nam từ ngày 26/4/1981, đến ngày 14/11/1990 chính thức lấy tên là Ngân hàng đầu tư & phát triển Việt Nam. Ngân hàng được thành lập với mục tiêu như tên gọi của nó là phục vụ cho công cuộc xây dựng và kiến thiết đất nước, bảo đảm giao thông vận tải, xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ chiến tranh, sau đó là công cuộc khôi phục đất nước kể từ sau ngày giải phóng. Như vậy chức năng hoạt động ban đầu của ngân hàng này không phải là một NHTM, tuy nó còn được thành lập sớm hơn cả Ngân hàng ngoại thương. Như vậy, hệ thống ngân hàng cho đến năm 1964 đã chia ra NHNN, Ngân hàng ngoại thương và Ngân hàng kiến thiết. Nhìn chung các ngân hàng đã thực hiện tốt vai trò, nhiệm vụ của mình trong giai đoạn đất nước có chiến tranh, góp phần không nhỏ vào sự lưu thông hàng hoá tiền tệ, ổn định nền kinh tế đất nước, xây dựng được một nền kinh tế hậu phương vững chắc để hỗ trợ cho tiền tuyến. Khi đất nước thống nhất năm 1975, cũng hệ thống ngân hàng này đã tiếp quản hệ thống tài chính ngân hàng của miền Nam, mở rộng hoạt động thống nhất trên toàn quốc. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế ngày càng lớn mạnh, quan hệ kinh tế ngày càng mở rộng, đồng thời do tình hình trong nước và quốc tế mà đến đầu những năm 80 thì chúng ta đã nhận thấy phải có sự phân biệt rạch ròi giữa chức năng quản lý nhà nước và chức năng kinh doanh của các ngân hàng, không thể để tình trạng ngân hàng một cấp hoạt động với hai chức năng mà thực tế không thể chung chạ được. Sau Đại hội Đảng toàn quốc lần VI năm 1986 đưa ra chủ trương thực hiện đường lối kinh tế đổi mới, đến ngày 26/3/1988 Hội đồng Bộ trưởng ban hành Nghị định 53/HĐBT đã đánh dấu một sự chuyển đổi của hệ thống ngân hàng một cấp thành hệ thống ngân hàng hai cấp, phân định rạch ròi hai chức năng quản lý tiền tệ và kinh doanh tiền tệ. Vai trò lịch sử của ngân hàng một cấp đã chấm dứt, cần có mô hình ngân hàng hai cấp cho phù hợp với thời kỳ mới. Nhưng do các bất cập về tư duy và cán bộ lúc đó chỉ có vậy nên bản thân Nghị định 53 chưa thể thiết kế được hệ thống ngân hàng hai cấp. Đến năm 1990, Chủ tịch Hội đồng Nhà nước CHXHCNVN chính thức ban hành hai pháp lệnh về ngân hàng là Pháp lệnh NHNN và Pháp lệnh ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính, khẳng định sự ra đời mô hình ngân hàng hai cấp theo cơ chế thị trường ở nước ta là NHNN và NHTM, với sự ra đời của các NHTM quốc doanh mới là Ngân hàng công thương và Ngân hàng nông nghiệp, cùng hoạt động với các NHTM khác là Ngân hàng đầu tư & phát triển và Ngân hàng ngoại thương. Đến năm 1997 thì chúng ta có Luật NHNN và Luật các TCTD được thông qua. Kể từ đây NHNN hoạt động theo Luật NHNN và có chi nhánh ở 61 tỉnh thành trong cả nước, độc lập với chính quyền địa phương và chỉ chịu sự chỉ đạo theo ngành dọc từ NHTƯ. NHNN là cơ quan trực thuộc Chính phủ, Thống đốc NHNN là thành viên của Chính phủ. Ngành ngân hàng cũng được tổ chức theo ngành dọc, quan hệ giữa các UBND và HĐND địa phương đối với chi nhánh NHNN ở địa phương không phải là quan hệ lãnh đạo- phục tùng, mà các chi nhánh NHNN chỉ có trách nhiệm cố vấn cho chính quyền địa phương và thực hiện các nghiệp vụ của NHNN đối với các NHTM địa phương. Bên cạnh NHNN, hệ thống các tổ chức tín dụng (TCTD) cũng đã phát triển mạnh mẽ, có đủ mọi thành phần kinh tế, bao gồm bốn NHTM quốc doanh là Ngân hàng ngoại thương, Ngân hàng công thương, Ngân hàng Nông nghiệp & phát triển nông thôn, và Ngân hàng đầu tư & phát triển, hơn 50 NHTM cổ phần, hơn 20 chi nhánh của các ngân hàng nước ngoài, văn phòng đại diện thuộc 47 ngân hàng và công ty tài chính của 21 quốc gia, chưa kể đến các ngân hàng liên doanh và các công ty tài chính, các ngân hàng chính sách như Ngân hàng phục vụ người nghèo, Ngân hàng phát triển nhà ở ĐBSCL....Ngoài ra còn có hàng ngàn các quỹ tín dụng cơ sở, một quỹ tín dụng trung ương, các quỹ tín dụng khu vực tỉnh thành,.... Đối với bốn NHTM quốc doanh, hiện nay tỷ phần thị trường của bốn ngân hàng này chiếm tới khoảng 80% thị phần toàn ngành. Mặc dù ban đầu khi được thành lập mới như Ngân hàng công thương và Ngân hàng Nông nghiệp, hoặc thành lập lại như Ngân hàng ngoại thương và Ngân hàng đầu tư & phát triển, mục tiêu hoạt động của mỗi ngân hàng theo đúng với tên gọi của nó chỉ chuyên trách về một mảng trong nền kinh tế, song thực tế hoạt động cho thấy mục tiêu đó là không phù hợp. Vì thế khi Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định 90/TTg ngày 7/3/1994 cho các doanh nghiệp lớn nhà nước hoạt động theo mô hình Tổng công ty đã quyết định thành lập lại các ngân hàng này hoạt động theo mô hình Tổng công ty nhà nước, có các chi nhánh là các đơn vị thành viên có thể hạch toán độc lập và có thể kinh doanh tổng hợp trên nhiều lĩnh vực. Hiện nay các ngân hàng được phép đầu tư hoặc cho vay vào những lĩnh vực mà ngân hàng và khách hàng vay vốn của ngân hàng có liên quan và hoạt động có hiệu quả. Các ngân hàng cũng có thể hợp tác với nhau để đầu tư cho những dự án lớn mà một ngân hàng không thể đủ khả năng cho vay hoặc cần phải phân tán rủi ro đầu tư. 2. Thực hiện CSTT thời kỳ trước đổi mới. Khi cách mạng giành được chính quyền, giấy bạc Đông Dương của Nhà băng Đông Dương thuộc Pháp phát hành vẫn được Chính phủ chủ trương cho lưu thông thêm một thời gian vì đó là tài sản của nhân dân. Sau một thời gian ngắn chuẩn bị, đến ngày 31/1/1946 giấy bạc Việt Nam do chúng ta phát hành đã được đưa ra lưu thông tại miền Nam Trung bộ vì nơi đây cách mạng diễn ra triệt để hơn, không có sự phá hoại tiền tệ của các lực lượng phản động, đến ngày 16/8/1946 Quốc hội đã chính thức cho phát hành giấy bạc tài chính trong toàn quốc, lưu hành rộng rãi ở Bắc Bộ, Trung Bộ và một phần Nam Bộ. Trong thời kỳ đầu kháng chiến chống Pháp, do những nguyên nhân khách quan mà chính quyền cách mạng thu không đủ chi, phải dựa vào việc phát hành giấy bạc. Năm 1946 phát hành 606 triệu đồng tài chính, đến năm 1950 phát hành tới 11.600 triệu. Đồng tiền mất giá vào những năm 1949-1950 đã ảnh hưởng đến đời sống nhân dân. Sau khi Ngân hàng quốc gia Việt Nam được thành lập đã thực hiện phát hành giấy bạc ngân hàng từ Bắc Trung bộ trở ra, thu về giấy bạc tài chính với tỉ lệ là 1đồng ngân hàng = 10 đồng tài chính. Đây là cuộc