Đề tài Thực trạng Đôla hóa tại Việt Nam, ảnh hưởng và giải pháp khắc phục

Vì vậy, về giải pháp chính sách về quản lý ngoại hối nói chung và về điều hành tỷ giá nói riêng, xin đề xuất như sau: Về quan điểm chính sách, cần đối xử với Đôla như đối xử với một loại hàng hoá nhập khẩu hơn là đối xử như với một liên minh tiền tệ lẫn lộn các chức năng với nội tệ trên thị trường tài chính trong nước. Không nên "cố" neo tỷ giá vào đồng USD, cần phải để thị trường ngoại hối phán quyết sức mua đó "tụt dốc" rất lớn của đồng USD so với hầu hết các đồng tiền quốc gia khác trờn thị trường quốc tế. Trong khi giá cả đồng USD trên thị trường tiền tệ quốc tế và lãi suất trong chính nước Mỹ giảm thì tại Việt Nam lãi suất huy động và cho vay đồng USD lại có xu hướng gia tăng. Điều đó chứng tỏ cơ chế quản lý ngoại hối là có vấn đề mà chỉ có Việt Nam mới gặp phải. Lý do là nhiều nước trên thế giới không cho phép có hoạt động tín dụng ngoại tệ, đặc biệt là loại tín dụng ngoại tệ ngắn hạn. Nhiều nước cũng có luật cấm nghiêm ngặt việc thanh toán hàng hoá, dịch vụ trong nội địa bằng ngoại tệ. Hiện nay, ở nhiều ngân hàng thương mại nước ta đó có dấu hiệu nghịch lý về đồng USD, biểu hiện qua hiện tượng: "thiếu tiền, thừa vốn". Do lãi suất huy động ngoại tệ tăng, cùng với tỷ giá có xu hướng tăng và đứng ở mức cao nên lượng "tiền gửi ngoại tệ" tăng, trong lúc tiền mặt ngoại tệ để "mua đứt bán đoạn" lại hiếm.

doc28 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1906 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng Đôla hóa tại Việt Nam, ảnh hưởng và giải pháp khắc phục, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC LỜI NÓI ĐẦU “Ngoại tệ hóa” hay “Đô la hoá” là tình trạng khó tránh khỏi đối với các nước có xuất phát điểm thấp, đang trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế và đẩy mạnh hội nhập quốc tế như Việt Nam. Tâm lý lo ngại về lạm phát, về sự mất giá của đồng nội tệ, thói quen sử dụng tiền mặt trong giao dịch... không thể một sớm, một chiều xoá bỏ hay giảm triệt để được. Nghị quyết IV của Ban chấp hành Trung ương Đảng (khoá 8) trong phần đề cập những chủ trương chính sách lớn, riêng trong lĩnh vực tiền tệ - ngân hàng một lần nữa khẳng định yêu cầu "Đẩy nhanh tiến độ thực hiện nguyên tắc trên đất nước Việt Nam phải thanh toán bằng tiền Việt Nam". Việc xem xét thực trạng Đôla hóa tại Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế là việc làm không chỉ có ý nghĩa về mặt lý luận, mà còn có ý nghĩa về mặt thực tiễn. Do đó, nhóm 3 lớp cao học 17G xin được lựa chọn đề tài: “Thực trạng Đôla hóa tại Việt Nam, ảnh hưởng và giải pháp khắc phục” làm đề tài thảo luận của nhóm mình. Kết cấu của đề tài Ngoài các phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, các công đề tài được kết cấu như sau: Chương 1: Khái quát về Đô la hóa Chương 2: Thực trạng Đô la hóa tại Việt Nam Chương 3: Giải pháp cho hạn chế Đô la hóa tại Việt Nam CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ ĐÔ LA HOÁ 1.Khái niệm: Theo tiêu chí của IMF đưa ra, một nền kinh tế được coi là có tình trạng đô la hoá cao khi mà tỷ trọng tiền gửi bằng ngoại tệ chiếm từ 30% trở lên trong tổng khối tiền tệ mở rộng (M2); bao gồm: tiền mặt trong lưu thông, tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, và tiền gửi ngoại tệ. Theo đánh giá của IMF năm 1998 trường hợp đô la hoá cao có 19 nước, trường hợp đô la hoá cao vừa phải với tỷ lệ tiền gửi ngoại tệ/M2 khoảng 16,4% có 35 nước, trong số đó có Việt Nam. Hiện tượng đô la hoá bắt nguồn từ cơ chế tiền tệ thế giới hiện đại, trong đó tiền tệ của một số quốc gia phát triển, đặc biệt là đô la Mỹ, được sử dụng trong giao lưu quốc tế làm vai trò của "tiền tệ thế giới". Nói cách khác, đô la Mỹ là một loại tiền mạnh, ổn định, được tự do chuyển đổi đã được lưu hành khắp thế giới và từ đầu thế kỷ XX đã dần thay thế vàng, thực hiện vai trò tiền tệ thế giới. Ngoài đồng đô la Mỹ, còn có một số đồng tiền của các quốc gia khác cũng được quốc tế hoá như: bảng Anh, mác Đức, yên Nhật, Franc Thuỵ Sỹ, euro của EU... nhưng vị thế của các đồng tiền này trong giao lưu quốc tế không lớn; chỉ có đô la Mỹ là chiếm tỷ trọng cao nhất (khoảng 70% kim ngạch giao dịch thương mại thế giới). Cho nên người ta thường gọi hiện tượng “ngoại tệ hoá” là "đô la hoá". Đô la hoá là hiện tượng khi ngoại tệ được sử dụng một cách rộng rãi thay thế cho đồng bản tệ trong toàn bộ hoặc một số chức năng tiền tệ. Đô la hóa là tình trạng mà tỷ trọng tiền gửi bằng ngoại tệ chiếm trên 30% trong tổng khối tiền tệ mở rộng bao gồm: tiền mặt trong lưu thông, tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi ngoại tệ. Ở nước ta, "đô la hóa" được nhận thức là việc sử dụng USD trong giao dịch thương mại và dịch vụ song song với VND. Trên thế giới, "đô la hóa" có khái niệm rộng hơn: khi dân cư một nước sử dụng rộng rãi ngoại tệ song song với đồng nội tệ hoặc thay thế đồng nội tệ. 2. Phân loại: Có hai cách phân loại đô la hoá: Cách thứ nhất: Đô la hoá được chia làm 3 loại: đô la hoá chính thức, đô la hoá không chính thức, đô la hoá bán chính thức - Đô la hoá chính thức (hay còn gọi là đô la hoá hoàn toàn) xẩy ra khi đồng ngoại tệ là đồng tiền hợp pháp duy nhất được lưu hành. Nghĩa là đồng ngoại tệ không chỉ được sử dụng hợp pháp trong các hợp đồng giữa các bên tư nhân, mà còn hợp pháp trong các khoản thanh toán của Chính phủ. Nếu đồng nội tệ còn tồn tại thì nó chỉ có vai trò thứ yếu và thường chỉ là những đồng tiền xu hay các đồng tiền mệnh giá nhỏ. Thông thường các nước chỉ áp dụng đô la hoá chính thức sau khi đã thất bại trong việc thực thi các chương trình ổn định kinh tế. Một số vùng lãnh thổ như Virgin islands, Greenland và một số quốc gia độc lập như Panama sử dụng USD hoặc đồng tiền nước khác làm đồng tiền chính thức, trong đó có nước không còn đồng nội tệ, có nước vẫn duy trì đồng nội tệ, nhưng đóng vai trò phụ thuộc. Điển hình là ngày 9/1/2000, Tổng thống Ecuado công bố quyết định lấy USD làm đồng tiền chính thức của nước này. Đô la hoá chính thức không có nghĩa là chỉ có một hoặc hai đồng ngoại tệ được lưu hành hợp pháp. Tuy nhiên, các nước đô la hoá chính thức thường chỉ chọn một đồng ngoại tệ làm đồng tiền hợp