Đề tài Thực trạng hỗ trợ xuất khẩu cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt Nam và giải pháp phát triển

Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa là một nhiệm vụ quan trọng trong Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Những biện pháp hỗ trợ của nhà nước có thể khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa phát huy được tính chủ động, nâng cao năng lực quản lý, phát triển khoa học công nghệ và nguồn nhân lực, mở rộng các mối liên kết với các laọi hình doanh nghiệp khác, tăng hiệu quả kinh doanh và khả năng cạnh tranh trên thị trường; phát triển sản xuất kinh doanh , tạo việc làm và nâng cao đời sống cho người lao động. Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế ngày nay để phát huy vai trò của SME thì sự hỗ trợ của Chính phủ đối với khu vực đóng một vai trò cực kỳ quan trọng. Qua phân tích thực trạng và tác động của các chính sách kinh tế đến hoạt động của SME ở Việt Nam trong thời gian vừa qua có thể thấy được những tác động tích cực của những giải pháp mà Chính phủ đề ra. Tuy nhiên, trong thời gian tới, nhà nước cần có những biện pháp chính sách hỗ trợ tích cực hơn nữa trong hoạt động xuất khẩu giữa các loại hình doanh nghiệp trên lãnh thổ Việt Nam, phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế và tiến trình hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới. Vì vậy, việc tiếp tục cải tạo và đổi mới các chính sách kinh tế nhằm hỗ trợ SME đối với hoạt động xuất khẩu là một vấn đề cấp bách hiện nay.

doc87 trang | Chia sẻ: Kuang2 | Lượt xem: 814 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng hỗ trợ xuất khẩu cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt Nam và giải pháp phát triển, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
của Hàn Quốc (KOTRA)và Tổ chức Xúc tiến Thương mại của Đài Loan (CETRA). Các tổ chức thương mại của nước ngoài tại Việt Nam đã tạo ra mối liên kết giữa các doanh nghiệp nói chung và SME nói riêng với các doanh nghiệp ở nước ngoài như Australia, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Đức, Pháp, EU... Như vậy, một số tổ chức tham gia hỗ trợ cho việc mở rộng các mối quan hệ với bạn hàng cho SME đang cung cấp các dịch vụ của mình. Tuy nhiên, tình hình hiện nay cho thấy công tác xúc tiến xuất khẩu hỗ trợ các doanh nghiệp còn lúng túng và bị động, hệ thống thương vụ Việt Nam tại nước ngoài chưa làm tốt vai trò tìm kiếm, giới thiệu thị trường và bạn hàng để cung cấp thông tin kịp thời hỗ trợ cho SME kinh doanh xuất khẩu. Do đó, SME vẫn đang dựa vào chủ yếu mạng lưới các nhân viên của mình để tìm thị trường xuất khẩu. Vì vậy, nhiều SME tham gia vào các hoạt động xuất khẩu do không tự mở rộng quan hệ với các khách hàng nước ngoài nên họ phải bán sản phẩm của mình cho các công ty thương mại của nước ngoài và cũng chỉ có cách này họ mới có thể xuất khẩu sản phẩm của mình cho các thị trường trên thế giới. Có thể nói ở Việt Nam hiện nay, công tác xúc tiến xuất khẩu hỗ trợ các doanh nghiệp nói chung và SME nói riêng vẫn còn nhiều hạn chế. Để thực hiện mục tiêu ổn định và phát triển kinh tế thì một trong những vấn đề cấp bách là phải tiếp tục đổi mới và hoàn thiện một hệ thống xúc tiến xuất khẩu toàn diện, các chính sách và biện pháp đồng bộ của nhiều ngành, nhiều cấp và của từng doanh nghiệp. Điều này đòi hỏi sự nỗ lực của các cấp các ngành và mỗi doanh nghiệp. Nhưng chắc chắn rằng trong xu hướng đổi mới kinh tế hiện nay ngoại thương thực sự là sức mạnh tổng hợp, thì hoạt động xúc tiến xuất khẩu hỗ trợ các doanh nghiệp càng chứng tỏ vai trò quan trọng của nó trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. 2.2.5. Chính sách thị trường sản phẩm hỗ trợ SME Doanh nghiệp vừa và nhỏ đã thay đổi đáng kể trong nhận thức của mình về những yếu tố mang tính chất quyết định sự phát triển của doanh nghiệp. Không như những năm đầu của thời kỳ đổi mới 1992 – 1997, các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường coi vốn sản xuất là yếu tố quan trọng trong sản xuất kinh doanh11, nhưng năm gần đây yếu tố thị trường được doanh nghiệp vừa và nhỏ coi là là ảnh hưởng mạnh nhất tới các quyết định của doanh nghiệp, đặc biệt là 11 Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội: Doanh nghiệp nhỏ ở Việt Nam, Hà Nội, 1998. những quyết định liên quan đến số lượng lao động và chất lượng lao động (xem bảng 2.12). Thực vậy, những doanh nghiệp đánh giá cao yếu tố thị trường cũng lại là những doanh nghiệp có doanh thu đáng kể trong thời gian qua. Trong số các doanh nghiệp có doanh thu tăng, có đến 40,9% nhấn mạnh đến yếu tố thị trường, 25% nhấn mạnh đến yếu tố vốn, số còn lại nhấn mạnh đến các yếu tố khác. Song quan trọng hơn cả là doanh nghiệp có doanh thu tăng đã có những cải thiện đáng kể chất lượng việc làm cho người lao đông, chẳng hạn như có 71,2% doanh nghiệp thuộc nhóm doanh nghiệp có tăng doanh thu đã tăng lương cho công nhân, trong khi tỷ lệ này chỉ chiếm 58,8% ở nhóm doanh nghiệp có doanh thu không thay đổi. Tương tự, đối với vấn đề an toàn lao động, có 66,7% doanh nghiệp thuộc nhóm có doanh thu tăng đã thực hiện bảo đảm an toàn lao động, trong khi nhóm có doanh thu không thay đổi con số này chỉ 50,5%. Bảng 2.12: Ảnh hưởng của các yếu tố tới các quyết định liên quan đến Số lượng lao động và điều kiện lao động. Đơn vị:% Các yếu tố Số lượng lao động Điều kiện lao động Ảnh hưởng rất mạnh Ảnh hưởng mạnh Ảnh hưởng rất mạnh Ảnh hưởng mạnh Thị trường 56,7 29,2 40,7 32,1 Địa điểm kinh doanh 10,3 10,3 15,4 40,7 Chi phí lao động 7,7 18,3 8,3 15,4 Tiếp cận tài chính 4,5 22,1 3,2 17,6 Các quy định về lao động 0,6 6,4 4,2 23,1 Tiếp cận các nguồn lực 4,5 13,5 4,5 17,9 Xuất khẩu đi nước khác 1,6 3,8 2,2 2,6 Thuế 2,2 11,9 2,2 12,2 Chính sách của nhà nước 1 11,2 1,9 11,5 Nguồn: Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam: Báo cáo điều tra doanh nghiệp vừa và nhỏ năm 2001 Từ những tác động của các chính sách ưu đãi hỗ trợ SME trong hoạt động xuất khẩu và những khó khăn chính mà SME gặp phải nói riêng thì chương 3 của khoá luận này tôi xin được trình bày một số giải pháp để hỗ trợ SME trong hoạt động xuất khẩu hiện nay. CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HỖ TRỢ XUẤT KHẨU CHO CÁC DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ Ở VIỆT NAM. Trên cơ sở trình bày, phân tích tình hình xuất khẩu của SME ở Việt Nam hiện nay và đưa ra một số kinh nghiệm của Đài Loan và Hàn Quốc trong việc hỗ trợ xuất khẩu cho các doanh nghiệp. Khoá luận tốt nghiệp trình bày một số giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu cho SME ở Việt Nam như sau: I. NHỮNG THÁCH THỨC ĐỐI VỚI SME VIỆT NAM TRONG XU HƯỚNG HỘI NHẬP KINH TẾ KHU VỰC VÀ THẾ GIỚI: Để đạt được những