cải cách tiền tệ đầu tiên của Việt Nam, làm cho giá cả được bình ổn, cải thiện đời sống nhân dân. (Cùng thời gian đó, trong vùng Pháp tạm chiếm tỷ lệ lạm phát đã tăng cao, năm 1954 phát hành giấy bạc tăng hơn 4 lần so với năm 1945, chỉ số giá bằng 732% năm 1945.) Sau khi kháng chiến chống Pháp thắng lợi, miền Bắc hoàn toàn độc lập, Chính phủ đã tiến hành những biện pháp chấn chỉnh thương nghiệp, tài chính và tiền tệ, song song với việc cải tạo lại nền kinh tế trên tất cả các mặt công nông thương nghiệp, giao thông vận tải và xây dựng cơ bản. Nhà nước đã thực hiện việc thống nhất và ổn định tiền tệ, thu hồi lại các loại tiền: tiền Đông Dương, tiền tín phiếu, tiền ngân hàng nhân dân Nam Bộ, lưu hành giấy bạc Trung ương phát hành năm 1951. Nhà nước còn tăng cường quản lý tiền mặt và mở rộng quan hệ tín dụng. Trong hoàn cảnh đó chúng ta đã thực hiện cuộc cải cách tiền tệ lần thứ hai. Ngày 27/2/1959, Chính phủ cho phép thay đổi đơn vị tiền tệ, 1đồng ngân hàng mới= 1000 đồng ngân hàng cũ, bắt đầu tiến hành từ ngày 28/2/1959. Cuộc cải cách này nhằm nâng cao sức mua của đồng tiền, rút bớt một số tiền mặt trong lưu thông, làm cho quan hệ hàng tiền được cân đối hơn; nhà nước nắm được sự phân bố tiền tệ trong nhân dân để điều hoà lưu thông tiền tệ, đồng thời nhà nước nắm được nguồn tiền trong tay giai cấp tư sản, lúc đó đang được cải tạo. Các ngân hàng cũng được thành lập, ngay trong những năm đầu hoạt động đã tăng cường huy động vốn nhàn rỗi trong nhân dân, năm 1964 bằng 1,5 lần năm 1960, cho vay ngắn hạn tăng từ 5.601,7 triệu lên 7.489,5 triệu đồng một năm, còn cho vay dài hạn tăng từ 24 triệu đồng năm 1960 lên 45,1 triệu đồng năm 1962. Điều cần lưu ý là trong suốt giai đoạn đất nước có chiến tranh thì hoạt động của Ngân hàng quốc gia Việt Nam chủ yếu là ở miền Bắc của đất nước. Thực hiện chủ trương nền tài chính tiền tệ phân tán, trong những năm kháng chiến chống Pháp đã hình thành các khu vực tiền tệ riêng biệt: vùng Bắc bộ và Bắc Trung bộ lưu hành giấy bạc tài chính do trung ương phát hành, các tỉnh liên khu 5 ở các tỉnh Nam Trung bộ lúc đầu lưu hành giấy bạc tài chính trung ương và sau là tín phiếu do liên khu phát hành, còn trong Nam bộ năm 1947 Chính phủ cho phép phát hành giấy bạc riêng. Việc lưu hành tiền tệ như vậy đã linh hoạt đáp ứng nhu cầu của cuộc kháng chiến, chống lại âm mưu phá hoại tiền tệ của địch đối với đồng tiền của ta, và ngăn chặn sự lợi dụng chênh lệch giá giữa các khu vực. Đến thời kỳ kháng chiến chống Mỹ thì các cán bộ tài chính ở miền Nam đã tìm những biện pháp kinh doanh để lấy tiền của chính quyền nguỵ mua hàng hoá nhu yếu phẩm phục vụ cho lực lượng kháng chiến, đồng thời gây ra những tác động bất lợi cho nền kinh tế của chính quyền nguỵ. Trong nền kinh tế XHCN ở miền Bắc trước năm 1975, và trên toàn quốc kể từ sau năm 1975, Việt Nam thực hiện cơ chế kế hoạch hoá tập trung, vốn hoạt động của mỗi cơ quan xí nghiệp trong nền kinh tế đều là vốn do ngân sách nhà nước cấp phát và chưa thực hiện chế độ hạch toán kế toán độc lập. Khi đó, NHNN Việt Nam không có những nghiệp vụ điều chỉnh lượng cung tiền tệ theo cơ chế thị trường như nghiệp vụ thị trường tự do, nghiệp vụ chiết khấu, và thay đổi dự trữ bắt buộc. Công cụ để thực hiện CSTT chỉ có tỷ giá hối đoái và hạn mức tín dụng, ngoài ra là lãi suất ngân hàng trong việc huy động vốn và cho vay. Với hạn mức tín dụng, NHNN tái cấp phát vốn hàng năm theo chỉ tiêu cho các ngân hàng ngoại thương và xây dựng, đồng thời dựa trên các chỉ tiêu kế hoạch mà xem xét việc cấp phát vốn cho ngân sách nhà nước để phân bổ cho các cơ quan xí nghiệp trên toàn quốc. Lãi suất ngân hàng được điều chỉnh theo các kế hoạch để giữ tỷ giá cố định gắn với đồng tiền của các nước XHCN. Còn về tỷ giá thì tỷ giá chính thức của Việt Nam đầu tiên được công bố là ngày 25/11/1955, là tỷ giá giữa đồng Việt Nam và nhân dân tệ Trung Quốc, nhằm giải quyết nhu cầu về thanh toán giữa hai nước trong những năm chống Pháp. Sau đó tỷ giá giữa đồng Việt Nam và các đồng tiền khác được thiết lập, bên cạnh tỷ giá chính thức (tỷ giá mậu dịch) nhà nước còn đưa ra hai loại tỷ giá khác là tỷ giá phi mậu dịch và tỷ giá kết toán nội bộ. Như vậy chế độ tỷ giá ở giai đoạn này là đa tỷ giá, do đó đã gây không ít khó khăn cho việc quản lý điều hành của nhà nước trong lĩnh vực tài chính tiền tệ, kinh tế đối ngoại, đồng thời để lại hậu quả nghiêm trọng cho nền kinh tế. Do những sai lầm trong phát triển kinh tế dưới cơ chế kế hoạch hoá tập trung đã làm cho lượng hàng hoá trong xã hội khan hiếm, năng suất lao động không cao, đời sống của nhân dân gặp nhiều khó khăn, kinh tế chậm phát triển. Hoạt động phân phối lưu thông bị rối ren, lạm phát nghiêm trọng, giá cả tăng nhanh, làm đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn, trật tự xã hội giảm sút, tiêu cực tăng lên. Cuối những năm 70 nhà nước ta đã nhận thấy điều này và đã bước đầu có những sửa đổi, bắt đầu là khoán 100 cho các hộ nông dân. Đến tháng 6 năm 1985, Hội nghị lần thứ 8 của Trung ương Đảng khoá V đã đề ra những chủ trương lớn về giá, lương, tiền, coi đây là bước đột phá để xoá bỏ hẳn cơ chế quan liêu bao cấp sang hạch toán kinh doanh XHCN. Tuy nhiên, việc tổng điều chỉnh giá- lương- tiền trong nửa cuối năm 1985 đã phạm sai lầm về các giải pháp cụ thể trong việc định mức giá, định mức lương, đổi tiền, xác định bước đi trong điều chỉnh giá- lương- tiền, thiếu sự chuẩn bị chu đáo, làm cho lạm phát không những không giảm mà còn tăng lên, cao điểm là năm 1986 tỷ lệ lạm phát lên tới hơn 700%. Hoạt động phân phối lưu thông đã rối ren càng rối ren hơn. Tuy hệ thống ngân hàng đã có nhiều cố gắng nhưng không thể kiểm soát được nạn lạm phát. Một trong những nguyên nhân chính là các ngân hàng lúc này có thể phát hành tiền theo kế hoạch điều chỉnh lương và đổi tiền, nhưng khi lạm phát tăng lên thì chỉ có nghiệp vụ duy nhất để thu hẹp lượng tiền đã cung ứng ra là lãi suất ngân hàng. Nhưng khi lạm phát ở mức cao thì tâm lý của cả người gửi tiền và vay tiền ngân hàng đều kém tin tưởng, nên hiệu quả không cao. Phải đến khi có chủ trương của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986 đổi mới đường lối phát triển kinh tế, coi nông nghiệp là mục tiêu hàng đầu và ưu tiên thực hiện