pháp. - Đô la hoá không chính thức: là trường hợp đồng đô la được sử dụng rộng rãi trong nền kinh tế, mặc dù không được quốc gia đó chính thức thừa nhận. Đô là hóa" không chính thức lúc đầu là phương tiện cất trữ (kho chứa giá trị), tiếp theo là phương tiện thanh toán (thay thế đồng nội tệ), cuối cùng được đánh giá tương quan về giá cả giữa ngoại tệ và nội tệ, được chỉ số hóa bằng tỷ giá hối đoái. Quỹ Tiền tệ thế giới (IMF) xếp Việt Nam vào nhóm nước "đô la hóa" không chính thức. Đô la hoá không chính thức có thể bao gồm các loại sau: • Các trái phiếu ngoại tệ và các tài sản phi tiền tệ ở nước ngoài. • Tiền gửi bằng ngoại tệ ở nước ngoài. • Tiền gửi ngoại tệ ở các ngân hàng trong nước. • Trái phiếu hay các giấy tờ có giá bằng ngoại tệ cất trong túi. - Đô la hoá bán chính thức là những nước có hệ thống lưu hành chính thức hai đồng tiền. Ở những nước này, đồng ngoại tệ là đồng tiền lưu hành hợp pháp, và thậm chí có thể chiếm ưu thế trong các khoản tiền gửi ngân hàng, nhưng đóng vai trò thứ cấp trong việc trả lương, thuế và những chi tiêu hàng ngày. Các nước này vẫn duy trì một ngân hàng trung ương để thực hiện chính sách tiền tệ của họ. Khác với các nước " đô la hóa" chính thức, ngân hàng trung ương những nước đó phát hành đồng nội tệ và điều hành chính sách tiền tệ của đất nước. Trên thế giới, có khoảng 12 nước như Bahamas, Haiti, Liberia… áp dụng " đô la hóa" bán chính thức. Cách thứ hai: Đô la hoá toàn phần, đô la hóa từng phần: Đô la hoá toàn phần bao gồm đô la hoá chính thức Đô la hoá từng phần bao gồm đô la hoá không chính thức và đô la hoá bán chính thức. 3.Tác động của Đô la hoá tới nền kinh tế: Tình trạng "đô la hoá" nền kinh tế có tác động tích cực và tác động tiêu cực. a. Những tác động tích cực: - Tạo một cái van giảm áp lực đối với nền kinh tế trong những thời kỳ lạm phát cao, bị mất cân đối và các điều kiện kinh tế vĩ mô không ổn định. Do có một lượng lớn đô la Mỹ trong hệ thống ngân hàng, sẽ là một công cụ tự bảo vệ chống lại lạm phát và là phương tiện để mua hàng hoá ở thị trường phi chính thức. Ở các nước đô la hoá chính thức, bằng việc sử dụng đồng ngoại tệ, họ sẽ duy trì được tỷ lệ lạm phát gần với mức lạm phát thấp làm tăng sự an toàn đối với tài sản tư nhân, khuyến khích tiết kiệm và cho vay dài hạn. Hơn nữa, ở những nước này ngân hàng trung ương sẽ không còn khả năng phát hành nhiều tiền và gây ra lạm phát, đồng thời ngân sách nhà nước sẽ không thể trông chờ vào nguồn phát hành này để trang trải thâm hụt ngân sách, kỷ luật về tiền tệ và ngân sách được thắt chặt. Do vậy, các chương trình ngân sách sẽ mang tính tích cực hơn. - Tăng cường khả năng cho vay của ngân hàng và khả năng hội nhập quốc tế. Với một lượng lớn ngoại tệ thu được từ tiền gửi tại ngân hàng, các ngân hàng sẽ có điều kiện cho vay nền kinh tế bằng ngoại tệ, qua đó hạn chế việc phải vay nợ nước ngoài, và tăng cường khả năng kiểm soát của ngân hàng trung ương đối với luồng ngoại tệ. Đồng thời, các ngân hàng sẽ có điều kiện mở rộng các hoạt động đối ngoại, thúc đẩy quá trình hội nhập của thị trường trong nước với thị trường quốc tế. - Hạ thấp chi phí giao dịch. Ở những nước đô la hoá chính thức, các chi phí như chênh lệch giữa tỷ giá mua và bán khi chuyển từ đồng tiền này sang đồng tiền khác được xoá bỏ. Các chi phí dự phòng cho rủi ro tỷ giá cũng không cần thiết, các ngân hàng có thể hạ thấp lượng dự trữ, vì thế giảm được chi phí kinh doanh. - Thúc đẩy thương mại và đầu tư. Các nước thực hiện đô la hoá chính thức có thể loại bỏ rủi ro cán cân thanh toán và những kiểm soát mua ngoại tệ, khuyến khích tự do thương mại và đầu tư quốc tế. Các nền kinh tế đô la hoá có thể được, chênh lệch lãi suất đối với vay nợ nước ngoài thấp hơn, chi ngân sách tiảm xuống và thúc đẩy tăng trưởng và đầu tư. - Thu hẹp chênh lệch tỷ giá trên hai thị trường chính thức và phí chính thức. Tỷ giá chính thức càng sát với thị trường phi chính thức, tạo ra động cơ để chuyển các hoạt động từ thị trường phi chính thức (bất hợp pháp) sang thị trường chính thức (thị trường hợp pháp). b. Những tác động tiêu cực: - Ảnh hưởng đến việc hoạch định các chính sách kinh tế vĩ mô. Trong một nền kinh tế có tỷ trọng ngoại tệ lớn, việc hoạch định các chính sách kinh tế vĩ mô, đặc biệt là chính sách tiền tệ sẽ bị mất tính độc lập mà chịu nhiều ảnh hưởng bởi diễn biến kinh tế quốc tế, nhất là khi xẩy ra các cuộc khủng hoảng kinh tế. - Làm giảm hiệu quả điều hành của chính sách tiền tệ : • Gây khó khăn trong việc dự đoán diễn biến tổng phương tiện thanh toán, do đó dẫn đến việc đưa ra các quyết định về việc tăng hoặc giảm lượng tiền trong lưu thông kém chính xác và kịp thời. • Làm cho đồng nội tệ nhậy cảm hơn đối với các thay đổi từ bên ngoài, do đó những cố gắng của chính sách tiền tệ nhằm tác động đến tổng cầu nền kinh tế thông qua việc điều chỉnh lãi suất cho vay trở nên kém hiệu quả. • Tác động đến việc hoạch định và thực thi chính sách tỷ giá. Đô la hoá có thể thực thi chính sách tỷ giá. Đô la hoá có thể làm cho cầu tiền trong nước không ổn định, do người dân có xu hướng chuyển từ đồng nội tệ sang đô la Mỹ, làm cho cầu của đồng đô la Mỹ tăng mạnh gây sức ép đến tỷ giá. Khi các đối thủ cạnh tranh trên thị trường thế giới thực hiện phá giá đồng tiền, thì quốc gia bị đô la hoá sẽ không còn khả năng để bảo vệ sức cạnh tranh của khu vực xuất khẩu thông qua việc điều chỉnh lại tỷ giá hối đoái. • Ở trong các nước đô la hoá không chính thức, nhu cầu về nội tệ không ổn định. Trong trường hợp có biến động, mọi người bất ngờ chuyển sang ngoại tệ có thể làm cho đồng nội tệ mất giá và bắt đầu một chu kỳ lạm phát. Khi người dân giữ một khối lượng lớn tiền gửi bằng ngoại tệ, những thay đổi về lãi suất trong nước hay nước ngoài có thể gây ra sự chuyển dịch lớn từ đồng tiền này sang đồng tiền khác (hoạt động đầu cơ tỷ giá). Những thay đổi này sẽ gây khó khăn cho ngân hàng trung ương trong việc đặt mục tiêu cung tiền trong nước và có thể gây ra những bất ổn định trong hệ thống ngân hàng. Trường hợp tiền gửi của dân cư bằng ngoại tệ cao, nếu khi có biến động làm cho người dân đổ xô đi rút ngoại tệ, trong khi số ngoại tệ này đã được ngân hàng cho vay, đặc biệt là cho vay dài hạn, khi