Đề tài Thực trạng quảng cáo trên mạng Internet ở VIệt Nam

Thời gian tương tác dài hơn và khối lượng thông tin đưa lên một trang Web là không hạn chế. Phần lớn các phương tiện truyền thông chỉ cho phép một nhãn hiệu xuất hiện trong một thời gian và không gian giới hạn. Nhưng ở trên mạng, thời gian này kéo dài hơn phụ thuộc vào các đặc tính sáng tạo và tương tác được sử dụng. Điều này đã giúp cho các quảng cáo trên mạng đôi khi rẻ hơn so với quảng cáo trên tivi, báo, đài. Quảng cáo trên tivi hoặc báo đài đắt hơn bởi giá thành của chúng phụ thuộc vào khoảng cách không gian mà quảng cáo đó được truyền đi, số ngày quảng cáo và số lần quảng cáo trong một ngày, số lượng trạm truyền hình quốc gia hay địa phương sẽ phát quảng cáo đó hay số lượng báo sẽ đăng quảng cáo đó. Trong khi đó với cùng một mức giá (hoặc ít hơn) cho việc quảng cáo trên báo trong vòng một tháng, công ty có thể đưa được nhiều thông tin hơn vào trang Web của mình và số lượng trang thông tin có thể đưa lên mạng là không hạn chế. Những thông tin đó sẽ tồn tại trên mạng trong một khoảng thời gian vô hạn. Đây chính là lợi thế rất lớn mà một công ty có được khi sở hữu một Website.

doc86 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1629 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng quảng cáo trên mạng Internet ở VIệt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
động cho 15 nhà cung cấp dịch vụ Internet mới, bổ sung vào đội ngũ các nhà cung cấp dịch vụ Internet trước đây là VDC, FPT, Netnam, Saigon Postel và Vietel. Ngoài ra, các nhà cung cấp dịch vụ Internet nước ngoài sẽ được phép tham gia vào thị trường Việt Nam từ năm 2002. Dự kiến, các nhà cung cấp dịch vụ Internet nước ngoài sẽ tham gia cạnh tranh với các nhà cung cấp trong nước trước cuối năm 2003. Ngày 2/5/2002, Tổng Cục Bưu Điện đã chính thức cấp giấy phép cung cấp dịch vụ kết nối Internet (IXP) cho hai nhà cung cấp mới là FPT và Vietel, chấm dứt sự tồn tại độc quyền của VDC trong vai trò IXP duy nhất trong gần 5 năm qua. Như vậy, thị trường Internet đã thực sự cạnh tranh hơn và người sử dụng có lợi hơn. Dịch vụ truy cập Internet công cộng phát triển mạnh ở nhiều địa phương trên phạm vi cả nước đã tạo điều kiện thuận lợi cho đông đảo tầng lớp nhân dân tiếp cận và khai thác nguồn tri thức vô tận trên Internet. Sự tham gia của khu vực tư nhân thông qua các hình thức đại lý Internet hay các điểm truy nhập cà phê Internet với mức giá rẻ chỉ khoảng 3000 VND/ giờ đã đã tạo điều kiện cho những người chưa có điều kiện nối mạng có thể dễ dàng truy cập vào Internet, đặc biệt là giới học sinh, sinh viên. Hiện nay có 10 tỉnh, thành phố có thể truy cập trực tiếp và 61 tỉnh thành phố truy cập gián tiếp vào Internet. Tổng công ty bưu chính viễn thông Việt Nam, cụ thể là VDC, đã đưa Internet đến tận các vùng nông thôn thông qua các trạm bưu điện văn hóa xã. Tính đến cuối năm 2001, đã có 12 điểm bưu điện văn hóa xã tại các vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số. Hiện tại, các ISP đang cạnh tranh gay gắt tập trung vào việc giảm giá cước thông qua các hình thức dịch vụ mới như VNN 1268, VNN 1269 và Internet thẻ (Inetrnet card). Hai hình thức này đã làm gia tăng đáng kể số lượng người sử dụng Internet. Trong vòng 3 tháng kể từ khi VDC giới thiệu dịch vụ VNN 1268 và VNN 1269, số lượng người sử dụng Internet tăng 17.700 người. Từ ngày 6/6/2001, FPT bắt đầu triển khai hình thức truy cập mạng trả tiền trước lần đầu tiên có ở Việt Nam. Không lâu sau đó, VDC cũng đưa ra các Internet card của mình. Tính hấp dẫn của Internet card là nó không tính cước thuê bao và phí hoà mạng và mức cước sử dụng Internet giảm 30- 70% (tùy thuộc thời điểm kết nối) so với hình thức thanh toán mà các nhà cung cấp dịch vụ Internet ở Việt Nam hiện đang áp dụng. Thành công của hình thức dịch vụ này thể hiện qua số lượng khách hàng sử dụng Internet đã tăng lên đáng kể. Chẳng hạn số lượng khách hàng sử dụng Internet card của FPT đã tăng 3 lần kể 1/7/2001. Theo hệ thống quản lý của FPT Internet, thời gian truy cập Internet của khách hàng cũng tăng lên gấp nhiều lần. Gần đây, VNPT bắt đầu giới thiệu tại Hà Nội, TPHCM và Hải phòng dịch vụ truyền dữ liệu tốc độ cao ISDN và ADSL cho tốc độ truy cập nhanh tương ứng gấp 2 lần và 40 lần dịch vụ thường, dành cho khách hàng là các doanh nghiệp và các tổ chức cần sử dụng Internet với tốc độ cao. Internet ở Việt Nam đang phát triển với tốc độ rất nhanh, tạo điều kiện cho người dân và các tổ chức, doanh nghiệp trong nước tiếp cận ngày càng dễ dàng với phương tiện truyền thông hiện đại này. Theo kế hoạch phát triển Internet Việt Nam nằm trong kế hoạch tổng thể về CNTT giai đoạn 2001- 2005, từ nay cho đến năm 2005, chính phủ sẽ dành ưu tiên cho phát triển mạng lưới viễn thông và Internet hiện đại, an toàn và rộng khắp trên cả nước; phát triển cơ sở hạ tầng CNTT ở khu vực nông thôn; xây dựng xa lộ thông tin quốc gia tốc độ cao và dung lượng lớn; cung cấp các dịch vụ truy cập mạng băng truyền lớn (sử dụng công nghệ cáp quang, mạng không dây và vệ tinh, ) cho mỗi hộ gia đình; và phát triển các dịch vụ và ứng dụng Internet như báo điện tử, TMĐT, quản lý điện tử, Theo kế hoạch phát triển Internet Việt Nam giai đoạn 2001- 2005 đến năm 2005 sẽ có từ 3 đến 5 IXP, từ 30 đến 40 ISP cùng nhiều OSP được cấp giấy phép hoạt động, tất cả các tỉnh, thành phố trong cả nước được kết nối bằng cáp quảng băng rộng. Năm 2010, xa lộ thông tin quốc gia nối tới tất cả các huyện và nhiều xã trong cả nước bằng cáp quang và các phương thức truyền dẫn băng rộng khác. ít nhất 30% số thuê bao có khả năng truy cập viễn thông và Internet băng rộng. Sự gia tăng của việc sử dụng máy vi tính và Internet Theo thống kê của Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường cho tới nay trên toàn quốc đã thiết lập và bước đầu sử dụng hệ thống thông tin quản lý tại 61 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và ở hầu hết các bộ, ngành, cơ quan thuộc Chính phủ. Trong khi đó, các cơ quan Đảng và Nhà nước cũng đang từng bước ứng dụng CNTT vào công tác quản lý và bước đầu xây dựng các hệ thống thông tin phục vụ quản lý và điều hành. ứng dụng CNTT trong các doanh nghiệp Việt Nam cũng ngày càng tăng lên. Theo số liệu thống kê của Dự án công nghệ thông tin Việt Nam- Canada thì mặc dù cơ sở hạ tầng cho CNTT của Việt Nam còn kém phát triển, nhưng mức độ sử dụng máy vi tính ngày càng tăng. Ước tính năng lực phần cứng đang tăng với tốc độ 20- 25%/ năm. Tính đến năm 1999 có đến 80% doanh nghiệp được điều tra ở TPHCM, 76% doanh