ba chương trình mục tiêu về lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, trải qua các năm 1987, 1988 thực hiện có hiệu quả bước đầu thì tình hình lạm phát mới dần giảm xuống. Ta hãy xem bảng thống kê tỉ lệ lạm phát (%) và tăng trưởng GDP (%) kinh tế sau: (GDP tính theo giá năm 1989). ĐVT: triệu tỷ VNĐ 1986 1987 1988 1989 1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 % tăng GDP 4 3.8 4.9 8.1 5.4 6.1 8.6 7.9 9.0 9.5 9.6 % lạm phát 775 232 394 34.7 67.5 67.6 17.6 5.2 14.4 12.7 GDP 23.8 24.7 25.9 28.0 29.5 31.3 34.0 36.7 40.0 43.8 47.9 Nguồn số liệu: Niên giám Tổng cục thống kê- Ban vật giá Thực hiện CSTT thời kỳ đổi mới Trong thời kỳ đổi mới, CSTT quốc gia được coi là bộ phận cấu thành quan trọng của chính sách kinh tế vĩ mô, có vai trò trọng yếu trong việc ổn định nền tiền tệ quốc gia. Trong những năm đầu đổi mới, trước nguy cơ lạm phát cao, nhà nước ta đặt mục tiêu của CSTT là kiểm soát chặt chẽ lạm phát, từng bước tăng cường tính ổn định giá trị đối nội và đối ngoại của đồng tiền, tạo điều kiện huy động vốn góp phần cho một mức tăng trưởng kinh tế cao và bền vững. Đó cũng là điều kiện quan trọng để củng cố uy tín và phát triển hoạt động ngân hàng, nhanh chóng hoà nhập quốc tế, đáp ứng ngày càng cao dịch vụ tài chính của nền kinh tế. Các chủ trương mà CSTT cần thực hiện cũng được xác định: - Điều hành khối lượng tiền cung ứng: Tổng các phương tiện thanh toán trong nền kinh tế cần được kiểm soát và điều hành có hiệu lực, bám sát các tín hiệu thị trường để vừa đảm bảo cung ứng đủ phương tiện thanh toán cho nhu cầu đầu tư tăng trưởng kinh tế, đối ứng với nguồn vốn nước ngoài đầu tư vào, vừa không gây cầu quá mức về hàng hoá, kích thích tăng giá trong nước. Khi cần thiết, NHNN phải áp dụng những biện pháp hữu hiệu để rút tiền lưu thông về như phát hành tín phiếu kho bạc nhà nước, mua ngoại tệ.... - Chính sách tín dụng: Để tạo nguồn vốn phục vụ cho đầu tư phát triển, công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế, hệ thống ngân hàng Việt Nam cần tiếp tục hoàn chỉnh, đưa vào hoạt động có chất lượng các thị trường tiền tệ (như thị trường liên ngân hàng, thị trường đấu giá tín phiếu kho bạc), đưa thị trường chứng khoán vào hoạt động. Thực hiện chính sách huy động vốn và cho vay vốn tích cực, mạnh mẽ, vừa bảo đảm về khối lượng, vừa chú trọng hiệu quả chất lượng sử dụng vốn, đảm bảo khả năng hoàn trả. Về huy động vốn, trước hết cần khẳng định rằng trong điều kiện thu nhập bình quân đầu người còn thấp như hiện nay thì khả năng tiết kiệm nhìn chung của nhân dân còn hạn hẹp. Để nền kinh tế có tăng trưởng cao, tín dụng ngân hàng cần được mở rộng đáp ứng các nhu cầu vay vốn có hiệu quả với phương châm không để các dự án đầu tư có hiệu quả cao bị thiếu vốn. Cơ cấu tín dụng cần tiếp tục chuyển dịch có lợi cho đầu tư phát triển, tăng cường cho vay trung và dài hạn, giảm tỷ lệ nợ quá hạn và nợ khó đòi xuống mức lành mạnh theo tiêu chuẩn quốc tế, tăng vòng quay và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của xã hội. Tiếp tục mở rộng đối tượng cho vay đến mọi thành phần kinh tế, chú ý thích đáng việc cho vay đối với nông dân và các đối tượng chính sách, mở rộng các hoạt động dịch vụ và phục vụ của hệ thống NHTM, góp phần khuyến khích phát triển kinh tế đồng đều giữa các địa phương. Hiện nay, các chính sách kinh tế vĩ mô của Việt Nam trong cơ chế thị trường còn đang trong quá trình định hình cơ bản, chúng ta cần phải xem xét điều hành CSTT trong mối quan hệ với những chính sách liên quan khác như chính sách tài chính, chính sách tỷ giá hối đoái,.... Phương châm của nhà nước ta là vừa làm vừa sửa, cố gắng học tập kinh nghiệm của các quốc gia đi trước để giảm thiểu những sai lầm có thể xảy ra. Ngành ngân hàng cũng như một loạt các ngành kinh tế khác đã có ngày càng đầy đủ các văn bản pháp quy hướng dẫn hoạt động, thực hiện các chính sách kinh tế thích ứng với cơ chế thị trường. Kể từ khi có hai pháp lệnh ngân hàng, hệ thống ngân hàng nói chung và NHNN nói riêng đã từng bước tiếp cận với cơ chế mới trong việc xây dựng và điều hành CSTT quốc gia, thích ứng dần với thị trường hàng hoá- tiền tệ. Tuy nhiên đây là một trong những vấn đề mới đối với Ngân hàng Việt Nam, trong điều kiện một đất nước có nền kinh tế kế hoạch hoá kém phát triển bắt tay vào việc quản lý nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Ngay cả các nước tư bản phát triển lâu đời, có nhiều kinh nghiệm trong việc quản lý cơ chế thị trường cũng gặp phải những khó khăn lớn do thị trường tài chính tiền tệ gây ra. Vậy nên, đối với NHNN Việt Nam, việc lựa chọn giải pháp nào để xây dựng và điều hành CSTT quốc gia có hiệu quả nhất vẫn còn là một ẩn số và chắc chắn còn những bất cập là điều khó tránh. Hiện trạng việc xây dựng và điều hành CSTT của nước ta mới dừng ở điểm sơ khai, thường là NHNN dựa vào những tín hiệu của nền kinh tế để xác định lượng tiền cung ứng trình Chính phủ phê duyệt, bổ sung, điều chỉnh, mang nặng tính đối phó trước mắt mà chưa có được tính chiến lược lâu dài, do đó dễ bị động và hiệu quả thấp, độ tin cậy chưa cao. Theo luật ngân hàng, hiện nay NHNN Việt Nam sử dụng năm công cụ để điều hành CSTT, bao gồm: chính sách tái cấp vốn, chính sách tỷ giá, chính sách dự trữ bắt buộc, chính sách lãi suất và nghiệp vụ thị trường mở. Sau đây ta sẽ xem xét lần lượt tình hình sử dụng năm công cụ này trong thời gian qua. Chính sách tỷ giá: Trong thời kỳ đổi mới, tỷ giá hối đoái được nhà nước ta coi là khâu đột phá có vai trò cực kỳ quan trọng trong quá trình cải cách nền tài chính tiền tệ và được đặc biệt quan tâm. Tháng 3/1989, nhà nước chính thức công bố xoá bỏ tỷ giá kết toán nội bộ, xoá bỏ mọi chế độ trợ giá cho các hoạt động ngoại thương (tỷ giá mậu dịch). Tỷ giá chính thức được NHNN công bố căn cứ vào chỉ số lạm phát, lãi suất, cán cân thanh toán, tham khảo diễn biến lãi suất trên thị trường tự do và giá vàng trên thị trường quốc tế và trong nước. Trên cơ sở tỷ giá này các NHTM xây dựng cho mình một tỷ giá riêng trong giao dịch hàng ngày với biên độ dao động cho phép. Nhìn chung, những giải pháp trên đã góp phần cải thiện tình hình trên thị trường ngoại hối, xoá bỏ tình trạng bất hợp lý trong mua bán, thanh toán, đặc biệt là trong lĩnh vực xuất