định hướng nêu trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của Đảng và Nhà nước ta đã đề ra, tháng 11/2000, Bộ Thương Mại đã xây dựng Chiến lược phát triển xuất nhập khẩu thời kỳ 2001 – 2010. Từ nay đến năm 2005, ở nước ta với xu hướng hội nhập kinh tế khu vực và kinh tế thế giới, mở rộng xuất khẩu và tăng cường nhập khẩu nhằm phát huy nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế là con đường thực hiện thành công công nghiệp hoá đất nước, ngoài những khó khăn chung, SME phải đương đầu với những thách thức: Một là, hệ thống quota xuất khẩu trong quan hệ thương mại quốc tế có dự kiến sẽ bãi bỏ vào ngày 01/01/2005 theo thoả thuận của ngành dệt của tổ chức WTO. Hai là, Việt Nam sẽ xoá bỏ hàng rào thương mại phi thuế quan và giảm thuế nhập khẩu xuống 5% hoặc thấp hơn cho phù hợp với quy định của AFTA vào ngày 01 tháng 01 năm 2006, hạn chế định lượng và kiểm soát ngoại hối, mở rộng hơn con đường tiếp cận của bên ngoài và thị trơừng nội địa. Do đó công nghiệp thay thế nhập khẩu, chủ yếu là các doanh nghiệp được nhà nước bảo hộ sẽ chịu những tác động lớn. Ba là, khi Việt nam trở thành thành viên của WTO, chúng ta bắt buộc phải tuân thủ theo những hướng dẫn của WTO vào năm 2010 hoặc sau đó. Do vậy, Nhà nước cần tạo ra những cơ hội kinh doanh bình đẳng cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế khác nhau. Điều đáng chú ý là các lợi ích mà hiện nay một số doanh nghiệp được độc quyền lúc đó sẽ bị xoá bỏ. Bốn là, thách thức lớn nhất đối với SME là các doanh nghiệp này còn non trẻ làm thế nào để cạnh tranh trong điều kiện hội nhập để tồn tại và phát triển. Nói một cách cụ thể hơn, trong điều kiện thiếu vốn, công nghệ cũ kỹ, trình độ chuyên môn, tay nghề trình độ quản lý thấp phải chống chọi với sự phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật và công nghệ, đặc biệt là sự phát triển của thương mại điện tử, của công nghệ thông tin là một thử thách to lớn đối với SME . Như đã nêu ở trên, nếu SME bị bỏ lại đằng sau thì các doanh nghiệp nước ta khó có thể gánh vác được trọng trách của nó trong nền kinh tế Việt Nam vào năm 2005 và sau đó, khi mà các thử thách khốc liệt bắt đầu. Do đó, sự quan tâm hỗ trợ của nhà nước trong việc hoàn thiện một số chính sách cụ thể nhằm khuyến khích, hỗ trợ, phát triển SME như thị trường thông qua hợp đồng phụ, tăng sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế, khuyến khích xuất khẩu, mở rộng các quỹ bảo lãnh tín dụng để khắc phục tình trạng thiếu vốn, ưu đãi về thuế đối SME mới khởi sự hoặc hoạt động trong lĩnh vực được khuyến khích trong điều kiện hội nhập kinh tế là một việc hết sức cần thiết. II- TRIỂN VỌNG XUẤT KHẨU CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ. Với việc ban hành Luật công ty và Luật doanh nghiệp tư nhân năm 1990 ở Việt Nam, sự tồn tại của các doanh nghiệp ở Việt nam chính thức được pháp luật thừa nhận. Trên cơ sở đó, các doanh nghiệp (hầu hết là SME) đã được hình thành, phát triển và đóng góp một phần đáng kể cho sự tăng trưởng nền kinh tế Việt Nam trong suốt thập kỷ qua. Tuy nhiên, theo nhận định của nhiều nhà kinh tế, SME hiện nay chưa phát huy được hết tiềm năng của mình, còn gặp nhiều khó khăn trong sản xuất kinh doanh đặc biệt là kinh doanh xuất khẩu với điều kiện hội nhập hiện nay. Hiện tượng này, một phần là do bản thân SME chưa có nhiều kinh nghiệm trong hoạt động kinh doanh xuất khẩu trong nền kinh tế thị trường, chưa đủ năng động và sáng tạo trong kinh doanh, mặt khác, quan trọng hơn, là do chưa có một khuôn khổ chính sách rõ ràng của Nhà nước trong việc đưa ra những biện pháp hữu hiệu tạo điều kiện cho SME phát huy hết khả năng của mình trong hoạt động kinh doanh xuất khẩu. Những ưu thế của loại hình SME không chỉ được đưa ra trong lý luận mà còn dược thể hiện một cách rõ ràng và thuyết phục trong thực tiễn ở nhiều nước trên thế giới. Theo nhìn nhận của một số chuyên gia, khu vực SME ở Việt Nam sẽ trở thành một động lực quan trọng cho sự phát triển kinh tế trong thời gian tới. Nếu được Nhà nước hỗ trợ một cách thoả đáng, khu vực này sẽ có một vai trò quan trọng trong việc giải quyết các vấn đề kinh tế xã hội ở Việt Nam. Hiện nay, trong thống kê vẫn chưa phân biệt được kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của SME nói chung và hoạt động thương mại quốc tế nói riêng. Do đó, không có số liệu cụ thể nhưng sự tăng trưởng xuất khẩu của khu vực này trong những năm qua không thể phủ nhận được. Mặc dù không có số liệu cụ thể để nói nên triển vọng xuất khẩu của khu vực SME , nhưng những số liệu do cuộc khảo sát của Viện nghiên cứu quản lý kinh tế TW (CIEM) và Chương trình phát triển Dự án Mêkông (MPDF) tiến hành vừa qua đối với 457 SME cũng phản ánh phần nào sự định hướng xuất khẩu của khu vực này trong thời gian tới. Theo số liệu của cuộc khảo sát thì khoảng 2/3 doanh nghiệp cho rằng đến năm 2005 trị giá xuất khẩu của họ sẽ tăng từ 10-20%. Các ngành chế biến thực phẩm, may mặc, nội thất và sản phẩm từ gỗ dự liệu xuất khẩu hơn 80%, thậm chí là 100% giá trị sản lượng của mình. Không có gì phải ngạc nhiên khi các ngành đòi hỏi "công nghệ kỹ thuật cao" và nhiều vốn như máy móc, dụng cụ, ôtô dự kiến tăng trưởng xuất khẩu vào nhóm 40%. Trong thời kỳ 2001-2005, thị trường xuất khẩu chủ yếu của SME là Châu Âu, thị trường tiếp đến là thị trường Mỹ, Nhật Bản, Đài Loan, Hồng kông và Singapo. Điều này có nghĩa là xuất khẩu sang thị trường các nước phương tây sẽ chiếm ưu thế hơn so với thị trường Châu Á. Theo kết quả điều tra của CIEM và MDPF về SME khảo sát thì tỷ lệ xuất khẩu sang các thị trường trong thời kỳ 2001-2005 như sau: BẢNG 3.1: THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU CỦA SME 2001-2005. Tỷ trọng (%) 1. Thị trường Châu Âu 2. Thị trường Mỹ 3. Thị trường Nhật Bản 4. Thị trường Đài Loan 5. Thị trường Hồng kông 6. Thị trường singapo 7. Thị trường Châu Á khác 24,6 22 12,4 10 5 5 21 Nguồn: Cải cách các doanh nghiệp vừa và nhỏ – CIEM,2002 Nhìn chung, nếu có sự hỗ trợ thích hợp của nhà nước trong công tác thúc đẩy hoạt đông kinh doanh xuất khẩu cho SME thì khu vực này sẽ duy trì tốc độ tăng trưởng thương mại trong thời gian tới. III. NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM HỖ TRỢ XUẤT KHẨU CHO CÁC DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ. 