nghiệp được điều tra ở Hà Nội và 66% doanh nghiệp điều tra ở Đà Nẵng và Cần Thơ có sử dụng máy tính. Khu vực nhà nước sử dụng 70% số máy tính hiện tại có tại Việt Nam. Tính đến tháng 7 năm 2002, tổng số thuê bao Internet ở Việt Nam là 174.378, tăng hơn 250% so với năm 1997 và 30% so với năm 2001, chủ yếu tập trung ở các thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, nếu tính cả số lượng người sử dụng Internet không phải thuê bao gồm những người sử dụng Internet tại cơ quan, dùng chung, dùng Internet card hay truy cập tại các điểm Internet công cộng hay các quán cà phê Internet (hiện nay trên cả nước có khoảng 4000 quán cà phê Internet) thì con số này phải đến 400- 600 nghìn người. Với khoảng nửa triệu người truy cập Internet, đây là con số đảm bảo cho việc hình thành ban đầu thị trường TMĐT trong nước nói chung và quảng cáo trên mạng nói riêng. Hiện nay chính phủ đang đặt ra mục tiêu trong kế hoạch tổng thể về CNTT giai đoạn 2001- 2005 là đến năm 2005, số lượng người sử dụng Internet sẽ chiếm 4- 5% tổng dân số (1,3- 1,5/ 100 người) và số lượng thuê bao Internet vào năm 2005 sẽ tăng gấp 10 lần so với năm 2000, và mức độ và hiệu suất ứng dụng CNTT trong các cơ quan của Đảng và nhà nước, các tổ chức kinh tế- xã hội và các ngành kinh tế chủ chốt sẽ đạt mức của các quốc gia phát triển trong khu vực vào năm 2005. Vào năm 2005, mạng lưới thông tin giữa các bộ, ngành, các cơ quan trung ương và địa phương sẽ kết nối với mạng diện rộng của chính phủ (WAN) và với mạng Internet. Sự hình thành và phát triển của thương mại điện tử tại Việt Nam đã tạo điều kiện phát triển và nhu cầu cho quảng cáo trên mạng Sự phát triển của TMĐT, đặc biệt là các hoạt động kinh doanh trên mạng đã tạo điều kiện và cơ hội cho sự phát triển của quảng cáo trên mạng tại Việt Nam. Tuy có rất nhiều rào cản song sau gần 5 năm tham gia vào mạng Internet, Việt Nam đã đạt được những kết quả rất đáng khích lệ, hoà nhập được với xu thế phát triển chung của thế giới. TMĐT đã bắt đầu có được chỗ đứng của mình dù rất khiêm tốn. Sự nỗ lực của các nhà cung cấp dịch vụ Internet, sự nhạy bén của các tổ chức doanh nghiệp tiên phong đã góp phần đưa đến những thành công ban đầu của TMĐT. Sự hình thành và phát triển của các ứng dụng TMĐT hiện nay ở Việt Nam như thông tin, xuất bản, thanh toán, bán hàng qua mạng... và quảng cáo đã giúp thu hút số lượng ngày càng tăng lên của người sử dụng Internet trong nước, tạo thị trường cho TMĐT nói chung và quảng cáo trên mạng nói riêng phát triển. Ngày 19/12/1998, Trung tâm dịch vụ giá trị gia tăng (VASC) khai trương siêu thị điện tử đầu tiên tại địa chỉ đã đánh dấu bước phát triển đầu tiên của TMĐT Việt Nam. Sau Cybermall, một số siêu thị điện tử khác của Việt Nam cũng ra đời như siêu thị máy tính tại hay NetAsie Shopping tại shop.com, ....Mặc dù doanh số vẫn còn nhỏ bé và số lượng các nhà cung cấp thực hiện việc bán hàng qua mạng chưa nhiều do việc mua bán trên mạng còn rất mới mẻ ở Việt Nam và những khó khăn trong khâu thanh toán, sự xuất hiện của các Web site bán hàng trên mạng đã bước đầu giúp cho người dân Việt Nam làm quen với việc mua bán trên mạng. Cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin, sự tăng lên của số người truy cập mạng và cước phí truy cập ngày càng giảm xuống, chúng ta tin tưởng rằng hoạt động mua bán trên mạng trong vài ba năm nữa sẽ nhộn nhịp hơn, ít ra là trong bộ phận những người dân ở các thành phố lớn. Thực trạng quảng cáo trên mạng Internet ở Việt Nam. Vài nét về tình hình thị trường quảng cáo trên mạng Thị trường quảng cáo trên mạng của Việt Nam vẫn còn nhỏ bé và chưa phát triển hoàn thiện. Số lượng các đơn vị bán quảng cáo và mua quảng cáo vẫn chưa nhiều. Hiện nay trong số 70.000 doanh nghiệp mới chỉ có khoảng 1.500 doanh nghiệp có Web site trên mạng (chiếm 2%) và vài ngàn doanh nghiệp thực hiện quảng cáo trên mạng. So với các nước phát triển thì đây là một tỷ lệ quá thấp (ở Mỹ tỷ lệ này là 70%), nhưng với chúng ta đó là một con số rất có ý nghĩa. Tuy chưa trực tiếp bán hàng nhưng với việc xây dựng trang Web, các doanh nghiệp Việt Nam đã tạo cho mình một văn phòng giao dịch trên mạng, chuẩn bị sẵn sàng cho các giao dịch trực tuyến trong thời gian tới. Ngoài ra, hàng nghìn các công ty, cơ sở sản xuất kinh doanh cũng đưa thông tin quảng cáo trên các Web site của nhà cung cấp thông tin trên Internet như VDC, FPT, Netnam, Phương Nam. Khi vào bất kỳ trang Web nào của Việt Nam hiện nay, chúng ta đều thấy khá nhiều logo, banner quảng cáo của các tổ chức, doanh nghiệp thuộc mọi lĩnh vực của nền kinh tế: từ điện tử, viễn thông, tin học, sản xuất chế biến, xuất nhập khẩu, du lịch đến các cửa hàng kinh doanh, các nhà may và thậm chí cả các phòng tranh của các hoạ sĩ. Điều đáng mừng là hầu hết các doanh nghiệp đã thừa nhận những lợi ích của quảng cáo trên mạng. Công ty xuất nhập khẩu sách báo (thuộc Bộ Văn hoá và thông tin) đã cho biết nhờ Web site mới ra đời, công tác xuất nhập khẩu sách báo đã có những thay đổi về chất, khắc phục những trở ngại về khoảng cách địa lý giữa Việt Nam và các nước. Cụ thể Web site xuhabasa. com.vn đã mang lại cho công ty này thêm khoảng 5% khách hàng mới. Ngoài ra, sự xuất hiện công ty trên Internet đã góp phần đưa uy tín của công ty lên một tầm cao mới, nhiều đề nghị hợp tác làm ăn và thị trường mới cũng đã xuất hiện nhờ sự có mặt của các công ty này. Nhà sách Minh Khai ở thành phố Hồ Chí Minh chỉ sau một tháng khai trương việc bán sách qua mạng đã bán được trên 1000 cuốn sách các loại. Số lượng các đơn vị bán quảng cáo trên mạng ở Việt Nam hiện nay chưa nhiều, một phần do chưa có nhiều doanh nghiệp thực hiện quảng cáo trên mạng, một phần khác là do số lượng Web site ở Việt Nam hiện nay còn rất ít ỏi và do hoạt động này còn rất mới mẻ cũng như các Web site vẫn chưa ý thức được hết lợi ích của việc bán quảng cáo trên mạng. Hiện cả nước mới có khoảng 2.500 Web site của các doanh nghiệp, các cơ quan tổ chức chính phủ và các cơ quan báo chí và các công ty cung cấp dịch vụ. Bên cạnh đó, hoạt động bán quảng cáo vẫn chưa mang tính phổ biến và thường xuyên ở tất cả các site, mang lại nguồn doanh thu ổn định. Một phần là do các đơn vị khi xây dựng Web site của mình trên mạng vẫn chưa tính đến các lợi ích của bán quảng cáo, một phần nữa là do số lượng độc giả chưa nhiều. Thông thường, để khách hàng trong và ngoài nước biết đến sản phẩm của mình, doanh nghiệp thường tìm đến các Web site có nhiều người truy cập để quảng cáo. Số lượng các Web site ở Việt Nam thu hút được nhiều độc giả chưa nhiều, do