nhập khẩu. Tuy nhiên tỷ giá trên thị trường vẫn biến động mạnh, mà điển hình là cơn sốc tỷ giá vào cuối năm 1991, lúc này giá 1USD từ hơn 11000đ lên gần 13000đ. Nguyên nhân chính làm cho đồng USD tăng giá là do ảnh hưởng của cán cân thanh toán quốc tế, sự thâm hụt tài chính của Chính phủ và mức độ lạm phát nặng nề trong thời điểm đó. Cuối năm 1992, nguồn ngoại tệ kiều hối đổ về khá lớn (do người Việt Nam ở nước ngoài gửi về cho người thân và do chính sách khuyến khích đầu tư của nhà nước ta) làm tăng cung ngoại tệ, mặt khác NHNN kiên trì quan điểm ổn định tỷ giá bằng cách can thiệp vào thị trường ngoại tệ nên nhu cầu ngoại tệ của các doanh nghiệp cơ bản được đáp ứng, nạn lạm phát gần như được chặn lại, từ gần 70% năm 1991 xuống còn dưới 20% năm 1992, tạo lòng tin cho dân chúng vào sự ổn định của đồng tiền Việt Nam, giải toả được tâm lý đầu cơ. Đó là nguyên nhân làm cho xu hướng lên giá của đồng USD bị chặn lại và giảm xuống. Tháng 9/1994 thị trường liên ngân hàng được thành lập, NHNN thực hiện vai trò người mua bán cuối cùng trong ngày. Tỷ giá chính thức vẫn được NHNN công bố, chỉ có biên độ dao động là có sự thay đổi. Năm 1996, cán cân thương mại nước ta thâm hụt đến 4 tỷ USD, tỷ lệ nhập siêu lên đến 16%, nhu cầu về USD đã tạo sức ép làm giảm giá VND. Do vậy NHNN đã mở rộng biên độ dao động tỷ giá từ 0,5% trước đây lên 1%, và tháng 2/1997 biên độ này là 5%. Bên cạnh đó tỷ giá chính thức cũng được nâng dần lên. Nhìn chung giá đồng USD từ đầu năm 1997 liên tục tăng lên, không còn ổn định như thời gian 1993-1996. Ngày 2/7/1997, cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực bắt đầu từ Thái Lan và lan rộng ra toàn khu vực ASEAN và nhiều nước Châu á khác. Là một nước trong khu vực, Việt Nam cũng chịu ảnh hưởng đến tình hình xuất nhập khẩu, thanh toán và cả về tâm lý. Ngày 13/10/1997, NHNN công bố quyết định nới rộng biên độ dao động tỷ giá mua bán ngoại tệ lên tới 10% so với tỷ giá chính thức, mà cầu ngoại tệ trên thị trường rất cao nên hầu như việc mua bán ngoại tệ của các NHTM luôn bám sát mức trần cho phép, tuy thế giá trên thị trường tự do nhiều lúc vẫn cao hơn nhiều, có lúc lên đến hơn 14000đ/1USD. Đây chính là hậu quả của tình trạng găm giữ ngoại tệ do sợ xảy ra khủng hoảng với VND. Đứng trước tình hình này, những tháng đầu năm 1998, NHNN đã đưa ra một loạt các biện pháp nhằm ổn định thị trường như quy chế về giao dịch ngoại hối, các nghiệp vụ về mua bán ngoại tệ mới, quy định về các trạng thái ngoại tệ, trạng thái tiền đồng đối với các TCTD được phép kinh doanh ngoại tệ, chẳng hạn Quyết định số 173/1998/QĐ-TTg qui định các tổ chức kinh tế phải bán cho các ngân hàng tối thiểu 80% lượng ngoại tệ từ các nguồn thu vãng lai....Các biện pháp này đã thể hiện chủ trương của nhà nước ta là tập trung quản lý ngoại tệ vào các ngân hàng. Đặc biệt là hai lần chủ động điều chỉnh tỷ giá: lần thứ nhất ngày 16/2/1998, NHNN quyết định nâng tỷ giá từ 11.175đ/1USD lên 11.800đ/1USD làm tỷ giá giao dịch của các NHTM xấp xỉ với tỷ giá trên thị trường tự do; lần thứ hai ngày 7/8/1998, tỷ giá chính thức được nâng từ 11.888đ/1USD lên 12.998đ/1USD, tăng 16,3%. Bên cạnh đó, biên độ giao dịch ngoại tệ cũng được thu hẹp lại còn 7%. Việc chủ động điều chỉnh tăng tỷ giá của NHNN đã làm thu hẹp khoảng cách giữa tỷ giá trên thị trường tự do và tỷ giá của các NHTM. Vào những tháng cuối năm 1998, tỷ giá của hai thị trường này thường xuyên xấp xỉ nhau. Có thể nói rằng NHNN Việt Nam đã có những bước đi phù hợp, linh hoạt mềm dẻo trong việc chuyển đổi cơ chế tỷ giá hối đoái, từng bước góp phần ổn định thị trường ngoại tệ. Tuy nhiên trong điều kiện nền kinh tế ngày càng phát triển, các nhân tố thị trường ngày càng phát huy tác dụng, quan hệ quốc tế ngày càng mở rộng...thì cơ chế điều hành tỷ giá như vậy vẫn chưa bám sát diễn biến thị trường, không phản ánh thực tế quan hệ cung cầu trên thị trường. Với biên độ giao dịch ngoại tệ lên tới mức cao gần 10% thì việc quản lý của NHNN chỉ còn mang tính hành chính hình thức, không có tác dụng thực tế. Tỷ giá thực sự có tác động ảnh hưởng đến thị trường ngoại tệ là tỷ giá bình quân trên thị trường liên ngân hàng, bám tương đối sát tỷ giá trên thị trường tự do, lại chiếm tới 80-90% tổng lượng ngoại tệ trong nền kinh tế. Và thực tế là khi NHNN công bố tỷ giá chính thức vẫn phải công bố kèm theo tỷ giá mua bán trên thị trường liên ngân hàng. Chính vì vậy, ngày 25/2/1999, NHNN Việt Nam đã chính thức công bố hai Quyết định mới về tỷ giá: Quyết định số 64/1999/QĐ-NHNN7 về việc công bố tỷ giá hối đoái của VND với các ngoại tệ và Quyết định số 65/QĐ- NHNN7 về việc quy định nguyên tắc xác định tỷ giá mua bán ngoại tệ của các TCTD được phép kinh doanh ngoại tệ. Bắt đầu từ ngày 26/2/1999, một cơ chế điều hành tỷ giá mới được áp dụng tại Việt Nam. Theo đó thay cho việc công bố tỷ giá chính thức và tỷ giá trên thị trường liên ngân hàng, từ nay NHNN chỉ công bố tỷ giá trên thị trường liên ngân hàng làm tỷ giá giao dịch chính thức. Căn cứ vào tỷ giá này các TCTD kinh doanh ngoại tệ xác định tỷ giá mua bán theo nguyên tắc: đối với USD không được chênh lệch vượt quá 0.1% tỷ giá công bố của ngày giao dịch gần nhất trước đó. Còn đối với các ngoại tệ khác do Tổng Giám đốc, Giám đốc các TCTD đó xác định. Cơ chế này được duy trì cho đến nay, và ta có thể thấy được những ưu điểm hơn hẳn các cơ chế điều hành tỷ giá cũ của nó: tỷ giá sát với thực tế nên mọi thành phần tham gia thị trường không còn lo ngại về những khoảng cách giữa tỷ giá thị trường với tỷ giá chính thức gây ra những sự đầu cơ chênh lệch tỷ giá, bản thân tỷ giá tự nó điều tiết theo quan hệ cung cầu nên không có những sự lo thiếu hụt ngoại tệ cho các doanh nghiệp tại bất kỳ thời điểm nào, và nhất là tỷ giá trở nên mềm dẻo hơn, linh hoạt hơn, phù hợp với thông lệ quốc tế... Chính sách lãi suất Giữa lãi suất và tỷ giá có mối quan hệ khá chặt chẽ, nếu tỷ giá có xu hướng giảm thì người ta bắt đầu quan tâm tới lãi suất, nếu lãi suất giảm thì người ta lại quan tâm tới tỷ giá. Hoạt động kinh doanh tiền tệ sẽ tạo dòng chuyển giữa VND và ngoại tệ. Ví dụ thực tế rõ nét là trong đợt điều chỉnh tăng tỷ giá VND/USD lên 16% năm 1998 đã làm cho lợi tức dự tính của việc giữ VND so với USD giảm sút, dẫn