1. Đổi mới hoạt động tín dụng hỗ trợ xuất khẩu cho SME. Trong những năm vừa qua, hoạt động hỗ trợ tín dụng đã đạt được những kết quả đáng mừng. Tuy nhiên, trong thời gian sắp tới, cần chú ý một số giải pháp đổi mới chính sách tín dụng nhằm hỗ trợ thúc đẩy sự phát triển của SME nói chung và hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu nói riêng, cụ thể như sau: Thứ nhất: Chính sách tín dụng trong việc giải quyết khó khăn về vốn trong việc sản xuất kinh doanh xuất khẩu. Bên cạnh khó khăn về thông tin, SME cũng đang gặp khó khăn rất lớn về vốn để sản xuất kinh doanh xuất khẩu cũng như thực hiện hợp đồng xuất khẩu. Theo “Báo cáo điều tra doanh nghiệp nhỏ và cực nhỏ năm 2001” của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam thì 38,8% SME dựa vào nguồn tiết kiệm của mình hoặc vay từ bạn bè người thân. Điều này đồng nghĩa với lãi suất lớn hơn lãi suất của ngân hàng, trong khi đó quỹ hỗ trợ xuất khẩu của Nhà nước chưa đáp ứng được nhu cầu này từ các doanh nghiệp. Vì vậy, nhằm giúp SME tiếp cận được nguồn vốn trung hạn và dài hạn bằng cách tạo ra một "sân chơi bình đẳng" để tất cả các doanh nghiệp tiếp cận với nguồn tín dụng hỗ trợ này đều tuân thủ những thể lệ giống nhau cần xem xét để: sửa đổi và ban hành các Luật, các quy định nhằm xây dựng một khung pháp luật toàn diện và hiện đại tạo điều kiện dễ dàng hơn cho SME vay tín dụng ưu đãi như vấn đề thực hiện và thực thi tài sản cầm cố thế chấp. Ngoài ra, để hỗ trợ tín dụng cho SME trong hoạt động xuất khẩu, Nhà nước có thể yêu cầu các Ngân hàng thương mại dành từ 20-25% tiền hoạt động tín dụng của mình để cho SME vay. Đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, khó khăn hàng đầu trong quá trình tiếp cận các nguồn tín dụng là theo luật định, mọi khoản vay đều phải có yêu cầu về tài sản thế chấp. Để giải quyết vấn đề tài sản thế chấp cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, một số Ngân hàng đã thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng cho khối doanh nghiệp này theo định hướng của Nghị định số 90/2001/NĐ-CP ngày 23/11/2001. Ví dụ: Quỹ Bảo lãnh tín dụng của Ngân hàng Công thương Việt Nam và tỉnh Bắc Giang đã hình thành thí điểm “Quỹ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa”. Quỹ này được trích từ Quỹ Bảo lãnh tín dụng của Ngân hàng Công thương Việt Nam. Năm 1993, Ngân hàng cân đối Đức (DTA) và Ngân hàng Công thương Việt Nam đã thành lập Quỹ Bảo lãnh tín dụng trong khuôn khổ chương trình hồi hương Việt Đức. DTA đã trợ cấp một triệu DM để làm tài sản của Quỹ và Ngân hàng Công thương Việt Nam điều hành Quỹ độc lập. Đối tượng được bảo lãnh: tất cả các doanh nghiệp Việt Nam – ưu tiên cho những người hồi hương từ Đức có nhu cầu vay vốn của chương trình và không có đủ tài sản thế chấp. Tính đến nay, trong số 420 dự án được bảo lãnh mới có 3 dự án với tổng số là 64 triệu đồng xảy ra thất thoát và được quỹ đền bù. Bảo lãnh tín dụng là một công cụ tài chính thích hợp hỗ trợ việc tiếp cận tín dụng của những doanh nghiệp có uy tín hoặc những người muốn thành lập doanh nghiệp với các dự án khả thi mà không đủ tài sản thế chấp. Bảo lãnh tín dụng là một trong các giải pháp cho các vấn đề mà SME gặp phải chứ không phải là giải pháp cho tất cả các vấn đề. Tại Cộng hoà Liên bang Đức, hệ thống bảo lãnh tín dụng hoạt động mang tính chất phi tập trung và trong mối quan hệ chặt chẽ với các tổ chức đại diện doanh nghiệp như: Phòng Thương mại và Công nghiệp, Hiệp hội các doanh nghiệp nhỏ và vừa, ngân hàng và công ty bảo hiểm. Hiện tại nước ta mới có Quy chế bảo lãnh tín dụng hay ngân hàng bảo lãnh. Dự án thử nghiệm về Quỹ Bảo lãnh tín dụng tại Ngân hàng Công thương Việt Nam cho thấy tính khả thi của một hệ thống bảo lãnh tín dụng ở Việt Nam, song mô hình hoạt động của Quỹ Bảo lãnh tín dụng theo quy chế mới ban hành chưa được thử nghiệm trên thực tế. Do vậy cần có những vận dụng hợp lý và sáng tạo khi thực hiện Quy chế mới này. Thứ hai: Hoạt động hỗ trợ tín dụng thương mại cho SME. Việc mở thư tín dụng thương mại bị hạn chế do yêu cầu phải đặt cọc trước một khoản tiền 0-80% trị giá L/C đã gây ra khó khăn không nhỏ trong hoạt động xuất khẩu. Chính vì vậy, cần phải có hoạt động tín dụng thương mại trong việc hỗ trợ xuất khẩu. Tuy nhiên, cũng cần phải xác định rõ từng loại hàng hoá xuất khẩu, từng loại hình doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh xuất khẩu để có biện pháp hỗ trợ tín dụng thương mại phù hợp. Luật Khuyến khích đầu tư trong nước (được ban hành ngày 22 tháng 6 năm 1994) sửa đổi ngày 20 tháng 5 năm 1998. Luật sửa đổi có hiệu lực ngày 1 tháng 1 năm 1999. Luật khuyến khích đầu tư trong nước đưa ra những ưu đãi cho doanh nghiệp khi đầu tư mới và khi mở rộng sản xuất. Những doanh nghiệp nhận được những ưu đãi đầu tư phải là những doanh nghiệp đầu tư vào những lĩnh vực khuyến khích phát triển hoặc ở những vùng có điều kiện kinh tế – xã hội khó khăn. Luật khuyến khích đầu tư trong nước cũng khuyến khích đầu tư tạo nhiều công ăn việc lảm, trước tiên là cho công nhân ở địa phương. Luật khuyến khích đầu tư trong nước đưa ra một loạt các ưu đãi dành cho nhưng doanh nghiệp thoả mãn các điều kiện khuyến khích đầu tư, trong đó có ưu đãi về cấp tín dụng và hỗ trợ lãi xuất tín dụng từ Quỹ hỗ trợ phát triển. Quỹ hỗ trợ phát triển được hình thành phục vụ các đối tượng mà theo Luật đầu tư trong nước được hưởng hỗ trợ theo quy định cụ thể trong Nghị định 51/1999/NĐ-CP. Bên cạnh đó, Nhà nước còn lập một loạt các quy khác như Quỹ hỗ trợ xuất khẩu, Quỹ hỗ trợ khoa học công nghệ để hỗ trợ nhóm đối tượng của nhóm này. Trên thực tế, có nhiều doanh nghiệp cho rằng họ không nhận được ưu đãi, cụ thể là do Nghị định 43/1999/NĐ-CP của Chính phủ về quỹ tín dụng từ Quỹ hỗ trợ phát triển đẫ thu hẹp nhóm đối tượng được vay từ Quỹ. Có nghĩa là chỉ có một số ngành nghề được nhận tín dụng ưu đãi này. Được vay từ Quỹ hỗ trợ phát triển là một hình thức ưu đãi hấp dẫn nhất cho nhà đầu tư trong nước, điều này một lần nữa cho thấy sự bức xúc trong vấn đề tiếp cận tín dụng của các doanh nghiệp Việt Nam. Cho đến nay nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ vẫn chưa được biệt nhiều về luật khuyến khích đầu tư trong nước. Chỉ có 58% doanh nghiệp (khu vực chính thức) biết đến chính sách này. Chỉ có 18 trường hợp trong tổ số 292 doanh nghiệp được khoả sát nộp hồ sơ và đến nay có 3 trường hợp nhận được giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư12. Những doanh nghiệp vừa và nhỏ khi tìm kiếm ưu đãi về vốn đầu tư đã nêu ra những khó khăn sau: - Định nghĩa “ doanh nghiệp mới thành lập” không rõ ràng nên một số hộ kinh doanh cá thể đăng ký theo Luật Doanh nghiệp không được coi là đủ tiêu chuẩn”mới” để hưởng ưu đãi đầu tư. - Luật Khuyến khích đầu tư trong nước yêu cầu giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư do Uỷ ban nhân dân cấp, nhưng cơ quan thuế địa phương lại yêu cầu có xác nhận của cục thuế, yếu cầu hoá đơn và các mẫu đặc biệt. - Hiện nay cơ quan thuế cấp ưu đãi đầu tư theo cơ chế “xin - cho”. Các doanh nghiệp đề nghị các cơ quan nhà nước cấp giấy chứng nhận ưu đãi ngay khi đăng ký kinh doanh. Để khuyến khích đầu tư cho SME có hàng xuất khẩu, cần triển khai áp dụng các biện pháp sau: + Thống nhất việc phối hợp đồng bộ giữa các cơ quan liên quan đến thực hiện các chính sách khuyến khích đầu tư xuất khẩu cho SME: Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở Tài chính, Quỹ hỗ trợ phát triển. 