đó ngân hàng nhà nước của nước bị đô la hoá cũng không thể hỗ trợ được vì không có chức năng phát hành đô la Mỹ. - Chính sách tiền tệ bị phụ thuộc nặng nề vào nước Mỹ. Trong trường hợp đô la hoá chính thức, chính sách tiền tệ và chính sách lãi suất của đồng tiền khi đó sẽ do nước Mỹ quyết định. Trong khi các nước đang phát triển và một nước phát triển như Mỹ không có chu kỳ tăng trưởng kinh tế giống nhau, sự khác biệt về chu kỳ tăng trưởng kinh tế tại hai khu vực kinh tế khác nhau đòi hỏi phải có những chính sách tiền tệ khác nhau. - Đô la hoá chính thức sẽ làm mất đi chức năng của ngân hàng trung ương là người cho vay cuối cùng của các ngân hàng. Trong các nước đang phát triển chưa bị đô la hoá hoàn toàn, mặc dù các ngân hàng có vốn tự có thấp, song công chúng vẫn tin tưởng vào sự an toàn đối với các khoản tiền gửi của họ tại các ngân hàng. Nguyên nhân là do có sự bảo lãnh ngầm của Nhà nước đối với các khoản tiền này. Điều này chỉ có thể làm được đối với đồng tiền nội tệ, chứ không thể áp dụng được đối với đô la Mỹ. Đối với vác nước đô la hoá hoàn toàn, khu vực ngân hàng sẽ trở nên bất ổn hơn trong trường hợp ngân hàng thương mại bị phá sản và sẽ phải đóng cửa khi chức năng người cho vay cuối cùng của ngân hàng trung ương đã bị mất. 4. Nguyên nhân dẫn tới đô la hoá nền kinh tế: Có nhiều nguyên nhân dẫn đến đô la hoá nền kinh tế song có 3 nguyên nhân chính sau: Thứ nhất, do nền kinh tế có tỷ lệ lạm phát cao, sức mua của đồng bản tệ giảm sút người dân phải tìm các công cụ dự trữ giá trị khác, trong đó có các đồng ngoại tệ có uy tín. Song song với chức năng làm phương tiện cất giữ giá trị, dần dần đồng ngoại tệ sẽ cạnh tranh với đồng nội tệ trong chức năng làm phương tiện thanh toán hay làm thước đo giá trị. Tình trạng đô la hoá bao gồm cả ba chức năng thuộc tính của tiền tệ, đó là: • Chức năng làm phương tiện thước đo giá trị. • Chức năng làm phương tiện cất giữ. • Chức năng làm phương tiện thanh toán. Thứ hai, trong điều kiện của thế giới ngày nay, hầu hết các nước đều thực thi cơ chế kinh tế thị trường mở cửa; quá trình quốc tế hoá giao lưu thương mại, đầu tư và hợp tác kinh tế ngày càng tác động trực tiếp vào nền kinh tế và tiền tệ của mỗi nước, nên trong từng nước xuất hiện nhu cầu khách quan sử dụng đơn vị tiền tệ thế giới để thực hiện một số chức năng của tiền tệ. Đô la hoá ở đây có khi là nhu cầu, trở thành thói quen thông lệ ở các nước. Thứ ba, Mức tiết kiệm thấp và thời hạn tương đối ngắn của tiền gửi, trái phiếu, v.v... (kỳ hạn trung bình chưa tới một năm) đã buộc các nước đi vay bên ngoài bằng đồng ngoại tệ, gây đô-la hoá các khoản nợ. Các chuyên gia kinh tế đã mô tả hiện tượng này là ''sai lầm đầu tiên'', khiến quốc gia vay tiền phơi nhiễm với các cuộc khủng hoảng tài chính quốc tế. 5. Những nước đã tiến hành Đô La hoá: 5.1. Panama Nước đầu tiên tiến hành đô la hoá toàn phần là Panama. Từ năm 1904, sau khi tách ra khỏi Colombia, Panama đã dùng đồng xanh. Việc này đã có ảnh hưởng rất tốt đến nền kinh tế của Panama. Ví dụ trong suốt những năm 1990 lạm phát hầu như không vượt quá 1% một năm. Nhưng đồng thời đô la hoá vẫn không giúp Panama được hoàn toàn độc lập với trợ giúp của các tổ chức bên ngoài. Từ năm 1973 Panama tiếp nhận hơn 15 chương trình của Quỹ Tiền tệ quốc tế, và đô la hoá cũng không ngăn được việc Panama mất khả năng trả nợ nước ngoài vào giữa những năm 1980. 5.2. Ecuador Ecuador bắt đầu thực hiện chuyển đổi vào đầu năm 2000. Đô la hoá là phương cách cuối cùng của Ecuador khi nước này cố vượt qua một cuộc khủng hoảng kinh tế trầm trọng, với một hệ thống ngân hàng suy sụp, đồng nội tệ (đồng sucre) mất giá, và sự chống đối của người dân bản xứ. Khi Tổng thống Jamil Mahuad thông cáo ý định đô la hoá vào tháng 1 năm 2000, quá trình này đã bắt đầu được tiến hành, đất nước đã đang trong quá trình đô la hoá một cách mạnh mẽ. Tuy nhiên thông cáo của tổng thống đã dẫn đến một cuộc đảo chính, và tổng thống đã phải từ chức. Chính quyền dân sự được tái lập vào tháng 2, nghị viện Ecuador thông qua luật cho phép được đô la hoá toàn phần. Trước khi đổi hệ thống tiền sang đô la, Ecuador đã thử tiến hành nhiều biện pháp hối đoái khác nhau như tỉ giá cố định, chính sách ghìm tỉ giá. Tất cả các biện pháp này đều không có hiệu quả và đến nay quyết định đô la hoá vẫn được coi là hợp lý đối với Ecuador. 5.3. El Salvador Cuối tháng 11 năm 2000 nghị viện El Salvador thông qua luật thực hiện đô la hoá toàn phần trong cả nước. Bắt đầu từ ngày mùng 1 tháng 1 năm 2001 các máy đếm tiền tự động đều được nạp chương trình để phát ra đồng đô la và tất cả các tài khoản ngân hàng đều chuyển sang đô la. Sự thay đổi này không hẳn do nguyên nhân khủng hoảng kinh tế trầm trọng như trường hợp của Ecuador. Trên thực tế, lạm phát ở Salvador thấp, chỉ khoảng 1.3% trong vòng 1 thập kỷ trước. Đô la hoá thật ra la để thu hút đầu tư nước ngoài vào El Salvador. Cũng như người dân Ecuador, người Salvador không ngạc nhiên mấy khi nghe quyết định đô la hoá vì tỉ giá giữa đồng nội tệ colon và đô la đã được cố định trong suốt 8 năm. Ngân hàng trung ương Salvador ước tính gần 70% số tiền đang được sử dụng tại thời điểm đó là đô la. Cũng như trường hợp trên, lợi ích của đô la hoá còn cần được xem xét thêm. Tuy nhiên cũng đã có những dấu hiệu tốt: ngày El Salvador tiến hành chuyển đổi sang đồng tiền mới lãi suất tiêu dùng và vay mua nhà giảm từ 17% xuống 11%. 