tới việc rút VND để gửi tiết kiệm bằng USD, làm ảnh hưởng tới nguồn vốn khả dụng của các NHTM. Kinh nghiệm của các quốc gia có nền kinh tế phát triển cho thấy tỷ giá thực sự chỉ là một mục tiêu bộ phận trong chính sách lãi suất khi thực hiện CSTT quốc gia. Về cơ chế điều hành lãi suất ở Việt Nam cũng như ở các nước khác có ba phương pháp cơ bản. Thứ nhất là nhà nước ấn định tất cả các loại lãi suất trong hệ thống ngân hàng, cách này chúng ta đã làm trong thời kỳ bao cấp, ngoài ra các nước khác chỉ có thể áp dụng trong những hoàn cảnh đặc biệt chẳng hạn như chiến tranh. Thứ hai là nhà nước không ấn định mức lãi suất nào, để cơ chế thị trường tự điều tiết, cách này chúng ta chưa đủ khả năng thực hiện, hơn nữa việc thay đổi lãi suất cũng như cơ chế điều chỉnh lãi suất không thể làm nhanh chóng mà phải dần từng bước để không gây đột biến ảnh hưởng xấu đến hoạt động của nền kinh tế. Phương pháp thứ ba, trung hoà hơn, và có thể là bước đệm để tiến tới tự do hoá lãi suất theo cơ chế thị trường, là nhà nước ấn định khống chế các mức lãi suất trần và lãi sàn (các mức lãi tối đa và tối thiểu), tạo khung lãi suất giới hạn cho các TCTD xác định lãi suất kinh doanh. Từ năm 1992 đến năm 1996 chúng ta đã thực hiện phương pháp này, nhưng đến đầu năm 1996 nhà nước đã bỏ lãi suất sàn mà quy định độ chênh lệch giữa lãi suất bình quân cho vay và lãi suất tiền gửi bình quân là 0.35%/tháng, sau đó do sự cạnh tranh giữa các NHTM lớn có ưu thế giảm lãi suất cho vay và tăng lãi suất tiền gửi nên đến đầu năm 1998 nhà nước đã bỏ quy định chênh lệch này, chỉ quy định mức giá trần. Thực ra Luật NHNN có hiệu lực từ đầu năm 1998 đã quy định NHNN sử dụng lãi suất cơ bản để công bố làm cơ sở cho các TCTD ấn định lãi suất kinh doanh, nhưng do chưa có những biện pháp thoả đáng để xác định lãi suất cơ bản nên lãi suất trần tiếp tục được sử dụng cho đến tận năm 2000. Hàng loạt tranh luận về lựa chọn lãi suất nào là lãi suất cơ bản, như trần- sàn lãi suất cho vay- tiền gửi, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu và tái chiết khấu, ....Vì thế mặc dù năm 1999 khi lãi suất sàn đã phải liên tục điều chỉnh giảm tới năm lần nhưng chúng ta vẫn chưa xác định được lãi suất cơ bản. Việc điều chỉnh giảm dần lãi suất trần có một phần nguyên nhân là để tránh những biến động đột ngột, nhưng cũng cho thấy sự kém hiệu quả của việc sử dụng lãi suất trần trong tình hình mới, làm cho chúng ta luôn phải thụ động chạy theo lãi suất trên thị trường để quy định lãi suất trần. Đến ngày 2/8/2000, Thống đốc NHNN đã ban hành các Quyết định về việc thay đổi cơ chế điều hành lãi suất, và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 5/8/2000, bao gồm: Quyết định số 241/2000/QĐ-NHNN1 về việc thay đổi cơ chế điều hành lãi suất cho vay của TCTD đối với khách hàng; Quyết định số 242/2000/QĐ-NHNN1 công bố lãi suất cơ bản làm cơ sở cho các TCTD ấn định lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam đối với khách hàng; Quyết định số 243/2000/QĐ-NHNN1 công bố biên độ lãi suất đôla Mỹ làm cơ sở cho các TCTD ấn định lãi suất cho vay bằng đồng USD đối với khách hàng; Quyết định số 244/2000/QĐ-NHNN1 về việc cung cấp thông tin tham khảo về lãi suất trên thị trường của các NHTM cho NHNN. Nội dung cụ thể là lãi suất cơ bản tại thời điểm ra quyết định ngang với lãi suất hiện hành trên thị trường, không gây xáo trộn, lãi suất cơ bản và biên độ được công bố định kỳ hàng tháng dựa trên những số liệu về lãi suất tốt nhất của các NHTM được NHNN lấy thông tin lãi suất để tham khảo (cho đến nay là 15 ngân hàng). Cơ chế điều hành lãi suất này cũng được giữ đến nay. Hoạt động tái cấp vốn: Thực chất hoạt động này là biến tướng của hoạt động cấp hạn mức tín dụng. NHNN Việt Nam đã cấp vốn điều lệ ban đầu cho các NHTM quốc doanh khi thành lập mới và thành lập lại để tạo hệ thống ngân hàng hai cấp. Cụ thể vốn điều lệ ban đầu của Ngân hàng ngoại thương, Ngân hàng đầu tư & phát triển, Ngân hàng công thương đều là 1100 tỷ đồng, Ngân hàng nông nghiệp & phát triển nông thôn là 2200 tỷ đồng, các ngân hàng đều hoạt động hạch toán độc lập theo mô hình Tổng công ty. Khi cần bổ sung thêm vốn từ NHNN thì do các ngân hàng này chưa thực hiện nghiệp vụ chiết khấu đối với các kỳ phiếu thương mại của khách hàng nên NHNN cũng chưa có nghiệp vụ tái chiết khấu để cấp bổ sung vốn cho các ngân hàng này, mà chỉ có nghiệp vụ cho vay theo hình thức tái cấp vốn với hồ sơ tín dụng và lãi suất gọi là lãi suất tái cấp vốn. Thực tế là tuy ghi vốn điều lệ của các ngân hàng là 1100 và 2200 tỷ nhưng ngay từ ban đầu các ngân hàng này đã không được cấp phát đủ vốn, do đó đã gây nhiều khó khăn trong hoạt động, nhất là khi phải đầu tư cho những dự án lớn hoặc phải cạnh tranh với những ngân hàng quốc tế có nguồn vốn dồi dào và có điều kiện đầu tư cho công nghệ ngân hàng tốt hơn. Điển hình là một dự án lớn khả thi như mỏ dầu Nam Côn Sơn, cả bốn NHTM quốc doanh của chúng ta góp lại mới cho vay được 100 triệu USD trong thời hạn 30 năm, còn lại tới 400 triệu USD phải để cho các tổ chức tài chính nước ngoài. Đây cũng là khó khăn chung của nền kinh tế Việt Nam. Thông qua hoạt động tái cấp vốn mà NHNN có thể điều chỉnh hạn ngạch tín dụng của các NHTM, và qua đó tác động đến lượng cung tiền. Chẳng hạn trong năm 1999 NHNN đã linh hoạt điều chỉnh giảm bốn lần lãi suất tái cấp vốn từ 1,1%/tháng xuống còn 0,5%/tháng. Thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các NHTM: Trước đây với cơ chế ngân hàng một cấp thì việc thay đổi tỷ lệ này là không có ý nghĩa. Kể từ khi hệ thống ngân hàng phân thành hai cấp thì NHNN Việt Nam trong những năm đầu đã xác định tỷ lệ này là 10% đến 35% do tỷ lệ lạm phát lúc đó quá cao. Trong những năm 1993-1996 thực hiện chủ trương ổn định tiền tệ, kiềm chế lạm phát mà chúng ta đã giảm tỷ lệ lạm phát xuống thấp, và tỷ lệ dự trữ bắt buộc cũng giảm xuống 10%. Đến những năm 1995-1996 các ngân hàng cho rằng tỷ lệ này vẫn còn quá cao, nhất là khi lạm phát lại có xu hướng tăng nhẹ trở lại (hơn 10%). Cùng với cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực bắt đầu từ Thái Lan vào giữa tháng 7/1997 và kéo dài suốt năm 1998, đồng tiền của các nước trong khu vực bị mất giá, đồng Việt Nam không khỏi bị ảnh hưởng. Nhận thấy bài học của các quốc gia có hệ thống ngân hàng không vững chắc và cơ cấu vốn đầu tư không hợp lý, có quá nhiều vốn đầu tư trung và dài hạn trong khi vốn huy động lại có tỷ trọng lớn là vốn ngắn hạn thu hút qua các thị trường tài chính, nên NHNN Việt Nam quyết định củng cố hệ thống NHTM của mình. Ngày 11/4/1998, Thống đốc NHNN ra Quyết định số 135 thay thế Quyết định số 397/1997/QĐ-NHNN1 ngày 1/12/1997 tiếp tục quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các NHTM phải là 10%.