chất lượng thiết kế và nội dung thông tin còn nghèo nàn. Chỉ một số Web site có uy tín, được nhiều độc giả viếng thăm như Vnexpress hay VASC Orient, Netnam,... là thực hiện việc bán quảng cáo một cách thường xuyên. Theo một công bố mới đây của một công ty Internet có địa chỉ Alexa.com (Alexa.com là thành viên của của Amazone.com, một trong những hệ thống nổi tiếng của thế giới chuyên đo lường về chất lượng giao thông đến các Web site) về danh sách thứ hạng của 300.000 Web site phổ biến nhất trên thế giới, không phân biệt ngôn ngữ, lãnh thổ thì hầu hết các Web site của Việt Nam đều đứng ở vị trí gần giữa của bảng xếp hạng, trong đó site vnexpress.net của công ty FPT đứng đầu trong các Web site của Việt Nam (đứng ở vị trí thứ 16.715 trong bảng xếp hạng), đứng thứ hai là Web site home.netnam.vn (đứng ở vị trí 138.227). Đây cũng chính là các Web site được đăng ký quảng cáo nhiều nhất tại Việt Nam. Hệ thống mua bán quảng cáo ở Việt Nam chưa phát triển và chưa có các cơ quan, tổ chức chuyên nghiệp hỗ trợ và điều hành hoạt động quảng cáo trên mạng. Việc mua bán quảng cáo trên mạng thường được thực hiện trực tiếp giữa người mua và người bán. Chưa có các tổ chức trung gian hỗ trợ việc mua bán quảng cáo như mạng quảng cáo, công ty đại diện hay tổ chức bán đấu giá quảng cáo. Nhà thiết kế thường tự thiết kế Web site đồng thời tự thực hiện việc bán quảng cáo trên mạng. Các hệ thống dịch vụ khác hỗ trợ cho việc quảng cáo trên mạng của các doanh nghiệp như quản lý, thống kê, kiểm toán quảng cáo hay nhắm chọn và đối tượng hoá vẫn chưa hình thành và phát triển. Một phần là do hoạt động quảng cáo trên mạng chưa thực sự phát triển rộng rãi, thứ hai là do sự yếu kém của hoạt động thiết kế phần mềm trong nước. Các hệ thống trao đổi quảng cáo cũng chưa hình thành. Các doanh nghiệp Việt Nam thường tự thiết kế Web site để quảng cáo cho mình mà chưa thực hiện việc trao đổi quảng cáo với các Web site khác. Nguyên nhân là do các doanh nghiệp chưa ý thức được lợi ích của hình thức này, chất lượng các trang Web chưa đồng đều và đặc biệt là chưa có tổ chức đứng ra điều hành việc trao đổi quảng cáo. Các hình thức quảng cáo thường gặp Nói chung hiện nay, các hình thức quảng cáo mà các doanh nghiệp Việt Nam thường sử dụng là Web site, banner và logo. Các nhà cung cấp dịch vụ Internet cũng đưa ra những hình thức quảng cáo rất đa dạng để thu hút các doanh nghiệp tham gia. Ngoài Web, đặt logo, banner còn tổ chức các chuyên trang như Top 100, Best Ten (trên trang kinh doanh Business.vnn.vn, tổ chức các hội chợ thương mại trên Internet. Các mục rao vặt trên Internet cũng rất phát triển, người xem có thể tìm mua các đơn đặt hàng đơn lẻ trên mục rao vặt của www.fpt.vn. Một số doanh nghiệp đã bắt đầu sử dụng thư điện tử để tiếp thị, quảng cáo. Tuy nhiên, việc quảng cáo và tiếp thị bằng thư điện tử vẫn chưa phổ biến, một phần do chưa có các tổ chức cung cấp các dịch vụ danh sách thư điện tử, một phần khác là do các doanh nghiệp vẫn chưa nhận thức được hết lợi ích của hình thức quảng cáo này và cũng chưa có thói quen thực hiện nó. Một số Web site đã bắt đầu thực hiện hình thức quảng cáo e- zine, chẳng hạn như Web site khuyến khích khách hàng đăng ký nhận bản tin điện tử để tiến hành lập cơ sở dữ liệu khách hàng và lập danh sách email. Một số Web site đã tiến hành cung cấp các dịch vụ chat và thư điện tử miễn phí như tại các trang Web www.fpt.net, www.vnn.vn,... Các hình thức quảng cáo trên mạng khác như button, pop- up, advertoria, tài trợ... vẫn chưa xuất hiện hoặc chưa phổ biến ở Việt Nam. Đánh giá về chất lượng các quảng cáo Các doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu sử dụng các chiến lược quảng cáo thụ động, xây dựng Web site hoặc đặt quảng cáo trên mạng và chờ khách hàng tự tìm đến với công ty của mình. Chất lượng các quảng cáo trên mạng nói chung của các doanh nghiệp Việt Nam chưa cao. Khả năng tài chính hạn hẹp của các doanh nghiệp Việt Nam đã không cho phép họ đầu tư nhiều cho những công nghệ hiện đại cho các quảng cáo trên mạng cũng như việc cập nhật, thay đổi các quảng cáo đó. Bên cạnh đó, tốc độ và dung lượng đường truyền chậm cũng không cho phép triển khai các công nghệ quảng cáo phức tạp. Các Website của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay phần lớn vẫn là các Website tĩnh, không có khả năng cập nhật và tương tác, tạo giao kết trực tuyến với khách hàng. Thiết kế đơn giản, chưa đảm bảo yêu cầu bắt mắt các khách hàng, xây dựng chưa có hệ thống và khoa học khiến cho khách hàng khó khăn khi muốn biết thêm chi tiết hơn về mặt hàng. Nội dung nghèo nàn, chủ yếu là đưa ra địa chỉ liên hệ của công ty mà chưa đưa ra được mô tả chi tiết và thuyết phục về sản phẩm. Chỉ có một số ít Web site xây dựng mẫu đơn đặt hàng để khách hàng có thể đặt mua ngay sản phẩm mà mình thích. Các quảng cáo banner và logo tuy bước đầu đã sử dụng công nghệ hình ảnh động, nhưng cũng vẫn chưa có khả năng tương tác trực tiếp. Khách hàng vẫn chưa thể thực hiện mua bán ngay trên quảng cáo mà chủ yếu vẫn là dựa trên cơ chế nhấn vào quảng cáo để đưa khách hàng đến trang chủ của các doanh nghiệp. 2.2.4 Vấn đề thiết kế quảng cáo trên mạng Do không có đủ các cán bộ chuyên môn về Internet và thiết kế quảng cáo trên mạng, các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay thường sử dụng dịch vụ thiết kế trang Web và quảng cáo do các công ty tin học và các nhà cung cấp dịch vụ Internet. Một số công ty tin học nhận thiết kế trang Web như một dịch vụ kèm theo khi trang bị mạng máy tính cho các doanh nghiệp. Bên cạnh dịch vụ thiết kế trang Web, các nhà cung cấp đường truyền còn hỗ trợ cho khách hàng việc đăng ký tên miền, đường truyền riêng (lead- lines) và quảng cáo trên Internet. Bảng 3: Giá thiết kế trang Web của một số đơn vị thiết kế Công ty thiết Kừ Giá thiết kế (đ/ trang) Giá lưu giữ trang Web (đ/tháng) VDC 100.000- 130.000 100.000- 350.000 FPT Net 190.000- 250.000 85.000- 380.000 (lưu 1 năm) 95.000- 420.000 (lưu 6 tháng) Saigon Net 150.000- 200.000 200.000- 300.000 VASC 254.500- 300.000 109.000- 545.000 Nguồn: www.vnexpress.net Với các lợi thế của mình, các công ty thiết kế cung cấp các dịch vụ tư vấn, hỗ trợ và đưa ra những lựa chọn khác nhau cho các khách hàng. Các doanh nghiệp có thể lựa chọn chỉ thiết kế một trang Web đơn giản với các thông tin trên Internet như địa chỉ, điện thoại, số fax, email,...hoặc một trang Web phức tạp hơn với các form đăng ký mua bán, trao đổi hoặc ký gửi hàng hoá trên mạng hoặc là phần quảng cáo về sản phẩm, lĩnh vực kinh doanh, các