5.4. Các trường hợp khác Vài năm trước đây, Mỹ thông báo là đô la sẽ được coi là đồng tiền chính thức của Đông Timor, nước vừa tuyên bố độc lập khỏi Indonesia. Tháng 12 năm 2000, Guatemala thông qua luật cho phép được sử dụng đô la rộng rãi, tuy không tuyên bố hẳn là sẽ dô la hoá toàn phần. Một loạt các nước khác cũng đã cân nhắc về quyết định đô la hoá ví dụ như Costa Rica, Honduras, Nicaragua. Vài người đã đề nghị đô la hoá Afganistan, như một biện pháp tạm thời cho đến khi chính phủ được đặt trong một chế độ chính trị ổn định. Trong khi nhiều nước vẫn sử dụng đồng đô la là chính, không có nước nào thay đổi chính sách đô la hoá toàn phần, và đây thường được coi là một chính sách cố định. CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG ĐÔ LA HOÁ Ở VIỆT NAM 1. Thực trạng đôla hoá ở Việt Nam: Như đã đề cập ở chương I, ở nước ta, "đô la hóa" được nhận thức là việc sử dụng USD trong giao dịch thương mại và dịch vụ song song với VND do ở Việt Nam USD là loại ngoại tệ được sử dụng phổ thông và nhiều nhất so với các ngoại tệ khác, trong khi trên thế giới, "đô la hóa" có khái niệm rộng hơn: khi dân cư một nước sử dụng rộng rãi ngoại tệ song song với đồng nội tệ hoặc thay thế đồng nội tệ. Do vậy, trong phạm vi bài nghiên cứu này, chúng ta sẽ đi sâu hơn về các số liệu liên qua tới đồng USD. Ở Việt Nam, theo thống kê, tỷ lệ đô la hóa luôn ở mức trên 20% trong khi tỷ lệ này ở các nước trong khu vực thấp hơn rất nhiều, như: Indonesia, Thái Lan, Malaysia...chỉ khoảng 7-10%. Mục tiêu của Ngân hàng nhà nước Việt Nam tới năm 2010 sẽ giảm tỷ lệ này xuống còn 15%. Những năm qua, lượng tiền gửi tuyệt đối bằng USD tại các ngân hàng đã không ngừng tăng lên, đặc biệt là ở hệ thống ngân hàng tại 2 thành phố lớn là Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Với nguồn vốn ngoại tệ đồ sộ đó, các ngân hàng thường có 2 cách lựa chọn: một là đem gửi ở ngân hàng nước ngoài_những nước có lãi suất tiết kiệm bằng đồng USD cao hơn trong nước để kiếm lời bằng chênh lệch lãi suất hoặc thực hiện nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ trên thị trường ngoại tệ quốc tế; hai là đầu tư và cho các doanh nghiệp trong nước vay. Cách thứ nhất buộc các ngân hàng phải có một lượng USD tương đối lớn, song, hiệu quả kinh tế không cao, lại luôn tiềm tàng nhiều rủi ro do giá USD trên thị trường thế giới luôn biến đổi thất thường. Điển hình là việc Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã từng có giai đoạn bị thua lỗ hàng chục triệu USD do kinh doanh ngoại tệ. Chính vì vậy mà các ngân hàng thường thực hiện theo cách thứ 2: đầu tư cho vay trong nước, và chính điều này đã làm gia tăng các giao dịch, thanh toán bằng USD trên nhiều loại thị trường. Điều này không những đẩy nhanh quá trình đô la hóa mà còn mang lại nhiều rủi ro cho doanh nghiệp vay vốn bằng USD: họ kinh doanh bằng VNĐ nhưng phải trả nợ ngân hàng bằng USD và nghiễm nhiên sẽ phải gánh chịu rủi ro về tỷ giá. Một lĩnh vực đô la hóa tương đối mạnh đó là bán hàng qua mạng, kinh doanh các sản phẩm nhập khẩu, nhất là đồ điện tử. Ta có thể thấy bằng trực giác việc niêm yết giá bằng cả VNĐ lẫn USD ở hầu như 100% các trang web bán đồ điện tử như: máy vi tính, các thiết bị gia dụng nhập ngoại v.v... Mặc dù hai loại giá được đặt song song nhưng việc thanh toán thực tế thì luôn được thực hiện bằng USD, nếu khách hàng thanh toán bằng VNĐ thì giá của hàng hóa sẽ dựa trên tỷ giá hối đoái giữa VN và USD ngày hôm thực hiện giao dịch. Những hàng hóa này thường là những hàng hóa mà doanh nghiệp Việt Nam phải nhập khẩu toàn bộ hoặc nhập khẩu từng liên kiện, nên giá của chúng phụ thuộc hoàn toàn vào USD, do vậy, các doanh nghiệp, để tránh rủi ro tỷ giá cho mình, buộc phải niêm yết giá bằng USD. Ngoài ra, doanh nghiệp niêm yết giá bằng USD còn để tăng tính "hiện đại", "thương mại điện tử". Điều này rất đáng lo ngại vì kinh doanh qua mạng sẽ trở thành loại hình kinh doanh chủ yếu trong tương lai. Từ khi nước ta chuyển sang kinh tế thị trường và hội nhập với thế giới, chính sách tiền tệ trở nên rất quan trọng. Tín dụng, lãi suất và tỷ giá là các công cụ chủ yếu điều tiết hoạt động kinh tế của đất nước. Ngân hàng Nhà nước trở thành cơ quan có chức năng và quyền lực chi phối hoạt động kinh tế cả ở tầm vi mô và vĩ mô. Ở Mỹ, Cục dự trữ liên bang (FED) đóng vai trò ngân hàng trung ương, là cơ quan độc lập với Tổng thống và Quốc hội, quyết định lãi suất và tỷ giá để kích thích hoặc kìm hãm tín dụng đầu tư, kinh doanh, xử lý các tình huống kinh tế bằng tăng hoặc giảm lãi suất. Chủ tịch FED, ông Ben Bernanke được tạp chí Time bình chọn là Nhân vật của năm 2009 do đã "bình tĩnh và khôn ngoan… đặt các phanh hãm sự tuột dốc của nền kinh tế Mỹ" như đánh giá của Tổng thống Barak Obama. Việc biến động tỷ giá hối đoái trong những tháng gần đây có nhiều nguyên nhân gắn với tình trạng "đô la hóa" không chính thức ở nước ta. Mặc dù Chính phủ theo đuổi chính sách quản lý ngoại hối theo định hướng nhất quán "trên thị trường Việt Nam chỉ giao dịch bằng đồng Việt Nam", nhưng thực tế, ngoại tệ và vàng được sử dụng khá phổ biến như các phương tiện thanh toán trong giao dịch mua bán bất động sản, hàng hóa đắt tiền, vay, trả nợ, cất trữ. Mỗi khi có biến động về tỷ giá thì các ngoại tệ, nhất là USD gia tăng vai trò trên thị trường. Tuy vậy, nguyên nhân chính của thực trạng đó là tình trạng lạm phát cao trong mấy năm liền đã làm cho giá trị thực của VND giảm sút, kéo theo độ tín nhiệm của người dân với VND giảm. Giá cả trên thị trường thế giới biến động, một số hàng hóa như xăng dầu, sắt thép… tăng cao đã tác động đến giá cả trong nước, làm cho chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tăng. Đó là nhân tố khách quan từ bên ngoài. Nhân tố chủ yếu là quan hệ giữa tốc độ tăng trưởng kinh tế và lưu thông tiền tệ. Trong 2 năm 2005 và 2006, GDP của Việt Nam tăng 17%, tiền lưu thông trên thị trường và tiền gửi ngân hàng - M2 tăng 73%. Cũng trong hai năm đó, GDP của Trung Quốc tăng 22%, thì M2 chỉ tăng 36%. Quan hệ giữa tăng M2 và tăng GDP của nước ta là 4,3 lần, thì của Trung Quốc chỉ là 1,6 lần, điều đó giải thích vì sao CPI của Việt Nam cao gấp đôi Trung Quốc. Do vậy, mặc dù kinh tế nước ta đạt được tốc độ tăng trưởng cao, nhưng cũng xuất hiện mối lo ngại của các doanh nghiệp và người dân về tình trạng lạm phát cao, VND sụt giá và không ổn định. CPI liên tục tăng, năm 2004 là 7,71%, năm 2005 là 8,29%, năm 2006 là 7,48%, năm 2007 là 8,30%, năm 2008 là 22,97% và năm 2009 là 6,88%. Thực trạng đó có liên quan đến mức chi tiêu danh nghĩa trong nước đã tăng nhanh khi các khoản viện trợ chính thức (ODA), đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và đầu tư gián tiếp (FPI), kiều hối đổ vào nước ta ngày càng nhiều. Nếu như năm 2003, tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ là 333.809 tỷ đồng, thì năm 2008 là 983.803 tỷ đồng, bằng 2,94 lần. Trong thời gian đó, vốn đầu tư xã hội cũng gia tăng, năm 2003, vốn đầu tư xã hội theo giá thực tế là 