(chỉ trừ các NHTM cổ phần nông thôn được khuyến khích phát triển và có quy mô nhỏ nên được miễn dự trữ bắt buộc). Đặt tỷ lệ dự trữ bắt buộc cao như vậy đến hết năm 1998 để duy trì CSTT chặt, kiềm chế lạm phát, sau đó NHNN sẽ xem xét để điều chỉnh theo từng thời kỳ cho phù hợp. Trong năm 1999, NHNN đã hai lần điều chỉnh giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các TCTD từ 10% xuống 7% rồi 5% (các NHTM cổ phần nông thôn, quỹ tín dụng nhân dân trung ương và quỹ tín dụng nhân dân điạ phương là 1%). Riêng Ngân hàng nông nghiệp & phát triển nông thôn do phải tập trung vốn thực hiện một số chính sách phục vụ nông nghiệp và phát triển nông thôn nên được giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc xuống còn 3%. Hiện nay theo quy định của Luật các TCTD thì tỷ lệ dự trữ bắt buộc là từ 0 đến 20% tuỳ theo loại hình TCTD. Hoạt động của thị trường mở: Tại Việt Nam, việc thiết lập và điều khiển thị trường tiền tệ thuộc thẩm quyền của NHNN. Ngày 21/6/1993, Thống đốc NHNN đã ký Quyết định số 114/QĐ- NH1 về việc ban hành quy chế tổ chức và hoạt động thị trường liên ngân hàng, và đây là bước khởi đầu cho quá trình thiết lập thị trường tiền tệ Việt Nam. Đến tháng 7/1993 thị trường nội tệ liên ngân hàng đã được đưa vào hoạt động. Mặc dù vậy, thị trường này nhìn chung mới mua bán bằng lãi suất chứ chưa sử dụng nghiệp vụ thị trường mở. Mặt khác, kết quả hoạt động còn thấp do có khó khăn chung về nguồn vốn và đặc biệt là thiếu các định chế tài chính thích hợp. Bên cạnh đó bộ phận cấu thành quan trọng của thị trường vốn như thị trường hối đoái, thị trường chứng khoán vẫn ở trong dạng manh nha. Từ năm 1996, NHNN được phép đứng ra tổ chức cho NHTM đấu thầu mua trái phiếu kho bạc nhà nước, nhưng tình hình hoạt động đấu thầu này cũng mới chỉ là hoạt động một chiều, kể cả sau đó nếu NHTM và công chúng có chuyển nhượng cho nhau thì cũng không vì thế mà làm thay đổi cơ số tiền tệ trong lưu thông. Những trường hợp NHTM mang trái phiếu đến NHNN xin thế chấp vay chiết khấu cũng có nhưng không đáng kể. Để thúc đẩy hoạt động của thị trường này, ngày 6/10/1999, Thống đốc NHNN đã ký Quyết định số 365/1999/QĐ-NHNN19 về việc “Ban hành quy chế phát hành tín phiếu NHNN” và chỉ hai ngày sau đó là Quyết định số 362/1999/QĐ-NHNN1 về việc “Ban hành quy chế về nghiệp vụ chiết khấu, tái chiết khấu của NHNN đối với các ngân hàng”. Việc tái chiết khấu của NHNN đối với các NHTM được căn cứ theo hạn mức chiết khấu và lãi suất chiết khấu, chứ không phải căn cứ theo lãi suất chiết khấu và chất lượng giấy nợ ngắn hạn do các NHTM đem đến xin tái chiết khấu. Kể từ đây trên thị trường có hai loại tín phiếu của KBNN và NHNN được NHNN mua bán để thực hiện CSTT. Đến ngày 9/3/2000 Thống đốc NHNN đã ký Quyết định số 85/2000/QĐ-NHNN4 ban hành quy chế nghiệp vụ thị trường mở. Quy chế này điều chỉnh việc mua bán tín phiếu kho bạc, chứng chỉ tiền gửi, tín phiếu NHNN và các loại giấy tờ có giá ngắn hạn khác (do Thống đốc NHNN quy định trong từng thời kỳ) giữa NHNN và các TCTD; có hai phương thức đấu thầu là đấu thầu lãi suất và đấu thầu khối lượng để xác định khối lượng mà NHNN cần mua bán và lãi suất tốt nhất. Đến tháng 7/2000, thị trường chứng khoán Việt Nam chính thức ra đời với một Sở giao dịch đầu tiên ở Thành phố Hồ Chí Minh, sau 8 năm chuẩn bị và vài lần đình hoãn. Cho đến nay qua hơn một năm hoạt động, tổng khối lượng giao dịch còn nhỏ bé, số lượng doanh nghiệp yết giá cổ phiếu còn ít (chỉ có chưa đến 10 doanh nghiệp). Trên thị trường này các trái phiếu Chính phủ vẫn chưa được hưởng ứng, thêm vào đó là tâm lý kinh doanh kiểu cò con.... Tóm lại là thị trường chứng khoán còn nhiều khiếm khuyết, nhưng cùng với sự thúc đẩy hoạt động của thị trường liên ngân hàng sẽ là cơ hội để NHNN thực hiện các nghiệp vụ thị trường mở trong một tương lai gần. Những tồn tại và giải pháp. Trong các công cụ mà NHNN Việt Nam sử dụng trên đây để điều hành CSTT, chúng ta thấy chủ yếu cho đến nay vẫn là các công cụ tác động trực tiếp vào các mục tiêu trung gian của CSTT, tức là tác động thẳng vào mức cung tiền trong nền kinh tế như tỷ giá hối đoái và lãi suất. Bên cạnh đó các biện pháp tác động gián tiếp vào hệ thống các TCTD như tỷ lệ dự trữ bắt buộc, chính sách tái cấp vốn cũng được sử dụng nhưng hiệu quả còn hạn chế. Ngoài ra để hỗ trợ cho các công cụ trên, NHNN còn sử dụng kêt hợp với hàng loạt các chính sách kinh tế liên quan như chính sách quản lý ngoại hối, chính sách tín dụng....Việc linh hoạt sử dụng như vậy trong thời gian này là hợp lý, vì chúng ta chưa có đủ khả năng cập nhật, thống kê thông tin cũng như phương tiện kỹ thuật để kiểm soát lượng tiền dự trữ của các NHTM để sử dụng những công cụ tác động gián tiếp hiệu quả hơn. Tuy nhiên, mặc dù đã đạt được những kết quả bước đầu nhưng các công cụ mà NHNN Việt Nam sử dụng cũng đã bộc lộ một số nhược điểm cố hữu không thể tránh khỏi khi tiến hành can thiệp trực tiếp vào thị trường tiền tệ. - Thứ nhất, các công cụ không linh hoạt, không cho phép NHNN điều chỉnh lượng cung tiền trong điều kiện dư thừa, công cụ duy nhất có thể sử dụng trong trường hợp này là dự trữ bắt buộc nhưng để thay đổi được cần nhiều thời gian. Thực tế năm 1996 NHNN đã thí điểm phát hành tín phiếu NHNN để đối phó với trường hợp dư thừa vốn này, nhưng do nhiều lý do mà nó đã không tồn tại. - Thứ hai là các công cụ ngày càng tỏ ra thiếu chủ động trong việc điều chỉnh lượng cung tiền, do đó làm giảm hiệu lực của CSTT. Điều này thể hiện rõ qua hai năm 98-99 khi lãi suất trần liên tục giảm nhưng giá cả không tăng mà vẫn tiếp tục giảm, thiểu phát kéo dài cả năm 1999 và sang năm 2000, có thời điểm cuối năm 1999 tỷ lệ thiểu phát xuống tới –0,4%. Nguyên nhân chính là do các công cụ điều hành CSTT đều sử