12 MPDF: chuyên đề nghiên cứu kinh tế tư nhân số 12 – kinh doanh theo Luật Doanh Nghiệp mới. Trần Phương Quỳnh Trang và Công ty trách nhiệm hữu hạn Concentti, Hà Nội, 2001. + Tuyên truyền phổ biến Luật Khuyến khích đầu tư đến SME tại các địa phương thông qua câu lạc bộ doanh nghiệp và các phương tiện thông tin đại chúng. + Xác định rõ trách nhiệm của những người liên quan trực tiếp đến thực hiện chính sách. + Vận dụng linh hoạt để tránh các quy định không hợp lý của Luật nhằm giảm các khâu trong thủ tục hành chính, giúp cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ chỉ cần đi qua một cửa để nhận được giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư. + Tăng cường và mở rộng hoạt động của Quỹ hỗ trợ xuất khẩu hơn nữa với sự tham gia của các thành phần kinh tế và các cơ quan nhà nước nhằm hỗ trợ về vốn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. + Thiết lập liên minh giữa các tổ chức cung cấp tín dụng và các tổ chức cung cấp dịch vụ phi tài chính nhằm nâng cao năng lực cho SME cũng như cán bộ tín dụng để giảm những khoản nợ khó đòi. + Các chính sách ư đãi đầu tư hàng xuất khẩu cho SME cần đưa ra những tiêu chí thực tế để SME có thể dễ dàng tiếp cận. Đổi mới các thủ tục hành chính, xây dựng tinh thần phục vụ doanh nghiệp cho các cán bộ tín dụng cũng như cán bộ nhà nước để phát huy tinh thần kinh doanh là những vấn đề cần được các nhà hoạch định chính sách quan tâm. Thứ ba: Mở rộng, phát triển thị trường thuê mua. Trong điều kiện hiện nay, trong việc hỗ trợ SME thúc đẩy xuất khẩu, thì Nhà nước mở rộng hình thức tín dụng thuê mua hỗ trợ cho các doanh nghiệp này. Loại hình tín dụng thuê mua này là biện pháp thay thế vốn ngân hàng. Tín dụng thuê mua có đặc điểm của hoạt động tín dụng, nhưng SME ít vốn có thể vay vốn tín dụng mà không phải thế chấp để tiến hành ký kết các hợp đồng xuất khẩu cũng như sản xuất hàng xuất khẩu. Bên cạnh đó, các tổ chức thuê mua sẽ hỗ trợ, đào tạo và hướng dẫn kỹ thuật cho người thuê để đạt được hiệu quả cao trong hoạt động kinh doanh xuất khẩu. Tóm lại, hỗ trợ tín dụng, đặc biệt là tín dụng hỗ trợ xuất khẩu đối với SME là một yêu cầu khách quan, rất cấp bách hiện nay, nhưng để hoạt động có hiệu quả, đòi hỏi sự tác động đồng bộ của các loại chính sách hỗ trợ khác. Cần có sự phân loại, tập trung hỗ trợ cho SME thuộc khu vực có tính hiệu quả và thiết thực, tạo ra một môi trường thuận lợi cho SME hoạt động. 2. Tiếp tục đổi mới chính sách thuế theo hướng hỗ trợ cho SME. Mặc dù, chính sách thuế trong thời gian qua đã có sự hỗ trợ tích cực cho các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và SME nói riêng. Nhưng thực sự vẫn chưa khuyến khích SME. Trong thời gian tới chính sách thuế tiếp tục đổi mới đảm bảo sự công bằng bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, không phân biệt kinh tế với kinh tế quốc doanh. Chính sách thuế phải xác định đúng đối tượng được ưu đãi, cho đến nay, trong các chính sách thuế của Nhà nước, loại đối tượng được ưu đãi thường mang tính chính sách xã hội như: ưu đãi các doanh nghiệp ở miền núi, hải đảo, một số doanh nghiệp trong ngành chế biến nông sản. Trong chính sách thuế, chưa quan tâm ưu đãi theo quy mô, chưa tạo điều kiện để SME vượt lên sự yếu ớt của họ để đứng vững và kinh doanh có hiệu quả. Do đó, trong chính sách thuế ưu đãi hỗ trợ cho các doanh nghiệp cần xác định đúng đối tượng và tiêu thức ưu đãi, thực hiện theo quy mô để hỗ trợ cho SME kinh doanh xuất khẩu. Tăng mức ưu đãi cho SME, trong thời gian qua, mức ưu đãi còn rất dè dặt, chỉ miễn giảm thuế cho SME 1- 2 năm (trong khi các nước khác trong khu vực như Inđônêxia, Đài Loan là 4-5 năm. Hệ thống thuế của nước ta được cho là khá phức tạp với nhiều ưu đãi, miễn thuế và nhiều mức thuế suất (đặc biệt là thuế xuất nhập khẩu) nên các thông tin về chính sách thuế không phải lúc nào cũng sẵn có và đến kịp thời tới các doanh nghiệp. Do ranh giới giữa các tiêu chí để áp dụng mức thuế không rõ ràng nên việc áp dụng mức thuế này hay mức thuế khác đối với cùng loại sản phẩm hay nhóm sản phẩm, thậm chí giữa các loại hình doanh nghiệp phụ thuộc vào đánh giá chủ quan của cán bộ thuế, tính không rõ ràng về thuế là một trong những khe hở lớn gây nên tình trạng tham nhũng, thông đồng giữa cán bộ thu thuế với người nộp thuế, gây thất thu lớn cho ngân sách nhà nước. Mặt khác, không có phán quyết mang tính trọng tài nên nhiều doanh nghiệp phải “ngậm đắng nuốt cay”. Theo thống kê của Tổng Cục thuế năm 2001, trong giai đoạn 1991-2000, tốc độ tăng thuế của khu vực các doanh nghiệp tư nhân tăng gấp 4,5 lần, tăng bình quân khoảng 40-50%/năm, trong khi đó mức tăng GDP của khu vực kinh tế này chỉ khoảng 15-20%/năm. Các cơ quan thu thuế còn ấn định giá trị đầu vào sản xuất, kể cả tiền lương nhằm cố gắng thu tối đa thuế thu nhập doanh nghiệp . Đây cũng là một lý do tại sao các doanh nghiệp nhỏ và vừa không dám trả lương có cho công nhân. Ngoài chi phí trực tiếp, các doanh nghiệp thường phải trả những chi phí gián tiếp vô hình như: - Bồi dưỡng không chính thức cho cán bộ thuế. - Thời gian hoàn thuế giá trị gia tăng kéo dài dẫn đến chiếm dụng vốn của doanh nghiệp. Điều này có ảnh hưởng không nhỏ đối với SME. - Thời gian phát hành các giấy chứng nhận để nhận thuế ưu đãi kéo dài. - Sự thay đổi đột ngột của chính sách thuế (đặc biệt là thuế xuất nhập khẩu) gây ra những thất thoát không dự tính khi ký hợp đồng. Bên cạnh đó, nhà nước cần điều chỉnh chính sách thuế để nâng cao hàm lượng nội địa và tăng giá trị gia tăng cho sản phẩm xuất khẩu. Hàm lượng nội địa không chỉ làm tăng giá trị gia tăng cho sản phẩm xuất khẩu mà còn có ý nghĩa quyết định khi xác định xuất xứ để hưởng các ưu đãi thuế quan trong các định chế song biên và đa biên. Một trong những lý do khiến hàm lượng nội địa trong sản phẩm xuất khẩu tăng chậm là do nếu dùng nguyên liệu ngoại nhập để sản xuất hàng xuất khẩu, doanh nghiệp được nộp chậm thuế nhập khẩu và thuế giá trị gia tăng trong vòng 270 ngày, nhiều trường hợp còn được khách hàng cho nợ tiền nguyên liệu khi xuất khẩu mới quyết toán và khâú trừ. Trong khi đó, nếu đi mua nguyên liệu trong nước phải trả tiền và nộp thuế giá trị gia tăng ngay từ lúc mua vaò. Điều này giải thích tại sao một số doanh nghiệp gia công đến cả bao bì nilon, thùng carton, móc treo quần áo cũng nhập khẩu. Các doanh nghiệp sản xuất nguyên liệu cho xuất khẩu , nhưng không có hợp đồng với nước