239.246 tỷ đồng, thì năm 2008 là 610.876 tỷ đồng, bằng 2,55 lần. Cả hai chỉ tiêu này đã tăng bình quân trên 20%/năm, trong khi lượng cung ứng thực (được đo bằng sản lượng thực+thâm hụt thương mại thực) chỉ tăng bình quân dưới 10%/năm. Tốc độ tăng cung ứng tiền khá cao, liên tục từ năm 2003 đến nay trên 25%/năm, tín dụng tăng trên 35%/năm. Tình trạng đó cũng phản ảnh trong quan hệ giữa mức huy động vốn và mức dư nợ tín dụng của các ngân hàng thương mại. Báo cáo gần đây của Ngân hàng Nhà nước cho biết, mức dư nợ tín dụng năm 2009 tăng 37,73%, trong khi mức huy động vốn chỉ tăng 28,7%. Vietinbank thông báo, năm 2009, mức dư nợ tín dụng tăng 35%, mức huy động vốn chỉ tăng 25%. Các ngân hàng thương mại đua nhau tăng lãi suất để hấp dẫn người gửi tiền; khi lãi suất tăng cũng có nghĩa là giá trị VND giảm. Mặc dù Chính phủ quyết tâm theo đuổi chủ trương niêm yết giá hàng hóa và dịch vụ là VND, nhiều cuộc thanh tra đã được tiến hành và cũng đã xử lý một số vụ việc vi phạm pháp luật, nhưng trên thực tế, do lòng tin đối với VND giảm sút, nên người mua và người bán những hàng hóa có giá trị cao như ô tô, xe máy vẫn giao dịch bằng ngoại tệ, chủ yếu là USD, trong khi bất động sản lấy vàng làm phương tiện tính toán trong giao dịch. Xét trên cả ba góc độ: việc sử dụng đô-la Mỹ và một số ngoại tệ mạnh khác trong xã hội, tỷ trọng tiền gửi và tỷ trọng dư nợ cho vay bằng đô-la Mỹ trong cơ cấu nguồn vốn huy động và dư nợ của hệ thống ngân hàng thương mại, phải thực sự và thẳng thắn thừa nhận rằng nền kinh tế nước ta đang trong tình trạng đô-la hóa. Tuy nhiên, do các giao dịch thanh toán ngoại tệ diễn ra nhiều ở “chợ đen” nên là đôla hoá không chính thức. Việc sử dụng đô-la Mỹ trong xã hội: Thời gian gần đây, khi đi mua ô tô, mua các dòng xe nhập khẩu, thậm chí mua máy in ở siêu thị, mua hàng điện tử, điện lạnh (Hà Nội)… người bán hàng đã yêu cầu khách hàng thanh toán bằng đô la Mỹ (USD). Thực tế này được các chuyên gia tài chính gọi là nền kinh tế đô la hóa ở mức cao. Trên thực tế, riêng việc niêm yết giá bằng ngoại tệ trong mấy năm qua vẫn khá phổ biến, mặc dù Ngân hàng Nhà nước đã có lệnh cấm. Việc niêm yết giá bằng đô la cho các mặt hàng chỉ giảm đi khi công tác thanh tra được thực hiện mạnh, quyết liệt, tuy nhiên sau đó thì lại đâu và đấy! Trước thực trạng này pháp lệnh ngoại hối đã ra đời và có hiệu lực từ ngày 1.6.2006, song cho đến nay xem ra việc tuân thủ thực hiện trên thị trường chả thấm vào đâu. Đi đâu cũng thấy người ta quy ra đô cho các mặt hàng bày bán công khai, kể cả trong các siêu thị, lẫn trong các cửa hàng kinh doanh nhỏ lẻ. Không phải mặt hàng nào cũng bị "hàm oan" là quy ra đô, nhưng cứ có thể quy ra đô mặc dù là ...1 đô, thì người ta cũng quy nó thành ngoại tệ (USD). Có một chuyện nực cười, trong các giao dịch của các cửa hàng nhất là hàng lưu niệm trên các phố cổ cái gì bán cho khách nội giá dưới 20 ngàn, thì có thể quy ra 1 đô cho khách ngoại! Còn với các loại hàng "hiệu" của dân sành điệu được dùng cho các sinh hoạt hàng ngày như quần áo, giầy dép, mũ kính ...thì việc quy ra đô để "xướng" lên cho kêu là điều dễ hiểu. Chẳng mấy khách hàng người Việt tới những nơi niêm yết giá cả bằng tiền đô có thói quen đem tiền đô ra trả, nhưng tiếc thay họ không biết mình sẽ là người bị hại nếu tỷ giá cứ thất thường. Nếu làm một phép tính đơn giản theo sự nhảy múa của tỉ giá ngoại hối thì vô hình chung người tiêu dùng sẽ bị thiệt thòi, con số này sẽ càng lớn hơn nếu trị giá của sản phẩm càng lớn. Hiển nhiên, dễ thấy nhất là việc quảng cáo, niêm yết giá bằng ngoại tệ chính là bề nổi của việc đô la hóa trên thị trường. Sự ra đời của Pháp lệnh ngoại hối được kỳ vọng là sẽ hạn chế, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng đô la hoá trong nền kinh tế, nhưng xem ra tình hình vẫn chưa mấy triển vọng hơn. Tỷ lệ tiền gửi bằng ngoại tệ , đặc biệt là đồng USD trên tổng lượng tiền gửi vào các ngân hàng: Hiện tượng nền kinh tế Việt Nam sử dụng rộng rãi đồng đô la Mỹ trong giao dịch buôn bán... bắt đầu được chú ý đến từ năm 1988 khi các ngân hàng được phép nhận tiền gửi bằng đồng đô la. Đến năm 1992, tình trạng đô la hoá đã tăng lên mạnh với hơn 41% lượng tiền gửi vào các ngân hàng là bằng đô la USD. Trước tình trạng này, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã cố gắng đảo ngược quá trình đô la hoá nền kinh tế và đã khá thành công khi giảm mạnh mức tiền gửi bằng ngoại tệ , đặc biệt là USD vào các ngân hàng xuống còn 20% vào năm 1996. Nhưng tiếp theo đó cuộc khủng hoảng tài chính châu Á đã khiến cho đồng tiền Việt Nam giảm giá trị, và Việt Nam lại tiếp tục chịu sức ép của tình trạng đô la hoá. Đến cuối năm 2001, tỷ lệ đồng ngoại tệ , đặc biệt là USD được gửi vào các ngân hàng tăng lên đến 31,7%. Tỷ lệ này có xu hướng giảm đáng kể trong những năm tiếp theo, đến năm 2003 còn 23,6%. Và đến nay, tỷ lệ này giao động trong khoảng từ 20% đến 25%. Đây là xu hướng tích cực, cho thấy tình trạng đô la hoá tài sản nợ trong hệ thống ngân hàng thương mại đang được kiềm chế một cách có hiệu quả. Người dân đã có niềm tin vào đồng tiền nội địa nhiều hơn. Năm FCD/M2 (%) Năm FCD/M2 (%) 1998 21.9 2004 23.1 1999 29.4 2005 22.3 2000 29.6 2006 23.5 2001 30.0 2007 23.7 2002 26.1 2008 30.0 2003 21.3 Bảng thống kê tỷ lệ tiền gửi bằng ngoại tệ trên tổng lượng tiền gửi vào các ngân hàng Việt Nam (tính bằng %) Có thế thấy từ sau khủng hoảng tài chính kinh tế Châu Á từ 1997 đến nay, tình trạng Đôla hóa ở nước ta có giảm. Theo quan điểm của IMF thì với tỷ lệ tiền gửi ngoại tệ trên tổng phương tiện thanh toán từ 22% đến 24% như thời gian qua thì hiện tượng Đô la hoá ở Việt Nam là chấp nhận được. Vấn đề mà IMF quan tâm là Việt Nam cần có một khuôn khổ pháp lý về ngoại hối mới phù hợp với quá trình hội nhập và có một hệ thống chế tài nghiêm khắc đối với các vi phạm ngoại hối để nâng cao vị thế của đồng Việt Nam. Trái với xu hướng biến đổi của cơ cấu tiền gửi, tỷ trọng dư nợ cho vay bằng đô la Mỹ so với tổng dư nợ và đầu tư của hệ thống ngân hàng thương mại lại có xu hướng tăng lên, cao hơn cả tiền gửi đô la. Thông qua việc quan sát niêm yết giá và bán hàng hoá, dịch vụ thu ngoại tệ hiện nay, quan sát giao dịch mua bán ngoại tệ của