dụng các số liệu thống kê thị trường để đề ra giải pháp, tức là chạy theo thị trường chứ không phải hướng dẫn thị trường, điều này làm cho những người lập chính sách luôn bị động, lại thêm độ trễ thời gian cho các quyết định thay đổi mức lãi suất, tỷ giá, tỷ lệ dự trữ bắt buộc nên hiệu quả càng kém. Ta có thể thấy qua việc sử dụng tỷ giá, cho đến trước tháng 2/1999 thì NHNN Việt Nam luôn duy trì một tỷ giá ấn định có điều chỉnh, với mục tiêu là giữ cho tỷ giá luôn ổn định, không thay đổi trong khi cơ chế thị trường đã tự động điều tiết lên mức tỷ giá cao hơn, và cuối cùng NHNN đã buộc phải chấp nhận cơ chế tỷ giá linh hoạt có điều tiết. Như vậy thì không thể nói là tỷ giá là một công cụ điều tiết của CSTT. Ta có thể thấy ở các nước sử dụng tốt công cụ lãi suất chiết khấu và nghiệp vụ thị trường tự do (thị trường mở) thì ổn định tỷ giá chỉ là một mục tiêu trung gian, hay một kết quả do việc điều tiết lượng cung tiền kết hợp với chính sách ngoại hối tạo ra. - Thứ ba, với các công cụ hiện nay, NHNN chủ yếu chỉ tác động được đến những mục tiêu vĩ mô trên toàn thể nền kinh tế, mặc dù đã có cố gắng sử dụng những công cụ gián tiếp tác động đến các TCTC trung gian như quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc hay lãi suất tái chiết khấu.....để các tổ chức này tự động điều tiết nhưng hiệu quả chưa cao. Đặc biệt là nghiệp vụ thị trường mở chưa được sử dụng nhiều do nhiều nguyên nhân khách quan, làm cho NHNN chưa thực sự chủ động điều hành cung ứng tiền tệ, và rất khó khăn trong việc cơ cấu lại danh mục đầu tư của các nhà đầu tư thông qua thị trường này. - Thứ tư, vấn đề chung trong thống kê kinh tế Việt Nam được thể hiện rõ nét qua việc sử dụng các công cụ cuả CSTT, đó là sự thiếu lượng hoá các nhân tố tác động, thiếu các chỉ tiêu đánh giá để xác định một thước đo và phương pháp khoa học trong việc phân tích, đánh giá và dự báo phù hợp với tình hình Việt Nam. Thông thường chúng ta chỉ dựa trên những hiện tượng biến động của nền kinh tế và dự đoán những tác động có thể xảy ra để xác định những biện pháp và mức độ điều chỉnh, chẳng hạn như lãi suất, lạm phát, tỷ giá, .....Do đó CSTT không thể dự báo trước diễn biến và chủ động trong việc hướng dẫn thị trường, và không có gì làm căn cứ bảo đảm tính khả thi của chính sách một khi được đem ra thực hiện. Với những nhận xét như vậy, tôi có một số kiến nghị sau: - Trong chế độ tái cấp vốn, vấn đề đầu tiên các ngân hàng Việt Nam nói đến là thiếu vốn, nhưng nếu có thêm vốn thì có gì bảo đảm là sẽ được sử dụng hết, khi mà trong hai năm 2000-2001 các ngân hàng vẫn liên tục kêu bị ứ đọng vốn, tốc độ phát triển kinh tế giảm sút, hoạt động đầu tư kém sôi động. Chẳng lẽ chỉ có con đường dựa vào nguồn vốn khả dụng lớn hơn để các ngân hàng có thể giảm lãi suất thị trường xuống hơn nữa và coi là hoạt động có hiệu quả? Hơn nữa, tái cấp vốn không phải là con đường phát triển lâu dài, mà chúng ta phải làm quen với hoạt động chiết khấu và tái chiết khấu, tận dụng các kỳ phiếu thương mại và các giấy tờ có giá khác, giảm dần tiền mặt và tạo cho người dân thói quen sử dụng các loại tiền hiện đại hơn, làm quen với các thị trường tài chính, tiến tới hội nhập với thông lệ quốc tế. Chưa kể nghiệp vụ tái chiết khấu hơn hẳn tái cấp vốn ở chỗ hoạt động tái cấp vốn không thể sử dụng các giâý tờ có giá, chỉ đơn thuần là tiền mặt và hồ sơ tín dụng. Tái cấp vốn cũng không thể tác động đến lãi suất cho vay của các TCTD vì khi TCTD đã được tái cấp vốn (vay được NHNN) thì họ có thể sử dụng số tiền vay tuỳ ý, trong khi lãi suất tái chiết khấu có thể can thiệp để bình ổn lãi suất cho vay. - Với chế độ dự trữ bắt buộc, hiện nay ngay cả các quốc gia có nền kinh tế phát triển cũng không sử dụng nhiều, vì sử dụng quá phức tạp, chỉ can thiệp được khối lượng tiền lớn, lại không linh hoạt kịp thời. Chưa kể là lượng dự trữ của mỗi ngân hàng rất khó để xác định chính xác ở mỗi thời điểm là có thoả mãn tỷ lệ dự trữ này hay không, bản thân mỗi ngân hàng không cần đến bắt buộc cũng phải dự trữ để đảm bảo khả năng thanh khoản. Mỗi lần thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc là gây ra một sự xáo trộn lớn cho hệ thống ngân hàng, vì thế nên ngày nay các NHTƯ ít sử dụng công cụ này. - Với tỷ giá hối đoái, cơ chế điều hành như hiện nay là tương đối hợp lý, và cũng phù hợp với thông lệ quốc tế, chỉ cần thúc đẩy hoạt động của thị trường liên ngân hàng và các thị trường tài chính khác. Song, để điều hành tốt tỷ giá thì NHNN cần phải có dự trữ ngoại tệ đủ mạnh, xử lý tốt quan hệ giữa tỷ giá với lãi suất đồng Việt Nam và đồng ngoại tệ, hoàn chỉnh cơ chế quản lý ngoại hối, đặc biệt là dự trữ ngoại tệ của hệ thống ngân hàng Việt Nam hiện nay còn thấp hơn nhiều so với tổng vốn đầu tư nước ngoài và nhu cầu đảm bảo vốn cho hoạt động xuất nhập khẩu. Lãi suất tiền gửi nội tệ và ngoại tệ cũng phải được khống chế tốt để hỗ trợ cho điều hành tỷ giá. - Với lãi suất, việc bỏ lãi suất trần sử dụng lãi suất cơ bản là một chủ trương đúng đắn, là bước chuyển tiếp quan trọng để tiến tới tự do hoá lãi suất. Việc các ngân hàng được tự do ấn định lãi suất kinh doanh quanh một mức lãi suất cơ bản làm chuẩn có thể cho phép thị trường vốn hoạt động lành mạnh, không có những cạnh tranh tiêu cực về lãi suất, mà cũng phù hợp cho các TCTD xác định những lãi suất khác nhau để thu hút những nguồn vốn đa dạng trong nền kinh tế. Lãi suất cơ bản tương đối hợp lý vì là bình quân chung của hơn 10 ngân hàng chiếm tới khoảng hơn 90% thị phần ngân hàng hiện nay. Việc xác định một mức lãi suất thống nhất là lãi suất cơ bản còn giúp tránh được những văn bản chồng chéo hướng dẫn thực hiện các loại lãi suất trong từng thời kỳ, khu vực, mức khống chế chênh lệch .....NHNN có thể sử dụng lãi suất này như một công cụ mạnh để can thiệp vào thị trường, nhưng xu hướng chung là sẽ phải tiến tới bỏ lãi suất cơ bản để thực hiện tự do hoá lãi suất cho phù hợp với thông lệ quốc tế và làm cho thị trường ngân hàng thông thoáng hơn, tự do hơn. Để có thể thực hiện tự do hoá lãi suất chúng ta cần phải chuẩn bị những điều kiện cần thiết như NHNN phải chủ động kiểm soát được lạm phát, tốc độ tăng trưởng kinh tế phải tương đối ổn định có thể dự báo chính xác, hệ thống ngân hàng phải được củng