ngoài, hoặc không có hợp đồng 3 bên tham gia xuất khẩu mà chỉ đơn thuần làm vệ tinh cho doanh nghiệp xuất khẩu vẫn chưa được ưu đãi theo Quyết định 908/QĐ-TTg ngày 26/7/2001 của Thủ tướng Chính phủ. Vì vậy, Bộ Tài chính cần khẩn trương có những chính sách điều chỉnh về vấn đề này. Trong nhưng năm qua chính sách thuế nước ta có nhiều bước tiến đáng kể song những quy định về mức thuế, cách tính thuế vẫn còn cồng kềnh phức tạp và nghĩa vụ thuế đang chở thành gánh nặng cho các doanh nghiệp nhất là đối vơi doanh nghiệp vừa và nhỏ kể cả mặt chi phí lẫn thủ tục nộp thuế. Miễn, giảm thuế thường là hình thức để được cung cấp theo theo quy định hiện hành, xong doanh nghiệp vừa và nhỏ hiếm khi nhận được ưu đãi này, do vậy cũng không dễ dàng khi nhận được ưu đãi về thuế. Do đó, cần có biện pháp tích cực hơn để hỗ trợ trong thời gian tới. Giảm đáng kể các mức thuế suất cao, làm lành mạnh hoá trong cơ cấu thuế theo hướng giảm dần tỷ trọng thuế xuất khẩu và tăng dần tỷ trọng thuế trực thu, nhất là thuế thu nhập cá nhân. Chính sách thuế đổi mới phải đảm bảo tính ổn định trong một thời gian tối thiểu là hai năm, ngoài ra còn cần có sự phối hợp đồng bộ giữa các cơ quan hải quan và các cơ quan tài chính nhằm tránh tình trạng xấu xảy ra trong công tác hoàn thuế (Một ví dụ cụ thể: Do việc trao đổi thông tin giữa cơ quan thuế và cơ quan hải quan kém, nên nhiều doanh nghiệp, đặc biệt là SME đã nộp thuế nhưng vẫn bị các cơ quan hải quan "cưỡng chế nhầm" vì cơ quan tài chính vẫn chưa thông báo cho hải quan biết doanh nghiệp đã hoàn thành nghĩa vụ thuế13. Khi có các thay đổi trong chính sách thuế, cơ quan Thuế cần thông báo rỗng rãi kịp thời đến các doanh nghiệp thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, bằng văn bản .Cơ quan thu thuế cũng cần đặt ra thời gian hoàn thuế giá trị gia tăng hợp lý tránh tình trạng chiếm dụng vốn, nhất là đối với SME. Nhìn chung, chính sách thuế đối với SME cần được đặt trong hệ thống chính sách hỗ trợ SME nói chung, tạo nên sự tổng hợp thúc đẩy sự phát triển của SME trong hoạt động kinh doanh xuất khẩu ở nước ta. 3. Tăng cường hoạt động của các Quỹ hỗ trợ SME trong hoạt động kinh doanh xuất khẩu. Hiện nay tại Việt Nam, tài trợ xuất khẩu vẫn chưa được quan tâm đúng mức, các hệ thống bảo hiểm thương mại và tín dụng xuất khẩu chưa hoạt động một cách có hiệu quả. Do vậy, khu vực SME vẫn phải phụ thuộc vào thư tín dụng trả chậm và hoạt động tài trợ thông thường. Để mở rộng các cơ hội xuất khẩu, cần phải có sự bảo đảm về tài trợ xuất khẩu và quỹ phục vụ nhu cầu về vốn.Trong năm 1999, Bộ tài chính và Ngân hàng nhà nước đã công bố đề xuất thành lập Quỹ tín dụng xuất khẩu. Căn cứ vào Nghị định 51/NĐ-CP ban hành vào tháng 7/1999, việc thành lập Quỹ hỗ trợ xuất khẩu đã được công bố. Ngày 23/11/2001, Nghị định số 90/2001/NĐ_CP của Chính phủ về trợ giúp phát triển 13 Theo báo cáo của MECANIMEX SAIGON trong buổi gặp mặt với thủ tướng Chính phủ (3/2000) doanh nghiệp nhỏ và vừa cũng đã đưa ra việc thành lập thêm các cơ quan hỗ trợ như: Quỹ Bảo lãnh tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa, Cục Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, Hội đồng khuyến khích phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa. Tuy nhiên, trên thực tế việc sử dụng Quỹ hỗ trợ xuất khẩu đối với SME vẫn gặp nhiều khó khăn: có doanh nghiệp làm đơn xin vay từ Quỹ tín dụng xuất khẩu, sau 14 tháng chờ đợi, vẫn không có hồi âm gì14. Do vậy, trong thời gian tới Nhà nước nên triển khai hoạt động của các quỹ hỗ trợ SME như: Thứ nhất: Triển khai rộng rãi mô hình "Quỹ bảo lãnh tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa" nhằm hỗ trợ cho SME có điều kiện tiếp cận với các ngân hàng và vay bảo lãnh ở ngân hàng. Quỹ này giúp cho SME không đủ tài sản thế chấp vay vốn của các tổ chức tín dụng, và hoạt động không vì mục đích lợi nhuận trên nguyên tắc bảo toàn vốn, tự bù đắp chi phí và được miễn các khoản thuế. Thực tế cho thấy Quỹ bảo lãnh tín dụng SME được thực hiện thành công ở một số nơi mà điển hình là Quỹ Bảo lãnh tín dụng của Ngân hàng Công thương Việt Nam và tỉnh Bắc Giang đã hình thành thí điểm “Quỹ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa”. Chúng ta cần nhân rộng thêm mô hình hoạt động của Quỹ này trong toàn quốc. Thứ hai: Nhà nước có thể thành lập Quỹ đầu tư mạo hiểm hỗ trợ SME trong việc tiếp cận các nguồn vốn đầu tư giúp SME trong việc sản xuất kinh doanh xuất khẩu. Hiện đã có 6 Quỹ đầu tư mạo hiểm hoạt động ở Việt Nam với tổng vốn đầu tư là 68 triệu USD. Tuy nhiên, các quỹ này mới chi hỗ trợ 18 triệu USD cho SME. Đó là các quỹ Beta, Veil, Vietnam Frontier, và Quỹ Việt Nam, còn hai Quỹ Lazard và Templeton đã chuyển trọng tâm hoạt động sang các nước trong khu vực. Ngoài ra, Chính phủ cần có biện pháp nhằm tạo điều kiện về mặt tài chính cho SME như trợ cấp vốn không hoàn lại cho các dự án của SME ở các vùng sâu, vùng xa, miền núi, hải đảo, các lĩnh vực độc hại... Thứ ba: Trong điều kiện hiện nay thành lập Quỹ bảo hiểm xuất khẩu cho SME là cực kỳ cần thiết. Hầu hết các quốc gia bên xuất khẩu đều có hệ thống bảo hiểm xuất khẩu do Chính phủ bảo trợ mà trong đó bên xuất khẩu có thể mua bảo hiểm rủi ro tín 14 Theo thời báo Sài Gòn, số 13-1999 ngày 25/3/1999, trang11 dụng và các rủi ro khác của bên nhập khẩu và ngược lại. Các nghiệp vụ bảo hiểm cần được nghiên cứu áp dụng bao gồm: bảo hiểm xuất khẩu toàn diện, trong đó bên xuất khẩu được bảo hiểm từ khi ký kết hợp đồng xuất khẩu đến khi thanh toán xong; bảo hiểm hoá đơn xuất khẩu, các tổ chức bảo hiểm sẽ bảo vệ quyền lợi của bên xuất khẩu khi bên nhập khẩu không chịu thanh toán. Thứ tư: Nhà nước có thể triển khai và khuyến khích các hiệp hội ngành nghề với sự hỗ trợ từ các Quỹ hỗ trợ xuất khẩu. Quỹ này sẽ cấp tín dụng ưu đãi hoặc bảo lãnh tín dụng cho các doanh nghiệp đã có hợp đồng xuất khẩu. Nhà nước cũng có thể tổ chức riêng Ngân hàng phát triển SME, mọi hoạt động của Ngân hàng này nhằm đáp ứng hỗ trợ cho SME trong sản xuất kinh doanh xuất khẩu. Triển khai, tăng cường mở rộng hoạt động của các Quỹ hỗ trợ xuất khẩu nhằm hỗ trợ cho SME trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay là rất cần thiết mà Nhà nước cần quan tâm chú ý đến. 4. Tăng cường hoạt động xúc tiến thương mại nói chung, đối với SME nói riêng. Đây là một hoạt động thiết thực, ý nghĩa nhất trong tình hình thương mại Việt nam hiện nay, nhờ nó SME có thể có được cơ hội thu thập thông tin các loại cần thiết cho mình về thị trường, giá cả, cung cầu, mẫu mã, chất lượng, chủng loại sản phẩm hàng hoá, cả trong lẫn ngoài nước. Xúc tiến thương mại là một điều kiện quan trọng để hỗ trợ cho SME hoạt động xuất khẩu một cách có hiệu quả. Xúc tiến thương mại được