loại hình dịch vụ. Hầu hết các doanh nghiệp thường chủ động gửi các thông tin và hình ảnh cho nhà thiết kế. Tuy nhiên, các doanh nghiệp cũng có thể liên hệ với nhà thiết kế để sử dụng kho dữ liệu ảnh trên Internet để chọn ảnh theo chủ đề. Trong trường hợp doanh nghiệp không lựa chọn được hình thức trang Web, nhà thiết kế sẽ giới thiệu một số trang Web nổi tiếng trên Internet hoặc kết nối với các trang Web của Việt Nam hiện đang hiện hữu trên mạng để tham khảo. Bên cạnh đó, các nhà cung cấp dịch vụ thiết kế hiện nay còn cung cấp dịch vụ tư vấn cho khách hàng đăng ký giới thiệu trang quảng cáo của mình trong các diễn đàn thương mại trên Internet phù hợp với ngành hàng của doanh nghiệp. Doanh nghiệp cũng có thể thuê chỗ trên máy chủ của đơn vị cung cấp các đường truyền hoặc tự trang bị máy chủ. Các nhà thiết kế cũng cung cấp dịch vụ hỗ trợ cho việc quảng bá thương hiệu của doanh nghiệp trên mạng như đăng ký Web site của doanh nghiệp vào các công cụ tìm kiếm trên mạng. Các công ty như FPT, VDC, VASC, Saigon Net, Phương Nam Net,...đều có các trang Web đặc biệt để hỗ trợ thêm về quảng bá thương hiệu cho các hợp đồng dài hạn. 2.2.5 Khuôn khổ luật pháp ở nước ta hiện nay Bộ bưu chính viễn thông là cơ quan quản lý cấp Nhà nước về các hoạt động và dịch vụ trên Internet Ngày 23/8/2001 Nghị định 55/2001/ND – CP ra đời với nhiều đổi mới cho phép ISP ở các thành phần kinh tế khác có thể tham gia vào hoạt động cung cấp dịch vụ thay vì chỉ có 5 ISP là doanh nghiệp nhà nước như hiện nay. Nhưng vẫn có những khó khăn như luật pháp vân chưa công nhận tính hợp pháp của các giao dịch điện tử , chữ ký điện tử và các điều luật liên quan đến tội phạm internet cũng ở giai đoạn xây dựng 2.2.6 Tập quán văn hoá . Xuất phát từ nông nghiệp lạc hậu và thực tế tại các tỉnh đời sống kinh tế còn gặp nhiều khó khăn , nên triển khai công nghệ thông tin còn rất chậm và yếu. Phong cách tiêu dùng vẫn chưa quen ứng dụng công nghệ thông tin trong cuộc sống . Chỉ mới khai thác một phần nhở trong số các ứng dụng có sẵn của Internet là www, e mail, chat và hiệu quả đạt được chưa cao. CHính phủ cũng đã có chính sách phổ cập công nghệ thông tin tới các tầng lớp nhân dân . điều này sẽ dần làm thay đổi tập quán văn hoá của người dân VIệt Nam. Đánh giá thực trạng quảng cáo trên mạng Internet ở VIệt Nam. Những khó khăn đối với việc phát triển quảng cáo trên mạng. Những cản trở đối với việc nhập mạng Để hoạt động quảng cáo trên mạng nói riêng và TMĐT nói chung có thể phát triển được thì việc sử dụng Internet phải trở nên rộng rãi trong xã hội. Hiện nay, số lượng người sử dụng Internet ở Việt Nam còn quá thấp so với trong khu vực và trên thế giới. Số lượng người thuê bao Internet ở Việt Nam mới chỉ chiếm 0,16% dân số, thấp hơn rất nhiều so với mức trung bình của các nước Asean là 1,27% và của thế giới là 5,58%. Việc sử dụng Internet của người dân Việt Nam vẫn còn ít và hạn chế trong một bộ phận nhỏ dân chúng có thu nhập cao ở thành thị và có trình độ học vấn cao trong xã hội. Theo thống kê gần đây của VDC, người sử dụng Internet hiện nay chủ yếu tập trung tại các thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và các vùng lân cận, ở độ tuổi từ 18- 25 tuổi, trong đó có khoảng 80% có trình độ đại học. Nguyên nhân của tình trạng này trước hết là vấn đề nhận thức,văn hoá và tập quán tiêu dùng của người dân Việt Nam. Người Việt nam đã rất quen thuộc với các phương tiện liên lạc truyền thống như thư, báo chí, truyền hình, điện thoại,...Thói quen sử dụng này rất khó có thể thay đổi. Mặt khác hiểu biết của người dân về Internet và lợi ích của nó chưa nhiều, sử dụng thì phức tạp trong khi trình độ văn hoá chưa cao. Đại bộ phận người dân Việt Nam sử dụng Internet cho những mục đích đơn giản. Theo Công ty điện toán và truyền số liệu VDC thì chỉ có 13% lượt truy cập Internet là để vào các trang Web để tìm kiếm thông tin, 80% là thư điện tử và các dịch vụ khác. Ngay cả các cơ quan, công ty đã thấy sự cần thiết của Internet, nhưng khai thác nó chưa thực sự hiệu quả, chủ yếu sử dụng cho những mục đích đơn giản như gửi email, vì không có đủ cán bộ có đủ trình độ khai thác những điểm mạnh của Internet. Nguyên nhân thứ hai đó chính là cước phí truy cập Internet. Mặc dù cước truy cập Internet ở Việt Nam đã ngang bằng với các nước trong khu vực, nhưng tính đến yếu tố thu nhập và mức sống thì mức cước này vẫn còn khá cao so với người dân. Theo một báo cáo về CNTT gần đây, tháng 5/2002 của Trường đại học Harvarrd, Việt Nam là một trong những nước có giá truy cập Internet cho 20 giờ mỗi tháng so với thu nhập đầu người cao nhất thế giới, chiếm 20% GDP theo đầu người. Trung bình một khách hàng hiện nay chi phí 200.000 đồng/ tháng cho sử dụng Internet. Trong khi đó, thu nhập bình quân đầu người là 400USD/ năm, hơn 76% dân số sống ở vùng nông thôn miền núi có thu nhập bình quân đầu người dưới 200USD/ năm, cuộc sống hàng ngày còn gặp nhiều khó khăn, nên Internet đối với họ vẫn còn là thứ hàng xa xỉ, đắt tiền. Các điểm truy cập Internet công cộng tuy giá rẻ nhưng chất lượng dịch vụ lại rất thấp, chủ yếu đáp ứng các dịch vụ gửi thư điện tử và trò chuyện trên mạng (chat). Nguyên nhân thứ ba là do những hạn chế liên quan đến cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin hiện nay. Cơ sở hạ tầng cả về phần cứng và mềm của công nghệ thông tin Việt Nam vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của xã hội cũng như tạo điều kiện để mọi người dân có thể sử dụng máy tính và truy cập vào mạng Internet. Mật độ điện thoại và máy tính còn thấp (5,44 máy điện thoại/100 dân, 1,2 máy tính/ 100 dân), dẫn đến nhiều người cùng chia sẻ một máy tính, một account truy cập Internet. Mặc dù đạt tốc độ phát triển gần 200%/ năm, nhưng giới công nghệ thông tin và các nhà quản lý vẫn đánh giá Internet Việt Nam phát triển chậm, đặc biệt là các dịch vụ truy cập tốc độ cao và các dịch vụ giá trị gia tăng. Tốc độ truyền dẫn chậm dẫn đến chất lượng dịch vụ kém, chưa cho phép người sử dụng có thể khai thác được nhiều dịch vụ trên Internet như phim, video,... Số các loại hình dịch vụ trên mạng còn quá hạn chế. Tình trạng này là hậu quả của chính sách độc quyền của nhà nước trong việc cung cấp dịch vụ Internet trước đây và việc kiểm soát luồng thông tin ra vào trong và ngoài nước thông qua các bức tường lửa. Các bức tường lửa giúp đảm bảo tính an toàn của các thông tin ra vào trong nước tuy nhiên lại làm giảm 30% tốc độ của đường truyền. Bên cạnh đó kênh truyền dẫn kết nối từ các nhà cung cấp dịch vụ Internet đến các máy