cố.... - Với chính sách tái chiết khấu, chiết khấu và tái cấp vốn, NHNN nên chăng xem xét sử dụng thước đo cấp vốn tái chiết khấu không căn cứ vào hạn mức chiết khấu (thực chất là hạn mức tín dụng) mà căn cứ vào những tiêu thức đánh giá chất lượng các loại giấy tờ có giá của các TCTD mang đến xin chiết khấu. Vì thực tế hạn mức nàycó những ngân hàng hoạt động tốt có thể sử dụng hết hoặc thiếu, trong khi có những ngân hàng không sử dụng hết, gây ra những hoạt động mua bán hạn mức không cần thiết mà NHNN không quản lý được. Và có lẽ nếu các ngân hàng đều lấy đủ chỉ tiêu hạn mức cho phép thì NHNN cũng chưa chắc đủ vốn cung cấp, nên quy định như thế không được hợp lý lắm. Chúng ta đang cố gắng phát triển nền kinh tế theo cơ chế thị trường thì không nên có những quy định ràng buộc cứng nhắc như vậy mà không xét đến quan hệ cung cầu. - Với nghiệp vụ thị trường mở, chúng ta phải thúc đẩy sự phát triển của các thị trường tài chính Việt Nam, trước hết là thị trường liên ngân hàng và thị trường chứng khoán để người dân quen với việc sử dụng các hàng hoá của thị trường này, từ đó lượng hàng mà các NHTM và các TCTD khác giao dịch với NHNN trên thị trường mở cũng nhiều hơn về chủng loại và khối lượng. Đồng thời NHNN phải có những chính sách về lãi suất tái cấp vốn, tái chiết khấu sao cho không khuyến khích các NHTM bằng đến với thị trường mở, từ đó có thể tập trung phần lớn các hoạt động cung ứng tiền của NHNN qua thị trường này. - Ngành ngân hàng cần hợp tác với ngành thống kê nghiên cứu xác định một hệ thống thước đo lượng hoá các yếu tố tác động đến thị trường tài chính tiền tệ để có thể phân tích, dự báo trước diễn biến thị trường, tạo điều kiện cho NHNN chủ động hơn trong việc điều hành các chính sách của mình. Việc phân tích các nhân tố chất lượng có tính trừu tượng có thể gặp nhiều khó khăn như phân tích tâm lý của người gửi tiền, xu hướng đầu tư của các nhà đầu tư,....nhưng chúng ta có thể ưu tiên trước cho các nhân tố số lượng ảnh hưởng đến thị trường tài chính tiền tệ, chẳng hạn diễn biến thị trường hối đoái, dự trữ của các ngân hàng, ....Hoạt động đánh giá càng sát thực với thị trường càng tạo điều kiện cho NHNN chủ động ra các quyết định nhanh chóng, kịp thời và hiệu quả hơn. - Cái mà chúng ta quan tâm không chỉ là các công cụ mà còn là cách thức sử dụng và môi trường sử dụng các công cụ đó cho có hiệu quả. Dù chúng ta có sử dụng các công cụ trên lý thuyết, luật pháp thành thạo, tinh vi đến đâu mà không có sự phối hợp với các chính sách kinh tế khác, không xem xét đến các yếu tố thực tế thì không thể có thành công. Chúng ta cũng không nên máy móc áp dụng theo bài học của những quốc gia khác, của thời kỳ khác vì chính sách nào thì cũng dựa trên những quan điểm lợi ích nhất định của mỗi quốc gia, mỗi chính quyền, mỗi giai đoạn. Quan điểm của nhà nước Việt Nam là xây dựng một nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước, trong quản lý kinh tế thực hiện sử dụng kết hợp các phương pháp điều khiển bằng hành chính với điều khiển bằng lợi ích kinh tế cũng như hoạch định và tuyên truyền giáo dục. Vì vậy cần phải tăng cường vai trò quản lý của nhà nước và kết hợp với những biện pháp kỹ thuật nghiệp vụ ngân hàng tài chính để đưa ra và điều hành một CSTT sát hợp và hữu hiệu với nền kinh tế quốc dân. Ta coi trọng các giải pháp kinh tế nhưng không xem nhẹ các biện pháp hành chính, không chỉ cần thiết trên nguyên tắc mà nhiều khi hỗ trợ đắc lực cho CSTT, chẳng hạn như Quyết định của nhà nước ta về việc các tổ chức kinh tế phải bán ngoại tệ cho các ngân hàng trong năm 1998 là một giải pháp tình thế và nhanh chóng có hiệu lực trong điều kiện những công cụ của CSTT của NHNN chưa phát huy được nhiều tác dụng. Đó là những tình huống mà cần đến quyền lực của quản lý nhà nước để ổn định nền kinh tế. Chúng ta cũng phải tuyên truyền giáo dục nâng cao nhận thức của người dân để ủng hộ cho kinh tế nước nhà ở tầm vĩ mô, ủng hộ những chính sách kinh tế của nhà nước đưa ra bằng những hoạt động cụ thể như gửi tiết kiệm bằng đồng Việt Nam, tiêu dùng hàng nội để đẩy mạnh sản xuất trong nước... - Một vấn đề cũng vô cùng quan trọng là phải lành mạnh hoá hệ thống ngân hàng của Việt Nam, củng cố khả năng tài chính của các ngân hàng cũng như đầu tư vào con người và công nghệ để có thể hội nhập vào thị trường ngân hàng trong khu vực và trên toàn thế giới- vốn là một lĩnh vực cạnh tranh rất khốc liệt, là nơi có những đối thủ cạnh tranh khổng lồ đến từ các quốc gia giàu có. Tất nhiên không hẳn là tiềm lực tài chính lớn hơn thì có thể cạnh tranh thắng lợi hoàn toàn, nhưng để đảm bảo tự chủ về tài chính quốc gia thì chúng ta phải phấn đấu bằng mọi biện pháp để hệ thống ngân hàng trong nước đủ sức khống chế thị phần ngân hàng Việt Nam. Các NHTM của chúng ta, đặc biệt là các NHTM quốc doanh, phải tăng cường hợp tác với nhau hơn nữa không chỉ để nâng cao khả năng cạnh tranh của mình trong việc cho vay mà còn để giúp NHNN thực hiện CSTT một cách độc lập, đảm bảo quyền tự chủ dân tộc. - Cuối cùng, nói gì thì nói, nguyên nhân sâu xa của sự tăng trưởng kinh tế bao giờ cũng nằm ở khu vực sản xuất của nó. Cho dù hệ thống ngân hàng có làm tăng tỷ giá hối đoái, giảm lãi suất xuống thấp đến như trong các năm 1999-2000 vừa qua và sang cả năm 2001 hiện nay thì nền kinh tế Việt Nam vẫn đang phát triển với tốc độ chưa cao. Chúng ta thường nói rằng hoạt động của ngành ngân hàng tài chính giống như dầu bôi trơn cho cỗ máy kinh tế hoạt động được trơn tru, nhưng nếu có dầu mà bản thân cỗ máy có trục trặc thì vấn đề cũng không thể được giải quyết. Vì thế, để ngành ngân hàng thực hiện tốt nhiệm vụ của mình thì mỗi ngành khác cũng phải có sự hỗ trợ và cố gắng riêng, khi đó CSTT cũng như các chính sách kinh tế khác mới thực sự phát huy tác dụng. Mục lục Trang DANH MụC TàI LIệU THAM KHảO Giáo trình Tài chính học- Đại học TCKT, Hà Nội, 2000 Frederic S. Mishkin- Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính- NXB KHKT, Hà Nội, 2001. Các tạp chí: Thị trường TCTT, Tạp chí ngân hàng, Tạp chí ngân hàng ngoại thương, Tạp chí ngân hàng công thương, .... các năm 1996- 2001 Thời báo kinh tế Việt Nam - các năm 2000-2001.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33645.doc
Tài liệu liên quan