thực hiện bằng nhiều phương thức quy mô khác nhau. Hiện nay, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam đã đảm nhận lĩnh vực này. Đó là: - Hỗ trợ và tạo điều kiện cho SME ra nước ngoài, kể cả các đoàn cấp cao của Đảng, Nhà nước để thâm nhập thị trường, tiếp cận cơ hội xuất khẩu, phát triển kinh doanh; - Phối hợp và hỗ trợ SME thực hiện chiến lược maketing cho từng ngành hàng, mặt hàng quan trọng và tham gia các hội trợ, triển lãm và các hoạt động xúc tiến thương mại khác ở nước ngoài. - Có cơ chế tiếp xúc và tham vấn định kỳ giữa Bộ thương mại và các doanh nghiệp, các hiệp hội ngành nghề về các vấn đề có liên quan đến xuất khẩu. - Đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác xúc tiến thương mại cho các Sở thương mại và các doanh nghiệp. Mở rộng các quan hệ hợp tác đa phương và song phương với nước ngoài trong công tác xúc tiến thương mại. - Mở rộng và khai thác thương mại điện tử, tổ chức đào tạo nhân lực trong lĩnh vực này. Các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và đặc biệt là SME nói riêng tiến hành xuất khẩu đã gặp phải không ít những khó khăn về thị trường nước ngoài, về đối tác nước ngoài,...do đó, hỗ trợ SME đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại là vô cùng cần thiết và cấp bách. 5. Xây dựng hệ thống thông tin hỗ trợ xuất khẩu. Thông tin thị trường là một trong những nhân tố quan trọng đối với hoạt động xuất khẩu. Cho đến nay, tại Việt Nam vẫn còn ít những trung tâm thông tin hỗ trợ xuất khẩu cho các doanh nghiệp. Việc tìm hiểu các thông tin về thị trường, luật pháp của các nước khác đối với SME là điều hoàn toàn khó khăn. Hệ thống thương vụ của Việt Nam tại các quốc gia hoạt động chưa có hiệu quả để cung cấp những thông tin thị trường và quy định thương mại của nước đó. Việc xây dựng và khuyến khích thành lập các trung tâm thông tin hỗ trợ xuất khẩu một cách thông suốt từ các cơ quan thương vụ Việt Nam ở nước ngoài, Bộ thương mại đến các Sở thương mại và các doanh nghiệp là việc mà Nhà nước nên xem xét xúc tiến khẩn trương trong thời gian tới. Biện pháp này sẽ được thay thế đắc lực và hiệu quả cho biện pháp định hướng sản phẩm xuất khẩu, trợ giá xuất khẩu mà Nhà nước vẫn thực hiện cho đến nay. Các trung tâm này có thể do một hiệp hội ngành nghề hoặc do Tổ chức chức phi chính phủ thành lập, Nhà nước có thể hỗ trợ một phần tài chính, đặc biệt trong thời gian đầu, phần còn lại là thu lệ phí từ các doanh nghiệp. Các trung tâm này tổ chức tốt việc thu thập, xử lý và cung cấp định kỳ hàng năm, hàng quý các ấn phẩm về thị trường hàng hoá thế giới cho các doanh nghiệp. Ngoài việc cung cấp thông tin theo phương thức hỗ trợ của nhà nước cho các doanh nghiệp, cần thực hiện thương mại hoá thông tin và áp dụng các phương thức linh hoạt khác nhằm đáp ứng nhu cầu cụ thể, kịp thời cho SME. 6. Hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận với thị trường thế giới. Hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận với thị trường thế giới là biện pháp cần thiết để giúp doanh nhiệp tìm kiếm và mở rộng thị trường của mình. Không có sự hỗ trợ của Nhà nước, SME khó có thể có điều kiện để tham dự những hội trợ, triển lãm ở nước ngoài. Cho đến nay, thông qua một số dự án, Nhà nước đã hỗ trợ một phần tài chính cho doanh nghiệp trong việc tham gia các cuộc triển lãm, hội trợ quốc tế. Tuy vậy, biện pháp này cần được mở rộng cả về phạm vi lẫn hình thức hỗ trợ. Ví dụ: hỗ trợ thêm một phần tài chính nếu doanh nghiệp ký kết được hợp đồng cho sản phẩm mới hoặc thị trường mới, khấu trừ một phần thuế thu nhập doanh nghiệp theo một tỷ lệ nhất định với chi phí tham dự triển lãm, hội trợ ở nước ngoài. Bên cạnh đó, Nhà nước có thể khuyến khích và hỗ trợ các doanh nghiệp xây dựng ở nước ngoài mạng lưới đại lý, phân phối hàng, kho ngoại quan, trung tâm trưng bày sản phẩm; áp dụng các phương thức mua bán linh hoạt như gửi bán, thanh toán chậm, đổi hàng phù hợp với từng mặt hàng, từng thị trường.. Đây là biện pháp đối với khả năng của SME hiện nay là cực kỳ khó khăn, nhưng cũng nên áp dụng dần dần để sau này sẽ hiệu quả hơn trong việc hỗ trợ các doanh nghiệp này xuất khẩu. 7. Tiếp tục đổi mới chính sách thương mại trong việc hỗ trợ xuất khẩu cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Để gia tăng kim ngạch xuất khẩu, SME không chỉ cần sự hỗ trợ về mặt vật chất hoặc các yếu tố sản xuất, mà còn cần sự hỗ trợ về thể chế, đặc biệt là cần một quy chế thương mại rõ ràng và thuận lợi cho các hoạt động xuất khẩu của mình. Ở nước ta, quy chế và thể chế của chính phủ tuy không có chủ đích phân biệt đối xử giữa doanh nghiệp lớn và SME . Nhưng trong thực thi lại rất rõ sự phân biệt đó. Sự phân biệt đó được thể hiện rất rõ trong các chính sách thương mại. Nhìn chung, SME vừa chịu bất lợi về chính sách, về thể chế của chính phủ. Chính phủ đưa ra quy định về bảo hộ đặc biệt cao trong những ngành có tỷ trọng SME thấp; Chính phủ tiêu thụ sản phẩm của các doanh nghiệp lớn; những hạn chế có tính chất "vô hình" trong quy chế của chính phủ như: về thị trường xuất khẩu, năng lực kinh doanh, các tiêu chuẩn quy định chất lượng...không phù hợp với SME. Do vậy, để thúc đẩy SME tham gia mạnh mẽ vào công cuộc hội nhập kinh tế quốc tế thì Nhà nước phải có chính sách thương mại phù hợp hỗ trợ cho SME, tạo điều kiện thông thoáng hơn cho SME thúc đẩy xuất khẩu. Để tiếp tục theo đuổi những nỗ lực quan trọng của Chính phủ nhằm mở rộng thị trường quốc tế cho tất cả các doanh nghiệp, kể cả SME. Để khắc phục sự hạn hẹp do cách ghi ngành hàng cụ thể trong Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hiện hành nghiên cứu bãi bỏ quy định chỉ cho xuất khẩu theo ngành hàng đã đăng ký kinh doanh, cho phép doanh nghiệp tự do xuất khẩu những mặt hàng mà Nhà nước không cấm hoặc không hạn chế xuất khẩu. Đồng thời cần xem xét sửa đổi để đẩy nhanh quá trình cấp mã thuế. Trong thời gian tới, quy chế thương mại cần có sự thay đổi như: xoá bỏ đầu mối xuất khẩu đối với một số mặt hàng như gạo xuất khẩu, và nhập khẩu đối với phân bón; sử dụng có hiệu quả các công cụ bảo hộ nhằm tạo điều kiện cho SME chủ động hơn trong việc tìm kiếm đối tác xuất khẩu. "Đầu mối xuất khẩu" nếu có, cũng chỉ nên thông qua một hiệp hội xuất khẩu do các thành viên tham gia hoàn toàn một cách có tự nguyện, thực hiện tiến tới đấu thầu toàn bộ lượng quota xuất khẩu (ví dụ đối với may mặc). Tiếp tục cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực thương mại theo hướng xoá bỏ thủ tục phiền hà, thay đổi căn bản về phương thức quản lý xuất khẩu, đơn giản hoá thủ tục xuất khẩu. Ngoài ra, trong thời gian tới, Chính phủ cần quan tâm hơn nữa về vấn đề thủ tục hải quan, đây là vấn đề mà các doanh nghiệp trong thời gian qua gặp phải khó khăn rất lớn. Đơn giản hoá thủ tục xuất nhập cảnh sẽ hỗ trợ mạnh mẽ cho doanh nghiệp đặc biệt là SME trong tìm kiếm thị trường, chuyển gia công nghệ, tạo điều kiện cho các nhân viên SME đi ra nước ngoài dự các hội trợ triển lãm,.. Nhìn chung, việc đổi mới các quy chế thương mại ở Việt Nam cần chú ý và quan tâm sát sao hơn đối với SME tránh tình trạng tạo ra sự phân biệt giữa DNNN và SME . 