chủ đặt Web site còn hẹp và việc tổ chức thông tin trên các Web site chưa khoa học cũng làm giảm tốc độ đường truyền. Việc thiếu các ISP và đặc biệt là các IXP đã khiến cho cước phí truy cập Internet ở Việt Nam cao hơn rất nhiều so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Việc cấp phép cho hơn 10 ISP và hai nhà cung cấp dịch vụ kết nối mới vừa qua là một bước cải thiện đáng kể tình hình thị trường dịch vụ Internet ở Việt Nam. Tuy nhiên các IXP mới chỉ được chọn điểm đến ở nước ngoài, còn vẫn phải thuê lại đường kết nối vật lý từ Việt Nam ra bên ngoài của Trung tâm Viễn thông quốc tế (VII). Vì vậy, giá thuê đường truyền Internet đã giảm 3 lần, từ 60.000 USD xuống còn 18.000 USD, nhưng vẫn đắt gấp 3 so với các nước trong khu vực. Cuối cùng là do hiện nay thông tin trên mạng chủ yếu do các Web site tiếng nước ngoài cung cấp, trong khi chỉ có một số ít trang Web tiếng Việt với nội dung còn nghèo nàn cả về chất lượng và tính phong phú, đã không thu hút được các độc giả đến mạng để xem tin tức, tạo điều kiện để nâng cao số lượng người sử dụng Internet và do đó Web site có thể bán quảng cáo. Mặc dù số lượng các Web site tiếng Việt thời gian qua đã tăng đáng kể nhưng chất lượng thông tin và hiệu quả hoạt động hầu hết vẫn chưa đạt yêu cầu. Các Web site Việt Nam sau khi được tạo lập thường không được cập nhật và bổ sung thông tin , không được đầu tư đúng mức dẫn đến nghèo nàn thông tin và thiếu tính hấp dẫn, không đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của người truy cập. Việc triển khai thương mại điện tử còn chậm Đã hai ba năm nay kể từ khi khái niệm TMĐT được nhắc đến ở nước ta, song những gì mà tầng lớp dân chúng nhận thức về TMĐT vẫn còn rất hạn chế. Các cán bộ trong bộ máy nhà nước có nhận thức khá hơn nhờ chương trình quốc gia về công nghệ thông tin (CNTT) được triển khai rộng rãi trên phạm vi toàn quốc từ năm 1996. Người tiêu dùng nói chung chưa có nhận thức về TMĐT, khái niệm TMĐT cũng không được biết đến. Người Việt Nam vẫn chưa quen lắm với hình thức giao dịch trên mạng. Do số người sử dụng Internet hiện nay còn ít nên chưa hình thành nên thị trường mua bán trên mạng. Việc mua bán trên mạng mới chỉ giới hạn trong một bộ phận dân cư có thu nhập và trình độ cao trong xã hội và ở thành phố. Việc cước phí truy cập cao cũng là một cản trở đối với việc mua bán trên mạng của khách hàng. Về phía các doanh nghiệp, tỷ lệ các doanh nghiệp nước ta có thể tham gia TMĐT rất thấp, có thể nói đại đa số các doanh nghiệp chưa sẵn sàng tham gia TMĐT. Theo khảo sát của Hội tin học Việt Nam, hiện có tới 90% trong số 70.000 doanh nghiệp và trên 1,4 triệu hộ kinh doanh cá thể ở nước ta vẫn thờ ơ với TMĐT. Việt Nam đã đi hết 1/3 lộ trình để tiếp cận với TMĐT và nhiều doanh nghiệp đã nhận ra lợi ích của loại hình kinh doanh qua mạng này, nhưng hiện nay chỉ có 2% doanh nghiệp là quan tâm và triển khai TMĐT cùng với khoảng 7% doanh nghiệp khác là bắt đầu triển khai phương thức kinh doanh mới này. Nguyên nhân trước hết là do các doanh nghiệp thiếu nhạy bén, nhận thức quan điểm và trình độ còn chưa chuyển biến kịp trong việc tiếp cận cái mới. Các doanh nghiệp vẫn chưa thực sự tin vào hiệu quả của TMĐT. Vì vậy, dù đã có hàng nghìn trang Web “thương mại điện tử” đã ra đời nhưng phần lớn mới chỉ dừng lại ở mức thử nghiệm, thăm dò phản ứng của thị trường. Cơ sở hạ tầng thông tin yếu kém cũng là một nguyên nhân hạn chế việc triển khai các ứng dụng của TMĐT, giá thuê miền cho Web site cũng cao hơn rất nhiều so với quốc tế. Đa số các doanh nghiệp Việt Nam có quy mô nhỏ bé, tiềm lực tài chính có hạn, gặp khó khăn trong đầu tư lao động, cơ sở vật chất để áp dụng TMĐT. Một nguyên nhân khác hạn chế hoạt động mua bán trên mạng của các doanh nghiệp là do phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay chưa có đủ uy tín và tiếng tăm trên thị trường quốc tế để có thể thực hiện việc đặt hàng và thanh toán trực tiếp trên mạng. Các sản phẩm hàng hoá của Việt Nam hầu hết chưa gắn với mẫu mã, tiêu chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn chất lượng được giới thiệu nên bán hàng trên mạng rất khó. Một nguyên nhân quan trọng ảnh hưởng đến tốc độ triển khai TMĐT ở Việt Nam là cho đến hiện nay Việt Nam vẫn chưa có cơ quan chuyên trách quốc gia về TMĐT, chưa xây dựng được lộ trình và kế hoạch tổng thể cho việc triển khai và ứng dụng TMĐT ở Việt Nam. Việc thiếu một môi trường pháp lý và cơ sở hạ tầng đầy đủ cho TMĐT cũng là một cản trở rất lớn. Việt Nam hiện mới đang trong quá trình xây dựng hệ thống pháp luật điều chỉnh các hoạt động TMĐT. Hệ thống tài chính cũng như ở nhiều quốc gia đang phát triển khác chưa đủ phát triển để hỗ trợ cho các giao dịch điện tử phức tạp. Hiện nay, hệ thống thanh toán bằng thẻ ở Việt Nam còn chưa phát triển nếu không nói là còn quá sơ khai, người dân vẫn chưa có thói quen mở tài khoản tại ngân hàng và tiền mặt vẫn là công cụ thanh toán chính trong mọi hoạt động mua bán. Việc sử dụng séc và thẻ tín dụng vẫn còn rất ít. Người dân nếu có điều kiện mua hàng trên Internet cũng chỉ có thể thực hiện thao tác chọn hàng và đặt hàng mà thôi, còn giao hàng và thanh toán vẫn phải thực hiện theo cách truyền thống. Những khó khăn về mặt nhân lực Hiện nay, ở Việt Nam chưa có nhiều các chuyên gia giỏi về lĩnh vực tin học để có thể phát triển các ứng dụng TMĐT nói chung và quảng cáo trên mạng nói riêng. Hệ thống giáo dục còn nhiều bất cập và những khó khăn về tài chính đã không cho phép các cơ sở đào tạo về CNTT đưa Internet vào phục vụ việc giảng dạy. Các doanh nghiệp vẫn chưa có đội ngũ cán bộ nói chung và đội ngũ cán bộ marketing nói riêng giỏi về máy tính và Internet, do đó hạn chế rất nhiều việc ứng dụng Internet vào hoạt động kinh doanh. Việc thiếu các cán bộ thiết kế quảng cáo cũng là một vấn đề của quảng cáo Việt Nam nói chung và quảng cáo trên mạng nói riêng. Hiện nay, các trường mỹ thuật công nghiệp Việt Nam chưa có ngành đào tạo về thiết kế quảng cáo. Việc thiết kế quảng cáo hiện do các nhà thiết kế đồ hoạ đảm nhận. Mặc dù họ đã làm khá tốt công việc này nhưng không thể thay thế cho những nhà thiết kế quảng cáo chuyên nghiệp. Quảng cáo trên mạng cũng không nằm ngoài tình trạng đó. Việc thiết kế quảng cáo trên mạng hiện nay thường do các chuyên gia tin học đảm nhiệm. Điều này đã phần nào hạn chế chất lượng và tính hiệu quả của quảng cáo. 2.3.2 MộT Số NHậN XéT Từ phía doanh nghiệp : Doanh nghiệp Việt Nam khi tham gia vào hoạt động quảng cáo trên mạng và thương mại điện tử có thêm một kênh tiếp thị bán hàng mới. Giúp