dân cư tại nhiều cửa hàng vàng bạc quy mô lớn ở Hà Nội, thông tin ghi nhận được từ các giao dịch kinh tế ngầm... có thể thấy mức độ sử dụng đô la Mỹ trong xã hội nước ta rất đáng quan tâm. Có thể nói Việt Nam là một nền kinh tế bị đô la hoá một phần. Tuy vậy, mức độ chính xác của đô la hoá là số liệu rất khó xác định.Trong một số năm khi lãi suất tiền gửi đồng đô la ở các ngân hàng nước ngoài ở mức cao, để sử dụng những đồng tiền đô la mà người dân đã gửi vào ngân hàng, các ngân hàng trong nước đã đem phần lớn nguồn đô la gửi ra các ngân hàng nước ngoài, chủ yếu là ở Singapore và Hồng Kông, để kiếm lãi suất cao. Điều này có tác động xấu bởi vì những đồng đô la đó đã không được sử dụng để đầu tư trong nước. Đến năm 1992, lãi suất đồng đô la giảm mạnh, các ngân hàng Việt Nam không còn thu lời được từ các tài khoản ở nước ngoài nên đành rút một lượng lớn tiền về, con số đó khoảng từ 3 đến 4 tỷ USD. Lượng tiền gửi ở nước ngoài giảm đi chỉ còn một nửa tính đến thời điểm cuối năm 2003. Sau khi rút tiền đô la từ ngân hàng nước ngoài về, các ngân hàng Việt Nam bắt đầu cho các doanh nghiệp trong nước vay bằng đồng đô la để sinh lợi. Tính đến cuối năm 2003, khoản tiền được các ngân hàng cho vay bằng đô la đã chiếm quá nhiều 28%. Nếu nhìn về hình thức bên ngoài thì điều này có vè yên ổn đối với các ngân hàng, bởi vì họ nhận tiền gửi và cho vay đều bằng ngoại tệ nên có ít rủi ro. Nhưng nếu xem xét kỹ, chúng ta nhận thấy các doanh nghiệp đi vay sẽ gặp khó khăn khi đồng tiền Việt Nam bị giảm giá. Các doanh nghiệp này chủ yếu có doanh thu bằng đồng Việt Nam, nhưng họ phải trả nợ bằng đồng USD. Họ phải đứng trước các rủi ro về thay đổi tỷ giá giữa đồng USD và đồng tiền Việt Nam. Nếu đồng đô la tăng giá, nhiều doanh nghiệp Việt Nam sợ mất khả năng thanh toán nợ. Khi đó các ngân hàng chắc chắn sẽ bị ảnh hưởng và từ đó dẫn đến khủng hoảng kinh tế. Như vậy, việc sử dụng đồng đô la như thế nào cho có hiệu quả là một vấn đề vô cùng phức tạp. Mặc dù những cách ngân hàng đã sử dụng đồng đô la cũng có một mặt tích cực nào đấy, nhưng cần phải có cách lựa chọn đúng đắn hơn là thực hiện những giải pháp kiềm chế và đẩy lùi tình trạng đô la hoá, tiến tới thực hiện trong nước chỉ có một đồng tiền duy nhất được lưu hành là đồng tiền Việt Nam. Trong thực tế, chúng ta thấy rõ một số nền kinh tế thành công không bị đô la hoá, như tại Trung Quốc, các ngân hàng không được phép quyết định lãi suất tiền gửi bằng đô la. Tuy nhiên, cũng có những nước bị đôla hoá hoàn toàn hay từ bỏ đồng nội tệ thay thế bằng ngoại tệ như Panama, Ecuador, En xanvado. Nguồn USD tiền mặt đưa vào nước ta cũng ngày càng tăng nhanh bởi nguồn kiều hối, thu nhập của người đi xuất khẩu lao động và làm ăn ở nước ngoài gửi về hay mang về, khách quốc tế đến và chi tiêu USD tiền mặt ở Việt Nam, người nước ngoài sinh sống và làm việc ở Việt Nam tiêu dùng, tiền lương trả cho người Việt Nam làm việc trong các dự án bằng USD,... Số liệu thống kê của Ngân hàng Nhà nước cho hay, lượng kiều hối chuyển về nước ta các năm gần đây như sau: Đơn vị: triệu USD Năm Số tiền Năm Số tiền 2000 1,757 2005 6,981 2001 1,820 2006 9,075 2002 2,150 2007 11,897 2003 3,580 2008 13,197 2004 5,370 Đó là con số thống kê được, chưa kể kiều hối chuyển lậu, ngoại tệ tiền mặt người Việt Nam và Việt kiều,... mang trực tiếp theo người khi nhập cảnh. Lượng khách quốc tế đến Việt Nam cũng tăng nhanh: Số lượng khách đó mang một số lượng ngoại tệ không nhỏ và chi tiêu bằng ngoại tệ tiền mặt tại các cơ sở tư nhân. Thông thường đô la hoá diễn ra khi đồng tiền của một nước bị đánh giá là yếu kém, và đồng đô la được coi là phương tiện dự trữ có giá trị. Tuy nhiên, không phải bất cứ quốc gia nào có đồng tiền yếu đều bị đô la hoá trực tiếp. Nhiều nước trên thế giới có nền kinh tế tương tự Việt Nam như ở Trung Quốc, Thái Lan, Braxin... không cho phép thanh toán các loại hàng hoá dễ dàng bằng đồng đô la. Chính việc cho phép sử dụng gần như hợp pháp hoá đồng USD tại Việt Nam để mua các loại hàng hoá như bất động sản, mặt hàng điện tử, xe cộ, phí khách sạn... đã làm tăng quá trình đô la hoá. Như trên đã phân tích, nếu tình hình không sớm được kiềm chế và đẩy lùi, có khả năng sẽ dẫn đến tình trạng khủng hoảng tài chính vào một thời điểm nào đấy, thật là vô cùng nguy hiểm. 2. Nguyên nhân dẫn đến đôla hoá ở Việt Nam: Ngoài ba nguyên nhân nói trên, chúng ta cần nhấn mạnh thêm một số nguyên nhân sau đây của hiện tượng đôla hoá ở Việt Nam: Thứ nhất, thu nhập của các tầng lớp dân cư còn thấp, đa số dân cư có tâm lý tiết kiệm để dành, lo xa cho cuộc sống, tâm lý lo sợ sự mất giá của VND nên lựa chọn USD để gửi ngân hàng. Mối quan hệ lãi suất giữa nội tệ và ngoại tệ, xu hướng biến đổi của tỷ giá VND/USD là nguyên nhân quan trọng của xu hướng nói trên. Trong các năm đầu thời kỳ đổi mới: 1989 - 1992, đặc biệt trong thời gian vừa qua, lạm phát ở nước ta rất cao, Đồng Việt Nam mất giá mạnh so với USD, vàng tăng giá rất lớn. Do đó nhiều người lựa chọn USD để cất trữ và gửi ngân hàng. Riêng năm 2007 do có làn sóng ngoại tệ tràn vào tăng đột biến nên cho dù đã được Ngân hàng Nhà nước can thiệp rất mạnh song tỷ giá vẫn giảm trong suốt cả năm 2007 (tỷ giá chỉ tăng dưới 1% so với lạm phát 2007 là 12,63%), sau đó gần 3 tháng đầu năm 2008 tiếp tục giảm, giá trị đồng USD đã có lúc chạm tới con số 15.300đ/USD trên thị trường tự do. Nhưng từ tuần cuối tháng 3 đến hết tháng 4/2008, đồng USD đã lại tăng giá đột ngột trở lại, sau đó ổn định tạm thời xung quanh 16.200 đồng/USD rồi từ cuối tháng 5 đến đầu tháng 7/2008 lại tăng mạnh, đặc biệt trong tuần giữa tháng 6/2008 có ngày tăng rất mạnh lên trên 19.500 đồng/USD, nhưng 10 ngày tháng 7/2008 trở lại đây, tỷ giá lại dần trở về trạng thái bình thường xung quanh 16.800 đồng/USD. Đây là những dấu hiệu bất ổn. Nền kinh tế Việt Nam trong 10 năm qua phát triển khá ổn định, nên cơ bản tỷ giá VND/USD "được neo" tự nhiên và ổn định vào đồng USD là đồng tiền chiếm 90% doanh số thanh toán xuất - nhập khẩu. Nên mặc dù nằm trong bối cảnh lạm phát gia tăng và sự mất giá của VND, nhưng USD vẫn là một trong những sự lựa chọn chính trong tích trữ của đa số người dân. Thực trạng còn do nguyên nhân, mệnh giá VND