8. Tăng cường hỗ trợ khả năng cạnh tranh cho SME trên thị trường thế giới. Khả năng cạnh tranh là mối quan ngại đầu tiên của tất cả những ai quan tâm đến sự phồn vinh của nền kinh tế nước nhà, đặc biệt là khả năng cạnh tranh trên thị trường xuất khẩu có vai trò quyết định trong sự phát triển kinh tế. Trong khi SME vẫn chưa sẵn sàng cạnh tranh với các hãng nước ngoài một khi Việt Nam tham gia quá trình toàn cầu hoá, khu vực hoá. Điều đáng lưu ý là cạnh tranh hiện nay là một trong những vấn đề lớn nhất, không chỉ đối với những hãng lớn mà còn đối với các hãng nhỏ. Nói đến khả năng cạnh tranh người ta thường nói đến năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, giá cả...xem xét trong mối tương quan so sánh với các doanh khác. Sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp trong điều kiện hội nhập kinh tế phụ thuộc chủ yếu vào khả năng cạnh tranh. Vì vậy, nâng cao khả năng cạnh tranh phải được coi là nhiệm vụ hàng đầu của các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và SME nói riêng. SME trông chờ vào khả năng cạnh tranh xuất khẩu sẽ tăng lên nhờ cắt giảm thuế nhập khẩu đối với nguyên vật liệu đầu vào cho sản xuất hàng xuất khẩu, một số doanh nghiệp cũng có ý kiến cho rằng sẽ không ảnh hưởng gì do cạnh tranh mạnh trong nước hoặc do mối quan hệ lỏng lẻo giữa xuất khẩu và nhập khẩu với các nước ASEAN. Trong thời gian tới, Nhà nước có thể tăng cường hỗ trợ khả năng cạnh tranh cho SME bằng việc khuyến khích hỗ trợ cải tiến công nghệ và trang thiết bị thông qua trợ giúp xúc tiến nghiên cứu và phát triển kỹ thuật. Tuy nhiên, nếu chỉ cải tiến công nghệ, trang thiết bị thì chưa đủ bởi vì với những trang thiết bị như nhau nhưng hai doanh nghiệp vẫn có thể có năng suất lao động khác nhau, hay nói cách khác là khả năng cạnh tranh khác nhau. Do đó, bên cạnh sự hỗ trợ đó thì Nhà nước cần phải quan tâm đến vấn đề hỗ trợ tổ chức đào tạo đội ngũ cán bộ sản xuất nhằm nâng cao năng suất lao động, hỗ trợ đào tạo cán bộ kinh doanh xuất khẩu giúp SME, hỗ trợ tư vấn quản lý cho SME. Sự hỗ trợ này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho SME tiến hành áp dụng phương thức quản lý theo tiêu chuẩn ISO 9000, và các tiêu chuẩn khác. Bởi vì đây chính là giấy thông hành cho SME đưa sản phẩm của mình ra thị trường thế giới trong thời gian tới. Ngoài ra, chính sách hỗ trợ sản phẩm và sản phẩm xuất khẩu giúp đỡ SME nâng cao khả năng cạnh tranh sản phẩm của mình trên thương trường. Trong thời gian qua, các sản phẩm xuất khẩu của SME mới chỉ dựa trên lợi thế cạnh tranh "tĩnh". Hầu như SME ở Việt Nam mới đang dừng lại ở chỗ có gì gọi là thế mạnh đem chào bán. Vì thế, chính sách sản phẩm trong thời gian tới cần có sự quan tâm sát sao nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh trong hoạt động xuất khẩu là phải tạo ra lợi thế cạnh tranh "động" cho các mặt hàng xuất khẩu. Nói tóm lại, trên đây là những giải pháp chính nhằm hỗ trợ cho SME ở Việt Nam trong thời gian tới phù hợp với tiến trình hội nhập khu vực và thế giới. Tất nhiên, còn rất nhiều những biện pháp mà Nhà nước cần phải hỗ trợ cho SME như việc hỗ trợ SME thầu phụ các doanh nghiệp lớn, hỗ trợ lãi suất đầu tư, hỗ trợ cơ sở hạ tầng, hình thành "vườn ươm" cho SME ( Một loại hình hỗ trợ SME đang có xu hướng phát triển ở các nước trên thế giới, song chưa thực sự phát huy tác dụng ở nước ta. Một mô hình rất mới đối với Việt Nam). Tuy nhiên, để thúc đẩy phát triển xuất khẩu cho SME bên cạnh sự hỗ trợ từ bên ngoài thì các cố gắng nỗ lực của bản thân doanh nghiệp là một nhân tố quyết định. Nếu các doanh nghiệp không tự cố gắng thúc đẩy sự phát triển của chính mình thì không có ai có thể thay thế họ, mọi sự hỗ trợ về chính sách và cơ chế của Nhà nước, của tổ chức hỗ trợ khác...chỉ là tạo điều kiện thuận lợi hơn cho SME phát triển sản xuất kinh doanh xuất khẩu. Vì vậy, để gia tăng kim ngạch xuất khẩu của khu vực SME này cần phải có sự kết hợp đồng bộ giữa công tác hỗ trợ của Nhà nước và sự nỗ lực của bản thân từng doanh nghiệp. KẾT LUẬN Thành quả đất nước ta đạt được qua những năm đổi mới - nhất là 10 năm gần đây, đã tạo thế và lực mới; công cuộc đổi mới kinh tế xã hội đã có những bước tiến cơ bản; các mặt xã hội, trình độ dân trí, chất lượng nguồn lực và tính năng động trong xã hội được nâng lên; tình hình chính trị xã hội cơ bản được ổn định. Mặc dù khái niệm “Doanh nghiệp vừa và nhỏ” mới được xuất hiện sau thời kỳ đổi mới (năm 1986) song khu vực này đã phát triển với tốc độ rất nhanh kể cả về số lượng, đóng góp đáng kể cho GDP và thu hút một số lượng lớn lao động trong xã hội. Những thành quả kinh tế nước ta đều có sự đóng góp không nhỏ của SME trong đó có hoạt động xuất khẩu. Tỷ trọng của khu vực này trong xuất khẩu của các doanh nghiệp 100% vốn Việt Nam đã lên tới 48,5% vào năm 2002, xấp xỉ bằng khu vực quốc doanh. Đặc biệt có những ngành hàng mà sự tham gia của khu vực SME chiếm tỷ trọng lớn như xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ, sản phẩm gỗ, sản phẩm nhựa, rau quả chế biến Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa là một nhiệm vụ quan trọng trong Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Những biện pháp hỗ trợ của nhà nước có thể khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa phát huy được tính chủ động, nâng cao năng lực quản lý, phát triển khoa học công nghệ và nguồn nhân lực, mở rộng các mối liên kết với các laọi hình doanh nghiệp khác, tăng hiệu quả kinh doanh và khả năng cạnh tranh trên thị trường; phát triển sản xuất kinh doanh , tạo việc làm và nâng cao đời sống cho người lao động. Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế ngày nay để phát huy vai trò của SME thì sự hỗ trợ của Chính phủ đối với khu vực đóng một vai trò cực kỳ quan trọng. Qua phân tích thực trạng và tác động của các chính sách kinh tế đến hoạt động của SME ở Việt Nam trong thời gian vừa qua có thể thấy được những tác động tích cực của những giải pháp mà Chính phủ đề ra. Tuy nhiên, trong thời gian tới, nhà nước cần có những biện pháp chính sách hỗ trợ tích cực hơn nữa trong hoạt động xuất khẩu giữa các loại hình doanh nghiệp trên lãnh thổ Việt Nam, phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế và tiến trình hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới. Vì vậy, việc tiếp tục cải tạo và đổi mới các chính sách kinh tế nhằm hỗ trợ SME đối với hoạt động xuất khẩu là một vấn đề cấp bách hiện nay. Do giới hạn về mặt thời gian và những hạn chế về bản thân nên khoá luận tốt nghiệp này không tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy, tôi rất mong nhận được sự đóng góp, chỉ bảo của các thầy cô giáo và bạn đọc để khoá luận này được hoàn thiện hơn. Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn cô giáo TH.S Phạm Thị Hồng Yến đã tận tình giúp đỡ, hướng dẫn tôi hoàn thành Khoá luận tốt nghiệp này. DANH MỤC BẢNG Bảng số Nội dung Trang 1.1 Tiêu chí phân loại SME ở các nước APEC 04 1.2 Tỷ lệ xuất khẩu của SME ở Đài Loan thời kỳ 1996 - 2001 14 2.1 Phân loại doanh nghiệp khu vực kinh tế tư nhân chính thức theo 19 số lượng lao động, 2001 2.2 Phân loại cơ sở kinh doanh phi nông nghiệp tại các vùng nông 19 thôn theo quy mô (bao gồm các hộ kinh doanh cá thể) 2.3 Doanh thu các cơ sở kinh tế theo vùng lãnh thổ 21 2.4 Vốn các loại hình kinh doanh phân theo ngành kinh tế 23 2.5 Lao động trong SME phân theo vùng lãnh thổ 24 2.6 Đóng góp vào GDP của các thành phần kinh tế trong giai đoạn 26 1997 – 2001 (so sánh 1996) 2.7 Lao động từ 15 tuổi trở lên có việc làm thường xuyên chia theo 28 ngành kinh tế và khu vực thành phần kinh tế (năm 2001) 2.8 Tỷ lệ đóng góp của SME vào tăng trưởng xuất khẩu không kể dầu 30 thô giai đoạn 1997 – 2001 2.9 Cơ cấu hàng hoá xuất khẩu của các doanh nghiệp vừa và nhỏ 32 2.10 Xuất khẩu thuỷ sản của SME giai đoạn 1999 – 2002 33 2.11 Nhu cầu tín dụng và khả năng tiếp cận các nguồn tài chính 41 2.12 Ảnh hưởng của các yếu tố tới các quyết định liên quan đến số 59 lượng lao động và điều kiện lao động 3.1 Thị trường xuất khẩu của SME 2001- 2005 62 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nghị định số 90/2001/NĐ-CP ngày 23/11/2001: Về trợ giúp phát triển các doanh nghiệp nhỏ và vừa. 2. Báo cáo chuyên đề: Một số vấn đề về định hướng và giải pháp phát triển xuất khẩu năm 2003, Bộ Thương mại, ngày 6/02/2003. 3. Đẩy mạnh xuất khẩu, phát triển thị trường nội địa góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội năm 2003, Báo cáo của Bộ Thương mại tại Hội nhị thương mại toàn quốc ngày 20- ngày 22 tháng 02 năm 2003. 4. Chiến lược phát triển xuất nhập khẩu thời kỳ 2001 – 2010, Công văn số 3936/TM-XNK của Bộ Thương mại, tháng 11/2000. 5. Quyết định số 193/2001/QĐ-TTg ngày 20/12/2001 của Thủ tướng Chính phủ: Về việc ban hành Quy chế thành lập, tổ chức và hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa. 6. Thông tư số 42/2002/TT-BTC của Bộ Tài chính ngày 07/05/2002: Hướng dẫn một số điểm quy chế thành lập, tổ chức và hoạt động của Quỹ Bảo lãnh tín dụng cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa, (ban hành kèm theo Quyết định số 193/2001/QĐ-TTg ngày 20/12/2001 của Thủ tướng Chính phủ). 7. Chương trình phát triển dự án Mêkông (MPDF): Chuyên đề nghiên cứu kinh tế tư nhân số 10: Doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam trên đường tiến tới phồn vinh, Leila Webster, Hà Nội, 2002. 8. Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam: Điều tra về các doanh nghiệp nhỏ và vừa, 2002. 9. Tổng cục Thống kê: Niên giám thống kê 2001, NXB. Thống kê, Hà Nội, 2002 10. Tổng cục thống kê: Điều tra mức sống dân cư Việt Nam 1997-1998, Nxb Thống kê, Hà Nội, 2001. 11. Ban chỉ đạo điều tra việc làm Trung ương: Báo cáo sơ bộ kết quả điều tra lao động – việc làm, ngày 1/7/2001. 12. Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam : Tạo việc làm tốt bằng các chính sách phát triển doanh nghiệp nhỏ (TS.Phạm Thị Thu Hằng) 13. Kết quả hoạt động xuất khẩu và dự báo năm tiếp theo - Báo cáo không chính thức của Ngân hàng thế giới, TP Đà Lạt, 2002. 14. Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam: Báo cáo điều tra doanh nghiệp nhỏ và cực nhỏ năm 2001. 15. Cải cách các doanh nghiệp vừa và nhỏ – Viện nghiên cứu quản lý kinh tế TW (CIEM),2002 16. Chương trình phát triển Dự án Mêkông (MPDF): Chuyên đề nghiên cứu kinh tế tư nhân số 12 – kinh doanh theo Luật Doanh nghiệp mới. Trần Phương Quỳnh Trang và Công ty trách nhiệm hữu hạn Concentti, Hà Nội, 2001. 17. Báo cáo của MECANIMEX SAIGON trong buổi gặp mặt với Thủ tướng Chính phủ (3/2000) 18. Thời báo Sài Gòn, số 13-1999 ngày 25/3/1999, trang11 19. Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế TW: Kết quả điều tra hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp tư nhân Việt Nam và một số giải pháp thúc đẩy xuất khẩu,2001 20. FES - Hội Hữu Nghị Việt Đức TW, Các tập kỷ yếu hội thảo về SME 21. Nguyễn Cúc: Đổi mới cơ chế và chính sách hỗ trợ phát triển SME ở Việt Nam đến năm 2005, NXB Chính trị Quốc gia, 2000 22. Phạm Thái Quốc: Kinh tế Đài Loan - tình hình và chính sách, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội,2001. 23. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ cần có "sự tiếp" sức cần thiết - Tạp chí Thương Mại số 57/2000 24. Hỗ trợ tài chính cho SME của Đài Loan - Tạp chí Kinh tế và Phát triển, Hà Nội,2001 25. Quỹ đầu tư và thành lập quỹ đầu tư tại Việt Nam- Tạp chí Ngân hàng, 2002 26. Các giải pháp về kinh tế- tài chính để các doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển - Tạp chí Cộng sản số 19. 27. Doanh nghiệp tư nhân cái nhìn bi quan- Thời báo ngân hàng, Hà Nội, 1/2000 28. Tín dụng xuất khẩu hình thức áp dụng vào Việt Nam- Tạp chí thị trường tài chính - tiền tệ Hà Nội. 29. Bảo hiểm hàng hoá xuất khẩu- làm gì để tăng thị phần, Báo thương mại, Hà Nội 5/2000. 30. Nguyễn Đình Cung, Trần Kim Hào, Lê Viết Thái, Tô Đình Thái, Hoàng Văn Thành: Doanh nghiệp nhỏ và vừa – Hiện trạng và những kiến nghị giải pháp, NXB Giao thông vận tải, Hà Nội, 2000. 31. Bộ Kế hoạch và Đầu tư: Hoàn thiện chính sách phát triển kinh tế vĩ mô và đổi mới các thủ tục hành chính nhằm thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Việt Nam, ấn phẩm của Dự án US/VIE/95/004, Hà Nội, 1999. 32. Bộ Lao động, Thương binh và xã hội: Số liệu thống kê Việt Nam: Lao động – Việc làm ở Việt Nam 1996 – 2000, Nxb. Thống kê, Hà Nội, 2001. 33. UNIDO: Tài liệu hành động số 5, Hỗ trợ cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Việt Nam, Vienne, 2000 34. Chương trình phát triển Dự án Mêkông (MPDF): Chuyên đề nghiên cứu kinh tế tư nhân số 8: Động lực, tăng trưởng chưa đủ lớn của Việt Nam, kết quả điều tra 95 doanh nghiệp sản cuất tư nhân lớn, Leila Webster, Markuss Taussig, Hà Nội, 1999). 35. UNTAC: Chiến lược phát triển và dịch vụ hỗ trợ cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa: các tài liệu của bốn cuộc họp quốc tế giữa các chuyên gia, UN, New york và Geneva, 2000.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc8395.doc
Tài liệu liên quan