doanh ngiệp giảm các chi phí phát sinh, xử lý, phân phối , dự trữ và giảm thiểu chi phí trong thu nhận thông tin. Tạo khả năng chuyên môn hoá cao trong kinh doanh. Giảm thời gian mua bán trong quá trình mua và bán Bên cạnh đó vẫn còn nhứng khó khăn : Thiếu các hệ thống hoàn chỉnh về an toàn giao dịch. tính xác thực. Các công cụ phát triển phần mềm vẫn đang trong giai đoạn phát triển Chi phí ban đầu để triển khai là rất lớn và mức rủi ro cao do thiếu kinh nghiệm Thiếu sự tin tưởng từ phía khách hàng và giá cước truy cập Internet còn cao. Từ phía chính phủ : chính phủ rất ủng hộ và tạo mọi điều kiện để cho Internet cũng như quảng cáo trên mạng phát triển . quảng cáo trên mạng Internet tạo ra sự hoà hợp giũa các mạng thông tin. Lưu thông tiền tệ . thực hiện mục tiêu mạng hoá đời sống cá nhân và hiện đại hoá sự phát triển của doanh nghiệp trong tiến trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước . Từ phía người tiêu dùng : Tạo điều kiện cho người tiêu dùng trở thành người tiêu dùng thông tháI, thông qua việc so sánh các hàng hoá. Khách hàng có thể nhận được thông tin xác thực và chi tiết một cách nhanh chóng và còn có thể tham gia các cuộc bán đấu giá . Chương III Phương hướng và biện pháp phát triển quảng cáo trên mạng Internet ở Việt Nam. 3.1 Phương hướng phát triển quảng cáo trên mạng Internet ở Việt Nam. Để bắt kịp với sự phỏt triển chung của thời đại cụng nghệ thụng tin trờn toàn thế giới . ỏp dụng những thành tựu khoa học cụng nghệ vào hoạt động kinh doanh số hoỏ . ngày 18 thỏng 10 năm 2001 Thủ tướng chớnh phủ đó cú quyết định phờ duyệt chiến lược phỏt triển bưu chớnh viễn thụng Việt Nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 với những nội dung như sau: 3.1.1 Quan điểm của chớnh phủ . Viễn thụng Việt nam phải trở thành một ngành mũi nhọn , phỏt triển mạnh mẽ . trong quản lý và khai thỏc phải đạt hiệu quả nhằm tạo điều kiện ứng dụng và thỳc đẩy phỏt triển cụng nghệ thụng tin trong mọi lĩnh vực của xó hội . Phỏt huy mọi nguồn lực và tạo điều kiện cho cỏc thành phần kinh tế cựng tham gia phỏt triển Bưu chớnh viễn thụng- Tin học. Phat triển đứng vững ở trong nước tạo đà vươn ra quốc tế. Phỏt triển hội nhập nhưng phải đảm bảo an ninh. An toàn thụng tin 3.1.2 Mục tiờu của chiến lựơc . Xõy dựng xa lộ thụng tin quốc gia . với băng thụng rộng .tốc độ lớn , toàn xó hội cựng khai thỏc . đú chớnh là nền tảng cho sự phỏt triển và ứng dụng cụng nghệ thụng tin trong sự nghiệp cụng nghiệp hoỏ đất nước. Cỏc dịch vụ bưu chớnh viễn thụng được cung cấp rộng rói với chi phớ thấp .nhưng vẫn bảo đảm hiện đại , đa dạng . phổ cập tin học, dịch vụ buư chớnh tới vựng sõu .Phấn đấu đến năm 2010. đạt tỷ lệ số mỏy điện thoại , số người sử dụng Internet / 100 dõn. Đưa nghành Bưu chớnh viễn thụng thành ngành kinh tế mũi nhọn. tạo nhiều việc làm cho xó hội. 3.1.3 Định hướng phỏt triển cỏc lĩnh vực. phỏt triển cơ sở hạ tầng mạng lưới viễn thụng, tin học. truyền thụng quảng bỏ tốt cỏc ứng dụng và cỏc phương thức truy cập băng thụng rộng tới tận cỏc hộ tiờu dựng . cỏp quang vụ tuyến băng thụng rộng để làm nền tảng cho cỏc ứng dụng cụng nghệ thụng tin. Tất cả cỏc tỉnh thành phố trong năm 2005 đều kết nối băng thụng rộng.. tiếp đú đến năm 2010 xa lộ thụng tin quốc gia nối tất cả cỏc huyện và nhiễu xó. Ít nhất 30% số thuờ bao cú khả năng truy cập viễn thụng. Phỏt triển thị trường . Phỏt huy nguồn lực đất nước kết hợp với hợp tỏc quốc tế hiệu quả .xoỏ bỏ những lĩnh vực độc quyền doanh nghiệp . Cỏc doanh nghiệp mới ( ngoài doanh nghiờp chủ đạo ) đạt khoảng 25-30% vào năm 2005 và tăng lờn 40-50% vào năm 2010. đẩy mạnh hợp tỏc quốc tế. Phỏt triển khoa học cụng nghệ Thường xuyờn cập nhập cụng nghệ mới .tương thớch phự hợp với xu hướng cụng nghệ thụng tin thế giới. Đầu tư đẩy mạnh cụng tỏc nghiờn cứu . ứng dụng cỏc thành tựu khoa học cụng nghệ trong tất cả cỏc lĩnh vực. Phỏt triển cụng nghệ bưu chớnh ,viễn thụng, tin học Khuyến khich cỏc thành phần kinh tế trong và ngoài nước tham gia phỏt triển cụng nghệ bưu chớnh , viễn thụng , tin học , cỏc hỡnh thức nước ngoài cú chuyển giao cụng nghệ cao kể cả hỡnh thức 100% vốn nước ngoài . Nõng cao năng lực sản xuất thiết bị trong nước , năm 2005 đỏp ứng 60% và năm 2010 đạt 80% nhu cầu sử dụng thiết bị bưu chớnh , viễn thụng tin học của Việt Nam. Đẩy nhanh tiến trỡnh nõng cao hàm lượng giỏ trị lao động trong sản phẩm năm 2005 đạt 30 – 40 % ,năm 2010 đạt 60 – 70 %. đẩy mạnh thị trường xuất khẩu ra nước ngoài . Phỏt triển nguồn nhõn lực. Đào tạo và phỏt triển nguồn nhõn lực cú chuyờn mụn lành nghề , cú phẩm chất, làm chủ cụng nghệ , kỹ thuật hiện đại biện phỏp phỏt triển quảng cỏo trờn mạng Internet ở Việt Nam Để hoạt động quảng cáo trên mạng có thể phát triển thuận lợi, cần phải nâng cao hơn nữa trình độ và số người sử dụng Internet trong toàn xã hội, làm cho các hoạt động mua bán trên mạng và các hoạt động TMĐT trở thành phổ biến trong xã hội và tạo cơ sở hạ tầng CNTT và pháp luật cho việc phát triển các ứng dụng TMĐT và quảng cáo trên mạng. Trên cơ sở phân tích vai trò và tầm quan trọng của quảng cáo trên mạng đối với nền kinh tế nói chung và TMĐT nói riêng, Nhà nước cần có các biện pháp, chính sách để phát triển hơn nữa các hoạt động TMĐT nói chung và quảng cáo trên mạng nói riêng. Nâng cao nhận thức, trình độ ứng dụng Internet và TMĐT và phát triển nguồn nhân lực cho quảng cáo trên mạng Cần nâng cao nhận thức của toàn xã hội đối với những lợi ích của Internet và TMĐT. Biến Internet trở thành một trong những kỹ năng cơ bản của cuộc sống nghề nghiệp và cuộc sống hàng ngày, tạo thói quen sử dụng Internet ở cả thành phố và nông thôn. Bên cạnh đó cần nâng cao trình độ sử dụng máy tính và Internet của người dân cũng như trong các cơ quan nhà nước và các doanh nghiệp. Đặc biệt đối với những người làm công tác ngoại thương, môi trường kinh doanh trên mạng chính là môi trường kinh doanh quốc tế và việc phát triển các hoạt động mua bán trên mạng là một xu hướng tất yếu trên thế giới cũng như ở Việt Nam. Vì vậy, các cán bộ ngoại thương và cả các sinh viên ngoại thương ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường cần phải trang bị các kiến thức về Internet, TMĐT, marketing và quảng cáo trên mạng. Để thực hiện được điều này, trong điều kiện hiện nay, trước hết chúng ta có thể tổ chức các seminar về công nghệ tin học, Internet và TMĐT cũng như về quảng cáo trên mạng cho các cán bộ trong các cơ quan nhà nước, các doanh nghiệp, các tổ chức cung cấp thông tin trên mạng và đặc biệt là cho các sinh viên. Việc tổ chức