còn nhỏ, cao nhất là tờ 500.000 đồng mới được đưa ra lưu thông cuối năm 2003, song tờ 100 USD lại tương ứng với hơn 1,6 triệu VND. Bởi vậy việc sử dụng USD tiện lợi trong giao dịch lớn như đất đai, nhà ở, ôtô,... Các hoạt động kinh tế ngầm vẫn diễn biến phức tạp, việc sử dụng USD tiện lợi hơn nhiều đối với họ, nhất là tình trạng buôn lậu, một số tiêu cực khác. Thứ hai, do chỉ số giá tiêu dùng ngày càng tăng khiến người dân ngần ngại hơn trong việc chuyển từ ngoại tệ sang VND. Thứ ba, tình trạng buôn lậu, nhất là buôn bán qua biên giới và trên biển khá phát triển và sự quản lý lỏng lẻo của chính quyền các cấp. Tình trạng các doanh nghiệp, các cửa hàng kinh doanh... bán hàng thu bằng ngoại tệ còn tuỳ tiện và diễn ra phổ biến. Thứ tư, thu nhập bằng đô la Mỹ trong các tầng lớp dân cư ngày càng được mở rộng và tăng lên. Đó là thu nhập của những người Việt Nam làm việc cho các công ty nước ngoài và các tổ chức quốc tế ở Việt Nam; tiền cho người nước ngoài thuê nhà và kinh doanh du lịch; khách quốc tế đến và chi tiêu đô la bằng tiền mặt ở Việt Nam; người nước ngoài sinh sống và làm việc ở Việt Nam tiêu dùng; tiền của người Việt Nam định cư ở nước ngoài gửi về; tiền của những người đi xuất khẩu lao động, đi học tập, hội thảo, làm việc ngắn ngày mang về. Ngoài ra, hiện nay ở nhiều ngân hàng thương mại nước ta lại có dấu hiệu nghịch lý về đồng USD, biểu hiện qua hiện tượng: "thiếu tiền, thừa vốn". Do lãi suất huy động ngoại tệ tăng, cùng với tỷ giá có xu hướng tăng và đứng ở mức cao nên lượng "tiền gửi ngoại tệ" tăng, trong lúc tiền mặt ngoại tệ để "mua đứt bán đoạn" lại hiếm càng khiến cho nguy cơ "đô la hóa" tăng cao. CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP HẠN CHẾ ĐÔLA HÓA TẠI VIỆT NAM Đô la hoá là tình trạng khó tránh khỏi đối với các nước có xuất phát điểm thấp, đang trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế và đẩy mạnh hội nhập quốc tế như Việt Nam. Tâm lý lo ngại về lạm phát, về sự mất giá của đồng nội tệ, thói quen sử dụng tiền mặt trong giao dịch... không thể một sớm, một chiều xoá bỏ hay giảm triệt để được. Quan điểm, chủ trương của Đảng, Chính phủ và ngân hàng Trung ương trong vấn đề đô la hoá là rất rõ ràng: xoá bỏ đô la hoá trong nền kinh tế - xã hội nước ta phải được thực hiện từng bước, từng khâu thích ứng với từng giai đoạn đổi mới, phát triển của đất nước; phải bằng nhiều giải pháp vừa kinh tế, vừa hành chính kết hợp với giáo dục pháp luật, điều chỉnh tâm lý xã hội trong lộ trình thực thi nhiều cơ chế kinh tế nghiệp vụ ngân hàng cụ thể nối tiếp nhau, để nâng vị thế của đồng tiền Việt Nam trong các chức năng thuộc tính của tiền tệ. Nghị quyết IV của Ban chấp hành Trung ương Đảng (khoá 8) trong phần đề cập những chủ trương chính sách lớn, riêng trong lĩnh vực tiền tệ - ngân hàng một lần nữa khẳng định yêu cầu "Đẩy nhanh tiến độ thực hiện nguyên tắc trên đất nước Việt Nam phải thanh toán bằng tiền Việt Nam". Việc xoá bỏ đô la hoá không thể xử lý theo quan điểm xoá bỏ sạch trơn, phủ định tất cả. Trong giai đoạn hiện nay cần cố gắng khai thác mặt lợi, thu hút vốn đô la trong dân vào hệ thống ngân hàng, đầu tư cho các dự án phát triển kinh tế - xã hội. thị trường ngoại tệ và hoạt động kinh doanh tiền tệ ở nước ta đang hội nhập với thị trường tiền tệ quốc tế. Nói kiềm chế, đẩy lùi và hạn chế các mặt tiêu cực, có nghĩa là chúng ta chấp nhận sự tồn tại của đô la hoá ở những mặt tích cực khách quan. Điều quan trọng nhất là Nhà nước phải giữ vai trò chủ động để điều chỉnh hiện tượng đô la hoá; nhất quyết phải có các giải pháp hành chính - kinh tế - giáo dục đồng bộ để triệt tiêu các mặt tiêu cực của đô la hoá. Chúng ta không thể sử dụng lại các biện pháp hành chính đã từng áp dụng lại các biện pháp hành chính đã từng áp dụng trong những thời gian trước đây như là: tăng tỷ lệ kết hối lên 100%, không cho nhận kiều hối bằng ngoại tệ, không nhận tiền gửi ngoại tệ hoặc hạ thấp lãi suất tiền gửi ngoại tệ, chỉ cho phép doanh nghiệp được mở tài khoản ngoại tệ tại một ngân hàng... Những biện pháp hành chính này qua thực tiễn thực hiện đã chứng tỏ là chúng gây khó khăn cho các doanh nghiệp, không khuyến khích nguồn kiều hối chuyển về nước, và không phù hợp với xu hướng hội nhập với khu vực và thế giới. Do đó, để giữ được những mặt tích cực và hạn chế những mặt tiêu cực của đô la hoá, có thể thực hiện một số giải pháp sau đây: 1. Tạo môi trường đầu tư trong nước có khả năng hấp thụ được số vốn ngoại tệ hiện có trong dân bằng những biện pháp : • Thúc đẩy phát triển môi trường kinh tế vĩ mô, tạo môi trường cạnh tranh thực sự giữa các thành phần kinh tế trong cả sản xuất, thương mại, dịch vụ và kể cả lĩnh vực tài chính, ngân hàng. • Mở rộng các dự án đầu tư của Chính phủ: dầu khí, cầu đường, điện lực... khuyến khích sự tham gia đầu tư của các thành phần kinh tế. • Phát triển các công cụ tài chính như cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu, đa dạng hoá các danh mục đầu tư trong nước. Thay cho dự kiến phát hành trái phiếu ngoại tệ trên thị trường quốc tế, bằng việc mở rộng phát hành trái phiếu ngoại tệ ở trong nước, huy động vốn đô la ở trong dân. 2. Những giải pháp trong lĩnh vực tiền tệ • Cần tiếp tục cơ cấu tích cực mệnh giá đồng Việt Nam, phát triển dịch vụ ngân hàng và mở rộng thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế. Đẩy mạnh tuyên truyền về sử dụng thẻ, kể cả thẻ tín dụng quốc tế. • Thay cho việc chỉ gắn với đồng đô la Mỹ như trước đây, tỷ giá ngang giá nên gắn với một "rổ" tiền tệ (bao gồm một số ngoại tệ mạnh như USD, EURO, JPY và một số đồng tiền của các nước trong khu vực như Trung Quốc, Hàn Quốc...), các đồng tiền này tham gia vào "rổ" tiền tệ theo tỷ trọng quan hệ thương mại và đầu tư với Việt Nam. Việc xác định tỷ giá như trên nhằm giảm bớt sự lệ thuộc của đồng Việt Nam vào đô la Mỹ, và phản ánh xác thực hơn quan hệ cung cầu trên thị trường trên cơ sở có tính đến xu hướng biến động các đồng tiền của các nước bạn hàng lớn. • Các ngân hàng chỉ được phép cho vay đồng USD đối với những đối tượng có doanh thu trực tiếp và có khả năng chi trả bằng đồng USD. Còn tất cả các doanh nghiệp trong nước vay các ngân hàng thương mại trong nước đều thực