các seminar như thế này không tốn kém và được coi là sinh hoạt khoa học bổ ích và lý thú. Thứ hai, thực hiện việc đào tạo ở các cơ quan, doanh nghiệp, và trong các trường đại học về Internet và TMĐT. Xây dựng đội ngũ cán bộ marketing hiểu biết về Internet và quảng cáo trên mạng trong các doanh nghiệp. Đưa kiến thức về marketing và quảng cáo trên Internet vào giáo trình đào tạo của bộ môn marketing và quảng cáo trong các trường kinh tế. Thứ ba, tăng cường đầu tư cho việc đào tạo các cán bộ tin học giỏi để tạo điều kiện phát triển các ứng dụng cho quảng cáo nói riêng và TMĐT nói chung và các ứng dụng khác phục vụ cho việc quảng cáo trên mạng ở quy mô doanh nghiệp cũng như trong hệ thống đào tạo quốc gia. Đồng thời trang bị các kiến thức về TMĐT, marketing và quảng cáo trên mạng cho các lập trình viên bởi vì họ chính là những người biến các ý tưởng của các nhà tiếp thị thành các quảng cáo trên mạng sau này và nhằm cải tạo chất lượng của các quảng cáo hiện nay. Thứ tư, trang bị máy móc và khả năng thực hành Internet tại các trường đại học. Nhà trường có thể xây dựng các Web site nhỏ với chi phí không quá lớn để phục vụ cho việc giảng dạy. Với các điều kiện như vậy, các cán bộ giảng dạy và sinh viên sẽ có điều kiện thâm nhập vào công nghệ mới, nhanh chóng nắm vững kiến thức cần thiết và những ý tưởng sáng tạo trong việc tổ chức và nghiên cứu thị trường thông tin, thực hành các bài tập liên quan đến các vấn đề về TMĐT, quảng cáo và các hoạt động trên mạng khác. Cuối cùng, đào tạo đội ngũ cán bộ thiết kế quảng cáo, đưa môn thiết kế quảng cáo nói riêng và thiết kế quảng cáo trên mạng nói chung vào giảng dạy tại các trường đại học mỹ thuật công nghiệp và các trường đào tạo về tin học. Kết hợp đội ngũ cán bộ thiết kế quảng cáo hiện thời với các chuyên gia tin học để tạo ra các sản phẩm quảng cáo trên mạng vừa đảm bảo các yêu cầu về mặt kỹ thuật lại vừa đảm bảo các chức năng marketing của quảng cáo. Phát triển cơ sở hạ tầng CNTT Việc phát triển cơ sở hạ tầng CNTT và viễn thông trong nước một mặt tạo cơ sở để phát triển các ứng dụng quảng cáo trên mạng và TMĐT, nâng cao chất lượng các quảng cáo và các dịch vụ trên mạng, mặt khác tạo điều kiện để việc sử dụng Internet phù hợp hơn với mức thu nhập của người dân Việt Nam hiện nay. Để đạt được mục đích trên, trước hết cần thực hiện tốt các biện pháp mà chính phủ đã đề ra để phát triển CNTT và Internet trong kế hoạch tổng thể về CNTT giai đoạn 2001- 2005. Phát triển ngành công nghiệp phần cứng để tạo điều kiện hạ giá thành và đáp ứng nhu cầu sử dụng máy tính cho đại đa số người dân trong nước. Đồng thời phát triển ngành công nghiệp phần mềm để phát triển các ứng dụng TMĐT và quảng cáo trên mạng. Mở cửa hơn nữa thị trường cung cấp dịch vụ Internet, mở rộng băng thông đa dạng hoá và nâng cao chất lượng các dịch vụ Internet. Trước mắt tập trung cho phát triển Internet ở khu vực thành thị, áp dụng nhiều đợt giảm cước hơn nữa để mức cước sử dụng phù hợp hơn với mức thu nhập của người dân hiện nay. Thúc đẩy sự phát triển của TMĐT Đẩy mạnh hơn nữa tốc độ phát triển TMĐT, đặc biệt là các hoạt động kinh doanh trên mạng. Việc phát triển các ứng dụng TMĐT, trong đó có quảng cáo trên mạng đòi hỏi sự nỗ lực của toàn xã hội. Bên cạnh việc huy động tối đa các nguồn lực trong nước, chính phủ cần có các biện pháp khuyến khích thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào các hoạt động cải thiện cơ sở hạ tầng CNTT và Internet cũng như cơ sở hạ tầng kinh tế và pháp luật cho các hoạt động kinh doanh trên mạng. Đây cũng chính là những vấn đề mà kế hoạch tổng thể về CNTT giai đoạn 2001- 2005 của Bộ Thương mại cần tập trung giải quyết trong những năm sắp tới để tạo điều kiện cho Internet và TMĐT phát triển. Đặc biệt vấn đề này cần gắn liền với việc hỗ trợ phát triển cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ và và các nhiệm vụ và cam kết để Việt Nam có thể tham gia hiệp định điện tử ASEAN. Bộ thương mại đang xây dựng một kế hoạch TMĐT dự định sẽ đưa phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam lên mạng vào năm 2005 thông qua 14 dự án. Kế hoạch này nêu rõ nhu cầu cần phải xây dựng một cơ sở pháp lý cho TMĐT trong những năm sắp tới, bao gồm việc phát triển hệ thống thanh toán điện tử, hệ thống bảo mật thông tin, chữ ký điện tử, các chính sách về thuế và tài chính, các chính sách bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và luật bảo vệ người tiêu dùng. Ngày 21/3/2002, Thủ tướng chính phủ đã có Quyết định công nhận giá trị của chữ ký điện tử dùng cho hoạt động giao dịch diện tử liên ngân hàng. Việc khai báo hải quan qua mạng cũng đang được triển khai từ tháng 6/2002 đối với các doanh nghiệp trong lĩnh vực hàng gia công. Đây chính là những bước phát triển rất quan trọng để góp phần hiện thực hoá và đẩy nhanh tốc độ phát triển của TMĐT ở Việt Nam. Nâng cao số lượng và chất lượng các Web site tiếng Việt Việc nâng cao chất lượng các nội dung thông tin trên mạng trên các Website tiếng Việt hiện nay nhằm tạo điều kiện để người truy cập Việt Nam làm chủ các kho tàng tri thức ngày càng phong phú trên các site tiếng Việt, đó cũng chính là động lực quan trọng thúc đảy tăng lượng người sử dụng Internet ở Việt Nam, thúc đẩy Internet ở Việt Nam phát triển và tạo cơ hội cho hoạt động quảng cáo trên các Website này. Để thực hiện được điều này, cần tăng cường trách nhiệm của người làm công tác thông tin trên mạng. Các nhà cung cấp thông tin trên Internet phải xác định rõ tôn chỉ, mục đích, nâng cao chất lượng các Website tiếng Việt. Về phía nhà nước cần tiếp tục ban hành các văn bản tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động Internet và quản lý hạot động này theo quy định của pháp luật. Bộ Bưu chính- Viễn thông phải đẩy nhanh tốc độ phát triển Internet và ban hành các văn bản tạo điều kiện cho việc phát triển Internet, báo điện tử và các Website. Hoàn thiện hệ thống luật pháp cho quảng cáo trên mạng Cần tiếp tục nhanh chóng xây dựng hệ thống pháp luật để điều chỉnh các hoạt động quảng cáo trên mạng và khắc phục những hạn chế của các quy định hiện thời. Đối với các bất cập trong các văn bản pháp luật điều chỉnh việc cung cấp, cập nhật thông tin và đưa quảng cáo lên mạng đã phân tích ở trên, có một số đề xuất sau để giải quyết các hạn chế này: Giải pháp cho vấn đề cấp giấy phép của Bộ Văn hoá- Thông tin cho việc cập nhật thông tin, đưa trang Web lên mạng đó là cơ quan quản lý có thể yêu cầu các doanh nghiệp muốn làm trang Web khi đăng ký tên miền làm luôn các bước đăng ký theo đúng