hiện bằng đồng bản tệ, khi cần ngoại tệ để thanh toán với quốc tế thì mua ngoại tệ tại thị trường hối đoái để mở LC thanh toán. Sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ (như lãi suất, dự trữ bắt buộc...) để tác động đến điều kiện thị trường nhằm làm cho đồng Việt Nam hấp dẫn hơn đô la Mỹ. Qua đó hạn chế xu hướng chuyển đổi từ đồng Việt Nam sang đô la Mỹ. Trong điều kiện hiện nay, lãi suất cơ bản không thay đổi, Ngân hàng Nhà nước có thể thực hiện điều chỉnh tăng lãi suất tái cấp vốn và lãi suất tái chiết khấu nhằm phát tín hiệu để các ngân hàng thương mại tăng lãi suất huy động đồng Việt Nam. • Tỷ giá ngoại hối linh hoạt giảm khoảng cách giữa thị trường chính thức và thị trường chợ đen. 3. Cần nhất quán chủ trương quản lý lưu hành ngoại tệ theo hướng "Trên đất nước Việt Nam chỉ chi trả bằng đồng Việt Nam". Muốn vậy, cần có các quy định về việc sử dụng ngoại tệ của cá nhân như sau: • Chi trả bằng ngoại tệ ở Việt Nam, bao gồm tiền mặt hay chuyển khoản cũng không được phép, trừ duy nhất trường hợp trả chuyển khoản cho các tổ chức kinh doanh được Ngân hàng Nhà nước cho phép tiếp tục thu ngoại tệ. Việc chi trả cho người hưởng trong nước các khoản tiền như kiều hối, tiền lương, thu nhập từ xuất khẩu lao động... bằng ngoại tệ tiền mặt theo yêu cầu cũng nên chấm dứt. Việc này chỉ thực hiện bằng tài khoản tiền gửi ngoại tệ hoặc chi trả bằng tiền Việt Nam. • Cá nhân có tài khoản ngoại tệ gửi tại ngân hàng thương mại chỉ rút ra bằng tiền mặt ngoại tệ để cất giữ riêng hoặc để đưa đi nước ngoài chi tiêu. • Ngăn chặn và giảm dần các hoạt động kinh tế ngầm, kiểm soát chặt chẽ tình trạng buôn lậu, tình trạng bán hàng thu ngoại tệ trong nước. Cần có biện pháp hạn chế đến mức tối đa việc lưu thông và sử dụng đô la Mỹ, niêm yết giá bằng đô la Mỹ trên thị trường Việt Nam. 4. Các giải pháp trong chính sách quản lý ngoại hối Vì vậy, về giải pháp chính sách về quản lý ngoại hối nói chung và về điều hành tỷ giá nói riêng, xin đề xuất như sau: Về quan điểm chính sách, cần đối xử với Đôla như đối xử với một loại hàng hoá nhập khẩu hơn là đối xử như với một liên minh tiền tệ lẫn lộn các chức năng với nội tệ trên thị trường tài chính trong nước. Không nên "cố" neo tỷ giá vào đồng USD, cần phải để thị trường ngoại hối phán quyết sức mua đó "tụt dốc" rất lớn của đồng USD so với hầu hết các đồng tiền quốc gia khác trờn thị trường quốc tế. Trong khi giá cả đồng USD trên thị trường tiền tệ quốc tế và lãi suất trong chính nước Mỹ giảm thì tại Việt Nam lãi suất huy động và cho vay đồng USD lại có xu hướng gia tăng. Điều đó chứng tỏ cơ chế quản lý ngoại hối là có vấn đề mà chỉ có Việt Nam mới gặp phải. Lý do là nhiều nước trên thế giới không cho phép có hoạt động tín dụng ngoại tệ, đặc biệt là loại tín dụng ngoại tệ ngắn hạn. Nhiều nước cũng có luật cấm nghiêm ngặt việc thanh toán hàng hoá, dịch vụ trong nội địa bằng ngoại tệ. Hiện nay, ở nhiều ngân hàng thương mại nước ta đó có dấu hiệu nghịch lý về đồng USD, biểu hiện qua hiện tượng: "thiếu tiền, thừa vốn". Do lãi suất huy động ngoại tệ tăng, cùng với tỷ giá có xu hướng tăng và đứng ở mức cao nên lượng "tiền gửi ngoại tệ" tăng, trong lúc tiền mặt ngoại tệ để "mua đứt bán đoạn" lại hiếm. Tại Việt Nam tình trạng Đô la hoá rất cao, nên khi lạm phát bùng nổ thì ngoại tệ "lên ngôi" ngay cả khi chính nó đang bị mất giá rất mạnh ở "quê hương" của nó và ở khắp các nền kinh tế công nghiệp phát triển, trong khi tại Việt Nam một số không ít cửa hàng, khách sạn cao cấp lại ngang nhiên niêm yết giá, thu tiền bán hàng bằng Đô la và từ chối thanh toán bằng nội tệ. Do đó, cần sử dụng cơ chế mua đứt bán đoạn thay cho cơ chế tín dụng ngoại tệ... Cùng với việc chuyển này, cần phải tạo cơ chế cho phát triển mạnh thị truờng ngoại hối kèm theo việc kiểm soát chặt các hoạt động Đô la hoá, trong đó bao gồm cả việc cho phát triển mạnh các giao dịch phái sinh ngoại hối để các bên tham gia thị trường tự bảo vệ truớc những biến động rủi ro về tỷ giá. Phải tuân theo nguyên tắc: "Trên lãnh thổ Việt Nam chỉ tiêu VND". Cần ban hành ngay văn bản qui phạm pháp luật về việc thanh tra, kiểm soát mọi hành vi vi phạm việc sử dụng đồng ngoại tệ trong thanh toán trao đổi hàng hoá, dịch vụ trên lãnh thổ Việt Nam. Về thái độ chính sách, phải coi tỷ giá là một phạm trù giá cả trên thị trường ngoại hối để làm phương tiện chuyển đổi quyền sở hữu tiền tệ theo qui luật của nó. Mọi nguồn dự trữ ngoại hối quốc gia phải được thống nhất quản lý, lưu giữ tại Ngân hàng Trung ương. Nếu có lộ trình đủ hợp lý triển khai các nội dung đề xuất nói trên, người viết bài tin tưởng rằng thị trường ngoại tệ Việt Nam sẽ dần đi vào ổn định và quan hệ tỷ giá sẽ vận động đúng theo quan hệ cung - cầu theo thị trường xuất nhập khẩu và cán cân thanh toán quốc tế thực của Việt Nam. KẾT LUẬN Từ này 01/11/2007, Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Tổ chức thương mại thế giới WTO, cánh cửa ra thế giới của Việt Nam đã được mở toang, đưa nền kinh tế VN hội nhập với kinh tế quốc tế với tốc độ nhanh hơn, mức độ lớn hơn. Song cũng trong 1 năm qua, một vấn đề lớn mà chính phủ Việt Nam đang phải “đối mặt”, đó là cách xử lý các nguồn vốn ngoại tệ từ nước ngoài chuyển vào Việt Nam với khối lượng rất lớn và ồ ạt. Hàng loạt vấn đề trong cách xử lý vấn đề trên phải được giải quyết : Làm sao để giảm hiện tượng Đô La hoá trong hệ thống tiền tệ trong nước ? Cơ chế điều hành tỷ giá sẽ như thế nào, để tác động vào cung cầu USD sao cho có lợi nhất đối với nền kinh tế ? Khả năng hấp thụ vốn đầu tư nước ngoài của nền kinh tế Việt Nam… Chẳng có một quốc gia nào trên thế giới lại muốn có đồng tiền thứ hai được sử dụng như đồng nội tệ của mình. Chính phủ Việt Nam đề ra mục tiêu “Trên lãnh thổ Việt Nam chỉ sử dụng đồng Việt Nam”. Hơn nữa, chính phủ của mỗi nước không muốn có tình trạng “Đô la hoá” trong nền tài chính tiền tệ, và tìm cách kiềm chế “Đô la hoá” vì không muốn đánh mất ưu quyền tiền tệ. Do đó, tìm ra các giải pháp hạn chế tình trạng Đô la hóa là một trong những nhiệm vụ trong nhiều năm qua của Chính phủ Việt Nam bởi tình trạng Đô la hóa không thể xem nhẹ được.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc26191.doc
Tài liệu liên quan