nội dung mà quy chế yêu cầu. Một cách khác đơn giản hơn, đó là yêu cầu các đơn vị cung cấp dịch vụ Internet phải chịu trách nhiệm về các trang Web mà họ truyền tải. Chính những nơi này sẽ thay mặt cơ quan quản lý đảm bảo nội dung họ đưa lên Internet phù hợp với các quy định của pháp luật, nếu không chính họ là những người bị xử lý trước tiên. Đối với vấn đề quản lý nội dung và đưa quảng cáo lên mạng, cơ quan quản lý có thể giao trách nhiệm về nội dung quảng cáo trên một trang Web cho nơi điều hành trang Web đó, tương tự như việc giao cho tổng biên tập báo in chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung quảng cáo đăng trên báo. Chính những nơi này mới nắm được họ đưa lên quảng cáo những gì, thời gian bao lâu vì họ phải ghi nhận để tính tiền với khách hàng. Lúc đó, nơi nào đăng quảng cáo sai sự thật, quảng cáo trái với quy định của pháp luật sẽ chịu xử lý vi phạm theo luật pháp. Trong điều kiện mà hệ thống các văn bản pháp luật cho quảng cáo trên mạng chưa hoàn chỉnh, các đơn vị tham gia vào hoạt động quảng cáo trên mạng cần tuân thủ đúng các quy định đối với các hoạt động quảng cáo truyền thống, đồng thời từ thực tiễn hoạt động của mình tích cực đóng góp ý kiến, đề xuất cho các cơ quan chịu trách nhiệm xây dựng các văn bản pháp luật cho việc quảng cáo hiện nay. Phát triển hoàn thiện thị trường quảng cáo trên mạng Nhà nước cần có chính sách khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho các đơn vị tham gia vào hoạt động quảng cáo trên mạng để nâng cao số lượng các đơn vị tham gia vào thị trường này. Bên cạnh đó cần thành lập ra các cơ quan, tổ chức điều hành, quản lý và xúc tiến hoạt động quảng cáo trên mạng. Phát triển các tổ chức trung gian, các hệ thống cung cấp các dịch vụ hỗ trợ cho hoạt động quảng cáo trên mạng. Trong điều kiện hiện nay, mô hình thích hợp nhất cho các công ty bán quảng cáo trên mạng đó là hình thành nên các công ty tương tác. Đây là loại hình công ty kết hợp giữa các công ty quảng cáo với các công ty tin học cung cấp các dịch vụ thiết kế các Web site và quảng cáo trên mạng. Mô hình này kết hợp được thế mạnh của các công ty quảng cáo với các kỹ năng chuyên nghiệp trong lĩnh vực quảng cáo với thế mạnh kỹ thuật của các công ty tin học. Đồng thời mô hình này khắc phục được những hạn chế về mặt tài chính và phù hợp với tình hình hoạt động quảng cáo còn chưa sôi động hiện nay chưa đòi hỏi phải có những công ty có quy mô lớn, chuyên sâu về hoạt động quảng cáo trên mạng. Đồng thời, đối với những doanh nghiệp có nhu cầu quảng cáo trên mạng lớn và thường xuyên, việc thành lập nên các bộ phận tương tác trong các công ty có thể là một giải pháp đáng xem xét. KẾT LUẬN Thụng qua những phõn tớch về tỡnh hỡnh quảng cỏo trờn mạng ở trờn thế giới cũng như ở VIệt Nam . Thỡ cú thể thấy rừ được lợi ớch mà quảng cỏo trờn mạng nú mang lại . Đề ỏn này sẽ rất cú ớch trong cỏc chiến lược kinh doanh của cỏc doanh nghiệp, cỏc cỏ nhõn, cỏc tổ chức , giỳp vạch ra được con đường đi ngắn nhất đến thành cụng , vươn tầm doanh nghiệp ra thế giới Giỳp cho cỏc cỏ nhõn cú ý tưởng kinh doanh lập nghiệp một sự lựa chọn tốt nhất ớt tốn kộm để thành cụng trong chiến lược kinh doanh. Đề ỏn cũng đó chỉ ra được những mặt ưu và nhược điểm của quảng cỏo trờn mạng và cỏc xu hướng phỏt triển của quảng cỏo trờn mạng, cũng như cỏc giải phỏp để phỏt triển tốt ngành quảng cỏo trờn mạng Internet điều đú sẽ giỳp cho cỏc cỏ nhõn tổ chức nhỡn nhận rừ hơn vị trớ hiện tại của quảng cỏo trờn mạng và tương lai của nú.Cũng như nhỡn ra được cỏc cơ hội tiềm ẩn mà nú mang lại. DANH MụC CáC BảNG BIểU Bảng 1: So sánh Internet với các phương tiện quảng cáo khác. Bảng 2 : Mười công cụ tìm kiếm thông dụng nhất hiện nay Bảng 3: Giá thiết kế trang Web của một số đơn vị thiết kế DANH MụC CáC CHữ VIếT TắT b2B Business-to-business. B2C business- to – customer. ISP Nhà cung cấp dịch vụ Internet. ITC Trung tâm thương mại quốc tế. OSP Nhà cung cấp dịch vụ ứng dụng Internet. vasc Công ty phần mềm và truyền thông Vasc. vcci Phòng công nghiệp và thương mại VIệt Nam. vnemart Sàn giao dịch thương mại điện tử Việt Nam vnpt Tổng công ty bưu chính viễn thông Việt Nam. cntt Công nghệ thông tin Mục lục Trang Lời nói đầu 1 Chương I: Lý luận chung về quảng cáo trên mạng Internet . 3 1.1 Khái niệm chung về quảng cáo . 3 1.2 Đặc điểm và nội dung hoach định quảng cáo trên mạng Internet 5 1.2.1 Cỏc hỡnh thức quảng cỏo trờn quảng cỏo trờn mạng Internet 9 1.2.2 Các hình thức quảng cáo trên Web 14 1.2.3 Thiết kế quảng cáo trên mạng 21 1.2.4 Mua quảng cáo trên mạng 25 1.3 Những điều kiện bảo đảm phát triển quảng cáo trên mạng Internet 37 1.3.1 Cơ sở hạ tầng Internet 37 1.3.2 Xu hướng quảng cáo trên mạng đang dần chiếm ưu thế 39 1.3.3 Các chính sách luật pháp 42 1.3. 4 Nguồn nhân lực mạng toàn cầu . 46 Chương II Thực trạng quảng cáo trên mạng Internet ở Việt Nam 47 2.1 Đặc điểm của hệ thống Internet ở Việt Nam . 47 Sự phát triển của Internet tại Việt Nam 47 Sự gia tăng của việc sử dụng máy vi tính và Internet 50 Sự hình thành và phát triển của thương mại điện tử tại Việt Nam đã tạo điều kiện phát triển và nhu cầu cho quảng cáo trên mạng 51 Thực trạng quảng cáo trên mạng Internet ở Việt Nam. 52 Vài nét về tình hình thị trường quảng cáo trên mạng 52 Các hình thức quảng cáo thường gặp 55 Đánh giá về chất lượng các quảng cáo 55 2.2.4 Vấn đề thiết kế quảng cáo trên mạng 56 2.2.5 Khuôn khổ luật pháp 58 2.2.6 Tập quán văn hoá . 58 Đánh giá thực trạng quảng cáo trên mạng Internet ở VIệt Nam .58 Những khó khăn đối với việc phát triển quảng cáo trên mạng. 58 2.3.2 MộT Số NHậN XéT 63 Chương III Phương hướng và biện pháp phát triển quảng cáo trên mạng Internet ở Việt Nam. 65 3.1 Phương hướng phát triển quảng cáo trên mạng Internet ở Việt Nam. 65 3.1.1 Quan điểm của chớnh phủ . 65 3.1.2 Mục tiờu của chiến lựơc . 65 3.1.3 Định hướng phỏt triển cỏc lĩnh vực. 66 Biện pháp phát triển quảng cáo trên mạng tại VIệt Nam. 67 Nâng cao nhận thức, trình độ ứng dụng Internet và phát triển nguồn nhân lực cho quảng cáo trên mạng 67 Phát triển cơ sở hạ tầng CNTT 69 Thúc đẩy sự phát triển của TMĐT 69 Nâng cao số lượng và chất lượng các Web site tiếng Việt 70 Hoàn thiện hệ thống luật pháp cho quảng cáo trên mạng 70 Phát triển hoàn thiện thị trường quảng cáo trên mạng 71 Kết luận 73 Danh mục các bảng biểu Danh mục các chữ viết tắt Danh mục tài liệu tham khảo Danh mục tài liệu tham khảo Giáo trình Thương mại điện tử và Quảng cáo trên mạng

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc6152.doc
Tài liệu liên quan